Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng Công thương Hà Nam

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động của hệ thống Ngân hàng Công thương (NHCT) Việt Nam nói chung và chi nhánh NHCT Hà Nam nói riêng trong quá trình kinh doanh đã bộc lộ nhiều khó khăn thách thức trước yêu cầu cạnh tranh để hội nhập quốc tế và khu vực. Đối với chi nhánh NHCT Hà Nam tuy tốc độ tăng trưởng trong những năm qua đạt tỷ lệ khá cao nhưng chất lượng hiệu quả kinh doanh còn thấp. Ngoài những khó khăn chung của môi trường kinh tế- xã hội

doc114 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1290 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng Công thương Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
còn có nguyên nhân rất quan trọng nữa là việc quản trị điều hành ngân hàng, quản lý các nghiệp vụ hoạt động kinh doanh còn nhiều vấn đề tồn tại yếu kém đang đặt ra cần phải nghiên cứu giải quyết nhằm để điều chỉnh chiến lược và đưa ra các giải pháp để đưa NHCT Hà Nam Phát triển - An toàn - Hiệu quả. Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết đó, tác giả chọn để tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHCT Hà Nam” 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu lý luận cơ bản về quản trị Ngân hàng Thương mại (NHTM) và thực tiễn hoạt động kinh doanh của NHCT Hà Nam để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHCT Hà Nam nói riêng và NHCT Việt Nam nói chung. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng là các nghiệp vụ quản lý và kinh doanh cơ bản của NHTM nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHCT Hà Nam. - Phạm vi nghiên cứu là các hoạt động kinh doanh của NHCT Hà Nam trong giai đoạn 1999-2001. 4. Phương pháp nghiên cứu. Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích hoạt động kinh tế, phương pháp phân tích thống kê để nghiên cứu. 5. Những đóng góp khoa học của luận văn. - Hệ thống và khái quát hoá các lý luận cơ bản về nghiệp vụ kinh doanh cơ bản của NHTM trong cơ chế thị trường, quản lý tài sản, thu nhập và chi phí, các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của NHTM. - Phân tích, đánh giá rút ra những nhận xét, kết luận mang tính tổng kết thực tiễn về thực trạng hiệu quả kinh doanh của NHCT Hà Nam. Nêu rõ nguyên nhân và những vấn đề cần phải giải quyết. - Đề xuất một hệ thống các giải pháp đồng bộ có cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Hà Nam. 6. Bố cục của luận văn. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng Thương mại. Chương 2: Thực trạng về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Hà Nam. Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng Công thương Hà Nam. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Hoạt động kinh doanh của NHTM. 1.1.1. Định nghĩa NHTM: Ngân hàng là một tổ chức nhận tiền gửi và cho vay tiền. Ở Mỹ thuật ngữ các ngân hàng (Banks) bao gồm những hãng như NHTM, các Công ty tiết kiệm và cho vay, các Liên hiệp tín dụng. Luật tổ chức tín dụng ở Việt Nam chỉ ra thuật ngữ: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng (TCTD) được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động các loại hình ngân hàng gồm: NHTM, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác. Do vậy, NHTM chỉ là một nhóm trong số các tổ chức tài chính trung gian, người ta gọi chung là “Các định chế tài chính” có chức năng giống nhau là dẫn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Trong các định chế tài chính, NHTM là định chế có kỳ hạn quan trọng nhất, ở nhiều góc độ khác nhau người ta định nghĩa NHTM như sau: Các nhà kinh tế định nghĩa: NHTM là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và mở các tài khoản tiền gửi, kể các loại tiền gửi mà dựa vào đó có thể dùng các tờ séc. “Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính” năm 1990 của Việt Nam định nghĩa: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng, với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Luật các TCTD Việt Nam: NHTM là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Những định nghĩa này cho thấy một số chức năng cơ bản mà các NHTM đảm nhận, phân biệt tương đối với các chức năng của các trung gian tài chính khác. 1.1.2. Hoạt động cơ bản của NHTM. 1.1.2.1. Tạo lập nguồn vốn NHTM là tổ chức kinh doanh trên những lĩnh vực tiền tệ, cũng như các doanh nghiệp kinh doanh khác. Việc tạo lập vốn là nhân tố để đáp ứng hoạt động kinh doanh. Cơ cấu nguồn vốn của NHTM bao gồm: a. Vốn của ngân hàng: Vốn điều lệ: Là vốn ban đầu được hình thành khi thành lập doanh nghiệp; Nhà nước cấp nếu là NHTM Nhà nước (doanh nghiệp Nhà nước), hoặc là cổ đông đóng góp khi là NHTM cổ phần. Vốn điều lệ tuỳ thuộc vào quy mô kinh doanh và do luật định. Vốn bổ sung: Là bộ phận vốn tự có tăng thêm trong quá trình hoạt động, bằng cách trích từ lợi nhuận kinh doanh, các quỹ dự trữ, lãi không chia cho các cổ phiếu hay tăng mức đóng góp của các cổ đông. Vốn của bản thân ngân hàng chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, công cụ lao động, mở rộng màng lưới hoạt động, phát triển công nghệ và kỹ thuật ngân hàng, hùn vốn liên doanh liên kết... Vốn tự có vừa làm đệm để chống đỡ rủi ro, vừa là căn cứ để duy trì các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. b. Huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất, ngày càng cao trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng. Các NHTM tiến hành huy động vốn bằng nhiều hình thức như: Mở tài khoản tiền gửi thanh toán (tài khoản vãng lai), tài khoản tiền gửi có kỳ hạn (tài khoản tiền gửi), tiết kiệm của dân cư, phát hành trái phiếu, kỳ phiếu của ngân hàng. Phân theo kỳ hạn huy động vốn có thể chia vốn huy động làm 2 loại: Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn. - Tiền gửi không kỳ hạn. Đối với với các NHTM Việt Nam huy động vốn tiền gửi không kỳ hạn có 2 hình thức chính: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của dân cư và tiền gửi trên tài khoản tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế- xã hội và cá nhân. + Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của dân cư: Là hình thức gửi tiền và rút tiền ra khỏi ngân hàng một cách thường xuyên, bất kỳ thời điểm nào. Mục đích của khách hàng không phải gửi tiền để hưởng lãi, mà chủ yếu là để đảm bảo thanh toán và an toàn tài sản. + Tiền gửi trên tài khoản tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế- xã hội và cá nhân: Mục đích chủ yếu là phục vụ cho nhu cầu thanh toán. Khách hàng mở tài khoản thanh toán tại các NHTM thông qua tài khoản để ghi “Có” các khoản thu nhập của họ hoặc sử dụng để ghi “Nợ” trả tiền hay rút tiền mặt theo yêu cầu bằng các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt như: Séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ thanh toán... Hai hình thức tiền gửi trên, khách hàng được ngân hàng trả lãi trên số dư “Có” trên sổ tiết kiệm hay trên tài khoản. Đặc điểm của loại tiền gửi này là lãi suất thấp, không ổn định. - Tiền gửi có kỳ hạn. Bao gồm tiền gửi của cá nhân, các tổ chức kinh tế, xã hội. Tiền gửi có kỳ hạn thông thường chỉ được rút ra theo kỳ hạn. Đối với tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, khách hàng có thể gửi vào và rút ra theo yêu cầu. Song loại tài khoản này không được phát hành séc, cũng như sử dụng các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt khác. Khi khách hàng muốn rút trước hạn trên tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, ngân hàng sẽ trích chuyển từ tài khoản có kỳ hạn sang tài khoản tiền gửi thanh toán, và từ tài khoản này khách hàng mới rút tiền mặt hay chuyển khoản thanh toán khác. Đặc điểm của tiền gửi có kỳ hạn là lãi suất cao (kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao). Khách hàng gửi tiền mục đích để lấy lãi, vì vậy tiền gửi có kỳ hạn có tính ổn định cao. - Phát hành giấy tờ có giá. Các NHTM phát hành kỳ phiếu và trái phiếu, đặc điểm là có kỳ hạn và lãi suất hay khoản lãi được hưởng khi đáo hạn thanh toán được ghi ngay trên bề mặt của kỳ phiếu hay trái phiếu. Hình thức huy động vốn này được thực hiện với mục đích sử dụng vốn rõ ràng, số lượng và thời gian phát hành nhất định. Hiện nay, tại NHCT Việt Nam tỷ lệ kỳ phiếu chiếm 12,4% tổng nguồn vốn huy động có kỳ hạn. Do hoạt động cạnh tranh và đảm bảo lợi ích cho khách hàng có tiền gửi, khách hàng rút vốn trước hạn đều được các NHTM Việt Nam trả lãi không kỳ hạn. - Vốn đi vay. Chủ yếu vay vốn của các NHTM là vay chiết khấu với Ngân hàng Trung ương, khi dòng tiền thanh toán vượt mức dự trữ thanh toán, như trong thanh toán bù trừ và thanh toán các khoản tiền gửi rút ra khỏi ngân hàng. Vay vốn các Ngân hàng nước ngoài và các NHTM cho vay lẫn nhau khi nhu cầu tài trợ vốn cho khách hàng đòi hỏi, trong khi chưa tạo lập được nguồn vốn bằng các hình thức khác. Cũng qua hình thức này ngân hàng có thêm khả năng thanh khoản mà không nhất thiết phải bán các tài sản khác, có thể làm thiệt hại cho ngân hàng vì có thể phải gia tăng chi phí. Đặc điểm của vốn vay là lãi suất cao nên các NHTM chỉ tham gia vay vốn khi thực sự cần thiết. - Vốn nhận uỷ thác đầu tư. Đây là nguồn vốn uỷ thác đầu tư của Nhà nước, của các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế, theo các chương trình và dự án có mục tiêu riêng. 1.1.2.2. Sử dụng vốn. Qua hoạt động huy động vốn hình thành nên nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng sử dụng nguồn vốn này tiến hành hoạt động tín dụng tạo ra lợi nhuận. Các NHTM thu lợi nhuận chủ yếu bằng hoạt động cho vay, đầu tư, chiết khấu chứng từ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ trung gian khác. - Hoạt động cho vay. Đó là việc ngân hàng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền vay với nguyên tắc có hoàn trả. Căn cứ vào thời gian có thể phân thành 2 hình thức cho vay: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn. Theo Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam, điều 10 về thời hạn cho vay có quy định “cho vay ngắn hạn tối đa đến 12 tháng, cho vay trung hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng, cho vay dài hạn từ trên 60 tháng” + Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay bổ xung thiếu hụt về vốn lưu động cho khách hàng vay hoạt động sản xuất kinh doanh và vay vốn tiêu dùng. Cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn cho vay của các NHTM. NHCT Việt Nam có tỷ trọng cho vay ngắn hạn năm 1999 là 51,4%; năm 2000 là 54 % và năm 2001 là 57,05% + Cho vay trung và dài hạn: Được thực hiện đối với những dự án đầu tư cơ bản, dự án xây dựng hạ tầng cơ sở phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, mua sắm tài sản cố định, thay đổi và chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp... các đối tượng có chu kỳ sản xuất, kinh doanh dài ngày, để cho vay trung và dài hạn bắt buộc các NHTM phải có nguồn vốn dài hạn. Nguồn vốn dài hạn hiện nay đối với các NHTM Việt Nam rất thiếu cho nên tỷ trọng cho vay trung và dài hạn chưa tương xứng với nhu cầu đầu tư của các thành phần kinh tế. Định hướng của NHCT Việt Nam đến năm 2002 đưa tỷ trọng cho vay trung và dài hạn chiếm 35% tổng dư nợ vay. - Đầu tư: Sau hoạt động cho vay là hoạt động mang lại thu nhập chính cho ngân hàng, thì đầu tư được xếp hàng thứ hai. Hoạt động đầu tư của các NHTM vừa làm đa dạng loại hình vốn sử dụng vừa mang lại thu nhập, đồng thời còn là khoản dự trữ thứ cấp với các chứng khoán ngắn hạn chất lượng cao. Đầu tư bao gồm các hoạt động chính như: + Mua các chứng khoán, trái phiếu Chính phủ: Các chứng khoán Chính phủ được các NHTM xem như không có rủi ro. Trong năm qua và hiện tại ở Việt