Nâng cao hiệu quả kinh doanh của hoạt động Nhập khẩu hoá chất & thiết bị y tế ở Công ty TNHH SELA

CHƯƠNG I Lý LUậN Về HIệU QUả KINH DOANH NHậP KHẩU CủA DOANH NGHIệP I.Sự cần thiết và các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu 1.Khái niệm và các đặc trưng cơ bản của hoạt động nhập khẩu Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài. Nhập khẩu là việc mua hàng hóa của nước ngoài đưa vào một quốc gia

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1218 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh của hoạt động Nhập khẩu hoá chất & thiết bị y tế ở Công ty TNHH SELA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhất định nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống trong nước.Nhưng hoạt động nhập khẩu ở đây có sự khác biệt so với buôn bán trong nước ở chỗ:Chủ thể thực hiện hành vi mua bán trong hoạt động nhập khẩu có quốc tịch khác nhau,và đối tượng mua bán cũng được di chuyển từ quốc gia này đến quốc gia khác. Thị trường nhập khẩu rộng lớn, phức tạp, khó kiểm soát,mua bán qua trung gian chiếm tỷ lệ lớn, đồng tên thanh toán là ngoại tệ mạnh,hàng hóa phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu... Các quốc gia khác nhau phải tuân theo những tập quán ,thông lệ quốc tế cũng như các quy định ở địa phương nơi đưa hàng hóa đến. Nhập khẩu hàng hóa nằm trong khâu phân phối và lưu thông hàng hóa của quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích nối liền sản xuất với tiêu dùng giữa các quốc gia với nhau. Nhờ có nhập khẩu khả năng lựa chọn của người tiêu dùng được tăng lên và có điều kiện để được hưởng mức giá thấp. Việc nhập khẩu tư liệu sản xuất không tạo ra lợi ích trực tiếp mà thông qua ảnh hưởng của nó đến nền sản xuất trong nước. Trên thực tế, việc nhập khẩu này tác động theo hai hướng: -Việc nhập khẩu sản phẩm công nghiệp dẫn đến sự tiết kiệm trong tiêu dùng cho sản xuất tức là tạo khả năng giảm chi phí sản xuất trong nước nhiều hơn nếu người tiêu dùng chỉ mua hàng hóa của người sản xuất trong nước. Hơn nữa việc nhập khẩu sản phẩm công nghiệp còn tạo điều kiện tận dụng được nguồn nguyên liệu trong nước. -Việc nhập khẩu hàng công nghiệp tạo khả năng sản xuất hàng hóa theo những nhu cầu riêng biệt mà điều kiện trong nước không cho phép. Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân ,nhập khẩu làm thay đổi cơ cấu tiêu dùng theo hướng hợp lý nhất, tạo khả năng áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật và thay đổi cơ cấu thu nhập quốc dân.Nó cũng góp phần hình thành nên môi trường cạnh tranh trong nước và buộc các nhà sản xuất trong nước phải xác định cơ cấu sản xuất hợp lý và có hiệu quả nhất. 2. Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh tế trong doanh nghiệp. Hiệu quả là một phạm trù kinh tế, nó xuất hiện và tồn tại từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội chủ nghĩa hiện nay. Hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo một mục đích nhất định. Với những hình thái xã hội khác nhau với các quan hệ sản xuất khác nhau thì bản chất của phạm trù hiệu quả và các yếu tố hợp thành phạm trù này cũng vận động theo những khuynh hướng khác nhau. Trong xã hội tư bản thì gia cấp tư bản nắm quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, do vậy mọi hiệu quả, quyền lợi thu được từ sản xuất kinh doanh, và các quyền lợi khác đều thuộc về các nhà tư bản, mọi hiệu quả, quyền lợi và phúc lợi dành cho người lao động đều là rất nhỏ so với nhà tư bản. Điều này có thể giải thích được việc phấn đấu để có hiệu quả trong kinh doanh của nhà tư bản để đem về nhiều lợi nhuận, quyền lợi cho nhà tư bản chứ không phải đem nhiều lợi ích về cho người lao động và toàn xã hội. Việc tăng chất lượng sản phẩm hàng hoá của nhà tư bản không phải là yếu tố phục vụ cho nhu cầu của toàn xã hội mà là mục đích thu hút được nhiều khách hàng hơn, từ đó có nhiều cơ hội thu hút lợi nhuận cho mình hơn thông qua việc bán được