Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội chi nhánh Hà Nội

MỤC LỤC BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT SHB: Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội NHTM: Ngân hàng thương mại NHTW: Ngân hàng trung ương NHNN: Ngân hàng nhà nước TMCP: Thương mại cổ phần TCTD: Tổ chức tín dụng TGTK: Tiền gửi tiết kiệm TCKT: Tổ chức kinh tế CNH-HĐH: Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa GTCG: Giấy tờ có giá LỜI NÓI ĐẦU Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực đặc biệt, kinh doanh tiền tệ nên Ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển đất nước:

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó là góp phần giúp nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô thông qua vai trò trung gian tài chính nghĩa là thực hiện điều tiết nguồn vốn giữa các khu vực trong nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện tốt vai trò này đòi hỏi Ngân hàng phải có sự đầu tư vốn lớn và năng động. Một số nhà kinh tế học cho rằng: Ngân hàng là một trong những sản phẩm kỳ vị nhất trong những phát minh của nhân loại. Ngân hàng ra đời như những đứa con ưu tú nhất của nền kinh tế hàng hóa và cho đến nay chính Ngân hàng đã dẫn dắt nền kinh tế đạt được những bước tiến to lớn. Tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội đã và đang là mục tiêu của tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Mặc dù trong những năm qua Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, trở thành hình tượng của khu vực Đông Nam Á song kết quả vẫn còn rất khiêm tốn. Trong khu vực công nghiệp việc áp dụng công nghệ khoa học, đưa thiết bị mới vào sản xuất còn rất hạn chế, khu vực nông nghiệp thì chưa được cơ giới hóa nhiều, kỹ thuật canh tác chủ yếu là kỹ thuật truyền thống chậm đổi mới, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém, bất cập và hạn chế. Bên cạnh đó Việt Nam còn phải đối mặt với các cuộc khủng hoảng tài chính lớn trong lịch sử nhân loại ảnh hưởng nặng nề tới hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đó sẽ là những nhân tố quan trọng nhất làm giảm tốc độ phát triển nền kinh tế đất nước trong thời gian tới. Vì vậy để đạt được sự phát triển vượt bậc về kinh tế, ổn định chính trị xã hội thì một nguồn lực có ý nghĩa quyết định không thể thiếu được, đó chính là vốn, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn. Đối với Ngân hàng nếu như nói nguồn vốn tự có là cơ sở để tổ chức hoạt động kinh doanh, là tiền đề cho sự khởi đầu của hoạt động kinh doanh Ngân hàng thì nguồn vốn huy động đóng vai trò chủ đạo cho mở rộng kinh doanh, đảm bảo cơ sở tài chính cho hoạt động kinh doanh. Vì vậy song song chính sách, chiến lược khách hàng thì chiến lược nguồn vốn là một trong hai chiến lược quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của Ngân hàng. Mặt khác để tăng cường nguồn vốn hoạt động đòi hỏi Ngân hàng phải có một hệ thống chiến lược sản phẩm hiệu quả nghĩa là các biện pháp huy động vốn phải đạt hiệu quả. Trong giai đoạn hiện nay các Ngân hàng đều đặt công tác huy động vốn thành mục tiêu hoạt động cơ bản, ở đâu và khi nào có cơ hội tạo vốn thì ở đó, lúc đó Ngân hàng có mặt. Để đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng nhiều cho tăng trưởng kinh tế là điều quan trọng nhưng điều quan trọng hơn là các NHTM phải từng bước nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn để đứng vững trong nền kinh tế thị trường. Trong 5 năm trở lại đây lĩnh vực chứng khoán luôn là lĩnh vực sôi động và thu hút đầu tư nhiều nhất. Tuy nhiên dù các trung tâm giao dịch chứng khoán và các công ty niêm yết đã đi vào hoạt động một thời gian, song việc huy động vốn qua kênh này mới chỉ đáp ứng được một khoản nhỏ nhu cầu vốn đầu tư hiện tại. Còn trên thực tế cho thấy hệ thống NHTM vẫn là kênh huy động vốn chủ yếu cho đầu tư phát triển. Thấy được tầm quan trọng của hoạt động này nên trong quá trình thực tập tại đơn vị, em đã chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội chi nhánh Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp. *) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: - Đối tượng: Hiệu quả hoạt động huy động vốn của NHTM - Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng về hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội chi nhánh Hà Nội trong khoảng thời gian từ 1/3/2010 đến 4/5/2010 *) Kết cấu chuyên đề: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, chuyên đề bao gồm 3 chương: - Chương I: Lý luận cơ bản về hiệu quả huy động vốn của NHTM - Chương II: Thực trạng về hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội chi nhánh Hà Nội - Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội chi nhánh Hà Nội Do thời gian nghiên cứu ngắn cùng với kiến thức thực tế không nhiều, chuyên đề của em còn nhiều điểm chưa đề cập đến và còn có những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy, cô giáo và các đồng chí lãnh đạo của Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội chi nhánh Hà Nội để chuyên đề của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo cùng các anh chị của phòng Kế toán nói riêng và toàn thể các anh chị của Chi nhánh Hà Nội nói chung đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong thời gian thực tập và nghiên cứu chuyên đề. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn TS.Lê Thị Hương Lan, người trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em viết chuyên đề này. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM Ngân hàng thương mại (NHTM) là loại hình doanh nghiệp đặc biệt thực hiện kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tức là nguồn vốn của NHTM chủ yếu là nguồn vốn huy động từ nền kinh tế thông qua các cá nhân, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Do đó vấn đề huy động vốn như thế nào cho hợp lý, đồng thời quản trị tài chính, phân bổ sử dụng, bảo đảm và phát triển vốn như thế nào để đảm bảo hoạt động kinh doanh Ngân hàng an toàn và hiệu quả cao là lẽ sống còn đối với mỗi Ngân hàng đặc biệt trong điều kiện vô cùng phức tạp của nền kinh tế thị trường hiện nay. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ hạch toán kinh doanh nên mọi giao dịch kinh doanh của các tổ chức kinh tế đều thông qua thị trường. Lúc đầu hoạt động Ngân hàng chỉ đơn giản là các dịch vụ đổi tiền, nó chỉ phù hợp với buổi bình minh của nền sản xuất hàng hóa. Ngày nay khi nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ cao của nền kinh tế hàng hóa thì Ngân hàng có một vị trí và nắm giữ vai trò vô cùng quan trọng. Ngoài chức năng thông thường của mình, Ngân hàng còn là công cụ để Nhà nước thực thi các chính sách tiền tệ kinh tế vĩ mô quản lý và điều tiết nền kinh tế có hiệu quả. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển với tốc độ cao nếu có hệ thống Ngân hàng phát triển ổn định và vững mạnh nhưng Ngân hàng là loại hình doanh nghiệp tự chủ tài chính rất thấp vì vốn tự có chiếm tỷ trọng nhỏ trong nguồn vốn và là loại hình kinh doanh có nhiều rủi ro. Tất cả mọi vấn đề an toàn trong kinh doanh, đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo mục tiêu hoạt động “khả năng sinh lời” và hoạt động quản trị đều được đặt dưới sự giám sát, kiểm soát bằng hệ thống văn bản pháp quy chặt chẽ của Nhà Nước nói chung và Ngân hàng nói riêng bởi sự rủi ro trong thanh toán dẫn đến khủng hoảng “phá sản” của một Ngân hàng sẽ kéo theo rủi ro trên toàn hệ thống từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế tài chính của một quốc gia. Điều đó đã phản ánh rõ nét vai trò hết sức to lớn của nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn huy động trong quá trình hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng. 1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại (NHTM) 1.1.1. Khái niệm NHTM Ngân hàng thương mại đã có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Ngay nửa đầu thế kỷ XI, ở châu Âu đã ra đời một số Ngân hàng đầu tiên mà tiền thân là những tổ chức cho vay nặng lãi. Vào thời điểm này Ngân hàng phát triển ở trình độ thấp, hoạt động của Ngân hàng chỉ gói gọn trong lĩnh vực giữ hộ tiền và cho vay. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của NHTM cũng từng bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hóa dần theo hướng đa năng. Tuy nhiên đến nay chưa có khái niệm thống nhất về NHTM do các nhà kinh tế nhận thấy có những khó khăn trong việc định nghĩa “Ngân hàng”, bởi quan niệm Ngân hàng thay đổi theo không gian (tập quán và phong tục của mỗi nước) và trong thời gian (theo đà tiến triển kinh tế-xã hội). Theo một số chuyên gia về Ngân hàng trên thế giới thì Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường được quan niệm như sau: “Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, tuân thủ theo pháp luật theo đuổi mục tiêu lợi nhuận”. Theo luật của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam được Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997 “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và hoạt động, các loại hình Ngân hàng gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác”. 1.1.2. Đặc điểm của NHTM Trước hết hoạt động của NHTM là hình thức kinh doanh kiếm lời, theo đuổi mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu. Ngân hàng thực hiện hai hình thức hoạt động là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng. Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình thức khác nhau, để cấp tín dụng cho khách hàng có yêu cầu về vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Ngân hàng thương mại là người “đi vay để cho vay”. Các hoạt động dịch vụ Ngân hàng được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối, chứng khoán để cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong một thời gian nhất định nhằm mục đích thu phí dịch vụ hoặc hoa hồng. Hai là, hoạt động của NHTM phải tuân theo pháp luật nghĩa là chỉ khi NHTM thỏa mãn đầy đủ các điều kiện khắt khe do pháp luật quy định như điều kiện về vốn, phương án kinh doanh…thì mới được phép hoạt động trên thị trường. Ba là, hoạt động của NHTM là hình thức kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều so với các hình thức kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc tới các ngành khác và cả nền kinh tế. Rủi ro đến từ phía Ngân hàng, khách hàng vay tiền và từ các yếu tố khách quan. Để tránh rủi ro đáng tiếc xảy ra Chính phủ các quốc gia đã đặt ra những đạo luật riêng nhằm kiểm soát, đảm bảo cho hoạt động của Ngân hàng được vận hành an toàn và đúng quy trình của nó. 1.1.3. Các hoạt động cơ bản của NHTM Cùng với sự phát triển của NHTM, hoạt động và các dịch vụ của NHTM ngày càng được mở rộng. Nhưng nhìn chung thì có ba hoạt động chính mà NHTM thường làm đó là: 1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn Là hoạt động khởi đầu cho các hoạt động khác của NHTM. NHTM bản chất là một tổ chức trung gian tài chính có đặc điểm hoạt động chủ yếu không phải bằng nguồn vốn chủ sở hữu vì vậy để có nguồn vốn hoạt động, cung cấp vốn cho nền kinh tế thì NHTM phải huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đi vay từ các tổ chức tín dụng khác hay từ NHTW. 1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn Sau khi huy động vốn, để bù đắp được chi phí huy động vốn và có lợi nhuận thì NHTM phải tìm cách sử dụng hiệu quả các nguồn vốn này để thu lãi. Đây là hoạt động chủ yếu và đem lại tỷ trọng thu nhập lớn nhất cho NHTM. NHTM sử dụng vốn theo các hướng cơ bản là hoạt động tín dụng, đầu tư chứng khoán, đầu tư mua sắm tài sản cố định và trang thiết bị, hoạt động ngân quỹ trong đó hoạt động tín dụng là quan trọng nhất bởi vì nó đem lại phần lớn thu nhập cho Ngân hàng. 1.1.3.3. Các hoạt động trung gian của NHTM Bao gồm hoạt động thanh toán, hoạt động quản lý tài sản cho khách hàng, hoạt động phát hành chứng khoán, hoạt động mua bán và bảo quản chứng khoán, hoạt động cung cấp thông tin, tư vấn kinh doanh và quản trị doanh nghiệp…Các hoạt động này không phải đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho NHTM nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng hoạt động huy động và sử dụng nguồn vốn, đồng thời đa dạng hóa hoạt động, giảm bớt rủi ro và tăng thu nhập cho Ngân hàng. Tuy ba nhóm hoạt động có những đặc điểm khác nhau song có quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Vì vậy đối với các nhà quản trị Ngân hàng không được coi nhẹ hoạt động nào mà phải luôn đặt mối quan hệ giữa chúng trong khi đề ra chiến lược cũng như lập kế hoạch kinh doanh để đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động. 1.1.4. Vai trò của NHTM Đã từ lâu vai trò của Ngân hàng trong nền kinh tế trở nên vô cùng quan trọng nhất là khi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đi vào chiều sâu, yêu cầu cần có vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng tốc độ đầu tư, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền lâu. 1.1.4.