Nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK tại Công ty TM VT du lịch

Lời nói đầu Sau hơn mười năm đổi mới nền kinh tế, nước ta đã có những bước chuyển biến rõ dệt. Nền kinh tế thị trường với đặc trưng là một nền kinh tế mở đã thu hút được sự chú ý hợp tác kinh doanh của nhiều nước trên thế giới. Nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng bước đầu đi vào ổn định, sự tăng trưởng liên tục, hàng hoá tràn ngập thị trường với nhiều loại và giá cả ổn định phục vụ người tiêu dùng. Đó là một định hướng đúng và cũng là một thành tựu của Đảng và Nhà nước ta. Đổi mới nền kinh tế c

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1167 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK tại Công ty TM VT du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ùng với sự quan tâm của Nhà nước tạo ra hàng loạt các cơ hội sản xuất, kinh doanh, hợp tác trao đổi làm ăn giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hoạt động xuất nhập khẩu từ đó mà phát triển làm cầu nối các loại hàng hoá giữa các nước thâm nhập lẫn nhau, phát huy lợi thế riêng của mỗi nước, rút ngắn khoảng cách và tăng cường giao lưu, là hoạt động đem lại nhiều ngoại tệ cho đất nước. Các doanh nghiệp ở nước ta tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, ngoài các đặc điểm riêng của mình về mặt hàng hoặc lĩnh vực thì đều phải cạnh tranh công bằng, khốc liệt trên thị trường để đứng vững và xuất khẩu cũng nhằm mục đích tạo lợi ích cho quốc gia và cho sự phát triển của doanh nghiệp mình. Mỗi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh theo cơ chế này đều phải đòi hỏi kinh doanh có hiệu quả. Chỉ có hiệu quả mới đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Công ty thiết bị vật tư du lịch với chức năng và nhiệm vụ tham gia xuất nhập khẩu các mặt hàng phục vụ cho ngành du lịch và nền kinh tế cũng không tránh khỏi sự cạnh tranh khốc liệt này. Là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc sự quản lý của ngành du lịch nhưng khi cung cấp các trang thiết bị phục vụ cho các khách sạn, các mặt hàng phục vụ khách du lịch... đều phải cạnh tranh bình đẳng. Làm thế nào để kinh doanh có hiệu quả? Biện pháp nào có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh? Những câu hỏi đó luôn được đặt ra với Công ty thiết bị vật tư du lịch trước sự cạnh tranh và chính sách luôn thay đổi của Nhà nước. Bằng những kiến thức được tích luỹ trong quá trình học tập trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Trong thời gian thực tập tại Công ty thiết bị vật tư du lịch được sự giúp đỡ của các cô chú phòng kinh tế tài chính và các phòng ban khác cùng với sự mong muốn bản thân là nâng cao sự hiểu biết thực tiễn cũng như góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty. Em xin mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty thiết bị vật tư du lịch”. Nội dung của đề tài này gồm ba phần chính: Phần I: Lý luận chung về hoạt động, hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu Phần II: Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty thiết bị vật tư du lịch Phần III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty thiết bị vật tư du lịch. Do thời gian, kinh nghiệm hạn chế cho nên trong suốt quá trình nghiên cứu sẽ không tránh khỏi sai sót. Em xin được sự chỉ bảo các thầy cô và các bạn đọc. Em xin được bày tỏ sự cảm ơn trân thành đến cô giáo TS. Lê Thị Anh Vân đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này! Em xin chân thành cảm ơn! Phần I Lý luận chung về hoạt động và hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu I- Khái quát về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và các quan điểm về hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu 1- Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá Trong lịch sử phát triển kinh tế các nước hoạt động trao đổi hàng hoá ngày càng đa dạng. Cùng với sự phát triển xã hội ngày càng văn minh thì hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Từ trao đổi giữa các nước nhằm mục đích tiêu dùng cá nhân của các sản phẩm thiết yếu sau đó trao đổi để kiếm lợi. Hình thái này ngày càng phát triển và trở thành một lĩnh vực không thể thiếu được trong sự phát triển cảu kinh tế đất nước. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nó vượt ra biến giới các nước và gắn liền với các đồng tiền quốc tế khác nhau. Nó diễn ra bất cứ nơi nào và quốc gia nào trên thế giới do vậy nó cũng rất phức tạp. Thông qua trao đổi xuất nhập khẩu các nước có thể phát huy lợi thế so sánh của mình. Nó cho biết nước mình nên sản xuất mặt hàng gì và không nên sản xuất mặt hàng gì để khai thác triệt để lợi thế riêng của mình. Hiểu theo nghĩa chung nhất thì hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia. Kinh doanh là hoạt động thực hiện một hoặc một số công đoạn từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hay thực hiện một số dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích lợi nhuận. Vì vậy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là việc bỏ vốn vào thực hiện các hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia nhằm mục đích thu được lợi nhuận. Đây chính là mối quan hệ xã hội nó phản ánh sự không thể