nhiều hàng hoá hơn. ở đây nhà tư bản không cần quan tâm đến các hiệu quả xã hội như việc làm cho người lao động, tình trạng môi trường... Trong XHCN, phạm trù hiệu quả vấn tồn tại nhưng nó được phát triển lên là hiệu quả của toàn xã hội. Nói về mục đích của nền sản xuất XHCN cũng khác so với mục đích của nền sản xuất TBCN. Mục đích của nền sản xuất XHCN là ngày càng đáp ứng đầy đủ, được tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội. Một doanh nghiệp không thể đưa vào sử dụng một công nghệ mới với năng suất cao mà để hàng loạt công nhân trở nên thất nghiệp, một nhà máy không thể chỉ quan tâm kết quả sản xuất mà không quan tâm đến chất thải ô nhiễm môi trường... như vậy đó là một bước phát triển của phạm trù hiệu quả từ xã hội tư bản lên CNXH. Hiệu quả kinh tế có rất nhiều cách hiểu và có rất nhiều định nghĩa khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích kinh doanh của từng doanh nghiệp. Theo nghĩa rộng, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Cụ thể, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh ở doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh với chi phí ít nhất. Bất kỳ một hoạt động nào của con người, cầu một tổ chức, của toàn xã hội nói chung đều đi đến một mục tiêu nhất định. Mọi hoạt động đều hướng tới mục tiêu nhưng không phải lúc nào cũng đạt được mà kết quả có thể là thấp hơn hoặc cao hơn, tuỳ thuộc vào các yếu tố chủ quan và khách quan tác động vào. Từ đó ta thấy rằng hiệu quả không phải tự nhiên mà có được, nó không phải là tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người mà nó phụ thuộc vào con người có chấp nhận nó là có ích hay không và họ sử dụng nó như thế nào. Hiệu quả luôn đi liền với mọi hoạt động của con người, hiệu quả phụ thuộc vào hoạt động của con người, hiệu quả không phải là kết quả cuối cùng.Để so sánh hiệu quả của các hoạt động với nhau phải so sánh các yếu tố đầu vào để tạo ra kết quả cuối cùng, từ đó có thể nhận xét, một cách chính xác hiệu quả hoạt động kinh doanh. Bản chất của hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả của lao động xã hội, được xác định bằng cách so sánh giữa chất lượng kết quả hữu ích cuối cùng thu được với lượng hao phí lao động xã hội. Do vậy thước đo hiệu quả là sự tiết kiệm hao phí lao động xã hội ( lao động sống và lao động vật hoá ) và tiêu chuẩn của hiệu quả là việc tối đa hóa kết quả và tối thiểu hoá chi phí dựa trên những điều kiện sẵn có. 3. Phân loại hiệu quả kinh tế. Có nhiều cách phân loại hiệu quả khác nhau tùy vào từng chỉ tiêu khác nhau: Hiệu quả kinh tế tuyệt đối và hiệu quả kinh tế tương đối. Hiệu quả kinh tế tổng hợp và hiệu quả kinh tế bộ phận. Hiệu quả kinh tế doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế ngành. Hiệu quả kinh tế của một vùng và hiệu quả kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả kinh tế tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội . Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này ta chỉ quan tâm đến cách phân loại cuối cùng:Hiệu quả có thể được chia thành hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội . Hiệu quả về mặt tài chính là những lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp đạt được sau khi đã bù đắp các khoản hao phí lao động xã hội. Hiệu quả về mặt xã hội là những lợi ích mà doanh nghiệp tạo ra, đem lại cho xã hội, bản thân doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình. Tất cả mọi thành phần kinh tế khi tham gia vào nền sản xuất đều phải quan tâm đến cả hai tiêu thức trên, tuỳ thuộc vào vào từng thành phần kinh tế mà tỷ trọng hai tiêu thức này khác nhau. Với các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH, các công ty nước ngoài thì tiêu thức hiệu quả kinh tế được quan tâm hơn so với tiêu thức hiệu quả xã hội. Với các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có sự chỉ đạo góp vốn liên doanh của nhà nứơc thì tiêu thức hiệu quả xã hội được đề cao hơn. Điều