Nam, trái phiếu kho bạc Nhà nước (trái phiếu ngắn hạn) qua các đợt phát hành hầu hết là do các NHTM mua thông qua phiên đấu giá do NHNN chủ trì. Hoạt động này đối với ngân hàng vừa mang lại thu nhập bằng lãi trái phiếu, vốn đầu tư có tính an toàn cao, có khả năng tạo ra các công cụ thanh toán cho các NHTM khi cần thiết. + Các chứng khoán khác: Bao gồm các công cụ vay nợ vì NHTM không được phép nắm giữ cổ phiếu. Trong hoạt động đầu tư ngân hàng quan tâm nhiều nhất đến chất lượng và kỳ hạn của các chứng khoán, bởi các chứng khoán có thể không có rủi ro, nhưng lại thay đổi đáng kể về giá cả khi lãi suất thay đổi, từ đó ảnh hưởng đến lợi tức hoặc thiệt hại khi phải bán chứng khoán. Kỳ hạn đầu tư cho phép có thể tái đầu tư vào các chứng khoán khác phù hợp hơn. - Cho thuê tài chính. Là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê tài sản và TCTD với khách hàng thuê. Khi kết thúc kỳ hạn thuê, khách hàng mua lại hay tiếp tục thuê tài sản đó, theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê; trong thời hạn cho thuê các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng. - Bảo lãnh ngân hàng. Là cam kết bằng văn bản của các TCTD với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng, khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết, khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho TCTD số tiền đã được trả thay. Thông qua dịch vụ bảo lãnh, Ngân hàng thu phí bảo lãnh trên số tiền khách hàng xin bảo lãnh theo kỳ hạn bảo lãnh. NHTM cho công ty liên doanh đầu tư vốn nước ngoài hoặc chi nhánh công ty nước ngoài đóng tại Việt Nam vay vốn, việc đảm bảo tiền vay được thực hiện bằng bảo lãnh của một Ngân hàng nước ngoài có chi nhánh tại Việt Nam. Cũng như NHCT bảo lãnh vay vốn nước ngoài đối với các doanh nghiệp Việt Nam thông qua các hình thức như: Thư tín dụng mua hàng trả chậm, ký bảo lãnh (Guarantee) trên các phiếu nhận nợ, phát hành thư bảo lãnh (Letter of Guarantee ), lập phiếu cam kết trả nợ (Promisory note). 1.1.2.3. Dịch vụ trung gian. Các dịch vụ trung gian được các NHTM rất coi trọng, bởi hoạt động có tính an toàn, lợi nhuận cao. Ngoài việc mang lại lợi nhuận trực tiếp qua thu phí dịch vụ trung gian còn góp phần tạo lập nguồn vốn, thông qua các hoạt động thanh toán ký gửi. - Trung gian thanh toán . Là việc Ngân hàng cung cấp cho khách hàng các dịch vụ thanh toán. Thông qua các hoạt động này, tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện các khoản thanh toán với nhau, mà không phải mang theo một lượng tiền mặt bằng hai hình thức: - Thanh toán không dùng tiền mặt (Thanh toán chuyển khoản) đối với các khách hàng có mở tài khoản tại ngân hàng. Nghiệp vụ này được thực hiện từ các phương thức thanh toán do Ngân hàng cung cấp như: Séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ thanh toán...khách hàng sử dụng các phương thức thanh toán trên để trả tiền cho người thụ hưởng hay đòi tiền cung cấp hàng hoá hay dịch vụ thông qua Ngân hàng. - Chuyển tiền thanh toán: Là việc khách hàng có thể trả một khoản tiền ở bất kỳ chi nhánh NHTM nào mà người nhận tiền có hay không có tài khoản tại Ngân hàng. Hiện nay, với công nghệ thanh toán rất phát triển, hoạt động trung gian thanh toán của Ngân hàng đã thực sự đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế, tiêu dùng của xã hội. - Dịch vụ ngân quỹ. Điều 67 Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam có ghi “TCTD được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng”. Ở các nước phát triển, dịch vụ ngân quỹ rất đa dạng và hiện đại như các hoạt động ký gửi, thuê kho két, thu hộ và chi hộ tiền mặt...Đối với các NHTM Việt Nam hoạt động ngân quỹ chiếm một tỷ trọng lớn về lao động và chi phí bởi nhu cầu thanh toán và chuyển tiền thanh toán quan hệ tín dụng bằng tiền mặt rất lớn và không có hạn chế, trong khi đó dịch vụ ngân quỹ lại chưa thực sự phát triển, sự xâm nhập vào hoạt động kinh tế- xã hội còn rất khiêm tốn. - Dịch vụ cho các nhà xuất nhập khẩu. Hoạt động của các nhà xuất nhập khẩu gắn liền với các dịch vụ, nghiệp vụ ngân hàng như: Nhận và xử lý chứng từ, ứng trước tiền, thanh toán và chuyển tiền quốc tế, tư vấn về mậu dịch, các quy định và quản lý ngoại hối. + Xử lý các chứng từ: NHTM giúp các khách hàng hoạt động xuất nhập khẩu xử lý các bộ chứng từ hàng hoá. Các chứng từ buôn bán quốc tế rất quan trọng, chúng kiểm soát sự vận động của hàng hoá, phải được lập đúng lúc, đúng chỗ, đầy đủ và hợp lệ, chỉ một điểm nhỏ không rõ ràng trong chứng từ sẽ dẫn đến việc tranh chấp trong thanh toán. + Thư tín dụng: Người mở thư tín dụng thường là người nhập khẩu (người mua), người mua xin ngân hàng phục vụ mình (Ngân hàng phát hành thư tín dụng) mở một khoản tín dụng cho bên xuất khẩu (người bán) theo các điều khoản của thư tín dụng, Ngân hàng phát hành cam kết rằng người bán sẽ được thanh toán cho hàng hoá của mình, với điều kiện người bán phải tuân thủ các điều khoản đã nêu trong hợp đồng được thể hiện bằng nội dung thư tín dụng. Thư tín dụng có lợi thế cho các nhà xuất khẩu vì hàng hoá chắc chắn được thanh toán bằng đảm bảo của Ngân hàng phát hành, đồng thời cũng đảm bảo lợi ích của người nhập khẩu. + Uỷ thác thu: Là quá trình đòi một khoản tiền ở ngoài thực hiện, hay người thu lệnh chi trả. Uỷ thác thu phụ thuộc vào chứng từ có thể dùng cho cả nhập khẩu, xuất khẩu và có thể dưới hình thức các hối phiếu thanh toán ngay hay có kỳ hạn. + Dịch vụ về ngoại hối: Thanh toán quốc tế đòi hỏi việc chuyển đổi loại tiền vay sang loại tiền khác là cần thiết và thường xuyên diễn ra. Các nhà nhập khẩu thường phải mua ngoại tệ cho các nhu cầu thanh toán hàng nhập và các nhà xuất khẩu có thu về ngoại tệ phải bán ngoại tệ theo quy định về quản lý ngoại hối của Nhà nước. Để cung cấp các dịch vụ về ngoại hối, các NHTM phải dự trữ tiền gửi dưới các hình thức, tiền gửi của Ngân hàng nước ngoài , mua bán trên thị trường ngoại hối liên ngân hàng , mua bán của cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội có thu ngoại tệ. Thông qua trung gian là các NHTM, các nhà xuất nhập khẩu còn hạn chế được rủi ro do tỷ giá gây ra, bằng các hợp đồng mua bán ngoại tệ có kỳ hạn với ngân hàng (Forward). 1.1.3. Mục tiêu và nguyên tắc quản lý tài sản của NHTM. 1.1.3.1. Tài sản của NHTM. Để khái quát tài sản của NHTM một cách có hệ thống, chúng ta nghiên cứu bảng tổng kết tài sản của ngân hàng . Dưới đây là việc dẫn bảng tổng kết tài sản của một NHTM: Biểu số 1.1: Bảng quyết toán tài sản của NHTM Khoản Mục 1. Tổng tài sản Có: Tiền mặt và tương đương tiền mặt Tiền gửi tại NHNN Tiền gửi tại các TCTD Cho vay Nợ khoanh và nợ chờ xử lý Đầu tư vào chứng khoán Góp vốn mua cổ phần Tài sản cố định Các khoản phải thu Tài sản có khác 2. Tổng tài sản Nợ và vốn: Tiền gửi của khách hàng Tiền gửi của các tổ chức tài chính Phát hành kỳ phiếu , trái phiếu Vay NHNN và các TCTD Các khoản phải trả Tài sản nợ khác 3. Tổng tài sản Nợ: Vốn điều lệ Các quỹ và vốn khác Lãi chưa phân phối 4. Tổng vốn a. Tài sản Nợ: Ngân hàng thu lợi nhuận bằng cách (bán) những tài sản Nợ (nguồn), rồi vốn này có thể được dùng để mua những tài sản có mang lại thu nhập. Là một tổ chức trung gian tài chính NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn đến những người vay tiền có cơ hội đầu tư sinh lời. Việc khơi nguồn vốn thông qua các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng. - Các khoản tiền gửi có thể phát hành séc: Các tổ chức kinh tế- xã hội, các tổ chức tín dụng khác, cá nhân mở tài khoản thanh toán tại NHTM . Thông qua tài khoản người sở hữu chúng có quyền phát hành séc cho người thực hiện thứ 3. Đây là loại tiền gửi được ngân hàng thanh toán theo yêu cầu khách hàng, nghĩa là chủ tài khoản chỉ cần viết ra và gửi đến ngân hàng nơi mở tài khoản một lệnh thanh toán (Séc, uỷ nhiệm chi ...) ngân hàng lập tức thanh toán theo yêu cầu và theo lệnh thanh toán đã nhận được. Tiền gửi trên tài khoản thanh toán là tài sản có đối với người gửi, ngược lại đối với ngân hàng là người có nghĩa vụ thanh toán số vốn đó theo yêu cầu của người gửi, nên số vốn đó với ngân hàng là tài sản nợ. Vốn tiền gửi loại này đối với hoạt động ngân hàng là loại vốn có chi phí thấp nhất và với những người gửi tiền, họ thường không quan tâm đến số lãi mà chỉ quan tâm đến tính lỏng có thể dùng trong quan hệ thanh toán, chi trả ở các nước kinh tế phát triển gửi loại này thường không được hưởng lãi. - Tiền gửi định kỳ và tiền gửi tiết kiệm: Đây là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng, nó có đặc tính là được hưởng lãi, loại tiền gửi này thường nhạy cảm với lãi suất các ngân hàng huy động như: Tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, trái phiếu ngân hàng ...Có những chi nhánh NHTM nguồn vốn này chiếm trên 90% nguồn vốn huy động. Các khoản tiền vay: Nguồn vốn này chiếm khoảng 10% tổng tài sản Nợ (NHCT Việt Nam). Trong quá trình hoạt động, các NHTM cũng như các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, không phải lúc nào cũng biến tạo cho mình có được nguồn vốn thoả mãn nhu cầu kinh doanh và thanh toán, mà thường diễn ra hiện trạng thừa vốn, thiếu vốn tạm thời. Quan hệ vay vốn giữa các TCTD với nhau và NHNN nhằm bình đẳng sự thiếu hụt và thừa vốn tạm thời trên. Ưu điểm của quan hệ này là giảm chi phí cho các NHTM do phải tìm kiếm nguồn vốn bổ xung. - Vốn của NHTM: Vốn tự có của Ngân hàng tức là tài sản thực của ngân hàng đó, nó được tạo ra bằng cách bán cổ phần (phát hành cổ phiếu mới), lợi tức giữ lại. Vốn tự có là thành phần quan trọng trong tổng tài sản Nợ của ngân hàng, lãi được coi như phần đệm an toàn để chống đỡ rủi ro trong kinh doanh. - Tài sản Nợ khác: Các khoản kết dư về thanh toán giữa các ngân hàng, chủ yếu là kết dư thanh toán chưa chuyển tiền giữa các chi nhánh trong hệ thống NHTM, tài sản tạm giữ chờ xử lý, nguồn ký quỹ trong quan hệ thanh toán, thuế chưa nộp, các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước chưa nộp. b. Tài sản Có. Tài sản Có của NHTM là kết quả của việc sử dụng vốn của ngân hàng đó. Trong đó có những tài sản có đưa lại thu nhập tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. - Các khoản tiền dự trữ: + Tiền mặt tại ngân hàng : Là khoản dự trữ quá mức có tính lỏng nhất hay là tỉ lệ an toàn thanh toán, được sử dụng chi trả cho các đồng tiền rút ra khỏi ngân hàng, các khoản thanh toán khác. + Dự trữ bắt buộc : Là khoản dự trữ theo luật định, theo quy định của các NHTM đều phải giữ lại và gửi các cơ quan dự trữ ( Mỹ có quỹ dự trữ liên bang FED, Việt Nam, các NHTM gửi tiền dự trữ bắt buộc vào NHNN). Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được xác định trên tổng nguồn vốn huy động và theo kỳ hạn của từng loại tiền gửi. Hiện nay, NHNN Việt Nam quy định 3% cho các loại nguồn vốn huy động có thời hạn dưới 12 tháng + Tiền gửi ngân hàng khác. Trong quá trình hoạt động, các NHTM, NHNN có quan hệ thanh toán với nhau, thanh toán bù trừ qua NHNN. Xuất phát từ nhu cầu thực tế nhằm giảm chi phí, giảm thời gian trong quan hệ thanh toán, các chi nhánh của các NHTM mở tài khoản thanh toán với nhau. - Tiền cho vay. Khoản thu chủ yếu của ngân hàng là từ tiền cho vay (Trên 50% thu nhập của ngân hàng). Tiền cho vay chiếm 53,84 % tổng tài sản Có (NHCT Việt Nam) Tiền cho vay là khoản nợ của các doanh nghiệp, cá nhân nhưng là tài sản có của ngân hàng, vì nó mang lại thu nhập cho ngân hàng. Tiền cho vay có tính kém lỏng, rủi ro cao, bởi nó khó chuyển thành tiền mặt trước khi mãn hạn. - Những tài sản Có khác: Như trụ sở, trang thiết bị, phương tiện do các ngân hàng sở hữu. 1.1.3.2. Mục tiêu quản lý tài sản của NHTM. - Lợi nhuận: Mục tiêu lớn nhất của hoạt động kinh doanh ngân hàng là lợi nhuận. NHTM với tư cách là những tổ chức kinh doanh vì lợi nhuận vậy có thể cho rằng lợi nhuận là mục tiêu của quản lý tài sản sử dụng trong hoạt động kinh doanh. - Phát triển nền kinh tế: Ngân hàng nói chung là một ngành kinh tế quan trọng có tác động rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế mỗi nước, vậy xác định mục tiêu là cơ sở xây dựng mô hình quản lý, điều hành hoạt động của chúng . Việc phân tích các quan hệ, triển khai hoạt động, kiểm tra sự hoạt động của các nhân tố trong mô hình đều hướng tới mục tiêu xác định và để đạt mục tiêu phải tuân theo những nguyên tắc nhất định; đó là nguyên tắc quản lý, trên nguyên tắc này xây dựng, lựa chọn phương pháp quản lý. - Mở rộng uy tín trong nước và trên trường quốc tế: Hoạt động ngân hàng là một loại hình hoạt động phức tạp, có tính nhạy cảm cao đối với mọi hoạt động kinh tế- xã hội nói chung, mặt khác có tính dây chuyền vì hoạt động ngân hàng trên nền tảng là lòng tin. Nếu một chi nhánh của NHTM mất khả năng thanh toán, sự an toàn bị đe doạ dẫn đến mất lòng tin đối với khách hàng, lập tức các dòng tiền được rút ra khỏi ngân hàng, tạo nguy cơ mất khả năng thanh toán cao chi phí (Thất bại) lớn cho ngân hàng vay, lan truyền trong hệ thống (sự đổ vỡ hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân ở Việt Nam cuối những năm 80 thế kỷ XX). Gây mất uy tín của ngân hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế, ảnh hưởng tới khả năng phát triển cũng như lợi nhuận của ngân hàng. Những biến động trong quá trình hoạt động, làm cho các mục tiêu đạt được trên thực tế không như chu trình.( Gọi chung là rủi ro); Rủi ro cơ chế, lãi suất, tín dụng, thanh toán ...làm thay đổi vị thế của Ngân hàng, tính an toàn hệ thống không được đảm bảo. Để đạt mục tiêu lợi nhuận các NHTM phải đảm bảo khả năng thanh toán, quản lý rủi ro, có được những tài sản Có với mức rủi ro chấp nhận. Dành được những nguồn vốn có chi phí thấp là các mục tiêu cơ bản của mục tiêu quản lý tài sản của Ngân hàng. 1.1.3.3. Nguyên tắc quản lý tài sản của NHTM. - Tuân thủ pháp luật. NHTM là một doanh nghiệp được thành lập theo luật định. Hệ thống pháp luật chi phối phạm vi, đối tượng hoạt động của ngân hàng. Tuân thủ pháp luật là nguyên tắc quản lý tài sản của ngân hàng bởi: + Các quan hệ về sở hữu được xác lập trên cơ sở quy định của pháp luật. + Hệ thống pháp luật tiên tiến và đồng bộ là môi trường pháp lý chủ yếu, ảnh hưởng đến hoạt động thu lợi nhuận của ngân hàng. Luật pháp cung cấp cho các nhà quản lý những tiêu chuẩn pháp lý. Tiêu chuẩn pháp lý là chỗ dựa chắc chắn cho các nhà quản lý, khi ra những quy định quản lý và điều hành hoạt động doanh nghiệp. Tiêu chuẩn pháp lý có tính cưỡng chế. + Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với chức năng đặc biệt của mình (tạo và huỷ tiền), hoạt động của các NHTM làm ảnh hưởng chính đến lượng cung tiền trong lưu thông, ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ của Nhà nước. Về quản lý vĩ mô hoạt động của các NHTM luôn bị giới hạn bởi Ngân hàng Trung ương và các cơ quan Chính phủ khác. Việc tuân thủ pháp luật đối với các NHTM là làm cho chức năng và hoạt động của mình luôn thích ứng một cách hợp lý với môi trường pháp luật. Vấn đề đặt ra đối với các NHTM là: + Tuân thủ pháp luật: Làm cho hoạt động của ngân hàng thường bị trói buộc trong phạm vi quy định, có thể cơ hội thu lợi nhuận giảm (nếu hệ thống pháp lý thiếu đồng bộ, quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp không được cho phép đầy đủ, nhất là những doanh nghiệp Nhà nước), tuy vậy lại có tính phát triển an toàn, ổn định cao. + Khó khăn khi tuân thủ pháp luật là tính trễ của luật pháp so với thực tại hoạt động kinh tế- xã hội, trong chừng mực nào đó làm qua đi cơ hội kinh doanh. + Mâu thuẫn giữa quản lý nhà nước với mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp, mâu thuẫn này chưa được xử lý thoả đáng bằng các điều khoản luật pháp. - Đảm bảo khả năng thanh toán của các NHTM bằng quản lý các dự trữ và quản lý khả năng thanh khoản của tài sản. Hoạt động của các NHTM về cơ bản là sự vận động các dòng tiền liên tục thu nhận vào ngân hàng và chi trả các dòng tiền rút ra. Việc quản lý các nguồn dự trữ để đảm bảo cho thanh toán là yêu cầu đầu tiên, đó là việc các ngân hàng duy trì các nguồn tiền mặt, kể cả nguồn dự trữ pháp định và các tài sản có tính lỏng khác sao cho thoả mãn nhu cầu thanh khoản. Ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán coi đó như một nguyên tắc quản lý tài sản đó là: Ngân hàng được phép nhận tiền gửi và sử dụng nguồn tiền gửi để cấp tín dụng. Luật pháp bảo hộ quyền lợi cho những nguồn tiền gửi tại ngân hàng vì các lợi ích xã hội, khi các dòng tiền rút ra khỏi ngân hàng quá lớn, dẫn đến ngân hàng mất khả năng thanh toán tại thời điểm đó, theo luật định ngân hàng sẽ áp dụng các chế tài hành chính... Hoạt động kinh doanh ngân hàng bị định trệ, bởi tập trung của các hoạt động khi đó là việc quản lý tài sản của ngân hàng để duy trì khả năng thanh toán. Sự mất khả năng thanh toán ở một chi nhánh ngân hàng có thể dẫn đến sự phá sản không chỉ ở chi nhánh đó mà nó có tính lan truyền ảnh hưởng đến các ngân hàng khác thậm chí cả hệ thống ngân hàng. Các hình thức chủ yếu duy trì khả năng thanh toán: + Tiền mặt tại quỹ: Là khối lượng tiền mặt ngân hàng giữ tại két của mình, thường là khối lượng tiền được duy trì theo định mức cho từng chi nhánh. Tỷ lệ định mức phụ thuộc vào quan hệ, thói quen giao dịch trên khu vực, ở các khu vực kinh tế phát triển, khối lượng thanh toán lớn, quan hệ thanh toán không dùng tiền mặt chiếm tỷ trọng lớn. + Quỹ dự trữ bắt buộc do NHNN quy định trên tổng nguồn vốn huy động (theo kỳ hạn tiền gửi), số tiền này buộc các NHTM gửi tại NHNN, đây thực chất là khoản tiền dự trữ đảm bảo chi trả cho các dòng tiền rút ra khỏi ngân hàng, bởi lẽ nguồn vốn giảm, tỷ lệ dự trữ giảm và ngược lại. + Các tài sản có tính thanh khoản cao như: Trái phiếu kho bạc, chứng khoán Chính phủ, các chứng chỉ tiền gửi ngân hàng, nguồn tiền gửi ở các ngân hàng khác... Đối với các khoản cho vay do không có thị trường bán lại, chỉ có cách duy nhất chuyển thành tiền là thu nợ đến hạn. - Quản lý rủi ro và đa dạng hoá tài sản Có. Kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh có nhiều rủi ro (rủi ro kép). Rủi ro của bản thân ngân hàng và rủi ro hoạt động kinh doanh của khách hàng. Rủi ro tồn tại khách quan trong hoạt động kinh doanh, rủi ro trong hoạt động ngân hàng là việc làm thay đổi các chỉ tiêu của ngân hàng, dẫn đến ngân hàng không đạt được mục tiêu trong quá trình hoạt động. Rủi ro đơn thuần là do khả năng hạn chế của ngân hàng trong việc lường đoán trước những biến động kinh tế- xã hội, môi trường pháp lý. Việc quản lý rủi ro gắn với hoạt động ngân hàng trên các tiêu thức: + Quản lý con người : Sự suy thịnh của một doanh nghiệp, một phần cơ bản do con người tạo nên, một đội ngũ cán bộ có năng lực và phẩm chất tốt là nhân tố tạo ra khả năng cạnh tranh mạnh trong kinh tế thị trường. + Môi trường pháp lý thiếu đồng bộ, không ổn định làm cho ngân hàng gia tăng cho phí hoạt động trong việc chỉnh sửa, thay đổi các hoạt động về mặt pháp lý nhằm thực hiện tuân thủ pháp luật. + Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng tác động ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn lực tài chính, thu nhập của ngân hàng (vì lãi suất là giá cả của hàng hoá, dịch vụ ngân hàng), rủi ro tín dụng làm cho ngân hàng tốn kém chi phí bù đắp. Để hạn chế rủi ro, giảm thiểu chi phí, tránh tổn thất cho ngân hàng, các NHTM áp dụng sự đa dạng hoá hoạt động, chính là đa dạng hoá các tài sản theo nguyên tắc “Không bỏ tất cả trứng vào một rổ”. Thay vì tập trung vào một hay một số hoạt động chuyên môn hoá, tập trung vốn vào một số ít lĩnh vực kinh doanh ngân hàng._. mở rộng các hoạt động, để đa dạng hoá các lĩnh vực kinh doanh, với tập hợp các chuyên môn khác nhau. - Lấy thu bù chi và có lãi, hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi. Lấy thu bù chi là nguyên tắc không thể thay thế trong hoạt động kinh doanh, có thu mới có chi. Chi phí phải tạo ra các nguồn thu mới, thu lớn hơn chi đảm bảo mức lợi nhuận mong đợi. Tổng thu - Tổng chi = Lợi nhuận Đây là nguyên tắc xuyên suốt quá trình thực hiện các chức năng quản lý từ hoạch định mô hình đến tổ chức, điều hành, kiểm tra, đánh giá. Vị thế tài chính và sự an toàn hệ thống NHTM qua công thức trên có thể đánh giá trong suốt kỳ tài chính, (thường là một năm): Nếu lợi nhuận (lỗ) khả năng dự trữ tài chính cho phép, hoạt động ngân hàng bình thường, song khả năng cạnh tranh bị giảm sút, khó khăn cho kỳ tài chính sau tăng, đến một thời hạn nhất định hoạt động ngân hàng trở nên đình đốn bị suy kiệt về tài chính, an toàn hệ thống bị đe doạ. Nguyên tắc này được tham chiếu cho hầu như tất cả các yêu cầu quản lý tài sản của NHTM nói chung. Việc hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi là một nguyên tắc quản lý tài sản. + Nghiệp vụ nhận vốn tiền gửi của ngân hàng (tài sản Nợ chủ yếu trong tổng tài sản Nợ của ngân hàng), việc hoàn trả gốc và lãi đúng hạn là điều kiện được quy định bằng luật với lý do: Người gửi tiền được pháp luật bảo hộ, tiền gửi ngân hàng có bảo hiểm. Hoạt động ngân hàng được xây dựng dựa trên nền tảng lòng tin. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng là bởi sự tin tưởng vào ngân hàng. + Nghiệp vụ cho vay: Việc hoàn trả gốc và lãi đúng hạn là một trong những nguyên tắc tín dụng. Thực hiện nguyên tắc này ngân hàng và khách hàng có các quan hệ khác đảm bảo tiền vay, bởi hoạt động cho vay là hoạt động có rủi ro cao, tài sản ngân hàng có tính lỏng kém nhất. Thông qua các nghiệp vụ chính trên, nguyên tắc hoàn trả đúng hạn là nguyên tắc chung trong các quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng, giữa các ngân hàng với nhau và giữa ngân hàng với Nhà nước. - Sàng lọc - giám sát, bảo lãnh, thế chấp: Trong lĩnh vực quản lý tài sản của NHTM nhất là quản lý tiền cho vay, để giảm thiểu rủi ro, các ngân hàng đưa ra các nguyên tắc áp dụng đó là: Sàng lọc - giám sát, thế chấp, bảo lãnh. Sàng lọc là việc ngân hàng lựa chọn khách hàng trong thị trường cho vay, như sắp xếp, đánh giá phân loại khách hàng theo trật tự ưu tiên: Tốt, trung bình, yếu kém; nhằm đánh giá nguyên tắc hoàn trả cao, đúng hạn, giảm rủi ro về đạo đức; khi khách hàng luôn có xu hướng tuỳ ý sử dụng tiền vay vào những hoạt động mạo hiểm có lợi nhuận cao, rủi ro lớn. Ngân hàng giám sát quá trình hoạt động của người vay tiền, buộc họ tuân thủ những quy định đã được thiết lập giữa hai bên, bằng cách cưỡng chế thi hành những quy định hạn chế nếu họ không tuân theo. Sự sàng lọc, giám sát của ngân hàng và tập hợp thông tin tạo ra một nguyên tắc quan trọng của việc quản lý các khoản tiền cho vay. Trong hoạt động cho vay, ngân hàng sử dụng những phương pháp để giảm thiểu rủi ro và ít phải can thiệp sâu vào hoạt động của khách hàng bằng các quan hệ thế chấp bảo lãnh. Thế chấp là việc sử dụng các loại tài sản như: Bất động sản, tài sản, giấy tờ có giá dùng để thế chấp cho khoản vay. Quan hệ này được luật định quy định cụ thể, buộc ngân hàng và người vay lựa chọn các hình thức đảm bảo tiền vay và tuân thủ. Việc bảo lãnh cho một khoản vay là người thứ 3, người này đứng ra cam kết trả nợ thay cho người vay, nếu người vay không có khả năng hoàn trả đúng hạn. Các quan hệ bảo lãnh có thể được tái bảo lãnh. 1.2. Hiệu quả kinh doanh của NHTM. Hiệu quả kinh doanh của NHTM được xem xét một cách đơn giản và trực tiếp nhất là lợi nhuận; lợi nhuận được xác định trên cơ sở nguồn thu nhập và chi phí của các NHTM trong kỳ tài chính (thường là một năm). 