tách rời các quốc gia. Cùng với tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyên môn hoá ngày càng tăng, cùng với sự đòi hỏi về chất lượng sản phẩm và dịch vụ của khách hàng ngày càng đa dạng và phong phú thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng. Một thực tế cho thấy nhu cầu con người không ngừng tăng lên và nguồn lực quốc gia là có hạn. Do đó trao đổi mua bán quốc tế là biện pháp tốt nhất và có hiệu quả. Quan hệ quốc tế này nó ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Để tận dụng có hiệu quả nguồn lực của mình vào phát triển kinh tế đất nước. 2. Quan điểm về hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Hiệu quả là thước đo phản ánh mức độ sử dụng các nguồn lực. Trong cơ chế thị trường sự tồn tại của nhiều thành phần và mối quan hệ kinh tế thì hiệu quả là vấn để sống còn của nó phản ánh trình độ tổ chức kinh tế quản lý của doanh nghiệp. Cho đến nay qua các hình thái xã hội có quan hệ sản xuất khác nhau cho nên quan điểm về hiệu quả kinh doanh cũng như hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có nhiều khác nhau. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là một hình thái của hoạt động kinh doanh. Do đó quan điểm về hiệu quả cũng được hiểu theo một cách tương đồng. Trong xã hội tư bản với chế độ tư nhân về tư liệu sản xuất thì quyền lợi về kinh tế và chính trị đều nằm trong tay các nhà tư bản. Chính vì vậy phấn đấu tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh doanh tức là tăng lợi nhuận cho các nhà tư bản. Cũng giống như một số chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong qúa trình sản xuất, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền nền sản xuất hàng hoá. sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ hiệu quả cao hay thấp. Biểu hiện hiệu quả là lợi ích mà thước đo cơ bản là tiền. Hiểu được phần nào quan điểm này cho nên Adam Smith cho rằng “Hiệu quả kinh tế là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế” và ông cũng cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá”. ở đây hiệu quả được đồng nghĩa với chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh. Quan điểm này khó giải thích kết quả kinh doanh. Nếu cùng một kết quả mà hai mức chi phí khác nhau thì quan điểm này cho chúng ta có cùng một hiệu quả. Quan điểm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”. Quan điểm này đã biểu hiện được mối quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí bảo ra. Tức là nếu gọi DH là hiệu quả tương đối, DB phần tăng thêm về kết quả kinh doanh, DC phần tăng thêm về chi phí thì: DH = (DB:DC).100. Theo quan điểm này hiệu quả kinh doanh chỉ được xét đến phần kết quả bổ sung. Quan điểm thứ ba cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh được đo bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó”. Quan điểm này nó đã gắn được hiệu quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là phản ánh trình độ sử dụng chi phí, phản ánh tiết kiệm. Tuy nhiên, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác - Lênin thì các sự vật, hiện tượng không ở trạng thái tình mà luôn biến đổi, vận động. Vì vậy, xem xét hiệu quả không nằm ngoài quy luật này. Do đó hiệu quả sản xuất kinh doanh vừa là phạm trù cụ thể vừa là một phạm trù trìu tượng, cụ thể ở chỗ trong công tác quản lý thì phải định thành các con số để tính toán, so sánh. Trừu tượng ở chỗ nó được định tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực kinh doanh. Cho nên quan điểm thứ tư cho rằng hiệu quả kinh doanh nó bám sát mục tiêu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân lao động. Có rất nhiều các quan điểm nữa những tất cả chưa có sự thống nhất trong quan niệm nhưng họ đều cho rằng phạm trù hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu cuối cùng. Tuy nhiên cần có một khái niệm tương đối đầy đủ để phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh đó là: “Hiệu qủa sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khác sử dụng các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh gía việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ”. Doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là doanh nghiệp trao đổi buôn bán hàng hoá vượt qua ngoài biên giới đất nước. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là hình thái của hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và nó xoay quanh hoạt động kinh doanh, nó được mở rộng về không gian trao đổi hàng hoá và chủng loại hàng hoá. Do vậy, bản chất của hoạt động xuất nhập khẩu là bản chất của hoạt động kinh doanh. Trong thực tế, hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đạt được trong các trường hợp sau (hiệu quả ở đây hiểu đơn thuần là lợi nhuận): Kết quả tăng (kim ngạch, bán buôn, bán lẻ) nhưng chi phí giảm và kết qủa tăng chi phí tăng nhưng tốc độ tăng của kết quả cao hơn tốc độ tăng của chi phí. Hiệu quả tăng đồng nghĩa với tích luỹ và mở rộng sản xuất kinh doanh, cho nên tăng hiệu quả là mục tiêu sống còn của doanh nghiệp. 