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế Vốn được tạo ra trong quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức trong nền kinh tế vì vậy muốn tăng vốn phải tăng thu nhập quốc dân, có mức độ tiêu dùng hợp lý. Tăng thu nhập quốc dân đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hóa, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế. Thông qua hình thức cấp tín dụng Ngân hàng đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong những nấc thang cạnh tranh cao hơn, cạnh tranh càng mạnh mẽ, doanh nghiệp càng có những tiến bộ trong cách thức sản xuất dẫn đến cải thiện đời sống của nhân dân thông qua tạo việc làm, tăng thu nhập,…làm cho kinh tế càng phát triển. Như vậy với khả năng cung cấp vốn NHTM đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế của quốc gia. 1.1.4.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường Thị trường ở đây bao gồm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Để tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào doanh nghiệp cần phải tham gia vào thị trường đầu vào, nơi cung cấp các nguyên vật liệu cần thiết cho việc sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện thành công chiến lược 5P: - Products: sản phẩm - Price: giá cả - Promotion: giao tiếp, khuếch trương - Place: địa điểm - People: con người Từ đó tiếp cận mạnh mẽ thị trường đầu ra, đó là nơi tiêu thụ sản phẩm để tìm kiếm lợi nhuận. Để quá trình trên diễn ra liên tục và bình thường thì doanh nghiệp cần có “vốn”, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ khả năng về tài chính và NHTM là nơi cần thiết giúp doanh nghiệp cải thiện tình hình đó. 1.1.4.3. NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia và nền tài chính thế giới Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa như hiện nay thì vai trò này của NHTM ngày một thể hiện rõ rệt hơn. Áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi quốc gia khi mở cửa hội nhập với bên ngoài phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi mặt đặc biệt là tiềm lực về tài chính. Để có thể hòa nhập với các quốc gia khác trên thế giới, hệ thống NHTM trong nước có khả năng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho việc đầu tư từ nước ngoài vào trong nước như: thanh toán quốc tế, cho vay ủy thác đầu tư,…giúp cho luồng vốn ra, vào một cách hợp lý. Đây là điều kiện tiên quyết cho tiến trình hội nhập kinh tế ở các quốc gia trên thế giới. 1.1.4.4. NHTM là công cụ để Nhà Nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế Một trong những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm phát qua con đường tín dụng và hoạt động của Ngân hàng góp phần chống lạm phát: NHTM sẽ kiểm soát lạm phát thông qua các hoạt động tín dụng và bảo lãnh còn NHTW sẽ tác động vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào thị trường mở để thông qua các NHTM thay đổi lượng tiền trong lưu thông. Từ đó Ngân hàng sẽ đưa ra các biện pháp để ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát. 1.1.5. Chức năng của NHTM Tầm quan trọng của NHTM còn thể hiện ở chức năng của nó. Các nhà kinh tế học đã ví NHTM là trái tim của nền kinh tế. Ngân hàng hút tiền về, bơm tiền đi vì thế nguồn vốn nhàn rỗi được khơi thông đưa từ nơi thừa đến nơi thiếu tiền thúc đẩy quá trình lưu chuyển tiền tệ một cách hiệu quả. Các chức năng đó bao gồm: 1.1.5.1. Trung gian tín dụng Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển, Ngân hàng chính là “cầu nối” giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế: trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông) nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay. NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất chênh lệch có được nó sẽ duy trì họat động của mình. Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn do sự phát triển của thị trường tài chính làm xuất hiện các khía cạnh khác của chức năng này với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,…NHTM có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư, chuyển giao mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán, đảm nhận việc mua trái phiếu công ty…Hơn nữa tín dụng Ngân hàng là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích lũy và đầu tư. Chức năng tín dụng của NHTM được hình thành rất sớm, ngay từ lúc hình thành các NHTM. Ngày nay thông qua chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. 1.1.5.2. Trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán Chức năng này có nghĩa là Ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản. Khi các khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với các khoản thanh toán có giá trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và không an toàn (ví dụ: chi phí lưu thông, vận chuyển, bảo quản…). Chức năng này của NHTM ngày nay đã phát triển đến mức đa dạng, không chỉ là trung gian truyền thống như trước mà còn quản lý các phương tiện thanh toán. Đây là chức năng ngày càng quan trọng phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Khi làm trung gian thanh toán, Ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và độc quyền quản lý các công cụ đó (séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán..) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước phát triển, phần lớn các công tác thanh toán ở trong nước được thực hiện thông qua séc và phần lớn séc thanh toán trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua hệ thống NHTM. Với phương pháp công nghệ hiện đại hơn, các NHTM từng bước trang bị đầy đủ các máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật khác tạo điều kiện cho thanh toán bù trừ được nhanh chóng, giảm bớt chi phí và có độ chính xác cao. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay. Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển tiền bằng điện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không sử dụng séc Ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách nối mạng các máy vi tính của các Ngân hàng thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài khoản người này sang người khác một cách nhanh chóng. 1.1.5.3. Nguồn tạo tiền Vào cuối thế kỉ XIX hệ thống Ngân hàng hai cấp được hình thành, các Ngân hàng không còn hoạt động riêng lẻ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó Ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng, là Ngân hàng của các Ngân hàng. Các Ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ hoạt động trong hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt. Chức năng tạo tiền không giới hạn trong hành động in thêm tiền và phát hành tiền mới của Ngân hàng Nhà nước. Bản thân các Ngân hàng thương mại trong quá trình thực hiện các chức năng của mình vẫn có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại Ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của Ngân hàng thương mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống Ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do Ngân hàng trung ương phát hành mà còn bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các Ngân hàng thương mại tạo ra. Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng Ngân hàng và lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà Ngân hàng thương mại cho vay làm tăng khả năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng. Từ ba chức năng cơ bản trên có thể thấy được vai trò to lớn của NHTM trong nền kinh tế. Hoạt động của NHTM đẩy nhanh quá trình thanh toán, giảm chi phí giao dịch, và tạo môi trường thuận lợi cho quá trình lưu chuyển vốn nâng cao chất lượng của quá trình tập trung và phân phối nguồn vốn. NHTM còn là bộ máy tạo tiền, nó có vai trò quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ và góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô dưới sự tác động của NHTW và các chính sách của Nhà nước. 1.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại “Hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng thương mại là hoạt động mà trong đó các Ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ các chủ thể khác nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân nó theo đúng các quy định pháp luật” Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm nhất trong hoạt động của các NHTM. Trong giai đoạn sơ khai của hoạt động Ngân hàng, những nghiệp vụ này chỉ đơn thuần là hoạt động cất giữ các tài sản có giá nhằm mục đích đảm bảo an toàn, và lúc này, người phải trả phí là người gửi tiền chứ không phải là các Ngân hàng, các khoản tiền chỉ được xem đơn thuần là vật được kí gửi chứ hoàn toàn không đóng vai trò là nguồn vốn đối với các Ngân hàng thương mại, tiền lúc này không được xem là tiền tệ theo đúng nghĩa của nó, vì không có khả năng luân chuyển, không sinh ra được lợi nhuận. Khi nhu cầu tín dụng gia tăng, nghiệp vụ Ngân hàng phát triển, vị thế đó bị đảo ngược, Ngân hàng là người phải trả phí (lãi suất – giá cả của tín dụng), và nguồn tiền được kí gửi thay đổi vai trò của nó, trở thành nguồn vốn khả dụng và lớn nhất của các NHTM hiện nay. Chính vì vậy, trái ngược với quá khứ, Ngân hàng là người phải đi nài nỉ khách hàng gửi tiền. Nếu trước đây, Ngân hàng là người bị động trong quan hệ này thì hiện nay, hầu hết tất cả các Ngân hàng đều có các chính sách, phương thức để lôi kéo nguồn tiền gửi này và chính vì vậy các phương thức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng, phong phú và đa dạng hơn. Có thể nói, hiện nay, hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động hết sức quan trọng và liên quan đến sự sống còn của các NHTM. Xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển, thay đổi cùng với sự phát triển của các NHTM, nội hàm của khái niệm hoạt động huy động vốn đã có những thay đổi rất đáng kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Hơn nữa, gần như không tìm được một định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này cũng như không có được sự thống nhất hoàn toàn giữa các quan điểm. Đặc biệt, là sự khác biệt trong cách hiểu khi đề cập vấn đề này dưới các khía cạnh khác nhau.    