1.2.1. Thu nhập của NHTM. Thu nhập của NHTM bao gồm toàn bộ các khoản thu có thể thu được từ các lĩnh vực kinh doanh ngân hàng và các nghiệp vụ kinh doanh khác liên quan. Thu nhập ngân hàng là nguồn để trang trải cho các chi phí và tạo ra lợi nhuận ngân hàng. Các nguồn thu nhập chủ yếu của ngân hàng như: - Thu từ hoạt động cho vay: Là nguồn thu nhập lớn nhất của các NHTM (thường chiếm trên 60% tổng thu nhập). Nguồn thu nhập này phụ thuộc vào: + Khối lượng tiền cho vay. + Lãi suất tiền vay: Lãi suất cho vay do quan hệ cung cầu, cạnh tranh, mức khống chế của Ngân hàng Trung ương và thời hạn của khoản tiền vay quyết định. + Rủi ro tín dụng hay chất lượng của hoạt động cho vay thể hiện: Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó thu, nợ không có khả năng thu... + Môi trường kinh doanh và cạnh tranh: Môi trường kinh tế, luật pháp, là nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Cạnh tranh dẫn đến xu hướng tăng lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay làm giảm thu nhập của ngân hàng. - Thu nhập từ dịch vụ mang tính chất tín dụng: + Tín dụng chấp nhận: Việc ngân hàng chấp nhận các hối phiếu thương mại là hình thức cấp đảm bảo với người bán hoặc người xuất khẩu - Nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu. + Tín dụng bảo lãnh: Ngân hàng cấp bảo lãnh vì nghĩa vụ thanh toán khi quan hệ tín dụng giữa khách hàng và NHTM khác hoặc quan hệ tín dụng giữa các khách hàng với nhau (tín dụng thương mại). + Tín dụng thuê mua: Là những khoản cho vay không mang tính tiền tệ mà ngân hàng dùng những tài sản của mình cho thuê. + Bao thanh toán: Là ngân hàng mua đứt hoặc ứng trước tiền cho các hoá đơn thu nợ của khách hàng. - Thu nhập từ nghiệp vụ đầu tư. Ngân hàng sử dụng vốn đầu tư vào các giấy tờ có giá, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu kho bạc, hối phiếu... - Thu nhập từ dịch vụ thanh toán, tiền gửi, dịch vụ kho quỹ. NHTM với chức năng trung gian thanh toán, thông qua nghiệp vụ thanh toán, ngân hàng thu hút được tiền gửi thanh toán của khách hàng bổ xung cho nguồn vốn kinh doanh và thu lệ phí thanh toán. + Dịch vụ tiền gửi: Thông thường các NHTM sử dụng lợi thế của mình là có các chi nhánh được đặt ở nhiều nơi, kỹ thuật thanh toán giữa các ngân hàng không ngừng được phát triển. Ngân hàng dễ dàng cung cấp dịch vụ thu gom tiền cho các doanh nghiệp thông qua trung gian thanh toán, hình thức này giúp các doanh nghiệp lưu chuyển tiền bán hàng nhanh, sử dụng vốn của doanh nghiệp có hiệu quả hơn, qua đó ngân hàng thu lợi từ phí và quyền sử dụng vốn lưu ký trên tài khoản trong quá trình thanh toán. + Dịch vụ kho quỹ: Là ngân hàng cung cấp và nhận chuyển tiền và thanh toán bằng tiền mặt cho khách hàng, ngân hàng thu phí trên số tiền rút ra bằng tiền mặt hay nộp chuyển tiền cho cá nhân. Ngân hàng sử dụng hệ thống kho quỹ của mình cho thuê, ký thác, nhận bảo quản tài sản có giá. - Thu nhập từ nghiệp vụ khác. Ngoài nguồn thu trên, các ngân hàng còn có các khoản thu khác của mình, đó là thu từ các hoạt động dịch vụ, uỷ thác, tài trợ thuê mua trực tiếp, hoạt động kinh doanh hối đoái và các dịch vụ khác như cung cấp các giấy tờ in cho khách hàng. 1.2.2. Chi phí của NHTM. Là toàn bộ chi phí liên quan đến hoạt động của NHTM, ở phần này chúng ta đề cập đến các khoản chi phí được xác định, chi phí trực tiếp và gián tiếp có liên quan đến toàn bộ hoạt động được cấu thành trong tổng chi phí làm giảm lợi nhuận xác định của ngân hàng. a. Chi phí trực tiếp cho hoạt động kinh doanh. Là những khoản chi phí trực tiếp đối với tài sản Nợ và hoạt động cho vay, đầu tư, đây là phần chi chủ yếu trong tổng chi phí. - Chi trả lãi tiền gửi, tiền vay: Là khoản chi mà NHTM trả cho những người gửi tiền, và những người cho vay, theo mức lãi suất trên số tiền gửi và tiền vay. Khoản mục chi này thường chiếm trên 50% tổng chi phí của ngân hàng, nó phụ thuộc vào các yếu tố: + Khối lượng tiền gửi, tiền vay. + Lãi suất tiền gửi, tiền vay: Lãi suất thường biến động và phụ thuộc vào thời gian vay, gửi tiền, thời gian càng dài lãi suất càng cao. + Kết cấu của các loại tiền gửi, tiền vay trong tổng nguồn vốn theo lãi suất: Như kết cấu của tổng nguồn vốn, trong đó loại có kỳ hạn dài lãi suất cao chiếm đa số có chi phí lớn hơn có loại có kỳ hạn ngắn lãi suất chiếm thiểu số. Đây là một yếu tố được các nhà quản lý ngân hàng quan tâm nhằm giảm giá vốn khả dụng. - Chi kinh doanh khác: Chi phí khác ở mục này gồm các khoản chi phí trực tiếp liên quan đến tài sản ngân hàng: Chi phí cho các hợp đồng đòi nợ, chi phí hoa hồng cho các tổ chức, cá nhân có quan hệ trực tiếp tới các nghiệp vụ hoạt động ngân hàng như hoạt động cho vay... Chi phí kinh doanh hối đoái và chi phí kinh doanh khác. b. Chi phí kinh doanh gián tiếp. Là những khoản chi phí được phân bổ vào giá thành của sản phẩm trong thời kỳ nhất định. Đối với ngân hàng, chi phí gián tiếp hay còn gọi là chi phí quản lý (Biểu 2.9) gồm một số khoản mục chi phí sau: - Chi phí cho nhân viên: Đó là tiền lương, bảo hiểm, phúc lợi cho cán bộ, nhân viên. Kết cấu chi này có xu hướng giảm tương đối vì do các ngân hàng có mức tăng lương, tăng lao động chậm hơn so với gia tăng nhanh chóng các loại hình dịch vụ và sự tăng cường kỹ thuật, đặc biệt là sử dụng tin học, nên dù hoạt động ngân hàng được mở rộng, khối lượng công việc tăng lên không ngừng (tài sản ngân hàng tăng nhanh) nhưng lao động, chi phí tiền lương vẫn giảm tương đối. - Chi phí liên quan đến tài sản sở hữu: + Khấu hao cơ bản tài sản cố định, chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định, chi phí mua sắm mới tài sản, công cụ lao động... Xu hướng loại chi phí này ngày càng tăng do cải tiến trang thiết bị kỹ thuật hiện đại hoá ngân hàng, trụ sở giao dịch và chi phí cho lập mới các chi nhánh. + Chi phí in ấn, thiết bị văn phòng: Các NHTM chi phí khá lớn cho khoản mục này như đơn từ, văn kiện in sẵn, séc, kỳ phiếu, hồ sơ cho vay... + Các chi phí khác: Là những chi phí cần thiết cho hoạt động như điện, nước, xăng dầu vận chuyển, thông tin, báo chí, quảng cáo, tiếp thị, đào tạo... - Mục cuối cùng của chi phí: Trích lập quỹ dự phòng rủi ro, trích bảo hiểm tiền gửi. Việc chống lại các sai lầm và rủi ro trong hoạt động ngân hàng là yêu cầu không thể thiếu được, khi mà các khoản cho vay, các nghiệp vụ kinh doanh khác luôn tiềm ẩn tỷ lệ rủi ro cao, lập dự phòng để bù đắp cho các tài sản ngân hàng bị thất thoát, mất khả năng thanh toán do chủ quan của ngân hàng và khách quan đem lại. Để đảm bảo an toàn trong thanh toán, chi trả tiền gửi các NHTM tham gia bảo hiểm tiền gửi vừa tránh rủi ro vừa đảm bảo niềm tin cho khách hàng gửi tiền. 1.2.3. Lợi nhuận của NHTM. NHTM là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tự chủ về tài chính, nên mục tiêu cao nhất vẫn là tìm kiếm lợi nhuận, lợi nhuận quyết định sự hưng thịnh, đồng thời là chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Quan điểm của các nhà kinh tế coi lợi nhuận là hình thái của giá trị thặng dư, là phần giá trị mới được tạo ra thông qua quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh. Lợi nhuận theo cách hiểu đơn giản là phần giá trị dôi ra của một hoạt động kinh doanh, sau khi đã trừ đi mọi chi phí cho hoạt động đó. Hay lợi nhuận là phần chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí (lãi ròng) được xác định trong một kỳ tài chính (thường là một năm). Tổng thu nhập - Tổng chi phí = Lợi nhuận (Tổng chi phí, trong đó bao gồm thuế thu nhập) Trong quá trình hoạt động kinh doanh đối với doanh nghiệp, mục tiêu lợi nhuận trong ngắn hạn không phải luôn là mục tiêu hàng đầu, mà các mục tiêu khác được chú trọng hàng đầu như: Doanh thu, thị phần kinh doanh tiêu thụ hàng hoá, hệ số an toàn kinh doanh... Song về dài hạn, mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận là sự tiếp cận của bất kỳ doanh nghiệp nào. Lợi nhuận ngân hàng là một chỉ tiêu có ý nghĩa quan trọng, nó là điều kiện cần có để thu hút vốn mới, nhằm cải thiện và mở rộng dịch vụ ngân hàng: - Nguồn dự phòng chi phí cho các chi tiêu không dự kiến trước và bù đắp thiệt hại xẩy ra. - Đối với cổ đông, lợi nhuận đem lại lợi tức cho họ. - Nguồn bổ xung vốn tự có của ngân hàng, tạo vị thế một ngân hàng mạnh hơn, an toàn hơn, hữu hiệu hơn. Lợi nhuận và tỷ lệ lợi nhuận thích hợp là điều rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NHTM. Có các tiêu chuẩn hay dùng đo lường lợi nhuận ngân hàng đó là: - Lợi nhuận trên tích sản (Return on asset- ROA): Được tính bằng cách chia lợi tức ròng của ngân hàng cho các tích sản trung bình. Được sử dụng để đánh giá tích sản được sử dụng như thế nào. - Lợi nhuận trên vốn cổ phần (Return on equity - ROE) : Bằng cách chia lợi tức ròng của ngân hàng cho vốn cổ phần trung bình, nó có ý nghĩa đối với các cổ đông. - Lãi ròng tiền tệ: Là mức chênh lệch giữa thu lãi và chi phí lãi của một ngân hàng, được tính bằng cách lấy thu nhập lãi trừ đi chi phí lãi, tất cả chia cho tích sản sinh lãi ròng là chỉ tiêu dự báo trước khả năng sinh lợi của ngân hàng. Thu nhập và chi phí ảnh hưởng đến lợi nhuận: Chi phí và thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của NHTM. Thu nhập lớn hơn chi phí thì ngân hàng có lãi (thu được lợi nhuận) và ngược lại (bị lỗ). Lợi nhuận tỷ lệ nghịch với chi phí và tỷ lệ thuận với thu nhập, do vậy, việc quản trị hoạt động kinh doanh của NHTM đòi hỏi vấn đề đặt ra là quản lý các nguồn thu và quản lý chi phí trong ngắn hạn và dài hạn để đạt lợi nhuận mong đợi. Quản lý trong mối quan hệ chi phí là nhân tố tạo lập nguồn thu trong tương lai, không những bù đắp được chi phí hiện tại cho ngân hàng mà còn phải có lãi. 1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh. Phân tích hoạt động ngân hàng thông qua các chỉ tiêu về thu nhập, chi phí, chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng, các chỉ tiêu về lợi nhuận, đó là một yêu cầu để nhận ra ưu thế, tìm ra các tồn tại, rủi ro tiềm ẩn để phòng ngừa và phát hiện lợi thế tiềm năng, trên cơ sở đó đánh giá mức độ lành mạnh, vững chắc, an toàn, đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nguồn dữ liệu được sử dụng phân tích là: Bảng cân đối tài khoản, Bảng tổng kết tài sản, Báo cáo thu nhập chi phí. Có một số chỉ tiêu cơ bản sau: - Lãi suất thực tế bình quân đầu vào của nguồn vốn (R1): R1= Tổng chi phí phải trả lãi x 100% Tổng nguồn vốn bình quân Chỉ tiêu này cho biết ngân hàng huy động nguồn vốn vào với lãi suất đã trả bình quân là bao nhiêu. từ đó phân tích bắc cầu và có điều chỉnh kết cấu nguồn vốn nhằm giảm lãi suất bình quân. - Lãi suất đầu vào bình quân cho nguồn vốn được sử dụng cho vay và đầu tư (R2) R2= Tổng chi phí phải trả lãi x 100% Tổng nguồn vốn - Dự trữ bắt buộc Bình quân và dự trữ thanh toán Chỉ tiêu này cho biêt lãi suất đầu vào của nguồn vốn cho vay và nguồn vốn đầu tư khác, từ đó có thể dự tính được chênh lệch 2 đầu với lãi suất cho vay, dự tính được thu nhập kế hoạch trong kỳ. - Lãi suất cho vay thực tế (r1): r1= Tổng thu lãi cho vay x 100% Tổng dư nợ bình quân trong kỳ So sánh lãi suất cho vay thực tế với lãi suất cho vay danh nghĩa, đánh giá tỷ lệ dư nợ mang lại thu nhập trên tổng dư nợ. Mặt khác dùng để xác định kết quả chênh lệch 2 đầu so với đầu vào của nguồn vốn. - Các chỉ tiêu về chi phí. + Tỷ lệ chi phí không phải lãi suất (H1): H1 = Chi phí không phải lãi suất x 100% Tổng chi phí + Tỷ lệ chi phí cho cán bộ công nhân viên (H2): H2 = Chi phí cho cán bộ công nhân viên x 100% Tổng chi phí + Hệ số chi phí không phải lãi suất so với dư nợ và tổng nguồn vốn (H3): H3= Chi phí không phải trả lãi x 100% Tổng dư nợ - Tổng nguồn vốn bình quân trong kỳ bình quân trong kỳ Các chỉ tiêu chi phí được sử dụng đánh giá kết cấu chi phí, đánh giá tỷ lệ chi phí hiện tại so với chênh lệch lãi suất 2 đầu, từ đó có thể dự kiến lợi nhuận kế hoạch trước thuế. - Tỷ lệ nợ quá hạn: Tỷ lệ nợ quá hạn= Tổng số nợ quá hạn x 100% Tổng dư nợ Được xác định tại thời điểm báo cáo, sử dụng so sánh với kỳ trước, đánh giá chất lượng hoạt động cho vay. - Lợi nhuận ròng trên tổng tài sản Có bình quân: Đánh giá 1 đồng tài sản Có mang lại số lợi nhuận là bao nhiêu, hệ số đánh giá hiệu quả tài sản sinh lời. - Tỷ lệ lợi nhuận ròng trên tổng thu nhập (L): L = Lợi nhuận ròng x100% Tổng thu nhập Hệ số phản ánh thực lãi thu được trên mỗi đồng thu nhập, đây là thước đo hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh, vị thế tài chính, khả năng chấp nhận trước những biến động bất lợi như lãi suất, tỷ giá, quy mô hoạt động. - Lợi nhuận ròng bình quân đầu người : Lợi nhuận ròng bình quân đầu người = Lợi nhuận ròng x100% Lao động bình quân trong kỳ Phản ánh hiệu quả sử dụng lao động, hiệu quả mang lại do tăng năng suất lao động. Qua đó đánh giá sự hợp lý của công tác tổ chức lao động. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của NHTM. 1.3.1. Lãi suất. Một nhân tố cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập, chi phí, là sự thay đổi lãi suất cho vay hay lãi suất huy động vốn. Lãi suất cho vay: Ngân hàng thoả thuận cho khách hàng sử dụng một khoản với điều kiện hoàn trả và một tỷ lệ lãi suất trên vốn vay. Lãi suất cho vay là giá cả một khoản tiền mà ngân hàng cho khách hàng vay vốn. Lãi suất cho vay biến động phụ thuộc vào các yếu tố như: - Quan hệ cung cầu về tín dụng trên thị trường. - Mức độ rủi ro của tín dụng trên các yếu tố: Thời gian, quy mô cho vay, chi phí thực hiện, môi trường sử dụng vốn, quan hệ đảm bảo tiền vay... - Các điều chỉnh có tính bắt buộc của môi trường pháp lý. - Cạnh tranh giữa các NHTM đã tác động và làm cho lãi suất cho vay có xu hướng giảm dần. Có nhiều mức lãi suất khác nhau được sử dụng cho các đối tượng vay vốn khác nhau, đây là yếu tố gây bất lợi cho các ngân hàng có quy mô nhỏ, khả năng tài chính có hạn. Lãi suất huy động vốn: Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn khi rút tiền ra khỏi ngân hàng, khách hàng có được một khoản tiền lớn hơn số tiền gửi ban đầu. Phần chênh lệch đó là một phần chi phí của ngân hàng mang lại thu nhập cho khách hàng. Tỷ lệ được xác định giữa phần chênh lệch và khoản vốn gửi vào ban đầu được tính theo thời gian gọi là lãi suất huy động vốn. Lãi suất huy động vốn cũng biến động phụ thuộc vào các yếu tố: - Kỳ hạn tiền gửi. - Quan hệ cung cầu về vốn. - Chỉ số giá cả chung và lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế. - Các điều chỉnh có tính bắt buộc của môi trường pháp lý. Lãi suất huy động vốn có xu hướng tăng dần bởi nhân tố cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng làm ngày càng co hẹp khoảng cách giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn. NHNN Việt Nam quy định trần lãi suất cho vay đối với các NHTM. Sự thay đổi lãi suất dẫn đến sự thay đổi kết quả kinh doanh của các NHTM. Sự thay đổi lãi suất làm tăng chi phí, giảm thu nhập (trường hợp lãi suất cho vay hạ, lãi suất huy động vốn tăng) làm dự trữ tài chính của ngân hàng giảm dẫn đến giảm khả năng cạnh tranh, thậm chí lãi suất cho vay không bao hàm mức để bù đắp rủi ro trong hoạt động. Biến động lãi suất bất lợi cho ngân hàng còn làm giảm lợi nhuận, tác động đến sự an toàn của hệ thống. NHNN Việt Nam quy định trần lãi suất cho vay làm cho lãi suất cho vay không phản ánh đúng giá cả thông qua quan hệ cung cầu tạo nên. 1.3.2. Các mức phí của dịch vụ ngân hàng. Hoạt động ngân hàng hiện đại có tỷ lệ thu dịch vụ trong tổng thu nhập của ngân hàng chiếm tỷ lệ đáng kể (từ 30 đến 45%, thông qua thu phí về việc khách hàng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng) Xu hướng về dài hạn có biểu hiện như: Trong khi chênh lệch lãi suất ngày càng thu hẹp, mức thu phí dịch vụ có hướng tăng dần. Mức phí phụ thuộc vào các yếu tố như: - Sản phẩm độc quyền và sự tiện ích của dịch vụ ngân hàng. - Hoạt động cạnh tranh. - Uy tín của ngân hàng. - Chỉ số giá cả chung về hàng hoá dịch vụ trong nền kinh tế. 1.3.3. Chất lượng của hoạt động cho vay. Như các phân tích trên đã nêu, hoạt động cho vay là hoạt động đem lại thu nhập lớn cho ngân hàng, do vậy chất lượng của loại hoạt động này ảnh hưởng toàn bộ doanh lợi của ngân hàng. Biểu hiện của sự suy giảm doanh lợi là nợ quá hạn tăng cao, trong đó gồm phần tài sản khó thu và có thể thất thu. Việc trích lập rủi ro gia tăng theo tỷ lệ nợ quá hạn, ở một số NHTM thực tế không đủ quỹ tài chính để trích lập dự phòng rủi ro. 1.3.4. Tỷ trọng các loại nguồn vốn trong tổng số nguồn vốn. Cơ cấu nguồn vốn có nhiều loại khác nhau, tương ứng với các mức lãi suất khác nhau như: Nguồn tiền gửi trên tài khoản có thể phát hành séc, nguồn vốn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn... Thực tế hiện nay như kết cấu huy động vốn của NHCT Việt Nam, nguồn vốn có kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao. Sự biến động của kết cấu các loại nguồn vốn (giả sử tổng nguồn không đổi) dẫn đến thay đổi lượng chi phí trả lãi cho nguồn vốn. Sự giảm chi phí do kết cấu các loại nguồn vốn có lãi suất thấp chiếm tỷ lệ cao có ý nghĩa kéo giảm lãi suất bình quân chung (giá cả nguồn vốn giảm), đồng thời với lượng chi phí trả lãi có nguồn vốn giảm và ngược lại. Đây là nhân tố mà các nhà quản trị ngân hàng luôn luôn tìm kiếm, mục tiêu là các nguồn vốn có lãi suất thấp hoặc thực hiện chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn nhằm giảm chi phí. 1.3.5. Các điều kiện về kinh tế. Khả năng sinh lợi của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào các điều kiện về kinh tế. Các ngân hàng có khách hàng quan hệ thuộc thành phần kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao, nằm trong những khu kinh tế- xã hội phát triển, hiệu quả của hoạt động ngân hàng tăng lên, so với các khu vực kinh tế khác và đối tượng phục vụ thuộc các thành phần kinh tế kém phát triển hơn. 1.3.6. Quy mô ngân hàng. Với một NHTM lớn, có chi nhánh phụ thuộc rộng khắp, có lợi thế hơn các NHTM có quy mô nhỏ, trong các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng đạt được mức doanh thu cao hơn. Tâm lý của khách hàng là họ tin tưởng hơn ở các ngân hàng có quy mô lớn về tính an toàn cao, đa dạng các loại hình dịch vụ và có chi phí thấp. 1.3.7. Quản trị và đội ngũ nhân viên chuyên môn. Quản lý bao gồm các yếu tố: Hoạt động - Tổ chức - Tuyển dụng nhân viên - Hướng dẫn và kiểm tra. Các NHTM lớn, hầu hết là mô hình ngân hàng chi nhánh, quản trị có vai trò quan trọng trong việc huy động nội lực để tạo ra sự phát triển chung, rộng khắp trong toàn bộ hệ thống. Các ngân hàng có đội ngũ nhân viên chuyên môn giỏi, dể có khả năng sinh lời hơn trong hoạt động ngân hàng, mặt khác có thể khắc phục được những hạn chế về giới hạn tiềm năng. Ngoài các yếu tố trên, các yếu tố khác có ảnh hưởng đến thu nhập như: Cơ chế chính sách, môi trường pháp lý, rủi ro về tỷ giá ngoại hối... Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HÀ NAM 2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Nam 2.1.1. Một số đặc điểm chung. Hà Nam là một tỉnh mới được tái thành lập từ tháng 1 năm 1997, trên cơ sở tách ra từ tỉnh Nam Hà cũ. Toàn tỉnh có 5 huyện, 1 thị xã, diện tích tự nhiên 842,4 km2, dân số trên 791 ngàn người, mật độ trung bình trên 939 người/ km2. Vị trí địa lí thuận lợi cho phát triển kinh tế, là khu vực chuyển tiếp giữa vùng kinh tế đồng bằng Sông Hồng với vùng kinh tế miền Trung. Phía Bắc giáp Hà Tây, Nam giáp Ninh Bình, Đông giáp Nam Định, Hưng Yên, Tây giáp Hoà Bình. Giao thông thuận lợi, đây là cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội, là đầu mối giao thông Bắc Nam và đường bộ có quốc lộ 1A, đường sắt có tuyến đường sắt Bắc Nam, đường sông có sông Hồng, sông Châu, sông Nhuệ và sông Đáy. Biểu 2.1: Kết quả tăng trưởng kinh tế của Tỉnh Hà Nam qua các năm. Chỉ tiêu 1999 2000 2001 1. Tổng sản phẩm trung bình ( Tỷđồng) 2. Tốc độ tăng GDP 3. Thu nhập bình quân ( giá thực tế đơn vị ngàn đồng) 4. Mức tăng thu nhập 96 8.5 2644 9.3 105 8,1% 2.881 8,2% 114 8% 3046 5.7 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Nam năm 2001. Qua số liệu tăng trưởng kinh tế cho thấy tỉnh Hà Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Thu nhập bình quân đầu người tăng tương ứng với tăng trưởng kinh tế, song do xuất phát điểm ở mức thấp nên bình quân đầu người chỉ bằng 50% bình quân toàn quốc. Kinh tế của tỉnh năm 2001 như sau: Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng: 3,8% Giá trị sản xuất công nghiệp tăng: 15,6% Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 23,2 triệu tăng 7,7% 2.1.2. Đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội. Tỉnh Hà Nam có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế toàn diện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh song cũng không ít khó khăn ảnh hưởng đến con đường phát triển đó là: Quy mô tỉnh nhỏ, diện tích canh tác bình quân đầu người thấp, cơ sở hạ tầng mới đang ở giai đoạn đầu quy hoạch và phát triển, thiếu nguồn lao động kỹ thuật, lao động được đào tạo. Cho nên Hà Nam vẫn là một tỉnh nghèo thể hiện ở thu nhập bình quân đầu người, nguồn thu ngân sách thấp. Nhưng với tiềm năng và thế mạnh của mình, trong những năm tới Hà Nam sẽ là một trong những tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao bởi đã hình thành các khu công nghiệp tập trung (Khu công nghiệp vật liệu xây dựng Kim Bảng, khu công nghiệp Đồng Văn...) các vùng sản xuất hàng hoá nông nghiệp, vùng nghề, làng nghề và có nguồn lao động được chú trọng nâng cao. 2.2. Khái quát về mô hình tổ chức hoạt động của NHCT Hà Nam. - Tư cách pháp nhân: + Là một đơn vị thành viên trực thuộc NHCT Việt Nam (theo mô hình Tổng công ty Nhà nước hạng đặc biệt) + Có tư cách pháp nhân phụ thuộc thực hiện theo sự uỷ quyền của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam trong tất cả các hoạt động kinh doanh- dịch vụ, có con dấu riêng. + Thực hiện chế độ hạch toán - kế toán đầy đủ chi phí và thu nhập. + Phụ thuộc vào NHCT Việt Nam về phân phối thu nhập và tất cả các cơ chế quản lý, cơ chế nghiệp vụ. - Mô hình tổ chức: NHCT Hà Nam thực hiện theo mô hình tổ chức của NHCT Việt Nam bao gồm: Ban giám đốc chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về hoạt động kinh doanh và tổ chức cán bộ tại chi nhánh. Hoạt động nghiệp vụ chính của ngân hàng được tổ chức theo các phòng ban chuyên môn đó là: Phòng kinh doanh; Phòng kế toán tài chính; Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ; các Phòng giao dịch; các Quỹ tiết kiệm. Tổng số lao động đến 31/12/2001 là 95 cán bộ. Cơ cấu cán bộ phân theo trình độ : Đại học và tương đương 41%; Cao đẳng 9%; Trung cấp và cao cấp nghiệp vụ ngân hàng 40% Sơ cấp và chưa qua đào tạo 10%. - Các sản phẩm dịch vụ chủ yếu: + Huy động tiền nhàn rỗi trong dân cư. + Đầu tư cho vay các thành phần kinh tế. + Tổ chức dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước. + Dịch vụ ngân quỹ. + Chi trả kiều hối. - Các khách hàng chủ yếu: Khách hàng truyền thống của NHCT Hà Nam là các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ thương mại, xuất nhập khẩu. Ngoài ra còn có các hộ sản xuất kinh doanh tiểu thủ công nghiệp. 2.3. Thực trạng hoạt động kinh doanh NHCT Hà Nam (1999 - 2001). 