3. Bản chất và phân loại hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động và tiết kiệm lao động xã hội. Các nguồn lực bị hạn chế và khan hiếm chính là nguyên nhân dẫn đến phải tiết kiệm, sử dụng triệt để và có hệu quả. Để đạt được mục tiêu trong kinh doanh phải phát huy điều kiện nội tại, hiệu năng các yếu tố sản xuất tiết kiệm mọi chi phí. Nâng cao hiệu quả chính là phải đạt kết quả tối đa với chi phí nhỏ nhất. 3.1. Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội. Những doanh nghiệp hoạt động thường chạy theo hiệu quả cá biệt, Nhà nước với các công cụ buộc các doanh nghiệp phải tuân theo và phải phục vụ các lợi ích chung của toàn xã hội như phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế , tích luỹ ngoại tệ, tăng thu ngân sách có lợi ích cá biệt của doanh nghiệp đó là lợi nhuận. Tuy nhiên có thể có những doanh nghiệp không đảm bảo hiệu quả cá biệt nhưng nền kinh tế quốc dân vẫn thu được hiệu quả. Tình hình này doanh nghiệp chỉ có thể chấp nhận được trong ngắn hạn và trong thời điểm nhất định do những nguyên nhân khách quan mang lại.Vì vậy trong kinh doanh xuất nhập khẩu doanh nghiệp phải quan tâm đến cả hai loại hiệu quả, kết hợp các lợi ích, và không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh. 3.2. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối. Hiệu quả tuyệt đối là hiệu quả được tính toán cho từng phương án cụ thể sau khi đã trừ đi chi phí để thu được kết quả đó. Hiệu quả tương đối được xác định bằng cách so sánh các hiệu quả tuyệt đối của các phương án khác nhau. Mục đích của việc tính toán là so sánh mức độ hiệu quả các phương án khi thực hiện cùng một nhiệm vụ để từ đó chọn một cách thực hiện có hiệu quả nhất. Trong thực tế để thực hiện một phương án mà rất nhiều các phương án khác nhau so sánh đánh giá là một trong những công tác rất quan trọng, vai trò này thuộc về các nhà quản lý để từ đó tạo ra hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp. 3.3. Hiệu quả chi phí bộ phận và hiệu quả chi phí tổng hợp. Hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với các điều kiện cụ thể như tài chính, trình độ kỹ thuật, nguồn nhân lực... Do vậy, hình thành chi phí mỗi doanh nghiệp là khác nhau. Nhưng thị trường chỉ chấp nhận chi phí trung bình xã hội cần thiết. Trong công tác quản lý đánh giá hiệu quả xuất nhập khẩu không chỉ đánh giá hiệu quả chi phí tổng hợp mà còn đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí để tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Quan tâm đến chi phí cá biệt để từ đó có các biện pháp giảm những chi phí cá biệt không hiệu quả tạo cơ sở hoàn thiện một biện pháp tổng hợp, đồng bộ tạo tiền đề để thu được hiệu quả cao nhất. 4. Một số hình thức xuất nhập khẩu thông dụng. 4.1. Xuất nhập khẩu trực tiếp. Hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp còn gọi là hoạt động xuất nhập khẩu tự doanh là việc doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá do doanh nghiệp mình sản xuất hay thu gom được cho khách hàng nước ngoài và ngược lại. Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra sau khi doanh nghiệp nghiên cứu kỹ thị trường, tính toán đầy đủ các chi phí và đảm bảo tuân theo chính sách Nhà nước và luật pháp quốc tế. Đặc điểm: Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải tự bỏ vốn, tự chịu mọi chi phí, chịu mọi trách nhiệm và chịu rủi ro trong kinh doanh. 4.2. Xuất nhập khẩu uỷ thác. Là hình thức xuất nhập khẩu trong đó đơn vị tham gia xuất nhập khẩu đóng vai trò trung gian cho một đơn vị kinh doanh khác tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng bán hàng hoá với đối tác bên ngoài. Xuất nhập khẩu uỷ thác hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có nhu cầu tham gia xuất nhập khẩu hàng hoá nhưng lại không có chức năng tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp và phải nhờ đến một doanh nghiệp có chức năng xuất nhập khẩu được doanh nghiệp có nhu cầu uỷ quyền. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trung gian này phải làm thủ tục và được hưởng hoa hồng. Đặc điểm: Doanh nghiệp nhận uỷ quyền không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch... mà chỉ đứng ra khiếu nại nếu có tranh chấp xảy ra. 4.3. Xuất nhập khẩu hàng đổi hàng. Là hình thức xuất khẩu gắn liền với nhập khẩu, người mua đồng thời cũng là người bán. Đặc điểm: Hình thức xuất nhập khẩu này doanh nghiệp có thể thu lãi từ hai hoạt động nhập và xuất hàng hoá. Tránh được rủi ro biến động đồng ngoại tệ. Trong hình thức xuất nhập khẩu hàng đổi hàng khối lượng, giá trị nên tương đương nhau thì có lợi cho doanh nghiệp khi tham gia vận chuyển, hình thức xuất nhập khẩu này được nhà nước khuyến khích. 4.4. Xuất nhập khẩu liên doanh. Là một hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (ít nhất là một doanh nghiệp có chức năng xuất nhập khẩu) nhằm phối hợp khả năng sản xuất -> xuất nhập khẩu trên cơ sở các bên cùng chịu rủi ro và chia sẻ lợi nhuận. Đặc điểm: Doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu chỉ đóng góp một phần nhất định. Chi phí, thuế, trách nhiệm được phân theo tỷ lệ đóng góp thoả thuận. Còn có rất nhiều hình thức xuất nhập khẩu khác như gia công uỷ thức, giao dịch tái xuất... nhưng trên đây là các hình thức cơ bản nhất và phổ biến trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. 