này phù hợp với các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là không ngừng ngày càng nâng cao nhu cầu vật chất, tinh thần của toàn xã hội, không có sự mất bình đẳng, phân biệt giữa các thành phần kinh tế, giữa nội bộ nhân dân trong toàn xã hội. Hiệu quả kinh tế được xác định thông qua việc so sánh giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Có thể diễn đạt khái niệm hiệu quả kinh tế như sau : Biểu hiện bằng số tương đối. Hiệu quả kinh tế : K H = F Trong đó : H là hiệu quả kinh tế K là kết quả của hoạt động kinh doanh F là chi phí cần thiết để thực hiện hoạt động kinh doanh Đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu : K là tổng doanh thu bán hàng hoá, là tổng lợi nhuận, là tổng giá trị gia tăng sau một thương vụ xuất nhập khẩu hoặc một khoảng thời gian nhất định như tháng, quí, năm. F là toàn bộ chi phí có được hàng hoá bán cho người mua. Bao gồm : Giá mua vào sản phẩm + chi phí cần thiết khác như chi phí hoàn thiện chế biến sản phẩm, chi phí hành chính khác,... Biểu hiện bằng số tuyệt đối H=K-F Qua hai cách trên ta có thể tính toán được hiệu quả kinh tế. Đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu do đặc điểm của tiền tệ thanh toán là đồng tiền mạnh, chứ không phải là đồng tiền bản tệ do đó để tính đúng được hiệu quả kinh tế ta cần phải qui đổi về cùng một đơn vị tiền tệ, lấy tỷ giá hối đoái tại thời điểm thực hiện hợp đồng và tỷ giá hối đoái khi tính hiệu quả, nếu có chênh lệch phải cộng hoặc trừ vào kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Một khó khăn cho việc xác định kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng là để tạo ra được một kết quả chúng ta phải cần nhiều chi phí, có những chi phí có thể xác định được nhưng cũng có những chi phí không thể xác định được (chi phí vô hình ) như bằng phát minh sáng chế, uy tín kinh doanh của công ty ... Điều này chứng tỏ việc xác định chi phí chưa hẳn lúc nào cũng chính xác. Mặt khác một số chi phí bỏ ra không phải chỉ tạo ra một kết quả mà có khi có nhiều kết quả khác nhau. Tuy nhiên, nếu sử dụng thống nhất đơn vị tính thì kết quả vẫn cho biết tình hình khái quát hoạt động của công ty trong thừi gian tới. Tính toán , xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là biện pháp so sánh giữa chi phí và kết quả. Chi phí và kết quả có quan hệ biện chứng lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau đây là mối quan hệ "nhân quả ". Muốn có kết quả thì phải có chi phí, nếu không có nhân tố khách quan tác động thì sẽ thu được một kết quả có thể tính toán được đó là hiệu quả tài chính. Để hiệu quả kinh tế là một số dương, chi phí bỏ ra phải nhỏ hơn kết quả thu được. Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là một hình thức kinh doanh quốc tế, phạm vi buôn bán vược ra khỏi biên giới quốc gia do đó nó chứa đựng rất nhiều rủi ro, do đó để đạt được hiệu quả kinh tế trong xuất nhập khẩu là rất khó khăn... Đối với các doanh nghiệp nhà nước, nói đến hiệu quả hoạt động kinh doanh là phải nói đến hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội. Dựa vào những mục tiêu, những chiến lược của nghành đó, của đất nước trong thời kỳ đó, mặc dù có ít, không có hoặc thua thiệt về hiệu quả kinh tế nhưng bù lại là hiệu quả xã hội đạt được thì vẫn được coi là có hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Như vậy, hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng được xem xét trên tổng thể hai mặt kinh tế và xã hội và được tính theo công thức: Hq = Hkt + Hxh Trong đó : Hq:là hiệu quả hoạt động kinh doanh Hkt:là hiệu quả kinh tế Hxh:là hiệu quả xã hội Đây chính là công thức cuối cùng để xác định được, so sánh được hiệu quả giữa các doanh nghiệp kinh doanh và giữa các thời kỳ khác nhau. Nó phản ánh lợi ích cuối cùng đem lại, phục vụ cho toàn xã hội. Việc xác định hiệu quả kinh tế một cách chính xác đòi hỏi tốn nhiều công sức thống kê kết quả của toàn bộ nền kinh tế liên quan đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Thông thường người ta có thể tính toán được hiệu quả xã hội trong nội bộ doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh của hoạt động xuất nhập khẩu được đánh giá thông qua việc thực hiện các chủ trương chính sách của nhà nước trong thời kỳ nhất định. Kết quả của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu được xác định bằng các chỉ tiêu thể hiện mục tiêu kinh doanh cần đạt được như doanh số bán ra, lợi nhuận thu về ... Các chỉ tiêu chi phí được xác định bằng các chỉ tiêu khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của đối tượng phân tích bao gồm chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu đặc thù. Để đánh giá được hiệu quả kinh doanh nhập khẩu cần phải xem xét một cách toàn diện cả về thời gian và không gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là trong giai đoạn hiện nay với đường lối chính sách mở cửa của nước ta, tạo đà cho nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng đất nước, hoạt động nhập khẩu thực sự là vấn đề cần thiết, đáng quan tâm vì đây là điều kiện cần, điều kiện số một, để thực hiện nhiệm vụ, chủ trương xây dựng đất nước mà Đảng đã đề ra. Về mặt thời gian, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng giai đoạn, từng thời kì không được làm giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, các thời kì, các kì kinh doanh tiếp theo. Tức là doanh nghiệp phải quan tâm đến lợi ích lâu dài, không vì lợi ích trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích lâu dài. Trong thực tế điều này rất dễ xảy ra vì con người thường khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và cả nguồn lao động không có kế hoạch. Không thể coi việc giảm chi tăng thu là có hiệu quả được khi giảm một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc như: giảm chi phí đào tạo nhân lực, đổi mới kỹ thuật... cũng không thể coi là có hiệu quả lâu dài được nếu như xoá bỏ hợp đồng với một bạn hàng truyền thống, lâu dài, tín nhiệm để chạy theo một khách hàng khác mang lại nhiều lợi nhuận trong thời gian ngắn nhưng không ổn định, chắc chắn. Về mặt không gian, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu được coi là có hiệu quả khi nó không làm ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh khác trong nội bộ ngành và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả của hoạt động nhập khẩu phải phù hợp với chủ trương của đất nước, với kim chỉ nam XHCN mà Đảng ta đã lựa trọn. Tóm lại, đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được phải gắn chặt với hiệu quả của toàn xã hội. Đạt được hiệu quả cao là chưa đủ mà còn phải mang lại hiệu quả cho xã hội về cả hai mặt kinh tế và xã hội. Trong điều kiện kinh tế hiện nay của nước ta, hiệu quả của hoạt động nhập khẩu là vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế đất nước, nhập khẩu tạo đà quan trọng cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá với điều kiện công nghệ máy móc trong nước nghèo nàn, lạc hậu. Đánh giá, xem xét hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích nhận thức đúng đắn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp để thấy được trình độ, năng lực và chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó tìm ra những tồn tại, những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh để đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục nhằm ngày càng đưa ra nhiều phương án kinh doanh có hiệu quả nhất cho doanh nghiệp. 4. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh . Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu nói chung và bối cảnh nền kinh tế nước ta nói riêng hiện nay, không chỉ tồn tại một doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả. Đây là vấn đề thể hiện về mặt chất lượng của toàn bộ công tác quản lý và đảm bảo tạo ra kết quả cao nhất của hoạt động kinh doanh. Tất cả những công cuộc đổi mới, cải tiến về nội dung, phương pháp ứng dụng trong hoạt động quản lý, kinh doanh chỉ thực sự mang lại ý nghĩa khi và chỉ khi làm tăng được kết quả kinh doanh mà qua đó làm tăng được hiêụ quả kinh doanh. Đối với doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu nói chung, hiệu quả không những là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Hàng hoá nhập khẩu thường là có giá trị lớn, đối tượng quản lý vượt ra ngoài biên giới quốc gia, do vậy chỉ cần một sai sót nhỏ trong hoạt động nhập khẩu có thể ảnh hưởng đến sự sống còn của doanh nghiệp, đến đất nước. Hiệu quả còn có vai trò quan trọng trong việc mở mang, phát triển nền kinh tế, tái đầu tư mua máy móc thiết bị, phương tiện kinh doanh, áp dụng các tiến bộ kĩ thuật, qui trình công nghệ mới... Đối với nền kinh tế quốc dân, đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh nhập khẩu chính là tiết kiệm các nguồn lực, nguồn nguyên nhiên vật liệu cho xã hội. Tạo điều kiện cho nền kinh tế trong nước nắm bắt được những thành tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến trên thế giới, từ đó nâng cao đời sông nhân dân và sự phồn vinh cho đất nước. Đối với bản thân doanh nghiệp, hiệu quả kinh tế xem xét về mặt tuyệt đối chính là lợi nhuận thu được, nó là cơ sở của tái sản xuất mở rộng, làm tăng tích luỹ cho nhà nước, tăng uy tín và thế lực cho doanh nghiệp trên thương trường Quốc tế. Đối với cá nhân người lao động thì hiệu quả lao động (lương và phúc lợi xã hội ) là động cơ thúc đẩy, kích thích người lao động, làm cho người lao động hăng hái, yên tâm làm việc và quan tâm ngày càng nhiều hơn đến hiệu quả, trách nhiệm của mình đối với công ty và có thể ngày càng đóng góp những công sức đáng kể cho sự phát triển của công ty. Như vậy, hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty có vai trò vô cùng quan trọng đối với công ty và đối với đất nước. Để đạt được hiệu quả cao, công ty phải hoàn thành mục tiêu đề ra trong từng thời kì phù hợp với công ty và phù hợp với bối cảnh của đất nước. II. hệ thống chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu. 1. Cách xác định hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu. Để hoạt động kinh doanh nhập khẩu có hiệu quả thì mỗi một thương vụ nhập khẩu đều phải thành công, lập phương án nhập khẩu là một bước quan trọng trong kinh doanh nhập khẩu. Về mặt hàng nhập khẩu: Đó phải là một mặt hàng( có thể là hàng tư liệu sản xuất, có thể là hàng tư liệu tiêu dùng ) phù hợp với nhu cầu trong nước mà nền sản xuất trong nước chưa sản xuất ra được hoặc sản xuất chưa đủ về chất lượng và số lượng... nếu là hàng đã sản xuất được trong nước thì phải nhập loại có ưu thế hơn so với sản xuất trong nước. Tuy nhiên cần nghiên cứu, phân tích xem có nên nhập những hàng này không, sự xuất hiện của mặt hàng này tạo nên môi trường cạnh tranh có lựi hay không có lựi đối với nhà sản xuất trong nước. 1.1. Hiệu quả phương án nhập khẩu trực tiếp * Hàng nhập khẩu trả tiền ngay. - Dự kiến doanh thu bán hàng nhập khẩu Dnk = khối lượng hàng nhập khẩu * đơn giá bán buôn. ở bước dự kiến doanh thu bán hàng nhập khẩu này cũng chính là các định loại hàng nào nên nhập khẩu, khối lượng bao nhiêu và giá mua nào là có thể chấp nhận được. Do vậy, bước dự kiến doanh thu bán hàng nhập khẩu cần phải được nghiên cứu, xem xét ở một thị trường rộng lớn từ đó có thể đánh giá được nhu cầu của người tiêu dùng và xem xét khả năng bán hàng của các cửa hàng, đại lí. Điều quan trọng là phải xem xét mặt hàng này hiện có trên thị trường, xác định xem hàng hoá đang ở giai đoạn nào trong vòng đời sống của nó, với hàng hoá là máy móc công nghệ thì đòi hỏi phải có chuyên gia am hiểu về kĩ thuật để giám định đúng chất lượng từ đó đưa ra được quyết định đúng đắn giá mua và có lợi cho ta nhất trong các cuộc hỏi giá với bên bán. Tuy khối lượng thu thập thông tin của bước này là rất rộng lớn và tốn nhiều thời gian, nhưng với yêu cầu đòi hỏi cạnh tranh, do đó phải cố gắng