2.3.1. Kết quả phát triển tài sản Nợ, tài sản Có (1999-2001) Để hình dung một cách tổng quát về thực tế hoạt động của NHCT Hà Nam, chúng ta nghiên cứu bảng tổng kết tài sản của ngân hàng qua các năm 1999, 2000, 2001. Từ đó đi sâu phân tích các mặt chính yếu như: Các nghiệp vụ ngân hàng đang thực hiện, thị trường kinh doanh gắn với nguồn vốn và sử dụng vốn, thu nhập và chi phí, quỹ thu nhập của đơn vị. Qua đó đánh giá hiệu quả kinh doanh thông qua sử dụng nguồn lực nội tại của ngân hàng. Biểu số 2.2: Bảng tổng kết tài sản của NHCT Hà Nam. Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Tài sản Có (sử dụng vốn) a/ Dự trữ và thanh toán 1.Tiền mặt và ngân phiếu thanh toán 2. Tiền gửi tại NHNN 3. Giá trị tồn kho kim loại, đá quý b/ Các khoản đầu tư và cho vay b1/ Các khoản đầu tư 1.Tiền gửi tại các TCTD trong nước 2. Tiền gửi tại các TCTD nước ngoài 3. Cho vay các TCTD 4. Đầu tư vào chứng khoán TCTD khác 5. Đầu tư vào tín phiếu NHNN 6. Đầu tư vào chứng khoán Chính phủ 7. Giá trị tín phiếu mang đi cầm cố thế chấp 8. Hùn vốn mua cổ phần b2/Cho vay nền kinh tế 1. Cho vay ngắn hạn 2.Cho vay trung hạn 3. Cho vay dài hạn 4. Cho vay tài trợ uỷ thác 5. Cho vay khác đối với các TCKT - cá nhân Trong đó : - Cho vay thanh toán công nợ 6. Cho vay không có đảm bảo 7. Các khoản nợ chờ xử lý có tài sản xiết, gán nợ 8. Các khoản nợ có tài sản liên quan đến vụ án 9. Trả thay trong bảo lãnh và tái bảo lãnh 10. Cho thuê tài chính 11. Nợ cho vay được khoanh phân tích b2 Nợ quá hạn trong B2 Nợ quá hạn đến 6 tháng Nợ quá hạn từ 6 tháng đến 1 năm Nợ khó đòi Cho vay doanh nghiệp nhà nước(DNNN) trong B2 c/ Thanh toán vốn 1.Thanh toán với TCTD khác 2. Tài khoản điều chuyển vốn Trong đó : - Điều chuyển vốn kế hoạch - Điều chuyển vốn ngoại tệ 3. Thanh toán khác d/ Tài sản Có khác 1. Tài sản cố định 2. Thanh toán mua bán ngoại tệ kinh doanh 3. Lãi cộng dồn dự thu 4. Các khoản phải thu 5. Lỗ 6. Chi phí 7. Tài sản Có khác Cân số Tài sản Nợ (nguồn vốn) a/ Vốn huy động 1. Tiền gửi doanh nghiệp Trong đó : - Tiền gửi không kỳ hạn - Tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng - Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên - Tiền gửi vốn chuyên dùng - Tiền gửi quản lý và giữ hộ - Tiền gửi đảm bảo thanh toán - Tiền gửi kho bạc nhà nước 2. Tiền gửi dân cư 2.1. Tiền gửi tiết kiệm Trong đó : - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn - Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn từ 1 đến 3 tháng - Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn từ 6 đến 9 tháng - Tiền gửi tiết kiêm có kỳ hạn dưới 12 tháng khác - Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên 2.2. Phát hành các công cụ nợ (Trong đó loại từ 12 tháng trở lên ) 3. Tiền gửi của các TCTD khác - Tiền gửi của TCTD trong nước - Tiền gửi của TCTD nước ngoài - Nhận vốn để cho vay đồng tài trợ b/ Các khoản vay 1. Vay NHNN Trong đó : - Khoanh nợ - Thanh toán công nợ - Thanh toán bù trừ 2. Tiền vay TCTD - Vay TCTD trong nước - Vay TCTD nước ngoài - Vốn tài trợ uỷ thác đầu tư c/ Thanh toán vốn 1. Thanh toán với TCTD khác 2. Tài khoản điều chuyển vốn Trong đó : - Điều chuyển vốn trong kế hoạch - Điều chuyển vốn ngoại tệ (USD) - Điều chuyển vốn cho vay theo muc đích chỉ định - Điều chuyển vốn cho vay các dự án - Điều chuyển vốn ngoại tệ thanh toán bắt buộc 3. Thanh toán khác d/ Tài sản Nợ khác d1/ Vốn của tổ chức tín dụng 1.Vốn điều lệ 2. Vốn đầu tư XDCB , mua sắm TSCĐ 3. Vốn khác d2/ Quỹ của tổ chức tín dụng 1. Quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ 2. Quỹ đầu tư phát triển 3. Quỹ dự phòng tài chính 4. Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc 5. Quỹ khác d3/ Tài sản Nợ khác 1. Hao mòn tài sản cố định 2. Thanh toán ngoại tệ kinh doanh 3. Lãi cộng dồn dự trả 4. Các khoản phải trả 5. Lãi ( Lợi nhuận chưa phân phối ) 6. Thu nhập 7. Chênh lệch đánh giá lại tài sản 8. Dự phòng giảm giá chứng khoán 9. Dự phòng phải thu khó đòi 10. Tài sản Nợ khác Cân số 18.092 ._.ng, so với yêu cầu hiện đại hoá công nghệ ngân hàng phải có giải pháp cơ bản là xem xét lại năng lực tổ chức thực hiện, cụ thể: + Tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất Kỹ thuật-Công nghệ hiện đại cho hoạt động thanh toán, hiện chỉ tập trung ở hội sở nên việc thanh toán tại các phòng giao dịch rất chậm, không kịp thời, mất khả năng cạnh tranh thu hút khách hàng. + Phát triển đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn nhằm đáp ứng kịp yêu cầu ngày càng cao của hoạt động dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước. - Khơi tăng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. + Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trong dân cư, việc đa dạng hoá phải tiến hành đa dạng hoá cả thời hạn gửi tiền như áp dụng thêm kỳ hạn 1,2,3 tuần và kỳ hạn 2,3,5,10 năm), đa dạng cả về loại tiền huy động (huy động nhiều loại ngoại tệ cả USD, DEM, FRF, JPY...) và đa dạng cả về cách thức huy động (huy động qua tiền gửi, qua tiết kiệm, qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, huy động tại điểm cố định và cả tại gia...) qua đó tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người gửi tiền trong việc lựa chọn hình thức và cách thức gửi. + Gắn kết tiết kiệm với tín dụng như: Tiết kiệm và tín dụng nhà, tiết kiệm và tín dụng tiêu dùng. + Nghiên cứu và xây dựng cơ chế huy động vốn thông qua các đại lý và hệ thống các Quỹ tín dụng nhân dân. + Mở rộng hình thức chứng chỉ tiền gửi vô danh, dễ mua bán và chuyển nhượng, ưu tiên các hình thức thu hút vốn trung và dài hạn. 3.2.3. Tiết kiệm chi phí quản lý. Tiết kiệm chi phí là mục tiêu mà bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh nào cũng đặc biệt quan tâm và hướng tới, đồng thời là nguyên tắc nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, tối đa hoá lợi nhuận. - Xây dựng các định mức về chi phí. Chi phí quản lý của ngân hàng hiện nay có thể chia làm 2 loại chính: + Loại chi phí theo định mức quy định: Quy định của Bộ tài chính, của ngành như: Khấu hao, thuế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... + Loại chi phí không định mức: Bao gồm toàn bộ các tài khoản chi phí khác đảm bảo cho hoạt động ngân hàng như chi phí sửa chữa tài sản, mua sắm công cụ lao động, công tác phí, bồi dưỡng độc hại, điện thoại, giấy tờ in, văn phòng phẩm, tiếp thị, tuyên truyền quảng cáo, chi đào tạo, hội họp... Các khoản chi phí này thường vận dụng và quyết toán theo chi phí thực tế, cho nên dẫn đến lãng phí là không tránh khỏi. Mặt khác mạng lưới các chi nhánh ngân hàng về hạch toán và cơ chế tổ chức có tính độc lập tương đối. Nên theo tôi để quản lý và tiết kiệm chi phí nên xây dựng các định mức phù hợp cho từng loại, nhóm chi phí trên cơ sở hoạt động thực tế dựa vào các căn cứ như: Khu vực kinh tế xã hội. Chỉ số giá cả. Quy mô áp dụng. Chất lượng tài sản sinh lời. - Áp dụng cơ chế khoán chi phí, quản lý tập trung và quyết toán phân tán. Trên cơ sở định mức chi phí, áp dụng khoản chi phí cho các chi nhánh trực thuộc (đối với các chi nhánh có chi nhánh trực thuộc). Các khoản chi phải có đầy đủ yếu tố hợp pháp, hợp lệ. Quyết toán chi phí cho các chi nhánh một cách linh hoạt là có bổ sung và tiết giảm các chi phí không mang tính hữu ích như chi phí tiếp khách, hội họp, ửng hộ các cơ quan, đoàn thể... Tăng cường quản lý, giám sát chi phí, đảm bảo tính thực tiễn và trung thực trong mỗi khoản chi, tổ chức kiểm tra, kiểm soát và kiên quyết xử lý các khoản chi sai chế độ, chi vượt định mức. 3.2.4 Tăng cường công tác tổ chức cán bộ, mở rộng và củng cố màng lưới hoạt động. - Chú trọng công tác tổ chức đào tạo nhằm nâng cao năng lực chuyên môn của cán bộ. + Thực hiện đa dạng hoá các loại hình đào tạo kết hợp đào tạo tại trường, tại chức và bồi dưỡng nghiệp vụ thực tế tại đơn vị, khuyến khích cán bộ tự học. + Đào tạo tập trung: Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay mà ngân hàng thực hiện. Lựa chọn cán bộ có khả năng phát triển gửi đi đào tạo tại các trường Đại học phù hợp với chuyên ngành ngân hàng như Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Tài chính-kế toán, Học viện Ngân hàng.... Loại hình này ưu điểm là cán bộ được trang bị các kiến thức cơ bản, khó khăn là số lượng cán bộ được đào tạo có hạn, thời gian đào tạo dài. + Đào tạo tập trung ngắn ngày tại Trung tâm đào tạo NHCT Việt Nam như các lớp học về Vi tính, Ngoại ngữ, tập huấn nghiệp vụ; Loại hình này cập nhật được kiến thức cho cán bộ, chất lượng đào tạo không cao, ưu điểm là trong một thời gian ngắn có được một lượng lớn cán bộ đã qua đào tạo. + Khuyến khích tự học: Hiện nay các trung tâm và loại hình đào tạo rất phát triển phù hợp với nhiều đối tượng về thời gian. Ngân hàng nên có chính sách đãi ngộ, hỗ trợ vật chất cho cán bộ tự học, nhất là các chuyên ngành thiết thực gắn với công việc cụ thể của cán bộ chuyên môn như: Tin học, kế toán, thanh toán quốc tế, Ngoại ngữ, pháp luật, quản trị doanh nghiệp... + Các chi nhánh ngân hàng tự tổ chức đào tạo: Như tăng cường mở lớp tập huấn ngắn ngày, hình thành đội ngũ tiểu giáo viên có trình độ và năng lực về các nghiệp vụ như tín dụng, tài chính kế toán, tin học, pháp luật, nhằm tự đào tạo, chủ yếu là cập nhật kiến thức cho cán bộ thực hiện các nghiệp vụ cụ thể. + Xây dựng phương án tuyển dụng cán bộ mới đã được đào tạo chính quy, có phẩm chất và năng lực chuyên môn nghiệp vụ tốt, dần trẻ hoá đội ngũ cán bộ hiện nay. Bằng các hình thức thi tuyển, tiêu chuẩn hoá cán bộ, tuyển cán bộ theo chuyên môn phù hơp với nhu cầu sử dụng lao động. + Gắn việc đào tạo với quy hoạch và sử dụng cán bộ: Việc đào tạo, nhất là đào tạo nâng cao phải gắn với những cán bộ có trình độ, có năng lực và tâm huyết với nghề nghiệp. Việc đào tạo phải có kế hoạch từ 3-5 năm và phải gắn với quy hoạch cán bộ đã được NHCT Việt Nam, các cấp chính quyền hiệp y, ngoài ra nên tránh việc cho đi học tràn lan dẫn đến việc cán bộ được cử đi học không phù hợp hoặc không đáp ứng được nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. - Có chính sách đối với cán bộ hợp lý: + Gắn trách nhiệm và quyền lợi của người lao động trong quá trình nâng cao trình độ. Hiện nay NHCT Việt Nam đã áp dụng cơ chế trả lương mới, ngoài việc trả lương theo quy định 26CP của Chính phủ còn có hệ số lương kinh doanh theo đúng quyền hạn và trách nhiệm của người lao động. Tuy nhiên, việc xét thưởng và vượt bậc lương chỉ nằm trong phần lương kinh doanh mà hiện nay ở một số chi nhánh kinh doanh kém hiệu quả thì lương kinh doanh rất thấp nên không khuyến khích cán bộ có trình độ, làm việc tích cực. Ngân hàng cần tách bạch việc hưởng lương theo thâm niên và chức vụ với lương do hiệu quả kinh doanh đem lại, người làm ra hiệu quả kinh doamh cao dù có ít thâm niên vẫn phải được hưởng lương cao hơn người không đem lại hiệu quả kinh doanh. Có như vậy mới tạo động lực cho người lao động tự rèn luyện, tự vươn lên, không công thức, không ỷ lại, người lao động mới nhanh chóng nâng cao chất lượng công việc. + Làm tốt công tác tổ chức, đào tạo cán bộ là mục tiêu quản lý, sử dụng nguồn nhân lực tối ưu nhằm đạt mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. + Đổi mới hoạt động của chi nhánh gắn với định hướng phát triển kinh tế của địa phương, mục tiêu chiến lược của NHCT Việt Nam và thực tế thị trường. + Chú trọng mở rộng, phát triển những nghiệp vụ mà NHCT Hà Nam có thế mạnh như: Đầu tư tín dụng khu công nghiệp vật liệu xây dựng, làng nghề, vùng nghề, tránh đầu tư nguồn lực và vốn dàn trải, hiệu quả thấp - Giải pháp đối với hội sở ngân hàng tỉnh: Hội sở NHCT tỉnh phải là trung tâm quản lý và điều hành hoạt động chung, thay đổi phương thức điều hành và quản lý theo hướng: + Nâng cao cạnh tranh từng bộ phận nghiệp vụ, các phòng nghiệp vụ tại hội sở chính phải quản lý nghiệp vụ xuyên suốt, là trung tâm phân tích và đề xuất thực