5. Hoạt động xuất nhập khẩu trong cơ chế thị trường. Xuất nhập khẩu là một hoạt động tạo lợi nhuận cho doanh nghiệp, nâng cao đời sống cho người lao động, phát huy lợi thế so sánh, phát triển tăng trưởng của quốc gia. Chính vì thế hoạt động này rất phức tạp. Để thực hiện tốt phải có sự chuẩn bị về quy chế, quản lý, tổ chức tốt thì mới thu được hiệu quả lâu dài. Hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động xuất nhập khẩu nó gắn liền với rủi ro, nếu không có sự nghiên cứu một cách kỹ lưỡng. Do vậy trong hoạt động xuất nhập khẩu phải được tiến hành theo các bước, các khâu và xem xét một cách kỹ lưỡng nhưng phải theo kịp biến động và nhu cầu của thị trường trên cơ sở tuân thủ pháp luật và thông lệ quốc tế và Nhà nước. Do đó phải nắm rõ nội dung của hoạt động xuất nhập khẩu đó là. 5.1. Nghiên cứu và tiếp cận thị trường. Nghiên cứu thị trường là dùng tổng hợp các biện pháp kỹ thuật nghiên cứu như điều tra, tham dò, thu thập... Sau đó phân tích trên cơ sở đầy đủ thông tin và từ đó đưa ra quyết định trước khi thâm nhập thị trường. Vấn đề ở đây là phải nhận biết sản phẩm xuất nhập khẩu phải phù hợp với thị trường, số lượng, phẩm chất, mẫu mã... Từ đó rút ra khả năng của mình cung ứng mặt hàng đó. Phải nhận biết được rằng chu kỳ sống của sản phẩm ở giai đoạn nào (thường trải qua 4 giai đoạn: Triển khai -> tăng trưởng -> bão hoà -> suy thoái). Mỗi giai đoạn có một đặc điểm riêng mà doanh nghiệp phải biết khai thác có hiệu quả. Sản xuất cũng như xuất nhập khẩu có rất nhiều đối thủ cạnh tranh trong cùng lĩnh vực do đó doanh nghiệp phải quan tâm đến đối thủ thù đó để ra biện pháp thời điểm xuất nhập khẩu sao cho phù hợp nhất. Ngoài ra vấn đề tỷ giá hối đoái cũng rất quan trọng. Trong hoạt động xuất nhập khẩu nó gắn liền với các đồng ngoại tệ mạnh, sự biến động của các đồng tiền nó ảnh hưởng rất lớn. Do đó dự báo nắm do xu hướng biến động là vấn đề cần quan tâm. Trong các cuộc nghiên cứu cần quan tâm các nội dung như nghiên cứu về nội dung hàng hoá, nghiên cứu về giá cả hàng hoá, thị trường hàng hoá ... Trên cơ sở này doanh nghiệp có các bước đi tiếp theo. 5.2. Lựa chọn đối tác và lập phương án kinh doanh. Sau khi nghiên cứu thị trường ta phải lựa chọn đối tác là lập phương án kinh doanh. Khi lựa chọn bạn hàng phải nắm đủ các thông tin như tình hình sản xuất kinh doanh, vốn, cơ sở vật chất, khả năng, uy tín, quan hệ trong kinh doanh... Có bạn hàng tin cậy là điều kiện để thực hiện tốt các hoạt động thương mại quốc tế. Sau khi lựa chọn đối tác ta phải lập phương án kinh doanh như giá cả, thời điểm, các biện pháp thực hiện, thuận lợi, khó khăn... 5.3. Tìm hiểu nguồn hàng. Phải tìm hiểu khả năng cung cấp hàng hoá của các đơn vị. Phải chú ý các nhân tố như thời vụ, thiên tai, các nhân tố có tính chu kỳ... Vì các nhân tố này có thể ảnh hưởng đến giá cả và sản lượng. 5.4. Đàm phán ký kết hợp đồng. Có rất nhiều hình thức đàm phán xuất nhập khẩu như fax, thư tín thương mại điện tử, gặp trực tiếp, qua điện thoại. Các bên tự thoả thuận và đưa ra hình thức thuận tiện nhất. Nhưng theo hình thức nào cũng cần tiến hành theo các bước quy định. Sau đàm phán thành công hai bên tiến hành ký kết hợp đồng. 5.5. Tổ chức thực hiện hợp đồng. Đây là công việc phức tạp do đó các bên phải luôn luôn tuân thủ và tôn trọng nhau cùng như luật pháp. nếu là bên xuất khẩu thì phải xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng, kiểm tra hàng, thuê tàu lưu cước, lập chứng từ, giải quyết khúc mắc... 5.6. Thanh toán và đánh giá hiệu quả hợp đồng. Sau khi thanh toán, kết thúc hợp đồng, nếu không xảy ra tranh chấp thì kết thúc hợp đồng và rút ra kinh nghiệm cho các hoạt động tiếp theo. II- Các nhân tố ảnh hưởng và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. 1- Nhân tố chủ quan. 1.1. Lao động. Trong hoạt động sản xuất cũng như trong hoạt động kinh doanh. Nhân tố lao động nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Lao động ở đây là cả yếu tố chuyên môn, ý thức trách nhiệm, tinh thần lao động... Chuyên môn hoá lao động cũng là vấn đề cần quan tâm sử dụng đúng người đúng việc sao cho phù hợp và phát huy tối đa người lao động trong công việc kinh doanh đó là vấn đề không thể thiếu trong công tác tổ chức nhân sự. Nâng cao trình độ chuyên môn lao động là việc làm cần thiết và liên tục, do đặc thù là hoạt động kinh doanh đơn thuần nên người lao động phải nhanh nhạy, quyết đoán, mạo hiểm. Từ việc kinh doanh, bán hàng, chào hàng, nghiên cứu thị trường ... đòi hỏi người lao động phải có năng lực và say mê trong công việc. 1.2. Trình độ quản lý lãnh đạo sử dụng vốn. Đây là yếu tố thường xuyên, quan trọng nó có ý nghĩa rất lớn đến phát huy tối đa hiệu quả trong kinh doanh. Người lãnh đạo phải quản lý phải tổ chức phân công và hợp tác lao động hợp lý giữa các bộ phận, cá nhân. Hoạch định sử dụng vốn làm cơ sở cho việc huy động khai thác tối đa mọi nguồn lực sẵn có, bảo toàn và phát triển vốn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu từ đó có các biện pháp giảm chi phí không cần thiết. Người lãnh đạo phải sắp xếp, đúng người, đúng việc, san sẻ quyền lợi trách nhiệm, khuyến khích tinh thần sáng tạo của mọi người. Sử dụng khai thác các nguồn vốn, triển khai mọi nguồn lực sẵn có có để tổ chức lưu chuyển vốn, nghiên cứu sự biến động các đồng ngoại tệ mạnh... Các doanh nghiệp có nhiều vốn sẽ có ưu thế về cạnh tranh nhưng sử dụng một cách có hiệu quả, hạn chế ít nhất đồng vốn nhàn rỗi, phát huy hiệu quả trong kinh doanh, đó mới là vấn đề cốt lõi trong sử dụng vốn. 1.