tiến hành càng nhanh càng tốt để thực hiện các bước tiếp theo của hợp đồng. - Dự kiến doanh thu thuần: Căn cứ vào biểu thuế của nhà nước đối với hàng nhập khẩu để tính doanh thu thuần theo công thức: Doanh thu thuần = DNN - T dt T dt : Thuế doanh thu -Dự kiến cho chi phí thương vụ nhập khẩu, bao gồm các khoản chi phí sau : +Trị giá mua hàng nhập khẩu và thuê tàu : Nếu mua hàng theo giá FCA, FOB và EXW (thuê máy bay ). Tùy theo từng điều kiện giá cả mà ta có thể ước tính giá trị hàng nhập khẩu và thuê tàu. + Giá thuê tàu nhập khẩu : Đòi hỏi tra cứu chính xác, tránh nhầm lẫn nhóm hàng, mã thuế ... +Dự kiến chi phí lưu thông: Chi phí vận chuyển, chi phí bốc xếp, chi phí giao nhận, chi phí kho bãi hoặc các khoản lệ phí. -Tiền lãi trả ngân hàng : Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ và từng ngân hàng cho vay để biết được tỷ lệ phần trăm tiền lãi phải trả cho từng tháng. Tiền lãi phải trả ở đây được tính kể từ khi vay tiền để thực hiện thượng vụ nhập khẩu cho đến khi giao hàng cho bạn hàng hoặc bán được hàng nhập về và nhận được tiền thanh toán. Chi phí mở L/C: Thường là 1% trị giá của L/C Phí thanh toán L/C: Khoảng 0,25% giá ttrị L/C Phí khác ( công tác phí ) Phí quản lý ( 1% L/C ) Phí tu chỉnh L/C: 2USD/mỗi lần tu chỉnh 0,1% trị giá tu chỉnh tăng Điện phí : Khoảng 16USD đến 21USD/lần tu chỉnh Phí thanh toán L/C: Không quá 200USD/lần chuyển tiền. Một thương vụ nhập khẩu thường mất rất nhiều chi phí hơn thương vụ xuất khẩu do vậy để nâng cao hiệu quả của thương vụ này cần phải tiết kiệm tối đa các chi phí cẩn thiết bằng cách thực hiện các điều khoản một cách chính xác và cần được ghi rõ, chi tiết cụ thể trong hợp đồng , tránh hiểu lầm gây tổn thất cho cả hai bên. -Đánh giá hiệu quả thương vụ : ồ Lợi nhuận = ồ doanh thu thuần - ồ chi phí hàng nhập. Để tăng lợi nhuận phải tăng doanh thu, giảm chi phí trong điều kiện cho phép. *Với hàng nhập khẩu trả chậm. - Dự tính doanh thu bán hàng nhập khẩu. Theo công thức: DTT = giá bán hàng nhập khẩu * khối lượng hàng nhập khẩu - thuế doanh thu. Trường hợp này tính được thuế doanh thu tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu trước thời hạn thanh toán L/C. - Dự kiến chi phí : chi phí dự kiến giống như chi phí đó với việc bán hàng nhập khẩu trả ngay ở trên. - Đánh giá kết quả thương vụ: 1.2. Phương án hiệu quả hàng đổi hàng. Phương án nhập khẩu hàng đổi hàng là phương án nhập khẩu trong đó tiền tệ thanh toán là hàng hoá. Trong nghiệp vụ này bao hàm cả nhập khẩu và xuất khẩu, tỷ giá ngoại tệ ở đây nhằm mục đích là cơ sở để tính toán các khoản chi phí và qui đổi giá trị hàng xuất, hàng nhập về cùng một đơn vị tiền tệ. Để một nghiệp vụ nhập khẩu hàng đổi hàng có hiệu quả cao thì đòi phải có hiệu quả cả về thương vụ xuất khẩu và thương vụ nhập khẩu. Hiệu quả thương vụ nhập khẩu tính như trường hợp trên. Hiệu quả thương vụ xuất khẩu : Về số lượng và giá cả hàng xuất khẩu : xem xét về số hượng hàng hoá có thể thu gom cung ứng hàng hoá mà phía người mua chấp nhập về số lượng về giá cả qua thoả thuận hợp đồng. Từ tính doanh thu hàng xuất khẩu theo công thức: DTxk=Q c*Pc*Kn Trong đó DTxk : Doanh thu ước tính hàng xuất khẩu Qc : Khối lượng hàng hoá được người mua chấp nhận Pc : Giá cả đơn vị hàng hoá được người mua chấp nhận Kn : Tỷ giá ngoại tệ tại thời điểm thanh toán Dự trù chi phí hàng xuất khẩu. Chi phí hàng xuất khẩu là toàn bộ chi phí giá thành hàng hoá để xuất khẩu chưa tính tiền lãi của thương vụ kinh doanh chi phí hàng xuất khẩu phải nhỏ hơn giá người mua chấp nhận được : Chi phí này bao gồm : -Chi phí thu mua hàng xuất khẩu -Chi phí đóng gói bao bì -Chi phí lưu thông nội địa : Chi phí thuê mướn kho bãi, vận tải, hàng hoá cảng... -Chi phí thủ tục, giấy tờ giao nhận hàng, lệ phí xin giấy phép kiểm nghiệm, kiểm hoá -Lãi xuất tiền vay -Thuế xuất khẩu *Dự kiến hiệu quả kinh doanh thương vụ xuất khẩu : -Lợi nhuận của thương vụ xuất khẩu : P= ồDT xk-ồC xk Nếu P>0 thì thương vụ xuất khẩu này có hiệu quả 1.3 Hiệu quả phương án nhập khẩu uỷ thác Một thương vụ xuất khẩu uỷ thác khi nó mang lại hiệu quả cho cả bên nhận uỷ thác và bên uỷ thác. Quyền lợi và nghĩa vụ của bên nhận uỷ thác và bên uỷ thác có liên quan chặt chẽ với nhau và được qui định cụ thể trong hợp đồng uỷ thác. 2.Hệ thống chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh tế hoạt động kinh doanh nhập khẩu . 