Phổ biến nhất là việc sử dụng thuật ngữ này trong các khía cạnh không chuyên, đặc biệt là ngôn ngữ thường nhật của xã hội và báo chí. Khái niệm huy động vốn được sử dụng ở đây đối với hoạt động của các NHTM có thể nói là hẹp và không rõ ràng nhất, trong nhiều trường hợp có sự không thống nhất trong nội hàm của bản thân khái niệm. Nhưng nhìn chung, phổ biến nhất, khái niệm này được dùng chủ yếu đề cập đến một hoạt động đặc trưng nhất của các NHTM, đó là nhận tiền gửi và dưới các hình thức cơ bản nhất, cụ thể là nhận tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi có và không có kì hạn khác. Dưới khía cạnh kinh tế cũng có khá nhiều cách tiếp cận với riêng khái niệm này, tuy cũng khá tương đồng nhau và phạm vi thường rộng hơn khái niệm được đề cập ở trên nhưng nội hàm của chúng thường không đồng nhất. Cách tiếp cận thông thường nhất hiện nay trong các nghiên cứu của các chuyên ngành kinh tế, tài chính Ngân hàng là tiếp cận khái niệm huy động vốn từ nguồn gốc của các nguồn vốn. Chẳng hạn, nguồn vốn được chia thành vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn tiếp nhận, vốn khác. Chính vì vậy, hoạt động huy động vốn của NHTM lúc này bao gồm cả việc khởi tạo nguồn vốn ban đầu cho sự hình thành vốn điều lệ và cả việc tạo lập nguồn vốn cấp 2 (một bộ phận của nguồn vốn tự có) của NHTM. 1.2.1. Nguồn vốn của NHTM Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của NHTM, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng bao gồm: 1.2.1.1. Vốn chủ sở hữu Về mặt kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng của Ngân hàng do các chủ sở hữu đóng góp và nó còn được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại. Mặc dù chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập Ngân hàng. Theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/1005 và quyết định 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 thì vốn chủ sở hữu của NHTM bao gồm: *) Vốn chủ sở hữu (vốn cấp 1): vốn điều lệ thực có (vốn đã được cấp, vốn đã góp), quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia. Đây là nguồn vốn tương đối ổn định. *) Vốn chủ sở hữu bổ sung (vốn cấp 2): đây là nguồn vốn có tính ổn định thấp và phụ thuộc nhiều vào quy mô của nguồn vốn chủ sở hữu cơ bản, nguồn vốn cấp 2 được hình thành thông qua các thành phần như: +) 50% giá trị tăng thêm của tài sản cố định +) 40% giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, góp vốn) được định giá lại +) Trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành có kỳ hạn ban đầu, thời hạn còn lại trước khi chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông tối thiểu là 5 năm +) Các công cụ khác thỏa mãn điều kiện có kỳ hạn ban đầu tối thiểu trên 10 năm +) Dự phòng chung tối đa bằng 1,25% tổng tài sản có rủi ro 1.2.1.2. Vốn huy động Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong Ngân hàng, Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu, phải có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn. Nguồn vốn này luôn biến động nên Ngân hàng không được sử dụng hết mà phải có dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán. NHTM huy động vốn thông qua các hoạt động: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng và vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng nhà nước. 1.2.1.3. Vốn đi vay Là loại vốn mà Ngân hàng chủ động đi vay với mục đích, thời hạn vay, và đối tượng vay khác nhau bao gồm: 1.2.1.3.1. Vay từ các tổ chức tín dụng khác Các NHTM có thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường liên Ngân hàng hoặc vay trực tiếp lẫn nhau không thông qua thị trường liên Ngân hàng, phương thức này rất linh hoạt giúp các NHTM cân đối vốn một cách kịp thời. Nguyên tắc vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác: +) Các Ngân hàng phải hoạt động hợp pháp +) Thực hiện việc cho vay và đi vay theo hợp đồng tín dụng +) Vốn vay phải được đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của Ngân hàng trung ương. 1.2.1.3.2. Vay từ NHTW Dù các NHTM thận trọng đến mấy trong việc cho vay thì cũng không thể tránh khỏi lúc mất khả năng chi trả hoặc thiếu tiền mặt tạm thời, lúc đó NHTW chính là vị cứu tinh của NHTM, là nguồn vay sau cùng. Ở Việt Nam hiện nay, NHTW cho các NHTM vay dưới các hình thức: +) Tái cấp vốn +) Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác +) Cho vay có đảm bảo bằng thế chấp hoặc cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác +) Cho vay theo loại hồ sơ tín dụng Ngoài ra NHTW còn cho các NHTM vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ, nhờ loại cho vay này mà hệ thống thanh toán bù trừ được thực hiện một cách thuận lợi. Trong những trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ chấp nhận, NHTW còn cho vay đối với các NHTM tạm thời mất khả năng chi trả có nguy cơ gây mất an toàn cho toàn bộ hệ thống. 1.2.1.4. Vốn khác Bên cạnh các nguồn vốn nêu trên trong quá trình hoạt động các NHTM còn có thể tạo lập vốn cho mình từ nhiều nguồn khác: +) Vốn trong thanh toán: Là nguồn vốn mà Ngân hàng tạo lập được trong quá trình làm trung gian thanh toán. +) Vốn tiếp nhận: Là số vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ, của các tổ chức tài chính tiền tệ, các tổ chức đoàn thể-xã hội trong và ngoài nước tài trợ cho các chương trình dự án về phát triển kinh tế, xã hội, cải tạo môi trường…và được chuyển qua NHTM làm đại lý ủy thác thực hiện. Các nguồn vốn khác này tuy không nhiều, thời gian sử dụng lại ngắn nhưng điều đặc biệt là đối với nguồn vốn này, Ngân hàng không những không phải tốn kém chi phí sử dụng vốn mà đôi khi còn nhận được phí từ việc cung cấp các dịch vụ Ngân hàng đồng thời có điều kiện mở rộng nghiệp vụ và dịch vụ Ngân hàng làm cho hoạt động của Ngân hàng đa dạng hơn. 1.2.2. Các hình thức huy động vốn của NHTM Các NHTM làm nhiệm vụ vay tiền (hầu hết từ những người gửi tiền) cho vay với mục đích hưởng lợi qua lãi suất. Đây là một công việc của một trung gian tài chính đóng vai trò trung gian giữa người cần vốn và người có vốn. Quá trình tạo vốn của NHTM được thể hiện dưới các hình thức sau: 1.2.2.1. Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi của khách hàng 1.2.2.1.1. Tiền gửi thanh toán Với loại tiền này khách hàng có thể gửi tiền vào và rút tiền ra bất cứ lúc nào có nhu cầu. Mục đích chính của người gửi tiền nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua Ngân hàng. Tài khoản này mở cho các khách hàng cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu thực hiện thanh toán qua Ngân hàng.Tuy nhiên hiện nay tại Việt Nam tỷ trọng trong thanh toán không dùng tiền mặt còn thấp cho nên để khuyến khích việc thanh toán qua Ngân hàng các NHTM Việt Nam đã tiến hành trả._. lãi cho khoản tiền này còn ở các nước kinh tế phát triển thì không trả lãi cho khoản tiền này. 1.2.2.1.2. Tiền gửi có kỳ hạn Đây là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ được rút tiền khi thời hạn ấn định kết thúc. Nếu khách hàng có nhu cầu rút trước thời hạn thì Ngân hàng sẽ không trả lãi cho khách hàng. Tuy nhiên ở Việt Nam để khuyến khích khách hàng gửi tiền thì Ngân hàng sẽ trả cho khách hàng với mức lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn. Đây là nguồn vốn tương đối ổn định do thời gian gửi tiền đã được ấn định trước nên Ngân hàng thường trả lãi rất cao. Nó phù hợp với những người có khoản tiền tạm thời nhàn rỗi hoặc những người đang tìm cách quay vòng vốn trong một thời gian để đạt hiệu quả cao nhất. Hiện tại các NHTM có các loại tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm và 2 năm, với mỗi kỳ hạn khác nhau thì Ngân hàng áp dụng một loại lãi suất khác nhau, thường kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao. Tuy nhiên ở các NHTM Việt Nam hiện nay kỳ hạn 1 tháng là rất hãn hữu và ở nhiều Ngân hàng khác loại kỳ hạn này không tồn tại. 1.2.2.1.3. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư Là loại tiền gửi mà khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng thì họ được giao một cuốn sổ tiết kiệm coi như một giấy chứng nhận tiền gửi vào Ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm: +) Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Thực chất đây là loại tiền gửi thông thường, người gửi tiền có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ số tiền gửi bất cứ lúc nào mà không thông báo trước nhưng khác với loại tiền gửi thanh toán, người gửi tiền không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác, bên cạnh đó số dư của loại này thường không lớn và có ưu điểm hơn tiền gửi giao dịch ở chỗ là số dư này ít biến động nên lãi suất tiền gửi tiết kiệm thường cao hơn so với tiền gửi thanh toán và phần lớn những người gửi tiền tiết kiệm là do chưa xác định được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai nhưng lại hưởng mức lãi trong thời gian khoản tiền nhàn rỗi. +) Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi dành cho khách hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu gửi tiền vì mục tiêu an toàn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai. Loại này tương đối ổn định vì Ngân hàng xác định được thời gian rút tiền của khách hàng. Đối với loại tiền gửi này Ngân hàng có nhiều loại thời hạn với lãi suất cao hơn loại tiền gửi không kỳ hạn và mức lãi suất còn thay đổi tùy theo loại đồng tiền gửi tiết kiệm (VNĐ, USD, EUR, hay vàng) và còn tùy theo uy tín, rủi ro của Ngân hàng nhận tiền gửi. 1.2.2.2. Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua. Đặc điểm của loại vốn này là lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm, mục đích huy động dùng để đáp ứng cho các dự án đầu tư lớn, được huy động theo nhiều thời hạn khác nhau như ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Hiện nay ở các NHTM Việt Nam thường huy động nguồn vốn này dưới hình thức phát hành kỳ phiếu có mục đích và trái phiếu trung, dài hạn. +) Trái phiếu Ngân hàng: Là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) của Ngân hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu với mục đích là nhằm huy động vốn trung và dài hạn, lãi suất của trái phiếu thường cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu. Việc phát hành trái phiếu các NHTM chịu sự quản lý của Ngân hàng trung ương, của các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán và có thể bị chi phối bởi uy tín của Ngân hàng. +) Kỳ phiếu Ngân hàng: Đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn, người sở hữu có thể chuyển nhượng cho người khác qua chứng nhận của Ngân hàng vì trên sổ kỳ phiếu có ghi tên người hưởng. +) Phát hành chứng chỉ tiền gửi: Nó là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ ở một Ngân hàng, người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi theo kỳ và nhận đủ vốn khi đến hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị trường. 