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật. Cơ sở vật chất là nền tảng quan trọng các hoạt động kinh doanh. Nó có thể đem lại sức mạnh trong kinh doanh. Từ nhà kho bến bãi, phương tiện vận chuyển, thiết bị văn phòng... Nhất là hệ thống này được bố trí hợp lý, thuận tiện. Nó là một cái lợi vô hình, lợi thế kinh doanh. Cơ sở vật chất kỹ tuật tạo ra cho bên đối tác một sự tin tưởng, tạo ra ưu thế cạnh tranh với các đối thủ. Còn có rất nhiều yếu tố khác dịch vụ mua bán hàng, yếu tố quản trị, nhiên liệu hàng hoá... đó cũng là các yếu tố rất quan trọng, phát huy các mặt tích cực hạn chế và giảm tiêu cực do các yếu tổ chủ quan mang lại để phát huy tối đa hiệu quả kinh doanh đòi hỏi phải có một quá trình và bộ máy tổ chức tốt. 2- Các nhân tố khách quan. Đó là các nhân tố tác động đến hiệu quả của Công ty nhưng là các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến mọi hoạt động của Công ty. 2.1. Các đối thủ cạnh tranh Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như các hoạt động kinh doanh khác trong nền kinh tế thị trường đều phải cạnh tranh. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh luôn luôn xuất hiện các đối thủ cạnh tranh. Mặt khác các đối thủ cạnh tranh luôn luôn thay đổi các chiến lược kinh doanh bằng nhiều biện pháp khác nhau. Luôn đổi mới và thích ứng được sự cạnh tranh mới là yếu tố cần thiết. Phải luôn luôn đề ra các biện pháp thích ứng và luôn có các biện pháp phương hướng đi trước đối thủ là một việc làm luôn được quan tâm. 2.2. Các ngành có liên quan. Các ngành có liên quan cũng như trong lĩnh vực kinh doanh cũng đều có tác động rất lớn đều hoạt động xuất nhập khẩu. Hoạt động xuất nhập khẩu nó liên quan đến các ngành khác như ngân hàng, thông tin, vận tải, xây dựng... hệ thống ngân hàng tốt giúp cho hoạt động giao dịch tiền tệ được thuận tiện, hệ thống thông tin liên lạc là yếu tố giúp các bên trao đổi, liên lạc, đàm phán, giao dịch một cách thuận tiện hơn. Các ngành xây dựng, vận tải, kho tàng... nó là vấn đề bổ sung nhưng rất cần thiết. 2.3. Nhân tố về tính thời vụ, chu kỳ, thời tiết của sản xuất kinh doanh. Các hàng hoá, các nguyên liệu, việc sản xuất kinh doanh đôi khi bị ảnh hưởng vởi yếu tố thời vụ, kể cả nhu cầu của khách hàng. Vì vậy kết quả kinh doanh có hiệu quả hay không là do doanh nghiệp có bắt được tính thời vụ và có phương án kinh doanh thích hợp hay không. Ví dụ như hàng mây tre đan xuất khẩu thì yếu tố nguyên liệu phải có thời vụ, thu xong lại phải phơi khô và nhu cầu tăng lên vào mùa hè và các nước có khí hậu nhiệt đới, khí hậu nóng. 2.4. Nhân tố giá cả. Hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh đều phải chất nhận giá thị trường. Giá cả thị trường biến động không theo ý muốn của các doanh nghiệp. Do đó giá cả là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Giá cả thông thường ảnh hưởng bao gồm giá mua và giá bán. Giá mua hàng hoá hoặc sản xuất hàng hoá để xuất khẩu, giá mua thấp doanh nghiệp dễ tìm kiếm thị trường, dễ tiêu thụ hàng hoá, có lợi với các đối thủ cạnh tranh, giảm chi chí đầu vào. Giá bán ảnh hưởng đến trực tiếp của doanh nghiệp. Giá bán là giá của thị trường. Do vậy doanh nghiệp không điều chỉnh được giá bán, mà phải có các chiến lược bán hàng hợp lý mà thôi. 2.5. Chính sách tài chính tiền tệ của Nhà nước. Đây là một hệ thống các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, hiệu quả kinh doanh. Sự hỗ trợ của Nhà nước là rất lớn đôi khi nó kìm hãm hoặc thúc đẩy kể cả một ngành. - Chính sách về thuế: Thuế là một nguồn thu chủ yếu của Nhà nước nhưng nó lại là một chi phí đối với một doanh nghiệp. Do đó chính sách này có tác dụng trực tiếp đến kết quả lợi nhuận của Công ty. Các chính sách giảm thuế, tăng thuế, miễn thuế là các chính sách nhạy cảm đối với các doanh nghiệp. - Chính sách về lãi suất tín dụng: Trong hoạt động kinh doanh doanh nghiệp thiếu vốn thường phải vay tiền tại các ngân hàng, và lãi suất ngân hàng Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp. Nhà nước có thể khuyến khích hoặc kìm hãm đầu tư thông qua chính sách tín dụng, lãi suất... Các chính sách này ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. - Chính sách về tỷ giá, bù giá, trợ giá: Tỷ giá ngoại tệ phản ánh mối quan hệ tương quan về sức mua. Khi có biến động mạnh Nhà nước có thể thả nổi hoặc can thiệp để ổn định tỷ giá thông qua các ngân hàng bằng cách bán hoặc mua ngoại tệ. Nhà nước cũng có thể bù giá, trợ giá cho các mặt hàng để duy trì ổn định sản xuất kinh doanh, như trợ giá mặt hàng cà phê hiện nay, thu mua lúa cho nông dân đồng bằng sông Cửu Long. Hình thức trợ giá này ảnh hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất cũng như tình hình xuất khẩu. 2.6. Các chính sách khác của Nhà nước Trong hoạt động xuất nhập khẩu nó còn liên quan đến các chính sách thuộc về đường lối chính trị nó ảnh hưởng đến. Nước ta từ khi mở cửa với các nước bên ngoài tạo ra hàng loạt cơ họi cho các nhà đầu tư, cho hoạt động xuất nhập khẩu. Trong quan hệ quốc tế Nhà nước có thể ký hiệp định tránh đánh thuế hai lần... Các chính sách này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu, tạo ra hàng loạt cơ hội cho các hoạt động xuất nhập khẩu . 