2.1 Tỷ suất lợi nhuận của vốn sản xuất : Lợi nhuận P1= Vốn sản xuất kinh doanh Công thức này cho thấy một đồng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đòng lợi nhuận. Nếu tỷ suất lợi nhuận của vốn sản xuất càng cao thì hiệu quả kinh tế của công ty càng cao và ngược lại. Để đạt đuợc điều này doanh nghiệp phải làm sao để tăng được lợi nhuận và giảm được vốn sản xuất kinh doanh. Nhưng không có nghĩa là giảm vốn sản xuất kinh doanh thì có hiệu quả mà phải chọn một mức vốn phù hợp để có thể có lợi nhuận cao nhất. 2.2 Tỷ trọng lợi nhuận trong tổng giá trị kinh doanh Lợi nhuận P2= Doanh thu Trong đó tổng giá trị kinh doanh chính là tổng doanh thu của doanh nghiệp trong từng thời kỳ Tuỳ từng mặt hàng kinh doanh mà tỷ trọng lợi nhuận khác nhau. Trong công thức này nếu tỷ trọng lợi nhuận càng cao thì doanh nghiệp kinh doanh càng có hiệu quả. Nhưng ở đây chỉ so sánh trên mức độ tỷ trọng tưong đối, nếu để so sánh với các đơn vị khác, mặt hàng kinh doanh khác thì chưa hẳn đã nói lên được kết qủa giữa hai công ty, hai mặt hàng kinh doanh khác nhau. Bởi vì đôi với một số ngành, một số mặt hàng kinh doanh có tỷ trọng lợi nhuận trong tổng giá trị kinh doanh là rất nhỏ nhưng giá trị tuyệt đối của nó rất lớn vì mặt hàng của công ty có giá trị cao và doanh thu tương đối lớn. Muốn so sánh ta phải so sánh giá trị tuyệt đối giữa hai công ty, giữa hai mặt hàng để có thể xác định kết quả so sánh một cách chính xác. 2.3 Tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí sản xuất kinh doanh . Lợi nhuận P3= Tổng chi phí Công thức này cho thấy doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí thì có thể thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Để tăng hiệu quả cho Công ty thì phải hạn hạn chế tối đa chi phí để thu về hiệu quả cao nhất. 2.4 Tỷ suất giá trị gia tăng trên vốn sản xuất kinh doanh: Giá trị gia tăng H1 = Tổng vốn kinh doanh Giá trị gia tăng của doanh nghiệp trong từng thời kỳ (tính theo năm) là chỉ tiêu phản ánh đầy đủ kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở tầm hiệu quả kinh tế xã hội. Nó phản ánh tổng hợp không chỉ ở khả năng hoàn vốn và sinh lợi cho chủ sở hữu doanh nghiệp mà còn góp phần cho ngân sách nhà nước dưới dạng thuế, tiền lương, tiền thưởng của người lao động và cả khấu hao dùng để khôi phục, đổi mới và hoàn thiện hoá tài sản cố định để tiếp tục phát triển kinh doanh. Giá trị gia tăng được tính như sau; GTGT= Tiền công,tiền lương, tiền thưởng của người lao động + thu nhập hỗn hợp + thuế sản xuất kinh doanh các loại + khấu hao tài sản cố định +lợi nhuận sau thuế: ở công thức tính (H1 ) để không ngừng tăng hiệu quả tức là phải tăng giá trị gia tăng tức là phải tăng qui mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Chỉ tiêu này cho phép ta biết hiệu qủa một cách tổng hợp hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.5 Tỷ suất giá trị gia tăng trên tổng doanh thu. GTGT H2 = TDT Trong đó: GTGT: giá trị gia tăng. TDT: Tổng doanh thu. Công thức này cho ta thấy cứ một đồng giá trị kinh doanh của doanh nghiệp sẽ đóng góp cho xã hội bao nhiêu đồng giá trị gia tăng. Giá trị gia tăng này là cơ sở để tổng hợp lại thành tổng sản phẩm quốc nội(GDP) của quốc gia. Qua công thức trên ta thấy khi giá trị gia tăng càng cao thì hiệu quả kinh tế càng, xã hội của công ty trong hoạt động kinh doanh càng cao. Hiệu quả hoạt động kinh doanh này được xem trên góc độ tổng thể của doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. 