1.2.2.3. Vốn vay từ các tổ chức tài chính tín dụng Thực hiện thông qua thị trường liên Ngân hàng, giúp các NHTM giải quyết sự mất cân đối giữa việc huy động và sử dụng vốn gây thiếu vốn đột xuất. 1.2.2.4. Vốn vay từ NHTW Khi các NHTM hết khả năng vay vốn của nhau mà vẫn thiếu vốn hoặc mất khả năng thanh toán thì NHTW là cứu tinh cuối cùng nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh đảm bảo cho hệ thống Ngân hàng thương mại hoạt động bình thường. Các hình thức chủ yếu mà NHTW sử dụng để cấp tín dụng cho các NHTM là cho vay, mua bán, chiết khấu, tái chiết khấu đối với các giấy tờ có giá. 1.2.2.5. Tạo vốn từ nguồn vốn khác Đó là từ các tổ chức tài chính quốc tế, đây là nguồn vốn lớn, có thời hạn tương đối dài từ 5 đến 50 năm với lãi suất tương đối ưu đãi tuy nhiên nó có các điều kiện kèm theo rất chặt chẽ và việc cấp phát phải đúng nội dung chương trình của các dự án tài trợ. 1.2.3. Vai trò của hoạt động huy động vốn Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh . Riêng đối với Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt thì hoạt động huy động vốn lại càng trở nên quan trọng, hoạt động của Ngân hàng gắn bó mật thiết với hệ thống tiền tệ và hệ thống thanh toán. Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Như vậy vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của Ngân hàng, ngoài vốn điều lệ là điệu kiện bắt buộc theo luật thì Ngân hàng phải huy động thêm vốn để hoạt động kinh doanh từ đó thu lợi nhuận. Với chức năng tập trung và phân phối cho các nhu cầu của nền kinh tế, một nguồn vốn huy động dồi dào sẽ tạo cho Ngân hàng điều kiện để mở rộng thị trường kinh doanh bằng việc đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, không bỏ lỡ cơ hội đầu tư, giảm thiểu rủi ro, tạo dựng được uy tín cho khách hàng. Bên cạnh đó huy động vốn tạo cho Ngân hàng khả năng cạnh tranh cao, nguồn vốn huy động càng lớn sẽ chứng minh rằng quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật của Ngân hàng hiện đại. Ví dụ như: Ngân hàng có vốn lớn khi có sự biến động của thị trường tiền tệ họ vẫn có khả năng phản ứng nhanh chóng để khắc phục tình thế, ngược lại các Ngân hàng ít vốn thường bị động trong trường hợp thị trường bị biến động, sự nhạy bén thích nghi là chậm hơn hoặc không có khả năng khắc phục tình hình dẫn tới hoạt động kinh doanh bị ảnh hưởng, thậm chí đi đến phá sản. Các Ngân hàng thực hiện kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động vì vậy khả năng huy động vốn tốt là điều kiện vô cùng thuận lợi để Ngân hàng mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế khác nhau trong xã hội cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay,…Điều đó sẽ thu hút nhiều khách hàng, doanh số Ngân hàng sẽ tăng nhanh đảm bảo uy tín và năng lực trên thị trường. Với những vai trò quan trọng của hoạt động huy động vốn, các Ngân hàng luôn tìm cách đưa ra những chính sách quản lý nguồn vốn từ khâu nhận vốn từ những người gửi tiền và những người cho vay khác nhau đến việc sử dụng vốn một cách hiệu quả. 1.3. Hiệu quả hoạt động huy động vốn của NHTM 1.3.1. Khái niệm về hiệu quả huy động vốn của NHTM Để làm rõ hơn khái niệm hiệu quả huy động vốn của NHTM ta sẽ xem xét dưới 2 góc độ: +) Về phía xã hội: Để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước cần một lượng vốn lớn làm tiền đề vật chất. +) Về phía Ngân hàng: vốn cần thiết để tiến hành kinh doanh hiệu quả, đa dạng hóa các hình thức kinh doanh nâng cao sức cạnh tranh và lợi nhuận Ngân hàng đặc biệt là nguồn vốn huy động trong nước. Vốn trong nước phần lớn nằm trong các hộ gia đình dưới dạng tiết kiệm, hơn nữa vốn của các tổ chức kinh tế xã hội không phải lúc nào cũng được sử dụng theo mùa, theo chu kỳ kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Do đó lượng vốn nhàn rỗi trong khu vực này cũng rất là lớn. Nhiệm vụ to lớn của mỗi Ngân hàng là phải tập trung và thu hút các nguồn vốn này để đầu tư cho các hoạt động kinh doanh của mình biến chúng thành các đồng vốn mang lại hiệu quả kinh tế xã hội. Để đạt được điều đó Ngân hàng phải có công tác huy động vốn phù hợp và có hiệu quả. Hiệu quả huy động vốn phải được đánh giá qua các khía cạnh sau: *) Vốn huy động phải xuất phát từ nhu cầu kinh doanh của Ngân hàng, vốn này phải có sự tăng trưởng, ổn định về số lượng để có thể thỏa mãn nhu cầu cho vay, thanh toán cũng như các hoạt động khác của Ngân hàng. Tuy nhiên vốn huy động phải được ổn định về mặt thời gian, nếu không việc sử dụng không hiệu quả mà Ngân hàng còn phải đối mặt với vấn đề thanh khoản. *) Bên cạnh đó việc huy động vốn còn phụ thuộc vào nhu cầu thực tế của Ngân hàng, huy động được ít lại không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, không đa dạng hóa được các dịch vụ, mức cạnh tranh trên thị trường kém từ đó giảm uy tín đối với các khách hàng tiềm năng., ngược lại huy động vốn quá nhiều mà không sử dụng hết vốn sẽ bị đóng băng khiến lợi nhuận giảm sút do vẫn phải trả lãi các chi phí kèm theo như khi bảo quản, kế toán, kho quỹ,…mà không có khoản nào bù đắp lại. *) Việc huy động vốn còn phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế từng thời kỳ của xã hội. Như vậy có thể kết luận: Hiệu quả huy động vốn là việc thực hiện tốt công tác huy động nhằm tạo cho Ngân hàng một lượng vốn đầy đủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của NHTM Hiệu quả huy động vốn được đánh giá theo nhiều khía cạnh khác nhau tùy mục đích nghiên cứu vì vậy cũng có nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn. Ở đây em chỉ xin trình bày các chỉ tiêu đánh giá dưới góc độ một nhà Ngân hàng, nó bao gồm các chỉ tiêu sau: +) Nguồn vốn tăng trưởng ổn định về số lượng và thời gian: đánh giá qua mức độ tăng giảm nguồn vốn huy động và số lượng vốn huy động có kỳ hạn. Nguồn vốn tăng đều qua các năm đạt mục tiêu về nguồn vốn đặt ra và có độ gia tăng đều đặn là nguồn vốn tăng trưởng ổn định. Nguồn vốn có số lượng vốn kỳ hạn lớn chứng tỏ sự ổn định về thời gian của nguồn vốn cao. +) Nguồn vốn có khả năng đáp ứng cho các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng: Đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động được với các nhu cầu tín dụng, thanh toán và các nhu cầu khác để thấy nguồn vốn huy động đã đáp ứng bao nhiêu, Ngân hàng phải vay thêm bao nhiêu để thỏa mãn nhu cầu đó. *) Mức độ hoạt động của vốn: Đánh giá qua chỉ tiêu hệ số sử dụng vốn. *) Mức độ thuận tiện cho khách hàng: Đánh giá qua việc các thủ tục gửi tiền, rút tiền. 1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn của NHTM 1.4.1. Nhân tố khách quan +) Sự phát triển của nền kinh tế Theo các lý thuyết kinh tế thì sự tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế quyết định đến thu nhập của các tổ chức cá nhân, như vậy sẽ có hoặc không có một khoản tiền nhàn rỗi đưa vào tích lũy bằng cách gửi vào Ngân hàng. Đây là yếu tố quyết định khả năng huy động vốn của Ngân hàng. Khi nền kinh tế phát triển ổn định, đảm bảo được giá trị của đồng tiền từ đó tiền gửi vào Ngân hàng của khách hàng được an toàn, tạo được sự an tâm về tâm lý cho khách hàng mở ra tiềm năng và mở rộng phạm vi đầu tư, lĩnh vực kinh doanh cho NHTM. Ngược lại khi nền kinh tế phát triển không ổn định, sản xuất bị đình trệ,…nhân dân sẽ mất lòng tin vào giá trị của đồng tiền dẫn đến mất an toàn và rủi ro cho đồng vốn kinh doanh của NHTM và khả năng huy động vốn cũng bị thu hẹp. +) Môi trường pháp lý Cơ chế chính sách pháp luật của nhà nước rất chặt chẽ, đồng bộ các định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước mang tính ổn định lâu dài sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh. NHTM là tổ chức chịu sự tác động rất lớn của môi trường pháp lý nhất là các chính sách của nhà nước. Các bộ luật tác động trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng như: luật các tổ chức tín dụng, luật NHNN,…, luật đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó là chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng không nhỏ, ví dụ khi lạm phát nền kinh tế tăng, Nhà nước thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó NHTM sẽ huy động vốn dễ dàng hơn. Như vậy mục tiêu hoạt động của NHTM được xây dựng vào các quy định, quy chế của Nhà nước để đảm bảo an toàn và nâng cao niềm tin từ khách hàng. +) Nhu cầu về vốn của nền kinh tế NHTM là trung gian tập trung và phân phối vốn cho nền kinh tế, khi nhu cầu vay vốn giảm thì khả năng huy động vốn của Ngân hàng cũng giảm theo. +) Tâm lý, thói quen của khách hàng Khách hàng vừa là người gửi tiền vừa là người sử dụng vốn, thu nhập ảnh hưởng đến nguồn vốn tiềm tàng mà Ngân hàng có thể huy động trong tương lai, còn yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến động ra vào của các nguồn tiền. Tâm lý tin tưởng vào tương lai của khách hàng có tác dụng làm ổn định lượng tiền gửi vào, rút ra và ngược lại. Một điểm quan trọng nữa là mức độ thường xuyên của việc sử dụng các dịch vụ Ngân hàng của khách hàng, mức độ này càng cao thì điều kiện mở rộng huy động vốn càng trở nên dễ dàng hơn. 1.4.2. Nhân tố chủ quan 1.4.2.1. Uy tín của Ngân hàng Với bất kỳ một khách hàng có tiền nhàn rỗi cần gửi vào Ngân hàng thì điều họ cần biết đầu tiên là Ngân hàng đó có thật sự tin cậy không, nếu Ngân hàng có uy tín cao trên thị trường thì việc đắn đo trong lựa chọn của khách hàng không còn là vấn đề khó nữa. Thông thường uy tín này thể hiện ở mức độ thâm niên của Ngân hàng, thâm niên càng cao thì khách hàng càng tin tưởng để gửi tiền. 1.4.2.2. Chính sách khách hàng Đây là điều kiện thứ hai mà khách hàng quan tâm đến sau uy tín của Ngân hàng. Như mọi doanh nghiệp khác, Ngân hàng biết rằng “khách hàng là thượng đế” và các chính sách ưu đãi cho họ là cần thiết để thu hút tiền nhàn rỗi, Ngân hàng nào mà nhanh nhạy thấu đáo điều này thì sẽ giành được thị phần nhiều hơn. 1.4.2.3. Chính sách Marketing Đây là chính sách rất quan trọng đối với các loại hình doanh nghiệp đặc biệt là trong ngành Ngân hàng hiện nay. Để khách hàng biết đến mình, hiểu về những chính sách của mình… thì các Ngân hàng phải quảng bá mình trên mọi phương tiện thông tin đại chúng, trên cả pano, áp phích, tờ rơi… 1.4.2.4. Các hình thức huy động vốn Các Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa dạng hóa hình thức huy động vốn, mức độ đa dạng càng cao thì dễ dàng đáp ứng một cách tối đa nhu cầu của dân cư vì họ đều tìm thấy cho mình một hình thức gửi tiền phù hợp mà lại an toàn. Do vậy các Ngân hàng thường cân nhắc rất kỹ lưỡng trước khi đưa vào áp dụng một hình thức mới. 1.4.2.5. Chính sách lãi suất cạnh tranh Các Ngân hàng cạnh tranh giành vốn không chỉ với các Ngân hàng khác mà còn với các tổ chức tiết kiệm, các thị trường tiền tệ và với những người phát hành các công cụ tài chính khác nhau trong thị trường tiền tệ. Khi mức lãi suất tối đa bị loại bỏ trong quá trình nới lỏng các quy định việc duy trì mức lãi suất cạnh tranh càng trở nên gay gắt đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, đủ cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiền tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ Ngân hàng này sang Ngân hàng khác hay từ công cụ này sang công cụ khác. 1.4.2.6. Năng lực, trình độ cán bộ Ngân hàng +) Về mặt quản lý: trình độ quản lý tốt sẽ có khả năng tư vấn phù hợp cho khách hàng thu hút được khách hàng đến với mình đồng thời đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín. +) Về trình độ nghiệp vụ: ảnh hưởng lớn tới chất lượng phục vụ. 1.4.2.7. Công nghệ Ngân hàng: +) Các loại dịch vụ mà Ngân hàng cung ứng +) Trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên của Ngân hàng +) Cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 1.4.2.8. Các dịch vụ cung ứng của Ngân hàng Một Ngân hàng có dịch vụ tốt và đa dạng có lợi thế hơn so với các Ngân hàng có dịch vụ hạn chế, đây là điểm mạnh để các Ngân hàng giành lợi thế trong cạnh tranh. Ví dụ: Một Ngân hàng có giao dịch mặt đường trên các phố chính, có hệ thống rút tiền tự động làm việc ngày đêm, cán bộ giao dịch niềm nở, có trách nhiệm là lợi thế rất lớn. 1.4.2.9. Mạng lưới phục vụ cho việc huy động vốn Mạng lưới này thể hiện qua việc tổ chức các quỹ tiết kiệm, không chỉ xuất hiện tại các trung tâm kinh tế lớn mà nó còn được phân phối tại những nơi cách xa trung tâm như nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại, với mỗi Ngân hàng khác nhau, trong từng thời kỳ khác nhau mức độ ảnh hưởng là khác nhau. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể mà các Ngân hàng xây dựng cho mình một chiến lược huy động thích hợp. TÓM LẠI: Trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn huy động của mỗi NHTM có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NH cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước, đặc biệt đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay và trong nhiều năm tới. Do vậy việc mở rộng nguồn vốn huy động và sử dụng nó có hiệu quả đang là mối quan tâm hàng đầu của toàn bộ hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong việc phân tích và đánh giá đúng thực trạng huy động vốn của các NHTM Việt Nam để chỉ ra những ưu điểm cần phát huy và những hạn chế tồn tại cả về phương diện chính sách, thể lệ cũng như việc tổ chức thực hiện tại các đơn vị Ngân hàng cần thiết để một mặt thu hút tối đa nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội phục vụ phát triển kinh tế, mặt khác tăng hiệu quả kinh tế của các NHTM. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN-HÀ NỘI CHI NHÁNH HÀ NỘI 2.1. Giới thiệu chung về Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội (SHB) chi nhánh Hà Nội 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Sự phát triển của hệ thống NHTM nói chung đã thúc đẩy các NHTM riêng lẻ trong việc mở rộng thêm quy mô thông qua các sở giao dịch, các chi nhánh nhỏ và các phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh. Mặc dù là Ngân hàng mới được chuyển đổi sang mô hình Ngân hàng TMCP đô thị nhưng SHB luôn năng động trong tiếp cận khách hàng và đa dạng hóa kênh phân phối. Kể từ khi thành lập, SHB không ngừng mở rộng mạng lưới kênh phân phối đa năng nhưng vẫn có thể cung cấp cho khách hàng các sản phẩm chuyên biệt. Hiện nay, mạng lưới kinh doanh của SHB đã phát triển ở các thành phố lớn trên cả nước bao gồm hội sở chính, hơn 30 chi nhánh và phòng giao dịch. Cùng với sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội, các Chi nhánh và phòng giao dịch của nó cũng song song được ra đời phù hợp với xu hướng phát triển chung của hệ thống NHTM trong cả nước. Chi nhánh Hà Nội đã được thành lập theo quyết định số 1098/QĐ-NHNN ngày 02/06/2006 và bắt đầu chính thức đi vào hoạt động từ ngày 10/10/2006, Chi nhánh hiện tại có địa chỉ ở số 86 Bà Triệu, quận Hoàn Kiếm, TP.Hà Nội. Trải qua hơn 3 năm hoạt động cùng sự thuận lợi của địa bàn làm việc, Chi nhánh đã không ngừng tạo được uy tín lớn đối với các nhà đầu tư, người gửi tiền, lợi nhuận hàng năm cao, số lượng phòng giao dịch ngày càng tăng, số lượng nhân sự tính đến ngày 31/12/2009 là 183 người trẻ, năng động và có trình độ nghiệp vụ cao, thu nhập bình quân đầu người/tháng là 8.3 triệu đồng/tháng. Trong những năm tới, Chi nhánh sẽ mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh một cách vững chắc, an toàn, bền vững về tài chính, áp dụng công nghệ thông tin hiện đại, cung cấp các dịch vụ và tiện ích thuận lợi, đa dạng và thông thoáng đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các tầng lớp dân cư ở đô thị, nâng cao và duy trì khả năng sinh lời, phát triển và bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và thích ứng nhanh chóng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với kế hoạch phát triển hoạt động kinh doanh lấy công nghệ thông tin làm nền tảng cho việc phát triển và giới thiệu các sản phẩm và dịch vụ Ngân hàng hiện đại, cải tổ cơ cấu tổ chức và điều hành kinh doanh, tiến hành tập trung hoá quản trị rủi ro, quản lý nguồn vốn và xử lý nghiệp vụ theo các thông lệ quốc tế nhằm tăng hiệu quả hoạt động. 2.1.2. Mô hình tổ chức và chức năng Biểu đồ 1: Mô hình tổ chức của Chi nhánh Ban giám đốc Phòng hành chính quản trị Phòng kế toán tài chính Phòng tín dụng và tài trợ thương mại Phòng giao dịch 2.1.2.1. Ban giám đốc +) Đưa ra quyết định cuối cùng trong các hồ sơ vay vốn, dự án đầu tư,... +) Quản lý hoạt động chung của Chi nhánh 2.1.2.2. Phòng hành chính quản trị +) Công tác lễ tân, phục vụ +) Quản lý hành chính, văn thư, con dấu +) Quản lý, mua sắm tài sản cố định và công cụ, dụng cụ của Ngân hàng +) Thực hiện công tác bảo vệ và an ninh +) Thực hiện các công việc hành chính quản trị khác theo yêu cầu của ban lãnh đạo 2.1.2.3. Phòng Kế toán tài chính *) Kế hoạch xây dựng và kiểm tra chế độ báo cáo tài chính kế toán *) Kế toán quản trị, kế toán tổng hợp *) Lập báo cáo chi tiết hàng kỳ về báo cáo tài chính *) Thực hiện công tác hậu kiểm chứng từ kế toán 2.1.2.4. Phòng dịch vụ khách hàng +) Trực tiếp giám sát các giao dịch thanh toán liên quan đến các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng 2.1.2.5. Phòng tín dụng và tài trợ thương mại +) Thẩm định các hồ sơ, dự án vay vốn, đầu tư theo yêu cầu của ban lãnh đạo, của các cấp có thẩm quyền +) Quản lý các hoạt động liên doanh liên kết của hội sở về sản phẩm tín dụng +) Quản lý và phát triển sản phẩm tín dụng +) Tiếp thị và mở rộng thị phần của Ngân hàng thông qua các sản phẩm và dịch vụ cung cấp 2.1.2.6. Phòng giao dịch Hiện nay Chi nhánh có 20 phòng giao dịch. Phòng giao dịch là đơn vị hạch toán và có con dấu riêng, được phép thực hiện một phần các nội dung hoạt động của sở giao dịch, chi nhánh theo sự ủy quyền của giám đốc sở giao dịch, chi nhánh. Phòng giao dịch không có bảng cân đối tài khoản riêng, mọi hoạt động, giao dịch của phòng giao dịch được bắt đầu và kết thúc trong ngày và được phản ánh đầy đủ về sở giao dịch, chi nhánh để hạch toán. 2.1.3. Đặc điểm kinh doanh 2.1.3.1. Ngành nghề kinh doanh chính Hoạt động kinh doanh chính của Chi nhánh: huy động vốn, tiếp nhận vốn trong nước; cho vay, hùn vốn liên doanh, dịch vụ thanh toán, huy động vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn của tổ chức dân cư dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn, chứng chỉ tiền gửi, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác, cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác, kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, thanh toán quốc tế,…. 2.1.3.2. Sản phẩm dịch vụ 2.1.3.2.1. Sản phẩm tiền gửi -) Tiền gửi thanh toán cá nhân và doanh nghiệp: Là loại tiền gửi được hưởng lãi suất không kỳ hạn được sử dụng để thực hiện các giao dịch thanh toán qua Ngân hàng, bao gồm các loại tiền gửi bằng VNĐ, USD, EUR,… -) Tiền gửi có kỳ hạn: Được sử dụng chủ yếu với mục đích hưởng lãi căn cứ vào kỳ hạn gửi. -) Tiền gửi không kỳ hạn: Được sử dụng với mục đích gửi tiền hoặc rút tiền mặt bất cứ lúc nào hoặc nhận tiền chuyển khoản từ nơi khác chuyển đến. -) Tiết kiệm dự thưởng: Tùy vào điều kiện hoạt động và từng thời điểm mà áp dụng hình thức tiết kiệm dự thưởng. -) Các chứng chỉ tiền gửi có liên quan: là các loại hình tiết kiệm khác mà Ngân hàng cung cấp tạo điều kiện tiện ích nhất cho khách hàng. 2.1.3.2.2. Sản phẩm cho vay -) Cho vay sản xuất kinh doanh cá nhân và doanh nghiệp: là tài trợ vốn cho khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ. -) Cho vay đầu tư -) Cho vay tiêu dùng: tài trợ vốn cho khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng. -) Cho vay mua bất động sản: nhằm bổ sung cho khách hàng phần vốn thiếu hụt trong xây dựng sửa chữa nhà cửa, vật kiến trúc, thanh toán tiền mua bất động sản. -) Cho vay du học: là tài trợ vốn cho cá nhân tổ chức để cho một hay nhiều cá nhân khác có nhu cầu du học tại chỗ hoặc ở nước ngoài. -) Cho vay sổ tiết kiệm, giấy tờ có giá do Ngân hàng phát hành nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng hợp pháp. -) Cho vay phát triển kinh tế nông nghiệp: tài trợ cho khách hàng ở khu vực nông thôn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất nông nghiệp, các ngành nghề kinh doanh hàng hóa và dịch vụ nông nghiệp. -) Cho vay thấu chi: nhằm bổ sung phần vốn thiếu hụt khi tài khoản của khách hàng mở tại Ngân hàng không đủ số dư cần thiết để thanh toán. -) Cho vay cán bộ công nhân viên dưới hình thức vay tín chấp nhằm phục vụ sinh hoạt tiêu dùng trên cơ sở nguồn thu nợ từ tiền lương, trợ cấp và các khoản thu nhập hợp pháp khác của cán bộ công nhân viên. 2.1.3.2.3. Dịch vụ chuyển tiền - Chuyển tiền trong nước: Thực hiện dịch vụ chuyển và nhận tiền theo yêu cầu của khách hàng tại các tỉnh thành trên toàn lãnh thổ Việt Nam bao gồm chuyển tiền trong cùng hệ thống, ngoài hệ thống và Ngân hàng liên kết dịch vụ. - Chuyển tiền ra nước ngoài: Thực hiện các dịch vụ nhằm hỗ trợ khách hàng chuyển tiền ngoại tệ ra nước ngoài với mục đích công tác thanh toán tiền hàng, du học,… - Chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam: nhận tiền chuyển về của khách hàng đang sinh sống, làm việc ở nước ngoài cho người thân thông qua các công ty kiều hối, công ty chuyển tiền, hoặc trực tiếp vào tài khoản ngoại tệ của Ngân hàng. 2.1.3.2.4. Sản phẩm bảo lãnh Là việc Ngân hàng cam kết thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng với nhiều loại hình sau: - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Đảm bảo khả năng và kế hoạch thực hiện hợp đồng của khách hàng nếu hợp đồng được ký kết. - Bảo lãnh dự thầu: Ngân hàng cam kết bảo lãnh cho doanh nghiệp đang chuẩn bị tham gia vào đợt đấu thầu, cam kết thực hiện nghĩa vụ của khách hàng trong việc tham gia trong đấu thầu các dự án, giúp cho doanh nghiệp có đủ điều kiện và có uy tín lớn khi tham gia vào một giao dịch đấu thầu mà việc phải có bảo lãnh của Ngân hàng là bắt buộc theo yêu cầu của chủ thầu. - Bảo lãnh thanh toán: Bảo lãnh với bên thứ ba về việc cam kết sẽ thanh toán cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn. - Bảo lãnh nộp thuế nhập khẩu: Ngân hàng cam kết với cơ quan thu thuế (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế thay cho khách hàng không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu cho cơ quan thu thuế trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo chính thức của cơ quan thu thuế về số thuế phải nộp. - Bảo lãnh hoàn tạm ứng: Cam kết thanh toán phần ứng trước khách hàng đã nhận được trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hợp đồng ký kết. - Ngoài ra Chi nhánh còn tiến hành thực hiện bảo lãnh quốc tế: thư tín dụng dự phòng và thư bảo lãnh, Ngân hàng cam kết với đối tác nước ngoài của doanh nghiệp về việc thực hiện hợp đồng, dự thầu, thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ,… trong trường hợp doanh nghiệp vi phạm các nghĩa vụ thỏa thuận. 