2.7. Nhân tố pháp luật. Bất cứ một hoạt động nào một cá nhân, tập thể, hay một tổ chức nào đều phải hoạt động theo khuôn khổ pháp luật. Hoạt động xuất nhập khẩu cũng vậy cũng phải tuân theo luật pháp của Nhà nước, tuân theo quy định và luật pháp quốc tế. Các quy định luật lệ này lại có thể thay đổi theo thời gian. Do vậy các tác động rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động xuất nhập khẩu phải tuân thủ đầy đủ các quy định không được phạm luật, luôn tìm hểu luật pháp, tạo ra một nguyên tắc làm việc , đảm bảo việc hoạt động theo luật một cách tốt nhất, đó cũng là cách phát huy hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. 3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Khi xem xét hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của mỗi doanh nghiệp cần phải dựa vào một hệ thống chỉ tiêu, các doanh nghiệp phải coi các tiêu chuẩn là mục tiêu phấn đấu. Các tiêu chuẩn đạt được phải có ý nghĩa. Chi phí sản xuất xã hội cho một đơn vị kết quả từ hoạt động xuất nhập khẩu phải nhỏ nhất, phải có ý nghĩa về kinh tế, chính trị và xã hội và phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích xã hội, lợi ích kinh tế quốc dân. Tính toán, xác định hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chính là việc so sánh giữa chi phí và kết quả. Đối với hàng hoá xuất nhập khẩu thì: Doanh thu thuần = Tổng doanh thu - Các khoản giảm trừ. Các khoản giảm trừ bao gồm: Chiết khấu, giảm giá, giá trị hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu. Lợi nhuận gộp = Doanh thu thuần - Giá vốn hàng bán. Lợi nhuận thuần từ HĐKD = Lợi nhuận gộp - Chi phí bán hàng - Chi phí QLDN Lợi nhuận từ hoạt động tài chính = Thu nhập hoạt động tài chính - Chi phí hoạt động tài chính. Lợi nhuận từ hoạt động bất thường = Các khoản thu nhập bất thường - Chi phí bất thường Tổng lợi nhuận trước thuế = Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh + Lợi nhuận từ hoạt động tài chính + Lợi nhuận bất thường 3.1. Hiệu quả kinh doanh tổng quát. Hiệu quả kinh doanh tương đối: Hiệu quả tương đối = Kết quả thu được : Chi phí bỏ ra - Hiệu quả kinh doanh tuyệt đối: Hiệu quả tuyệt đối = Kết quả thu được - chi phí bỏ ra Lợi nhuận theo doanh thu và chi phí: LN theo đầu tư = Tổng lợi nhuận - Tổng doanh thu LN theo chi phí = Tổng lợi nhuận - Tổng chi phí 3.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. - Chỉ tiêu lợi nhuận và doanh thu theo vốn kinh doanh: LN theo vốn kinh doanh = Tổng lợi nhuận : Vốn kinh doanh DT theo vốn kinh doanh = Tổng doanh thu : Vốn kinh doanh - Chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu: DT theo VCSH = Tổng doanh thu : VCSH LN theo VCSH = Tổng lợi nhuận : VCSH Chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận theo TSCĐ: DT theo TSCĐ = Tổng doanh thu : TSCĐ LN theo TSCĐ = Tổng lợi nhuận : TSCĐ 3.3. Chỉ tiêu đánh giá sử dụng lao động. - Năng suất lao động bình quân (W) W = Tổng doanh thu : Tổng lao động Chỉ tiêu lợi nhuận theo lao động (PLĐ): PLĐ = Tổng lợi nhuận : Tổng lao động Phần II Thực trạng và hiệu quả kinh doanh xuất nhập tại Công ty thiết bị vật tư du lịch I- Tổng quan về Công ty. - Tên giao dịch quốc tế: VIETNAM NATIONAL TOURIS MATERIALS AND EQUIPMENT EXPORT - IMPORT CORPORATION. - Tên viết tắt: MATOURIMEX. - Trụ sở chính Công ty đặt tại: 26 Láng Hạ - Hà Nội. - Số đăng ký kinh doanh: 106279. - Ngân hàng giao dịch: Ngân hàng ngoại thương Hà Nội: +Tài khoản đồng Việt Nam: 01-383-052. +Tài khoản ngoại tệ: 37-110 - 052. - Loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp nhà nước. 1- Quá trình phát triển. Được thành lập năm 1990 theo quyết định của Bộ văn hoá - Thông tin - Thể thao và du lịch đến nay đã trải qua hơn mười năm phát triển. Công ty là đơn vị kinh tế quốc doanh, có tư cách pháp nhân hạch toán độc lập, Công ty trực thuộc Tổng cục du lịch Việt Nam và chịu sự quản lý Nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu của Bộ thương mại. Công ty hoạt động với mục đích thông qua hoạt động xuất nhập khẩu đáp ứng yêu cầu về mọi mặt của hàng hoá, phù hợp với nhu cầu ngành du lịch và thị trường trong nước góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. Từ khi thành lập đến nay Công ty đã không ngừng mở rộng, sắp xếp tổ chức trong Công ty, chăm lo cán bộ đời sống nhân viên và đạt được nhiều kết quả tốt. Trong những năm qua bất chấp những khó khăn do khủng hoảng một số nền kinh tế, Công ty luôn làm ăn có lãi, đảm bảo là nơi cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho ngành du lịch và thị trường trong nước. Công ty luôn đổi mới cách hình thức kinh doanh, tích cực tìm kiếm thị trường, luôn tìm cách nâng cao hiệu quả kinh doanh để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế cạnh tranh khốc liệt hiện nay. Công ty luôn đáp ứng đầy đủ các thiết bị vật tư đặc chủng cho ngành du lịch, cung cấp, quảng bá dịch vụ du lịch ra nước ngoài, luôn đổi mới và thích ứng trong điều kiện còn nhiều khó khăn hiện nay. Qua đó thấy rằng Công ty ra đời là quyết định