hiện đối với từng mặt nghiệp vụ, điều chỉnh hoạt động của hội sở và các phòng giao dịch. + Nghiên cứu và phát triển các hoạt động dịch vụ đa năng phù hợp với từng địa bàn. + Xây dựng các hành lang, trong đó cho phép các bộ phận, các khu vực có cạnh tranh gay gắt trong hoạt động ngân hàng như địa bàn thị xã Phủ Lý, được chủ động trong kinh doanh như hành lang về xử lý điều chỉnh lãi suất cho vay và huy động vốn, cơ chế uỷ quyền phán quyết cho vay đối với một khách hàng... + Các bộ phận nghiệp vụ tăng cường kiểm tra kiểm soát đối với các nghiệp vụ của mình, thông qua kiểm tra kiểm soát định kỳ mới nắm bắt được thực tế hoạt động của các mặt nghiệp vụ trong địa bàn toàn tỉnh. Qua số liệu kiểm tra, kiểm soát đề xuất biện pháp khắc phục tồn tại, kiểm tra toàn bộ hoạt động nghiệp vụ hiện hành đảm bảo cho hoạt động ngân hàng thực hiện đúng các quy định của pháp luật, các quy chế của ngành và quy định nội bộ của NHCT Việt Nam, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng. + Kiểm soát của các bộ phận nghiệp vụ mới hạn chế ở phạm vi hẹp, đi vào sự vụ là chính mà chưa đi vào kiểm toán nội bộ... Cho nên phải kết hợp giữa kiểm toán nội bộ và kiểm tra kiểm soát theo chuyên đề tín dụng, kế toán, tài chính, ngân quỹ... Thông qua đó có được thông tin chính xác về thực trạng hoạt động cho vay, giúp cho các cấp quản lý đề ra hướng giải quyết tồn tại thích hợp. Kiểm soát phải trở thành lực lượng gián tiếp quan trọng tạo ra hiệu quả kinh doanh, tạo ra lợi nhuận của ngân hàng. + Vấn đề kế hoạch hoá trong hoạt động của ngân hàng: Thời gian qua có lúc tổ chức lập kế hoạch mang tính nghiên cứu, chiếu lệ là chính mà chưa thực sự coi trọng kế hoạch và thực hiện kế hoạch. Quyết toán thực hiện kế hoạch mới nằm ở dạng đánh giá thi đua, khen thưởng mà chưa gắn với công cụ quản lý khác “với khái niệm: Kế hoạch là pháp lệnh”. Sự ngược chiều nhau giữa mục tiêu kế hoạch hoá và mục tiêu tài chính vẫn đang xảy ra, lẽ đương nhiên mục tiêu tài chính được coi trọng trên hết. Phải khẳng định là vai trò của kế hoạch hoá là không thể thiếu được trong quản lý điều hành vĩ mô và vi mô. Để kế hoạch hoá trở thành công cụ quản lý hữu hiệu cần phải điều chỉnh tư duy kế hoạch hoá theo hướng: Công cụ kế hoạch hoá kết hợp chặt chẽ với cơ chế lãi suất thị trường và cơ chế tài chính, thực hiện kế hoạch gắn liền với tài chính của đơn vị như kế hoạch tín dụng, chỉ tiêu nợ quá hạn song hành với việc thưởng phạt vào thu nhập của từng phòng ban, cá nhân. - Giải pháp đối với chi nhánh trực thuộc và phòng giao dịch: + Quan điểm đối với cán bộ điều hành và cán bộ chủ chốt như: Trưởng, phó phòng giao dịch và Giám đốc, phó giám đốc chi nhánh trực thuộc phải có đủ năng lực, trình độ hoạt động độc lập, tổ chức quản lý và điều hành tốt, những cán bộ không đủ năng lực, phẩm chất phải chuyển sang làm trực tiếp. + Nâng cấp những phòng giao dịch có đủ điều kiện thành chi nhánh trực thuộc, tạo cơ sở vật chất, lao động, tăng khả năng cạnh tranh. Đối với những phòng giao dịch không đủ điều kiện cần tăng cường cán bộ có năng lực, mạnh dạn đầu tư về nhân lực, vật lực, tạo sự tăng trưởng cần thiết cho hoạt động. Giải thể các chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ kinh doanh. + Nhiệm vụ chính của các phòng giao dịch là huy động vốn và đầu tư tín dụng, phải sắp xếp và quản lý lao động theo hướng tập trung cán bộ làm công tác tín dụng. Mở rộng địa bàn hoạt động đến từng vùng, từng cụm dân cư, tăng thị phần của NHCT Tỉnh. 3.3. Một số kiến nghị. 3.3.1. Đối với NHCT Việt Nam. - Đổi mới quy chế tiền lương kinh doanh của NHCT Việt Nam. + Việc phân phối tiền lương kinh doanh cho các chi nhánh không nên thiên quá về chỉ tiêu lợi nhuận mà không xét đến yếu tố thế mạnh, thị trường của mỗi chi nhánh. Hiện nay do môi trường kinh doanh, rất nhiều chi nhánh làm rất tốt công tác kinh doanh và tiếp thị cho hoạt động của NHCT Việt Nam nhưng môi trường không có các doanh nghiệp lớn, không có các dự án lớn cho nên không phát triển được các dự án đầu tư cho vay, trong khi đó các chi nhánh có địa bàn thuận lợi, việc tăng trưởng dư nợ rất dễ dàng mà không thể hiện sự cố gắng và đóng góp cho ngành. + NHCT Việt Nam cần gắn việc phân phối tiền lương kinh doanh với việc phát huy thế mạnh của từng chi nhánh (có chi nhánh ưu thế về huy động nguồn vốn, có chi nhánh ưu thế về cho vay, có chi nhánh ưu thế về phát triển các sản phẩm và ứng dụng dịch vụ mới), cần phải xem xét những thế mạnh đó, đánh giá mức độ, chất lượng hoàn thành các chỉ tiêu chính do NHCT Việt Nam giao làm cơ sở để xét lương kinh doanh. Nghị định số 26/CP ngày 23/05/1993 của Chính phủ về tăng bậc lương của cán bộ công nhân viên áp dụng chung cho mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế, không phù hợp với tính chất hoạt động của NHTM. Hệ thống thang bảng lương quá nhiều bậc, khoảng cách giữa các bậc bất hợp lý (bậc cho lao động giản đơn như bảo vệ, lái xe quá cao so với chuyên viên ngân hàng được đào tạo cơ bản nhiều năm chính quy. NHCT Việt Nam có quy chế tiền lương áp dụng trong hệ thống NHCT Việt Nam ngoài phần lương cơ bản theo Nghị định số 26/CP, quy định lương như hiện nay chưa thực sự khuyến khích người lao động nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc, nhất là đối với các chi nhánh kinh doanh không có hiệu quả hoặc lợi nhuận đạt ở mức trung bình, nếu tăng năng suất lao động, đạt hiệu quả cao hơn thì lợi nhuận chưa đủ đem lại mức lương kinh doanh tăng lên hơn hiện tại. Lương kinh doanh được hưởng = Thu nhập-chi phí (không lương) x125đ 1.000 Mà thực tế ở những chi nhánh như NHCT Hà Nam việc lợi nhuận tăng thêm từ 10-30% trở lên mới thay đổi mức lương kinh doanh hiện nay, và với mức lương kinh doanh tăng không đáng kể thì việc bình xét lương kinh doanh cũng không đem lại kết quả cao nhất. NHCT Việt Nam nên có quy chế hưởng lương kinh doanh thực sự căn cứ vào kết quả kinh doanh, qua đó những người trực tiếp làm công việc tạo ra lợi nhuận sẽ được hưởng hệ số lương kinh doanh từ 1,2-1,5; cần quy định rõ đối tượng làm tổn hại đến kết quả kinh doanh như: Phát sinh nợ quá hạn, vi phạm vi chế, chây ì lười biếng... sẽ không được hưởng lương kinh doanh. - Bổ sung, hoàn thiện cơ chế thu dịch vụ phí. Hiện nay thu dịch vụ trong toàn hệ thống chiếm khoảng dưới 5% tổng thu nhập và thực tế biểu các loại phí dịch vụ do thống đốc NHNN giữ quyền quyết định, điều này khiến cho các NHTM rất khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ vì không thu hồi đủ chi phí. Biểu phí của NHCT Việt Nam cụ thể hoá các loại phí dịch vụ nhưng không có mức thu tối thiểu đối với một số hoạt động như: Thu phí chuyển tiền thanh toán điện tử, thu phí chuyển tiền từ tài khoản dẫn đến nhiều khi chi nhánh thu phí tính theo tỷ lệ 0,05% không đủ trang trải các chi phí thực hiện nghiệp vụ này. Đề nghị NHCT Việt Nam nghiên cứu áp dụng thực tế các khoản thu, nhất là thu dịch vụ theo nguyên tắc thương mại và giao quyền cho các chi nhánh cụ thể hoá mức phí, vừa đảm bảo có lợi nhuận vừa mang tính cạnh tranh cao. - Ban hành quy chế về quyền lợi và trách nhiệm của cán bộ cho vay + Hiện tại môi trường pháp lý chưa đồng bộ, để thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm giữa người đi vay và người cho vay. Trong khi chờ đợi Nhà nước ban hành các chính sách đảm bảo quyền, nghĩa vụ của người đi vay và người cho vay đề nghị NHCT Việt Nam ban hành rõ quy chế trách nhiệm của người cho vay trong hoạt động kinh doanh tín dụng để đảm bảo tính pháp lý khi có rủi ro xảy ra. Mặt khác phải có cơ chế giải quyết thoả đáng quyền lợi cho cán bộ cho vay như: Công tác phí, Maketting, tiền thưởng v.v... + Đơn giản hoá các thủ tục hành chính đối với các thủ tục hồ sơ pháp lý vay vốn để có thể tăng nhanh việc thẩm định và giải ngân mà vẫn đảm bảo tính pháp lý cao, nhằm phục vụ thuận lợi nhất cho khách hàng. - Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng cho chi nhánh: Hiện tại chi nhánh có số nợ quá hạn chiếm từ 7-10% mà thực chất là số nợ tồn đọng từ những năm 1999, 2000 nếu không được xử lý đưa vào dự phòng rủi ro hoặc nợ khoanh thì chi nhánh sẽ rất khó khăn trong việc xử lý nợ và ảnh hưởng kết quả kinh doanh trong nhiều năm 3.3.2. Đối với NHNN. - Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, hoàn thiện kỹ thuật công nghệ và cơ chế quản lý các trung tâm thanh toán bù trừ của NHNN. + NHNN cần đi trước trong việc thực hiện hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, tập trung đầu tiên vào công tác thanh toán không dùng tiền mặt, nâng cao chất lượng các phương tiện và công cụ thanh toán để mọi khoản vốn chu chuyển trong nền kinh tế đều thông qua các định chế tài chính, đặc biệt là ngân hàng, tăng nhanh vòng quay vốn và hạn chế lượng tiền mặt trong lưu thông. + Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các NHTM tự đầu tư, hợp tác liên kết và vay vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. + Một trong những vấn đề còn khó khăn để nâng cao chất lượng các món thanh toán của NHTM chính là tốc độ thanh toán qua trung tâm bù trừ của NHNN còn chậm. Tại trung tâm thanh toán bù trừ của NHNN thực hiện theo phương thức bán cơ giới: Các NHTM đánh chứng từ bù trừ vào máy rồi chuyển sang đĩa mềm hay truyền qua MODEM thoại đi bù trừ và NHNN chỉ thực hiện tối đa 2 phiên bù trừ trong ngày. NHNN cần thiết lập các trung tâm thanh toán bù trừ theo khu vực và quốc gia đồng thời hiện đại hoá công nghệ thanh toán tiến tới thực hiện thanh toán bù trừ tự động. - Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống dưới 3%. - Nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường mở, đa dạng hoá các công cụ, chứng chỉ có giá giao dịch tại thị trường mở. Từ năm 2000, NHNN cho ra đời thị trường mở, sau một năm hoạt động, những kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu, còn nhiều hạn chế do các loại giấy tờ có giá được tham gia trên thị trường mở còn quá ít, hiện nay chỉ có tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN được tham gia. Đề nghị NHNN mở rộng các công cụ, chứng chỉ có giá được giao dịch trên thị trường mở như : Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu công trình...tạo cho thị trường mở hoạt động sôi động hơn, trở thành hậu thuẫn vững chắc cho việc đảm bảo thanh khoản và là cơ sở để phát triển nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu thương phiếu, và đầu tư của các NHTM. - Tổ chức thực hiện và hoàn thiện thị trường tiền tệ để các NHTM có thị trường phát triển nghiệp vụ đầu tư và tiếp ứng vốn khi cần thiết. Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, là công cụ để NHNN điều hoà khả năng thanh toán giữa các NHTM, là nơi đáp ứng nhu cầu của các NHTM thiếu vốn và là thị trường đầu ra của các NHTM thừa vốn. Thị trường tiền tệ bao gồm: Thị trường tín dụng, thị trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường tín phiếu kho bạc. Giải quyết tốt các mối quan hệ trên các thị trường này một mặt giúp NHNN quản lý và điều hành được lượng tiền mặt, quản lý được hạn mức tín dụng đối với các NHTM, mặt khác tạo điều kiện cho các NHTM tìm được thị trường lý tưởng để phát triển nghiệp vụ đầu tư . - NHNN cần bổ xung, hoàn thiện các chính sách, cơ chế thúc đẩy phát triển nghiệp vụ ngân hàng. + Trên cơ sở các bộ luật của Nhà nước, cần xây dựng hoàn chỉnh đồng bộ hệ thống các văn bản hướng dẫn (dưới luật) về hoạt động ngân hàng để các NHTM thực hiện. Các văn bản hướng dẫn vừa không trái luật vừa phải tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động trong điều kiện cụ thể của nước ta và xu thế phát triển của thời đại. + Sửa đổi và hoàn thiện cơ chế thanh toán để đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới các cơ chế nghiệp vụ khác. Nghiên cứu cứu để tạo môi trường cho phép sử dụng các phương thức thanh toán hiện đại. + Ban hành những cơ chế quản lý dịch vụ ngân hàng, tạo điều kiện phát triển hệ thống dịch vụ của NHTM. Giao quyền cho các NHTM quyết định các loại dịch vụ cần thu phí, mức thu phí của từng loại dịch vụ theo nguyên tắc thương mại. NHNN không nên ban hành biểu phí dịch vụ ngân hàng cho các NHTM cùng áp dụng như hiện nay, vừa không đầy đủ, vừa mất tính cạnh tranh. 