2.1.3.2.5. Dịch vụ thẻ Sản phẩm thẻ hiện tại là Thẻ ghi nợ nội địa có thấu chi. Dự kiến trong thời gian tới SHB sẽ liên kết với Vietcombank triển khai thực hiện khai thác dịch vụ thẻ ATM. 2.1.3.2.6. Dịch vụ thanh toán - Dịch vụ thanh toán trong nước - Dịch vụ thanh toán quốc tế - Chuyển tiền bằng điện - Nhờ thu - Tín dụng chứng từ 2.1.3.2.7. Các sản phẩm dịch vụ khác - Kinh doanh ngoại tệ: nhận thu đổi ngoại tệ của các khách hàng vãng lai, mua bán các loại ngoại tệ trên tài khoản của khách hàng khi có yêu cầu. - Chi trả lương cán bộ công nhân viên: nhận tiền mặt hoặc trích từ tài khoản tiền gửi thanh toán của tổ chức kinh tế để thanh toán tiền lương cho cán bộ, công nhân viên theo thời gian nhất định hàng tháng. - Dịch vụ Internet banking / Mobile banking: Cung cấp dịch vụ, thông tin của khách hàng, tài khoản của khách hàng và các loại thông tin liên quan cho khách hàng thông qua hệ thống Internet và điện thoại. - Dịch vụ ngân quỹ: là thực hiện việc kiểm đếm các loại tiền cho khách hàng, lưu giữ hộ khách hàng, kiểm định và cất trữ các loại tài sản, các loại giấy tờ có giá, thu đổi tiền. - Thu chi hộ tiền bán hàng: Thay mặt khách hàng làm nhiệm vụ thu nhận, kiểm đếm, phân loại, vận chuyển,…và báo có vào tài khoản hoặc chi tiền thanh toán cho đối tác của khách hàng. - Dịch vụ chuyển đổi ngoại tệ: phục vụ nhu cầu của khách hàng về đa dạng hóa danh mục đầu tư, hạn chế rủi ro cũng như tìm kiếm lợi nhuận thông qua sự biến động của tỷ giá các loại ngoại tệ. - Hỗ trợ du học: tư vấn du học, xác nhận năng lực tài chính, cung cấp tín dụng du học, chuyển tiền ra nước ngoài, tiết kiệm tích lũy giáo dục. - Ngoài ra Chi nhánh còn cung cấp các dịch vụ: tư vấn đầu tư, nhận ủy thác đầu tư, quản lý tài sản, chiết khấu, mua bán chứng tư có giá và các dịch vụ khác của Ngân hàng trong khuôn khổ quy định của NHNN. 2.1.4. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Hà Nội 2.1.4.1. Hoạt động tín dụng Theo công bố của Tổng cục Thống kê, tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam năm 2007 so với năm 2006 là 8,48%-mức cao nhất trong 10 năm qua, là một trong những nền kinh tế tăng trưởng hàng đầu Châu Á và thế giới.Do nền kinh tế tăng trưởng liên tục nên nhu cầu về vốn rất lớn thúc đẩy hệ thống các Ngân hàng trong nước trong giai đoạn vừa qua phát triển khá nóng. Trong bối cảnh biến động của nền kinh tế xã hội, thị trường vốn và thị trường trong nước, Chi nhánh đã không ngừng nâng cao năng lực tái cơ cấu và hoàn thiện bộ máy hoạt động, sửa đổi quy chế và quy trình nghiệp vụ tín dụng nhằm thích ứng với điều kiện từng vùng miền, ngành nghề kinh doanh. Đưa các sản phẩm dịch vụ cho vay hấp dẫn linh hoạt đến nhiều đối tượng khách hàng. Ngoài ra, Chi nhánh luôn kiểm soát chất lượng tín dụng, tập trung đầu tư vốn trên cơ sở thận trọng an toàn. Nhờ đó, hoạt động tín dụng của Chi nhánh đã đạt được sự tăng trưởng và bền vững. Năm 2006, tổng dư nợ của Chi nhánh đạt 164217.184 triệu đồng, năm 2007 đạt 961368.840 triệu đồng, năm 2008 dư nợ đã vượt cả năm 2007 đạt 1004875.062 triệu đồng và năm 2009 dư nợ tăng đột biến đạt 2098510.658 triệu đồng. Bảng 1: Dư nợ tín dụng của Chi nhánh 2006-2009 ĐVT:Triệu đồng Khoản mục Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Tổng dư nợ tín dụng 164217.184 961368.840 485,43% 1004875.06 4,53% 2098510.66 108,83% - TCTD - - - - - - - - KH khác 164217.184 961368.840 485,43% 1004875.06 4,53% 2098510.66 108,83% ( Nguồn: BCTC của chi nhánh năm 2006 , 2007, 2008 và 2009) Biểu đồ 2: Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng của Chi nhánh 2006-2009 ĐVT: Triệu đồng Nhìn vào chỉ tiêu dư nợ c._. khách hàng còn thụ động. Quảng cáo còn hạn chế, bên cạnh đó người dân quen sử dụng phương tiền tiền mặt là chủ yếu nên đối tượng chính của Chi nhánh là cán bộ công nhân viên chức và một số khách hàng truyền thống. - Địa bàn nơi đặt Chi nhánh thuộc khu vực trung tâm của thành phố, tập trung nhiều đầu mối Ngân hàng nên sự cạnh tranh diễn ra rất ác liệt. - Số lượng cán bộ của Chi nhánh còn ít tuy đạt được những phẩm chất tốt nhưng có một bộ phận nhỏ người thiếu kinh nghiệm, chưa được cọ xát nhiều cần được đào tạo thêm. - Công nghệ mặc dù được ứng dụng đầu tư như triển khai lắp đặt các phần mềm cần thiết cho hoạt động của Chi nhánh nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường. 2.3.2.2.2. Nguyên nhân khách quan - Sự tồn tại những vấn đề trong quan hệ kinh tế thương mại của khách hàng, của doanh nghiệp như: gian lận thương mại, trốn thuế, tham ô, khai khống để hưởng thuế giá trị gia tăng là khó tránh khỏi. Họ chủ yếu quan hệ thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt vì vậy làm hạn chế các giao dịch thanh toán qua Ngân hàng. - Điều kiện kinh tế của Việt Nam chưa phát triển, thu nhập dân cư nhìn chung còn thấp, chỉ đủ chi tiêu dùng nên tích lũy chưa nhiều, hơn nữa người Việt có thói quen dùng tiền mặt, để thay đổi thói quen này cần thời gian dài. Trình độ dân trí còn thấp, hiểu biết về hoạt động Ngân hàng còn ít nhất là vùng nông thôn cũng là hạn chế lớn cho hoạt động giao dịch của Ngân hàng. - Công nghệ thông tin chưa phát triển như mong muốn, đặc biệt là đường truyền dữ liệu của các TCTD phụ thuộc vào chất lượng đường truyền của ngành bưu chính viễn thông, Chi nhánh không chủ động được đường truyền. Sự nghẽn mạch hoặc tốc độ truyền chậm thường xuyên xảy ra vì vậy đã tác động gây hạn chế hiệu quả của hoạt động dịch vụ Ngân hàng nhất là dịch vụ thanh toán dịch vụ chuyển tiền điện tử và các quan hệ giao dịch khác trên mạng. - Cơ chế lãi suất thỏa thuận được ban hành tạo điều kiện cho các Ngân hàng chủ động linh hoạt hơn trong áp dụng mức lãi suất huy động và cho vay, tạo điều kiện cho khách hàng có nhiều lựa chọn khi vay vốn Ngân hàng nhưng cũng tạo điều kiện cho Ngân hàng cạnh tranh lôi kéo khách hàng không lành mạnh bằng việc đẩy cao lãi suất huy động và hạ lãi suất cho vay. Nhiều khi lãi suất lên quá cao Chi nhánh không thể cạnh tranh nổi. - Môi trường kinh tế vĩ mô với hai yếu tố cấu thành chủ yếu là môi trường kinh tế và cơ cấu pháp lý chưa phải đã hoàn toàn thuận lợi như yêu cầu đòi hỏi của công tác huy động vốn. Môi trường kinh tế tuy mức ổn định đã được cải thiện khá nhanh chóng nhưng chưa thực sự vững chắc. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN-HÀ NỘI CHI NHÁNH HÀ NỘI Mỗi một nền kinh tế vận hành và phát triển đều phải dựa trên cơ sở các yếu tố sản xuất, bao gồm: lao động - vốn - đất đai ngoài ra còn có công nghệ và quản lý, trong đó vốn là yếu tố cực kỳ quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội. Chính vì sự quan trọng của nguồn vốn tiền tệ đối với sự phát triển kinh tế mà chúng ta đã luôn tìm kiếm những giải pháp hữu hiệu nhằm huy động được nhiều nguồn vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó việc tìm giải pháp để huy động được nhiều vốn nhàn rỗi trong dân chúng của các NHTM vẫn luôn là vấn đề bức xúc và nan giải. Đã có nhiều giải pháp được đưa ra và thực hiện có hiệu quả song chưa phải đã là tất cả. Nhưng điều chúng ta có thể làm được là có được chính sách rõ ràng, hợp lòng dân, tạo điều kiện cho mọi người hiểu rõ và tham gia xây dựng, thực hiện chính sách huy động nguồn vốn cho phát triển kinh tế. Qua việc phân tích và đánh giá về tình hình huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội Chi nhánh Hà Nội cho thấy: cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, Chi nhánh đã thu được những kết quả đáng khích lệ trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng, đặc biệt là công tác huy động vốn trên địa bàn. Đó là kết quả của sự chỉ đạo sát sao của Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội cùng với Ban lãnh đạo, các phòng ban chuyên môn nghiệp vụ đã hết sức cố gắng, để từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp với yêu cầu của khách hàng mà vẫn bảo đảm lợi ích và mục tiêu của Ngân hàng. 3.1. Định hướng hoạt động trong thời gian tới của Chi nhánh 3.1.1. Định hướng trong công tác huy động vốn -) Mở rộng các hình thức huy động vốn, mở rộng nguồn tiền gửi của dân cư, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng và Ngân hàng trong, ngoài nước. -) Tăng thêm chất lượng của nguồn vốn huy động bằng việc tăng cường thu hút các nguồn vốn trung và dài hạn, đặc biệt là các nguồn vốn của dân, các khoản đầu tư của các tổ chức kinh tế nước ngoài. -) Ngoài việc mở rộng quan hệ với nhiều tổ chức kinh tế, Ngân hàng cần chú trọng tăng cường được các mối quan hệ với dân cư đặc biệt là các đơn vị, tổ chức cá nhân là khách hàng truyền thống để thu hút được nhiều vốn nhàn rỗi của dân chúng hơn nữa. 3.1.2. Định hướng trong công tác sử dụng vốn -) Mở rộng các hoạt động tín dụng như kinh doanh bất động sản, thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT, thanh toán qua thẻ tín dụng… -) Tập trung đầu tư vốn cho các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, chú trọng đầu tư cho các tổng công ty thực hiện các chương trình được chính phủ phê duyệt. Tiếp tục đầu tư cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, có đầy đủ hồ sơ pháp lý chuẩn mực, bảo đảm thu hồi vốn vay. -) Tiến hành mở rộng đầu tư cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh với điều kiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả và có đầy đủ hồ sơ pháp lý. 3.1.3. Một số chỉ tiêu cần đạt được trong những năm tới +) Tăng trưởng huy động vốn bình quân: 18-20%/năm +) Tăng trưởng tín dụng bình quân: 18-20%/năm +) Nợ quá hạn: dưới 1% +) Lợi nhuận tăng: tối thiểu 30% so với năm 2009 +) Thu nhập người lao động tăng hơn năm 2009, đáp ứng đầy đủ theo chính sách của nhà nước đối với người lao động. 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Chi nhánh Hà Nội Huy động vốn để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước từ nay đến 2015, nguồn vốn trong nước mang tính chất quyết định còn nguồn vốn ngoài nước lại có ý nghĩa quan trọng. Huy động vốn phải qua nhiều kênh nhưng quan trọng nhất vẫn là nguồn vốn trong dân cư và doanh nghiệp, vốn đầu tư trong nước cơ bản phải dựa vào tiết kiệm và tích lũy, phải coi “tiết kiệm như một quốc sách”. Trong công tác huy động vốn Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội Chi nhánh Hà Nội đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế và mở rộng sản xuất của khu vực. Để giải quyết vốn cho nền kinh tế nói chung, Chi nhánh cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây: 3.2.1. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn 3.2.1.1. Đa dạng hóa các kỳ hạn gửi tiền Hiện nay Chi nhánh chỉ huy động các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng. 12 tháng…thế nhưng khoảng thời gian nhàn rỗi của đồng tiền không khớp với những kỳ hạn huy động của Chi nhánh sẽ không khuyến khích khách hàng gửi tiền. Ví dụ: khách hàng có tiền nhàn rỗi trong 5 tháng nhưng Ngân hàng chỉ có TGTK kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, nếu gửi tiền khách hàng sẽ không nhận được số tiền lãi trong 2 tháng của số tiền đó đồng thời Ngân hàng không tận dụng được tối đa số tiền nhàn rỗi này. Do đó Chi nhánh cần nghiên cứu thêm về kỳ hạn 5 tháng, 10 tháng,…cho tiền gửi tiết kiệm. Bên cạnh đó vấn đề thiếu vốn trung và dài hạn đang là một trong những thách thức to lớn đối với các nhà kinh doanh vì vậy Ngân hàng cần có các hình thức huy động vốn dài hạn từ 5 đến 15 năm. 3.2.1.2. Triển khai các hình thức tiết kiệm mới 3.2.1.2.1. Tiết kiệm gửi góp Đây là hình thức huy động thông qua nguồn vốn mà người có thu nhập ổn định mong muốn đủ tiền để mua sắm các vật dụng cần thiết trong tương lai nhưng trước mắt họ không đủ tiền. Tiết kiệm gửi góp phù hợp cho những đối tượng khách hàng cá nhân có thu nhập ổn định, tích lũy từ nguồn tiền lương hàng tháng. Có hai phương thức cho hình thức tiết kiệm này: +) Mua sắm ngay: Ngân hàng cung ứng đủ tiền cho nhu cầu mua sắm ngay khi người gửi đã ký một số tiền nhất định vào Ngân hàng và cam kết từng định kỳ tiếp theo lần gửi ban đầu ký gửi thêm một khoản tiền nhất định theo một số kỳ hạn đã được thông báo trước. +) Mua sắm thời hạn: Ngân hàng cung ứng đủ tiền cho nhu cầu mua sắm khi người gửi đã ký một số tiền nhất định ban đầu và trong những định kỳ tiếp theo lần gửi ban đầu với một số kỳ hạn nhất định. 3.2.1.2.2. Tiết kiệm dưỡng lão Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một dịch vụ quản lý tiền tích lũy cá nhân để đảm bảo nguồn sinh sống khi về già hoặc mất khả năng lao động. Có thể coi nó như sản phẩm lai tạp giữa bảo hiểm và Ngân hàng. Ưu điểm của hình thức này là: +) Người gửi được toàn quyền quyết định về số tiền gửi, thời điểm gửi mỗi lần tùy thuộc vào khả năng tích lũy thực có còn Ngân hàng sẽ khai thác được lợi thế về mặt tài chính từ một sản phẩm bảo hiểm truyền thống. +) Phần vốn gốc tích lũy không bị mất đi nếu người thụ hưởng chết trước thời hạn mà họ sẽ được thừa kế toàn bộ theo pháp luật. 3.2.1.2.3. Tiết kiệm học đường Đây là hình thức gửi tiền tiết kiệm trung dài hạn, thể hiện sự quan tâm của các bậc ông bà, cha mẹ đối với tương lai của con cháu mình thông qua chuẩn bị nguồn tài chính vững vàng dành cho sự nghiệp “trồng người”. Mục đích chính là nhằm giáo dục ý thức tiết kiệm cho học sinh trên cơ sở kết dư tiết kiệm đáp ứng một phần chi tiêu cho nhu cầu học tập và làm tiền đề khi vào đại học. Tuy nhiên khi thực hiện Ngân hàng cần chú ý tới thời gian và lãi suất vì nó còn phụ thuộc vào từng lứa tuổi học sinh. 3.2.1.2.4. Tiết kiệm xây dựng nhà ở Khi thực hiện hình thức này phải chú ý điều chỉnh về mặt thời gian và mức cho vay. Khi khách hàng gửi tiền liên tục từ 5 năm trở lên thì được vay để đầu tư xây dựng hoặc mua nhà ở (nếu số tiền đó và lãi tích lũy đến thời điểm đó cộng với các nguồn tự có khác đạt 50% giá trị của ngôi nhà). Sau khi thẩm định chặt chẽ Ngân hàng sẽ cho vay với lãi suất được tính toán trên cơ sở lãi suất tiền gửi cộng với phí quản lý. Mỗi loại hình đều có hình thức khuyến khích hấp dẫn riêng: Lãi suất có thể cao hơn bình thường một chút, ưu tiên xử lý rút vốn trước thời hạn do nhu cầu thực tế, cho vay thêm vốn với lãi suất ưu đãi. Đặc biệt chú trọng thực hiện, phát triển và mở rộng các hình thức huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá đồng thời đẩy mạnh hoạt động sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn này theo các dự án đầu tư. 3.2.2. Đẩy mạnh công tác Marketing thu hút khách hàng gửi tiền và thực hiện tốt chính sách khách hàng Nhiệm vụ của hoạt động Ngân hàng là thu hút được một lượng lớn khách hàng thuộc mọi tầng lớp với thu nhập, tâm lý và sở thích khác nhau, ngoài ra sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng diễn ra gay gắt nên việc ứng dụng các nguyên tắc Marketing năng động trong quan hệ khách hàng rất quan trọng nhằm cân bằng 2 lợi ích: lợi nhuận thu được và sự hài lòng tối đa của khách hàng với phương châm “khách hàng là thượng đế”. - Đẩy mạnh tuyên truyền, quảng cáo rộng rãi về chức năng, nhiệm vụ, quy mô hoạt động và các dịch vụ của Chi nhánh thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, áp phích, tờ rơi, sách giới thiệu,… - Khai thác hết các mối quan hệ, đặc biệt là quan hệ xã hội, các hình thức tiếp cận và thuyết phục khách hàng để đặt kế hoạch cho mình như: lên kế hoạch cụ thể, chi tiết để tiếp xúc khách hàng mới, củng cố khách hàng truyền thống có lượng tiền gửi lớn để ổn định và duy trì nguồn tiền gửi với lãi suất rẻ, tăng cường tiếp cận các tổ chức có nguồn tiền gửi khác nhằm tránh rủi ro, lúng túng khi có khách hàng đến rút tiền,… - Tổ chức bộ phận chăm sóc khách hàng, tạo cho khách hàng cảm giác được tôn trọng mỗi khi đến Chi nhánh. Xây dựng văn hóa giao dịch riêng cho Chi nhánh như: phong cách, thái độ văn minh, lịch sự của các giao dịch viên, trang phục mang đậm nét riêng của Ngân hàng. - Công bố thông tin tài chính để khách hàng tiếp cận, nắm bắt đưa lại cảm giác an toàn và tin cậy cho khách hàng qua các con số. Mặc dù Chi nhánh đã quan tâm đến hoạt động này nhưng chưa đạt hiệu quả như mong muốn do phạm vi quảng cáo chưa được mở rộng, hình thức còn hạn chế vì vậy trong những năm tới Chi nhánh cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động này để thu hút khách hàng gửi tiền. 3.2.3. Xây dựng điểm giao dịch thuận lợi, cung ứng tốt nhiều dịch vụ Đây là một trong những yếu tố cơ bản thu hút khách hàng trong hoạt động kinh doanh giúp khách hàng tiết kiệm được các chi phí đi lại, nhất là thời gian giao dịch. Ngân hàng phải đưa ra các dịch vụ tốt nhất như: dịch vụ ủy thác, tư vấn và bảo quản an toàn vật có giá, các dịch vụ thông tin, chuyển tiền theo yêu cầu nhanh chóng, chính xác. Do đó Chi nhánh phải tích cực triển khai thành lập thêm các phòng giao dịch phù hợp với nhu cầu phát triển và hoạt động Ngân hàng. Chú trọng đến các địa bàn có nhiều tiềm năng tạo điều kiện tăng cường huy động vốn và cung cấp dịch vụ thanh toán. 3.2.4. Tạo lập uy tín cho Chi nhánh Là một Chi nhánh của Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội, Chi nhánh đã có một chỗ tựa vững chắc cho hoạt động kinh doanh nhưng Chi nhánh cũng cần tạo lập được uy tín, lòng tin từ dân chúng của riêng mình. Đây là một trong những vấn đề sống còn cho sự tồn tại của Ngân hàng. Người gửi tiền có quyền lựa chọn nơi gửi tiền mà họ cho là an toàn nhất, cán bộ Ngân hàng nhiệt tình, sẵn sàng hướng dẫn cho họ những hình thức tiết kiệm có lợi nhất. Trong khi thị trường vốn dài hạn chưa phát triển thì việc cung cấp vốn dài hạn cho nền kinh tế đều được thực hiện qua Ngân hàng vì vậy thông qua các hoạt động tạo vốn, mở rộng đầu tư, cho vay, khai thác và sử dụng vốn có hiệu quả để nâng cao uy tín của Ngân hàng. Đồng thời Ngân hàng cần thường xuyên tăng cường kiểm tra, thanh tra kịp thời để biểu dương những người tốt, việc tốt và xử lý các hành vi vi phạm gây tổn hại đến uy tín của Ngân hàng. 3.2.5. Thực hiện chiến lược cạnh tranh huy động vốn năng động và hiệu quả Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển thì các NHTM với các Chi nhánh của mình phải: - Tổ chức nghiên cứu đối thủ cạnh tranh về sản phẩm, lãi suất, mạng lưới, hoạt động quảng cáo,…để điều chỉnh và đưa ra các biện pháp cần thiết, kịp thời nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. - Tạo được sự khác biệt của Chi nhánh, đổi mới phong cách giao dịch. 3.2.6. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Để thực hiện nhiệm vụ là trung gian tài chính trong nền kinh tế thị trường, các NHTM tổ chức các nghiệp vụ chuyên môn của mình với các phần cơ bản là huy động vốn và sử dụng vốn. Huy động và sử dụng vốn là hai vấn đề có mối liên quan mật thiết với nhau, hai hoạt động không tách rời tại bất kỳ một Ngân hàng nào. Ngân hàng không chỉ huy động thật nhiều vốn mà còn phải tìm nơi đầu tư và cho vay có hiệu quả. Nếu Ngân hàng chỉ chú trọng tới huy động vốn mà không cho vay hoặc đầu tư thì sẽ bị ứ đọng vốn làm giảm lợi nhuận, ngược lại không huy động đủ vốn để cho vay thì sẽ mất cơ hội mở rộng khách hàng, làm giảm uy tín trên thị trường. Việc tăng trưởng nguồn vốn là điều kiện trước nhất để mở rộng đầu tư tín dụng, để chủ động đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Sử dụng vốn là hoạt động nối tiếp quyết định hiệu quả của hoạt động huy động vốn, quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Do đó huy động vốn tăng cường cần kết hợp sử dụng vốn hiệu quả đồng thời việc nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của công tác huy động vốn. Về mặt kinh tế, sử dụng vốn có hiệu quả đảm bảo cho Ngân hàng có khả năng trang trải chi phí cho những nguồn huy động, mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Ngoài ra còn tạo cơ sở cho Ngân hàng áp dụng các biện pháp kinh tế trong công tác huy động vốn sau này. Đẩy mạnh hoạt động tín dụng là một biện pháp quan trọng để nuôi dưỡng nguồn vốn cho tương lai. Hiện nay Chi nhánh mới chỉ thực hiện các nghiệp vụ truyền thống như: cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn,…chưa thực hiện các nghiệp vụ khác như: cho vay ứng trước, cho thuê tài chính,…Vì vậy việc mở rộng các nghiệp vụ này là cần thiết để thu hút khách hàng và tăng dư nợ. Mặt khác dư nợ của Chi nhánh chủ yếu là dư nợ TCKT, cá nhân, tỷ trọng cho vay bằng vốn tài trợ, ủy thác đầu tư hầu như không có. Nếu Chi nhánh tăng trưởng dư nợ theo hình thức này thì dư nợ của Chi nhánh sẽ tăng lên một cách đáng kể. Muốn vậy Chi nhánh cần thường xuyên chọn lọc, phân loại khách hàng để từ đó có chính sách, cơ chế tín dụng phù hợp với từng đối tượng khách hàng. 3.2.7. Thực hiện bảo hiểm tiền gửi Đây là giải pháp nhằm đảm bảo an toàn cho người gửi tiền, bất kỳ một thông tin không chính xác nào gây bất lợi cho Ngân hàng đều khiến người gửi tiền ồ ạt rút tiền ra, hành động này khiến Ngân hàng gặp khó khăn trong khâu thanh toán dễ dẫn đến phá sản, như một hiệu ứng Domino, các Ngân hàng khác cũng sẽ đồng loạt bị ảnh hưởng, nền kinh tế không chỉ trong nước mà ngoài nước trở nên khủng hoảng trầm trọng, thực tế đã có nhiều bài học chứng minh. Do đó Ngân hàng sử dụng bảo hiểm tiền gửi để khách hàng yên tâm. 3.2.8. Vận dụng chính sách lãi suất hợp lý Trong tình hình hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào hoạt động và phát triển tương đối mạnh đó sẽ là trở ngại lớn đối với Ngân hàng, nguồn vốn huy động có thể chảy sang thị trường chứng khoán, lãi suất Ngân hàng có thể sẽ bị ép phải nâng giá lên khi thị trường chứng khoán đem lại nguồn thu nhập nhanh trong thời gian ngắn cho nhà đầu tư. Điều này đòi hỏi Ngân hàng phải nhanh nhạy trong việc nắm bắt xu hướng của thị trường để có chính sách lãi suất thích hợp. Bên cạnh đó nền kinh tế mở cửa cho phép các Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài xâm nhập vào trong nước tất yếu các NHTM trong nước sẽ chịu sự cạnh tranh mạnh hơn trong huy động vốn, cho vay khách hàng và “lãi suất” là lời giải cho bài toán khó này. Một lãi suất cao bao giờ cũng hấp dẫn khách hàng, nó giúp phân phối lại thu nhập trong dân cư ở một chừng mực nào đó vì người được hưởng lợi của chính sách này là số đông dân cư, những người có nhiều tiền nhàn rỗi trong xã hội. Tuy nhiên mọi việc đều có hệ quả của nó, tăng lãi suất huy động đồng nghĩa với việc Ngân hàng phải đối mặt với tăng chi phí đầu vào, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh, đến lãi suất cho vay. Vì thế mức lãi suất đưa ra là tùy theo mức độ cần thiết của nguồn vốn, tùy từng thời điểm, từng khu vực, phù hợp với khung lãi suất do NHNN quy định. 3.2.9. Nâng cao trình độ cán bộ Ngân hàng Con người luôn là yếu tố quan trọng nhất trong sự thành công của mọi hoạt động kinh doanh. Đối với Ngân hàng đội ngũ nhân viên là bộ não cho mọi thành công của họ vì vậy trình độ nghiệp vụ của nhân viên phải thường xuyên được nâng cao để giải thích cho khách hàng một cách tường tận, rõ ràng về các dịch vụ tạo cảm giác yên tâm nơi khách hàng khi giao dịch. Để thực hiện Ngân hàng cần tuyển dụng, đào tạo chuyên môn, chọn đúng người đúng việc, có đủ năng lực để hoàn thành nhiệm vụ, đưa các cán bộ có năng lực vào vị trí trọng yếu, nắm giữ các cương vị chủ chốt và có chế độ đãi ngộ thích hợp. Hơn nữa một cán bộ Ngân hàng hiện đại không chỉ cần thành thạo về nghiệp vụ mà còn phải hiểu biết về nhiều lĩnh vực, là chuyên gia tư vấn, marketing,…So với trước đây thì trình độ và nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ Ngân hàng được coi là phù hợp nhưng yêu cầu phát triển hiện nay thì đòi hỏi nhiều hơn nữa về trình độ của cán bộ Ngân hàng nhất là những nhân viên trẻ. Vì vậy Chi nhánh cần tiếp tục đẩy mạnh nâng cao chuyên môn cho nhân viên của mình để đáp ứng yêu