đúng đắn, luôn đáp ứng các yêu cầu của ngành và đóng góp vào nền kinh tế đất nước. 2- Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức quản lý của Công._. ty thiết bị vật tư du lịch. 2.1. Chức năng nhiệm vụ của Công ty. Công ty là tổ chức kinh tế thực hiện chức năng kinh doanh các loại trang thiết bị, vật tư, hàng hoá phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh và phát triển ngành du lịch. Mở rộng liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước nhằm tăng thêm các mặt hàng phục vụ trong và ngoài ngành. Tổ chức công tác xuất nhập khẩu và nhận uỷ thác của các đơn vị có liên quan trong và ngoài ngành. Mở rộng các hình thức kinh doanh tổng hợp các trang thiết bị thuộc thực phẩm công nghệ, máy móc thiết bị dùng cho khách sạn, vật liệu xây dựng, hàng dệt, thủ công mỹ nghệ, đáp ứng đầy đủ các loại vật tư thiết bị cho khách hàng trong và ngoài nước. Các mặt hàng cụ thể đó là thu mua nông lâm hải sản, dịch vụ du lịch, mây tre đan, máy móc thiết bị (dệt, điện, sứ, vật liệu xây dựng...) 2.1. Cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Ban giám đốc công ty Phòng kinh doanh Phòng kinh tế tài chính Phòng tổ chức hành chính Cửa hàng Hai Bà Trưng Cửa hành Cát Linh Chi nhánh miền Nam Kho Hoàng Liệt Trên cơ sở chức năng nhiệm vụ công tác quản lý của doanh nghiệp mà bộ máy quản lý được sắp xếp, phân theo các phòng ban khác với các chức năng khác nhau. Giám đốc là người đứng đầu, có quyền cao nhất chịu trách nhiệm sắp xếp tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Ngoài ra giám đốc còn trực tiếp giám sát việc thực hiện các phòng ban chức năng. Giúp việc cho giám đốc có một phó giám đốc, phó giám đốc được giám đốc phân công điều hành một hoặc một số lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước giám đốc về hoạt động và hiệu quả trong công tác được giao. - Các phòng ban: + Phòng xuất nhập khẩu (phòng kinh doanh ): Hàng năm giúp giám đốc lên kế hoạch kinh doanh trước mắt và lâu dài. Luôn tìm kiếm các nguồn hàng, khảo sát thăm dò tìm hiểu thị trường, quản lý cung cấp các mặt hàng xuất nhập khẩu cho khách hàng, là phòng luôn điều hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày, đảm bảo sự hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Công ty. + Phòng tổ chức hành chính: Có chức năng quản lý, tổ chức xắp xếp lao động. Thanh tra giải quyết các vấn đề nội bộ và bên ngoài doanh nghiệp. Giải quyết các vấn đề thuộc tiền lương, tiền thưởng, các chính sách.v.v... + Phòng kinh tế tài chính: Tổ chức theo dõi các nghiệp vụ kế toán phát sinh một cách kịp thời, trung thực, chính xác, đầy đủ toàn bộ tài sản và phân tích hoạt động kinh doanh. Tổ chức bảo quản các tài liệu thống kê, tổ chức kiểm tra kế toán các chi nhánh, thông tin kinh tế cho các bộ phận có liên quan. Ngoài ra Công ty có 3 cửa hàng: Cửa hàng Hai Bà Trưng, cửa hàng Cát Linh, chi nhánh 12A Lý Tự Trọng, thành phố Hồ Chí Minh và kho Hoàng Liệt. Các đơn vị đơn vị trực thuộc được Công ty cấp vốn và có nhiệm vụ bảo toàn, phát triển và sử dụng có hiệu quả vốn trong kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là mối qua tâm hàng đầu của Công ty. Do đó từ trong quản lý, tổ chức, điều hành hướng về mục đích này. 3- Cơ sở vật chất kỹ thuật Là một cơ sở xuất nhập khẩu nên bộ máy, cơ sở vật chất không có gì là đồ sộ, không có máy móc sản xuất, không có công nhân làm việc mà thay vào đó là một hệ thống các cửa hàng, nhà kho, văn phòng đại diện .v.v... Công ty hoạt động vì mục đích lợi nhuận nhưng ngoài ra còn phải cung cấp thiết bị theo yêu cầu của ngành du lịch. Do vậy ngành nghề kinh doanh của Công ty bao gồm.: - Xuất nhập khẩu các mặt hàng thiết bị vật tư du lịch. - Nhận uỷ thác xuất nhập khẩu cho các mặt hàng Công ty đang kinh doanh. - Cung cấp các mặt hàng khác như dệt may, xây dựng đồ hộp, đồ điện, sứ.v.v... - Thu mua nông lâm sản, may tre đan, các mặt khác phục vụ khách du lịch. - Các thiết bị của Công ty cung cấp là các thiết bị đặc chủng, không có sản xuất ở trong nước, rất ít trên thị trường của các hàng nổi tiếng trên thế giới phục vụ các công trình khách sạn lớn và các nhà hàng trong nước. Ngày nay các thiết bị này có rất nhiều đơn vị cạnh tranh mua bán do vật Công ty gặp không ít khó khăn. Nhưng Công ty luôn tìm cách mở rộng các hoạt động kinh doanh khác nhau tìm thêm thu nhập, tăng lợi nhuận. 4- Tình hình cung ứng vật tư và cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của công ty. Từ khi thành lập công ty lịch đã tiếp cận nhiều thị trường trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đông Nam á. Nhờ có chính sách mở cửa nền kinh tế của Nhà nước mà Công ty có nhiều mối quan hệ và bạn hàng với nhiều nước trên thế giới, quan hệ và bạn hàng với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước cùng khu vực. Do Công ty thuộc ngành du lịch nên các mặt hàng Công ty cung cấp là các khách sạn, nhà hàng, nhà nghỉ lớn. Do đó đều phải nhập từ các hàng nổi tiếng như SONY, SAmSUNG, SOUNDCRAFT, RCF, PANASONIC... Các mặt hàng nhập về được làm thủ tục hải quan và nhập kho từ đó phân đi các cửa hàng và các khách hàng lớn... Các cửa hàng của Công ty được phép lấy danh nghĩa Công ty để giao dịch ký kết hợp đồng bán buôn, bán