3.3.3. Kiến nghị với Nhà nước. - Nhà nước cần sớm ban hành và hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh ngân hàng. + Sớm sửa đổi pháp lệnh kế toán, thống kê, bổ sung những quy định mới về lập chứng từ kế toán, hạch toán ghi sổ phù hợp với những dịch vụ tài chính ngân hàng thực hiện bằng công nghệ quản lý , thanh toán qua hệ thống vi tính- điện toán theo chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là các chứng từ của ngân hàng điện tử, chữ ký điện tử. + Cần quy định rõ bằng pháp luật đối với các chứng từ, hoá đơn thanh toán dịch vụ ngân hàng do NHNN quản lý và ban hành mẫu biểu thống nhất, không dùng hoá đơn mua bán hàng hoá thông thường do Bộ tài chính phát hành như các doanh nghiệp khác. - Cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các NHTM hiện đại hoá công nghệ ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của nền kinh tế đất nước, Chính phủ cần cho phép các NHTM được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư trong nước như các doanh nghiệp khác trong lĩnh vực đầu tư hiện đại hoá kỹ thuật công nghệ để phát triển các dịch vụ ngân hàng quan trọng và thiết yếu. Ngoài việc dùng vốn tự có để đầu tư cho phép các NHTM vay vốn dài hạn như các doanh nghiệp khác. - Tạo lập môi trường kinh tế, tạo môi trường đầu tư thông thoáng. Tiếp tục sắp xếp đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN, chỉ giữ lại những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn mà các thành phần kinh tế khác chưa đủ năng lực hoặc không thể đảm đương được. Việc giải toả vốn bị đóng băng trong các DNNN làm ăn kém hiệu quả, rút vốn đầu tư ra khỏi doanh nghiệp không thuộc các lĩnh vực xương sống của nền kinh tế thông qua quá trình tiến hành chuyển dịch sở hữu, xã hội hoá tài sản cũng là biện pháp tạo vốn quan trọng đối với Nhà nước. Bằng cách này, Nhà nước vừa trút bỏ gánh nặng trợ cấp, vừa giải phóng vốn khỏi những hoạt động, những khu vực có hiệu quả kinh tế thấp để đầu tư vào các dự án có khả năng sinh lời tốt hơn, có hiệu quả cấp số nhân đối với nền kinh tế. Cùng với việc cổ phần hoá, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của khối DNNN, thực hiện công tác kiểm tra, kiểm toán theo các tiêu chuẩn quốc tế để có các thông tin công khai, minh bạch về tình hình tài chính các doanh nghiệp, giúp ngân hàng có các thông tin chính xác để có quyết định đầu tư đúng đắn và Nhà nước có thể hoạch định chính sách kịp thời. - Ban hành các chính sách để đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển bưu chính viễn thông và Internet để tạo điều kiện cho NHTM thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ. Quy định trả lương cho cán bộ công nhân viên DNNN thông qua tài khoản ở ngân hàng hay ban hành những bộ luật nhằm đảm bảo quyền lợi của người dân khi gửi và mở tài khoản tại ngân hàng..., trước mắt sớm có Nghị định về Thanh toán qua ngân hàng để thay thế Nghị định số 91/CP ngày 25/11/1993 về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt đã quá lạc hậu. Đồng thời Chính phủ cần cho phép NHNN thay đổi mệnh giá đồng tiền phát hành, phát hành thêm tiền kim khí để sử dụng được các máy tự động (Khi sử dụng các máy tự động, khách hàng muốn nạp tiền vào tài khoản qua máy thì tiền phải in lại để máy có thể nhận dạng được )... nhằm đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế nhất là trong dân cư. Sự phát triển của Bưu chính viễn thông, của Internet là tiền đề, là cơ sở để NHTM hiện đại hoá công nghệ và phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Nhưng hiện nay các NHTM đang phải thuê bao đường truyền dẫn với mức phí quá cao, lại chưa thật nhanh, chuẩn xác và an toàn, trong khi vốn pháp định và nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ của các ngân hàng còn nhỏ, nên các NHTM rất khó khăn trong việc hiện đại hoá công nghệ và phát triển dịch vụ mới. Mặt khác phí thuê bao và sử dụng Internet của Việt Nam hiện nay còn quá đắt, không khuyến khích các doanh nghiệp và cá nhân sử dụng Internet. Tình trạng này khiến cho thương mại điện tử và dịch vụ ngân hàng qua Internet của NHTM ở Việt Nam trở nên xa vời. Do vậy, phát triển Bưu chính viễn thông và Internet không chỉ là vấn đề của riêng ngành Bưu chính viễn thông mà còn là một nội dung quan trọng cần được Nhà nước đặc biệt quan tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam. - Ban hành đầy đủ các cơ chế chính sách và hỗ trợ về vốn để nhanh chóng cơ cấu lại nợ cho NHCT Việt Nam, tăng vốn tự có phù hợp với tốc dộ phát triển, tốc độ tăng quy mô hoạt động. Làm sạch bảng tổng kết tài sản bằng cách công ty mua bán nợ của Chính phủ mua lại số nợ có vấn đề của NHCT Việt Nam. KẾT LUẬN Đổi mới và cơ cấu lại tổ chức, cơ chế hoạt động của NHTM Việt Nam là một chủ chương lớn của Đảng và Nhà nước ta đang chỉ đạo toàn ngành Ngân hàng đang triển khai thực hiện. Đề tài luận văn “Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHCT Hà Nam” được chọn nghiên cứu để góp phần giải quyết một trong những vấn đề thời sự cấp bách hiện nay ở nước ta. Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học và phân tích đánh giá tổng kết thực tiễn, luận văn đã khái quát hoá các cơ sở lý thuyết cơ bản về hiệu quả hoạt động của NHTM. Tổng kết những vấn đề tồn tại trong hoạt động kinh doanh của NHCT Hà Nam và đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHCT Hà Nam. Các giải pháp được nêu ra trong luận văn đều dựa trên những căn cứ lý luận khoa học và cơ sở thực tiễn, do đó có tính khả thi và có thể có tác dụng tham khảo nghiên cứu ứng dụng vào thực tế hoạt động kinh doanh của NHCT Hà Nam. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu có giới hạn là một chi nhánh NHTM cấp tỉnh, thành phố, vì vậy mức độ phân tích, đánh giá và các kiến nghị đề xuất không tránh khỏi những hạn chế, đặc biệt bị giới hạn của tầm nhìn và vị thế của một doanh nghiệp kinh doanh Tín dụng - Ngân hàng cấp cơ sở. Tác giả luận văn mong muốn nhận được sự tham gia góp ý và giúp đỡ của tất cả các thầy cô giáo trong Hội đồng chấm luận văn và tất cả đọc giả có quan tâm đến đề tài nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT: TS. Nguyễn Duệ (2001): Quản trị ngân hàng - NXB Thống kê Hà Nội. Nguyễn Công Nghiệp (1993): Công nghiệp ngân hàng và thị trường tiền tệ NXB Thống kê. Phạm Ngọc Long (1996): Marketing trong ngân hàng- NXB Thống kê Hà Nội. TS. Nguyễn Võ Ngoạn (1996): Hệ thống công cụ chính sách tiền tệ quốc gia trong nền kinh tế thị trường- NXB Tài chính Hà Nội. Lê Văn Tề, Ngô Hướng (1997): Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại - NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Đức Thảo (1995): Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường- NXB Mũi Cà Mau. Lê Văn Tư (1997): Các nghiệp vụ Ngân hàng thương mại- NXB Thống kê Hà Nội. Cẩm nang quản lý tín dụng ngân hàng (1993)- NXB Thống kê Hà Nội. Hệ thống ngân hàng Mỹ (1989)-Viện thông tin tư liệu và địa chất Hà Nội. Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam, luật các tổ chức tín dụng(1998) - NXB Chính trị quốc gia. Marketing lý luận và nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh - trường đại học kinh tế quốc dân, bộ môn Marketing- NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp. Ngân hàng Nhà nước Hà Nam (1997-2001): Báo cáo tổng hợp hoạt động ngân hàng Hà Nam NHCT Việt Nam: - Điều lệ NHCT Việt Nam -1997. - Đề án cơ cấu lại NHCT Việt Nam giai đoạn 2001-2010. - NHCT Việt Nam (1998-2000) - tháng 10/2001 - Tài liệu hội nghị tổng kết hoạt động kinh doanh từ 1997-2001. - Báo cáo thường niên (1997-2001). NHCT Hà Nam : - Báo cáo cân đối kế toán (1997-2001). - Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh (1997-2001). Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quá trình xây dựng và phát triển (1996)- NXB Chính trị quốc gia. Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính (1990)- NXB Pháp lý. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996)- NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. Văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001)- NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh Hà Nam lần thứ XVI (2000). TIẾNG ANH: David Cox: Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại- NXB Chính trị quốc gia Hà Nội-1997. David Begg, Stanley Fisher: Kinh tế học tập I, II (1992)- NXB Giáo dục. Edward Reed, Edward K. Gill (1993): Ngân hàng thương mại - NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Frederie S.Misshkim (1995): Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính- NXB Khoa học và kỹ thuật Hà Nội. Peter S. Rose (2001): Quản trị Ngân hàng thương mại - NXB Tài chính Hà Nội. Peter S. Rose, James Wkolari (1998): Các định chế tài chính - NXB Thống kê Hà Nội. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2002 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Văn Thành MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước NHCT : Ngân hàng Công thương NHĐT&PT : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHNNo&PTNT : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn NHTM : Ngân hàng Thương mại TCTD : Tổ chức tín dụng DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU Số TT Mục lục Nội dung bảng, biểu Trang 1. Danh mục bảng: 1.1 1.1.3 Bảng quyết toán tài sản của NHTM 12 2.1 2.1.1 Kết quả tăng trưởng kinh tế của tỉnh Hà Nam qua các năm 33 2.2 2.3.1 Bảng tổng kết tài sản của NHCT Hà Nam 36 2.3 2.3.2 Phân tích cơ cấu nguồn vốn của NHCT Hà Nam 40 2.4 2.3.3 Phân tích cơ cấu tín dụng 44 2.5 2.3.3 Phân tích dư nợ theo thành phần kinh tế 46 2.6 2.4.1 Phân tích nợ tồn đọng qua các năm 49 2.7 2.4.2 Nợ quá hạn phân theo thời gian 51 2.8 2.5 Thanh toán không dùng tiền mặt tại NHCT Hà Nam 53 2.9 2.6 Thu nhập và chi phí 55 2.10 2.6.2 Thực hiện chi phí quản lý 59 2.11 2.6.3 Phân tích thu nhập và chi phí 60 2. Danh mục biểu đồ: 1 2.3.2 Tình hình huy động vốn của tỉnh Hà Nam 41 2 2.3.2 Tình hình sử dụng vốn của tỉnh Hà Nam 43 LỜI CẢM ƠN Với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tiến sĩ Nguyễn Thạc Hoát - người đã tận tình giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn tác giả trong quá trình thực hiện, hoàn thành luận văn. Tác giả bày tỏ lòng biết ơn đối với Khoa Sau đại học - Hội đồng Khoa học và Đào tạo Học viện Ngân hàng, các thầy cô giáo tham gia quản lý, giảng dạy và tư vấn trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận văn tốt nghiệp. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước tỉnh Hà Nam. Đặc biệt tác giả xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc cùng toàn thể cán bộ công nhân viên Ngân hàng Công thương Hà Nam đã tạo mọi điều kiện, động viên, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này. Trong quá trình nghiên cứu do khả năng có hạn và kinh nghiệm thực tiễn còn ít mà vấn đề đặt ra lại quá lớn nên luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong sự chỉ dẫn và góp ý của các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp để công trình nghiên cứu tiếp theo được hoàn hảo hơn. TÁC GIẢ Nguyễn Văn Thành ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0482.doc
Tài liệu liên quan