cầu công việc ngày càng phức tạp. Ngoài ra nhân viên trực tiếp huy động vốn từ dân cư và các TCKT phải được đào tạo riêng để khi giao dịch họ có thể giải quyết được ngay những yêu cầu của khách hàng đồng thời Chi nhánh cần chú trọng vào các hoạt động đoàn thể tạo không khí thoải mái cho nhân viên sau giờ làm việc. 3.2.10. Phát triển công nghệ Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược Marketing Ngân hàng. Đối với người gửi tiền thì mục đích của họ là đồng vốn của mình sinh lãi và an toàn sau một thời gian đầu tư. Do vậy mà vị trí và mức độ khang trang của Chi nhánh tạo ra ấn tượng đầu tiên của khách hàng về nơi mình gửi tiền nhất là với khách hàng lần đầu tiên tham gia giao dịch với Ngân hàng. Ngoài ra một yếu tố quan trọng khác là hệ thống thiết bị máy móc phục vụ cho hoạt động của Chi nhánh nhằm tăng năng suất và rút ngắn thời gian thực hiện công việc. Phát triển hệ thống công nghệ thông tin phù hợp với tốc độ phát triển của Chi nhánh. Lựa chọn đúng công nghệ để ứng dụng trong hoạt động quản lý, hoạt động kinh doanh có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển các hoạt động dịch vụ, tăng quy mô vốn một cách vững chắc, quyết định hiệu quả vốn đầu tư. Trong thời gian qua Chi nhánh đã đầu tư nhiều công nghệ mới nhưng trong thời gian tới Chi nhánh cần đầu tư hơn nữa như nhập thêm trang thiết bị hiện đại, nâng cấp các chương trình phần mềm, xác lập hệ thống thông tin nội bộ, hoàn chỉnh đồng bộ để phục vụ kinh doanh, nâng cao độ chính xác, an toàn, hiệu quả, thuận lợi, cung cấp thông tin kịp thời giúp cho công tác chỉ đạo điều hành hoạt động của Chi nhánh một cách tốt nhất và để thu hút khách hàng sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng đặc biệt là dịch vụ thanh toán và chuyển tiền. Tóm lại: Các giải pháp nêu trên có mối quan hệ với nhau, việc áp dụng các giải pháp này có thể tạo nên ảnh hưởng đến giải pháp khác, ví dụ như việc thực hiện bảo hiểm tiền gửi nâng cao được uy tín của Ngân hàng,…vì vậy cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng thời kỳ để lựa chọn các giải pháp thích hợp và đạt hiệu quả mong muốn. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ Trong điều kiện nền kinh tế thế giới hiện nay, vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước vô cùng quan trọng. Trải qua nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế và tiền tệ, nhà nước phải có các giải pháp thích hợp để điều hành kinh tế nói chung và hệ thống Ngân hàng nói riêng. Đó là: - Tạo môi trường pháp lý đồng bộ và ổn định: Nhà nước là cơ quan chức năng quyền lực thông qua việc xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật, phải xây dựng được môi trường pháp lý đồng bộ ổn định nhằm bảo vệ quyền lợi của nhân dân nói chung và người gửi tiền vào Ngân hàng nói riêng. - Tạo môi trường kinh tế chính trị-xã hội ổn định: Nhà nước cần khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng để các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, ổn định vĩ mô nền kinh tế bởi nó là tiền đề cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung cũng như công tác huy động nói riêng. Đối với nước ta, sự ổn định kinh tế vĩ mô trước hết là kiềm chế lạm phát và ngăn chặn giảm phát triển tiền tệ, ổn định nền tài chính quốc gia. - Môi trường xã hội: Là một nước chậm phát triển, Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề “tiết kiệm”, coi nó là một quốc sách do đó nhà nước cần đưa ra các biện pháp để tăng tích lũy, thực hành tiết kiệm, ban hành xuống mọi tầng lớp dân cư và doanh nghiệp cùng thực hiện. Ở nước ta hiện nay, việc huy động vốn chịu ảnh hưởng bởi yếu tố tâm lý người dân đó là thói quen giữ tiền ở nhà an toàn hơn và có thể sử dụng bất cứ lúc nào. Như vậy tầm hiểu biết của dân về Ngân hàng còn hạn chế đặc biệt là vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số. Nhà nước cần tích cực trong công tác tuyên truyền, đưa dần các dịch vụ hiện đại xuống tận nơi để giúp dân hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của Ngân hàng. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước - Mở rộng quan hệ đối ngoại với các tổ chức tài chính nước ngoài, tranh thủ sự giúp đỡ và tài trợ các nguồn vốn có lãi suất thấp, mở rộng quan hệ tín dụng. - Cải tiến chính sách lãi suất linh hoạt và hợp lý, không nên để các NHTM tự do hạ lãi suất. - Hiện đại hóa công nghệ huy động vốn: Công nghệ Ngân hàng không chỉ là các máy móc, thẻ thanh toán, máy rút tiền tự động mà còn là cơ chế thanh toán trong nội bộ Ngân hàng hay sử dụng tin học để quản lý chặt chẽ các nghiệp vụ. - Lành mạnh hóa hệ thống Ngân hàng, đề cao trách nhiệm của các NHTM, nâng cao chất lượng quản lý, thiết lập cơ chế phòng ngừa rủi ro, thường xuyên kiểm tra, giám sát các hoạt động của NHTM đảm bảo sự an toàn cho hệ thống Ngân hàng. - Kiềm chế đẩy lùi hiện tượng đôla hóa, tạo lòng tin cho dân chúng và các doanh nghiệp vào tiền VNĐ. 3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội +) Cần tạo điều kiện để Chi nhánh chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh theo hướng nâng cao quyền tự chủ, phân rõ trách nhiệm, phù hợp với quy mô, đặc điểm của Chi nhánh, hỗ trợ vốn đầu tư cho các dự án lớn…nhằm phát huy vai trò của Chi nhánh. +) Trang bị thêm nhiều trang thiết bị hiện đại, các phần mềm ứng dụng tiên tiến cho Chi nhánh nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. +) Tổ chức kịp thời giải quyết các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động kinh doanh của Chi nhánh như: phê duyệt mức cho vay vượt quyền phán quyết… +) Xây dựng chính sách lãi suất hợp lý, theo cơ chế cạnh tranh linh hoạt trên cơ sở Trung ương quy định lãi suất điều hòa vốn cho Chi nhánh được quyền quy định lãi suất trên địa bàn. +) Có chiến lược dài hạn hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ đối với cán bộ nhân viên nhất là các cán bộ ở Chi nhánh, phòng giao dịch ở các cụm đông dân cư cho tương xứng với nhiệm vụ được giao, để sớm hội nhập với các Ngân hàng khu vực và thế giới. Bởi thực tế đã chứng minh hiệu quả sức cạnh tranh của một Ngân hàng luôn là bản chất tiềm tàng trong mỗi cán bộ nhân viên của Ngân hàng đó nên đi đôi với việc sắp xếp, bố trí lao động hợp lý cần mạnh dạn giao việc cho cán bộ trẻ, có năng lực và trình độ, có phẩm chất tốt để rèn luyện và thử thách. Từ đó tạo cơ sở đề bạt vào các cương vị nặng nề hơn trong tương lai. +) Thường xuyên cử ban kiểm tra, kiểm toán nội bộ Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội xuống kiểm tra, giúp Chi nhánh phát hiện sai sót trong nghiệp vụ để sửa chữa uốn nắn kịp thời nhằm đưa hoạt động đi vào nề nếp, tránh làm ảnh hưởng đến doanh thu chung và uy tín của Ngân hàng. +) Phối hợp chặt chẽ với NHNN để tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin rủi ro, thông tin tín dụng nhằm ngày càng nâng cao chất lượng tín dụng, giúp các Chi nhánh phòng ngừa rủi ro tốt nhất. 3.3.4. Kiến nghị với Chi nhánh Hà Nội - Tăng cường công tác thanh tra và xử lý nghiêm minh các cá nhân và tổ chức vi phạm cơ chế tín dụng, việc thanh tra phải được thực hiện thường xuyên để kịp thời phát hiện sai phạm, qua đó kịp thời xử lý tránh ảnh hưởng đến hoạt động và uy tín của toàn hệ thống. - Thông qua các cuộc hội thảo với khách hàng, Chi nhánh cần tranh thủ thăm dò ý kiến của khách hàng để đưa ra biện pháp phù hợp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ Ngân hàng, từ đó nâng cao hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Đồng thời kịp thời phát hiện và đình chỉ giao dịch với những khách hàng kinh doanh không có hiệu quả hoặc giảm ưu đãi đối với họ. - Chú trọng hơn nữa tới các hoạt động đầu tư, kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế bởi hiện nay các hoạt động này của Chi nhánh còn rất hạn chế và không được quan tâm phát triển. KẾT LUẬN Trong bối cảnh nền kinh tế đang từng bước chuyển nhanh sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hoạt động của NHTM nói chung có nhiều vấn đề mới cần được nghiên cứu và triển khai cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn và thông lệ quốc tế. Việc nghiên cứu, áp dụng các giải pháp về sử dụng vốn là vấn đề quan trọng và cấp thiết nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế đảm bảo an toàn về vốn tạo điều kiện cho Chi nhánh tồn tại và phát triển trong môi trường kinh tế thời mở cửa. Để có vốn sử dụng thì huy động vốn là biện pháp rất quan trọng, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó quy mô và cấu trúc nguồn vốn là cơ sở để đảm bảo mục tiêu an toàn và sinh lời của Ngân hàng. Vì vậy đòi hỏi các NHTM nói riêng và hệ thống Ngân hàng ở nước ta nói chung phải không ngừng đổi mới về hoạt động, đưa ra các giải pháp thích hợp nhằm phát huy tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Ngoài ra sự hỗ trợ từ Nhà nước là điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển của Ngân hàng. Đối với Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội Chi nhánh Hà Nội, trong thời gian qua đã có những kết quả đáng chú ý về huy động vốn mặc dù vẫn có một số mặt chưa tốt như cân đối giữa nội tệ và ngoại tệ, ngắn hạn và trung dài hạn làm ảnh hưởng đến thành tích chung của toàn Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội. Do đó toàn thể cán bộ nhân viên của Chi nhánh phải nỗ lực phấn đấu không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ về mọi mặt, ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động kinh doanh và dịch vụ Ngân hàng nhằm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được nhà nước giao phó. Và bài chuyên đề của em đã kết hợp nghiên cứu lý luận gắn liền với thực tiễn, phân tích, so sánh,…để làm rõ các nội dung cơ bản sau đây: +) Đã hệ thống những vấn đề có tính chất lý luận về vốn và khả năng huy động vốn của NHTM. +) Khái quát tình hình kinh doanh của Chi nhánh Hà Nội trên cơ sở phân tích thực trạng công tác huy động vốn, chuyên đề đã rút ra một số tồn tại và nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn của Chi nhánh. +) Đưa ra các giải pháp và kiến nghị với ngành cũng như với Nhà nước. Hoàn thành chuyên đề này em hy vọng có thể góp một phần nào đó vào việc tìm ra một hướng đi đúng đắn cho hoạt động huy động vốn nói chung và của Chi nhánh nói riêng. Nhưng đây là một đề tài rộng và phức tạp trong khi thời gian nghiên cứu tìm hiểu thực tế ngắn cộng với những hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn nên bài làm của em không tránh khỏi những thiếu sót vì vậy kính mong thầy cô và các cán bộ trong Chi nhánh góp ý để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo, các anh chị trong phòng Kế toán nói riêng và các anh chị trong ban lãnh đạo của Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội Chi nhánh Hà Nội nói chung, đặc biệt là cô giáo TS.Lê Thị Hương Lan, người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ em trong quá trình hoàn thiện chuyên đề này. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình NHTM - PGS.TS.Phan Thị Thu Hà Nhà xuất bản ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội 2. Nghiệp vụ NHTM - GS.TS.Lê văn Tư 3. Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại - David Cox 4. Báo cáo tài chính đã được kiểm toán của Chi nhánh năm 2006, 2007, 2008 và 2009 5. Bản cáo bạch của Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội năm 2008 6. Một số văn bản, tài liệu liên quan khác ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25706.doc
Tài liệu liên quan