2.6 Tỷ suất giá trị gia tăng trên tổng chi phí sản xuất. GTGT H3 = CF Công thức này cho biết doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí trong hoạt động kinh doanh thì sẽ thu về (hay đóng góp cho xã hội ) bao nhiêu đồng giá trị gia tăng. Hệ số này càng cao cho phép ta đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng càng có hiệu quả. 3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các yếu tố kinh doanh của doanh nghiệp . 3.1 Hiệu quả sử dụng lao động. Số lượng và chất lượng lao động là yếu tố cơ bản của sản xuất, góp phần quan trọng trong năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng lao động hoặc hiệu suất tiền lương. Năng suất lao động được xác định bằng cách chia kết quả kinh doanh trong kỳ cho số lượng lao động bình quân trong kỳ. Do kết quả sản xuất kinh doanh được phản ánh bằng 3 chỉ tiêu: Tổng giá trị kinh doanh; Giá trị gia tăng và lợi nhuận do đó có 3 cách biểu hiện của năng suất lao động bình quân cho một người lao động bình quân trong kỳ (thường tính theo năm) Ta có : Kết quả kinh doanh Năng suất lao động = Lao động Cụ thể : DT Năng suất lao động tính theo doanh thu : NSLĐ = LĐ Năng suất lao động tính theo giá trị gia tăng : GTGT NSLĐ= LĐ LN Năng suất lao động tính theo lợi nhuận : NSLĐ= LĐ Trong đó: DT: Doanh thu LĐ: Số lao động GTGT :Giá trị gia tăng LN: Lợi nhuận Năng suất lao động tính theo năm chịu ảnh hưởng rất lớn của việc sử dụng thời gian. Cụ thể vào ngày tính bình quân làm việc trong năm, số giờ bình quân làm việc mỗi ngày của lao động trong doanh nghiệp và năng suất lao động bình quân mỗi giờ. Điều này thể hiện trong công thức: NSLĐ = n*g*NS g Trong đó: n : Số ngày bình quân làm việc trong năm g : Số giờ bình quân làm việc mỗi ngày. NSg: Năng suất lao động bình quân mỗi giờ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh NSLĐ = n*g*lao động Trong đó kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tính theo 3 tiêu thức : Doanh thu, giá trị gia tăng hoặc lợi nhuận. Chỉ tiêu hiệu suất tiền lương được xác định bằng cách so sánh kết quả kinh doanh với tổng tiền lương và các khoản tiền thưởng có tính chất trong kỳ ( ký hiệu là tiền lương). Ta có : Kết quả hoạt động kinh doanh Hiệu suất tiền lương Hn= Tiền lương Điều này có nghĩa là hiệu suất tiền lương trong kỳ cho biết một đồng tiền lương tương ứng với bao nhiêu đồng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu suất tiền lương tăng nên khi năng suất lao động tăng với nhịp độ tăng cao hơn với nhịp độ tăng tiền lương. Chẳng hạn, trong kỳ nghiên cứu năng suất lao động tăng 10%, tiền lương tăng khoảng 6%. 3.2 Hiệu quả sử dụng tài sản cố định - Tài sản cố định là bộ phận lớn nhất, chủ yếu nhất trong tư liệu lao động và quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định bình quân, tính theo nguyên giá hoặc theo giá trị khôi phục trong kỳ được xét thường gọi là hiệu suất tài sẩn cố định. Kết quả Chỉ tiêu hiệu suất tài sản cố định HTSCĐ= Tài sản cố định Chỉ tiêu hiệu suất tài sản cố định biểu hiện một đồng tài sẩn cố định trong kỳ sản xuất ra bình quân bao nhiêu đồng của chỉ tiêu kết quả kinh doanh tương ứng( lợi nhuận, giá trị tăng gia hoặc tổng giá trị kinh doanh ). Hiệu quả sử dụng tài sản cố định có thể hiểu theo cách ngược lại, tức là lấy nghịch đảo của công thức trên, gọi là suất tài sản cố định. TSCĐ S TSCĐ = Kết quả Nó cho biết một đồng kết quả kinh doanh cần phải có bao nhiêu đồng tài sản cố định. 3.3 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Vốn lưu động là vốn đầu tư vào tài sản lưu động của xí nghiệp. Nó là số tiền ứng trước nhằm đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm của loại vốn này là luân chuyển không ngừng, luôn thay đổi hình thái biểu hiện, luân chuyển giá trị toàn bộ ngay một lần và hoàn thành một vòng tuần hoàn trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Vốn lưu động thường bao gồm vốn d._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0381.doc
Tài liệu liên quan