lẻ. Do vậy các cửa hàng có thể bằng nhiều hình thức tăng doanh thu cho cửa hàng mình để đóng góp vào Công ty và có được quỹ riêng cho mình. Bảng 1: Kết quả doanh thu 3 năm qua theo cơ cấu mặt hàng. Đơn vị: Triệu đồng. STT Tên mặt hàng Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 1 Vật tư du lịch 20.800 19.820 15.750 2 Mây tre đan, lâm sản, hải sản 15.351 18.630 21.930 3 Vật tư ngành dệt, xây dựng 5.550 6.742 10.101 4 Các thiết bị vật tư ngành khác 4.250 4.320 10.650 Tổng 45.951 49.500 58.431 Nhìn vào bảng ta thấy rằng vật tư ngành du lịch như máy lạnh, đồ điện tử trang thiết bị khách sạn, chiếm tỷ lệ cao nhất nhưng có xu hướng giảm dần. Tương đương với nó là doanh thu về các mặt hàng mây tre đan, mặt hàng chủ lực này chiếm doanh thu lớn do đó nó quyết định đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. Do đó Công ty luôn tìm cách để tăng thêm các mặt hàng thuộc hai nhóm mặt hàng khác cũng không kém phần quan trọng và Công ty luôn tìm thêm các mặt hàng thuộc các nhóm khác để xuất nhập khẩu tạo thêm doanh thu. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của công ty. Đơn vị: Triệu USD. Năm 1998 1999 2000 Xuất khẩu Gạo Cafe Hoa quả Mây tre, gỗ Vải, quần áo Giầy, dép, mũ, nón Khác 4,756 0,95 0,35 0,2 0,32 0,87 0,53 1,536 4,895 1,35 0,45 0,35 0,15 0,76 0,75 2.433,65 5,2 1 0,25 0,47 0,52 0,97 0,875 1,115 Nhập khẩu Vật tư DL Máy may, dệt Vật liệu da Máy móc sản xuất Vật liêu vệ sinh Vật liêu xây dựng Giấy Khác 2,9 0,8 0,25 0,35 0,75 0,15 0,35 0,05 0,2 3,518 0,75 0,3 0,5 0,8 0,05 0,3 0,09 0,728 3,95 0,7 0,35 0,75 0,9 0,06 0,32 0,1 0,77 Các thị trường chính của công ty. ( Triệu USD ). Nhìn vào các thị trường của Công ty thể hiện qua cơ cấu biểu đồ sau: Nhật : 3,7 EU : 5,9 Philipin : 0,95 Irac : 1,5 Mỹ :1,25 Singapore :1,5 Indonexia : 0,75 Nga : 2,5 úc : 3 10. Cu ba : 1,2 11. Thái Lan : 0,969 12. Trung Quốc : 12 5- Tình hình lao động, kế hoạch của Công ty các năm qua. Tất cả các nhân viên trực tiếp tham gia công việc kinh doanh quản lý của Công ty đều có kiến thức sâu rộng về chuyên môn xuất nhập khẩu. Mọi công việc liên quan tới chuyên môn đều được giải quyết nhanh chóng đó là một thuận lợi lớn của Công ty. Với cán bộ nhân viên hiện nay khoảng 63 người, trong đó có 23 người có trình độ đại học và trên đại học (chiếm 36,5%). Ngoài ra còn có một số nhân viên làm hợp đồng cho các chi nhánh đại lý của Công ty đều được lựa chọn một cách cẩn thận. Là Công ty hoạt động kinh doanh đơn thuần nên nhân viên không nhiều nhưng những hoạt động của họ đã và đang đóng góp cho công ty là rất lớn. Trong các năm qua kế hoạch của Công ty là tiếp tục xuất nhập khẩu các mặt hàng phục vụ ngành du lịch và luôn phát triển các mặt hàng này. Nhận uỷ thác xuất nhập khẩu cho các ngành hàng Công ty dang kinh doanh cung cấp, lắp đặt, chuyển giao công nghệ thiết bị vật tư cho các ngành khác. - Tiếp tục tìm kiếm các mặt hàng thuộc nhóm các mặt hàng Công ty có chức năng xuất nhập khẩu để mở rộng hoạt động kinh doanh. II- Phân tích thực trạng Công ty trong 3 năm qua. 1- Tình hình kinh doanh. 1.1. Tình hình doanh thu. Bảng 2: Cơ cấu doanh thu của Công ty. Đơn vị: Triệu đồng. STT Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Giá trị % Giá trị % Giá trị % 1 Thu từ bán hàng hoá 45.950 92,50 49.512 91,54 58.431 86,33 2 Thu từ các hoạt động dịch vụ của Công ty 3.325 6,49 4.125 7,63 8.500 12,56 3 Thu từ các hoạt động khác 501 1,01 450 0,83 750 1,11 4 Tổng doanh thu 49.677 100 54.057 100 67.681 100 5 Kế hoạch 50.000 55.000 60.000 6 % hoàn thành kế hoạch 99 98 113 7 Tốc độ tăng (%) 9,8 25 Nhìn vào doanh thu của Công ty ta thấy rằng trong hai năm 1998, 1999 có thể coi là hoàn thành kế hoạch nhưng về con số tuyệt đối là chưa đạt. Điều này có rất nhiều nguyên nhân, trong đó năm 1998 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế đất nước cũng như khu vực. Đồng Việt Nam mất giá so với đồng USD và đồng yên Nhật do có sự điều chỉnh từ ngân hàng Nhà nước nên ảnh hưởng kết quả của Công ty. Một số doanh nghiệp khác được tự do xuất nhập khẩu các ngành hàng của Công ty do đó Công ty mất ưu thế. Bước sang năm 1999 Nhà nước áp dụng luật thuế mới (VAT) cộng thêm những khó khăn của năm cũ Công ty dù cố gắng tháo gỡ nhưng vẫn chưa đạt kế hoạch. Bước sáng năm 2000 bằng nhiều hình thức và biện pháp khác Công ty đã tăng doanh thu so với kế hoạch là 113%. Trong các khoản tăng này phải kể đến khoảng tăng từ hoạt động dịch vụ của Công ty. Đó là Công ty tích cực nhận uỷ thác xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức khác thu từ các hoạt động như cho thuê nhà kho, cơ sở vật chất nhàn rỗi... là khoản thu đáng kể cho Công ty. Doanh thu năm 2000 tăng vọt là do Công ty tăng cường xuất khẩu các mặt hàng lâm sản như gạo, hoa quả... cho các nước như IRAC, PHILIPIN... và tìm được thị trường mới là thị trường Châu Âu với các sản phẩm đổ hộp... Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu Công ty. Đơn vị: Triệu USD. STT Chỉ tiêu 1998 1999 2000 Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng 1 Xuất khẩu 4,756 62 4,895 58 5,2 57 2 Nhập khẩu 2,9 38 3,518 42 3,95 43 3 XNK Trực tiếp 6,278 82 6,64627 79 7,32 80 4 XNK uỷ thác 1,378 18 1,76673 21 1,28 20 5 Tổng kim ngạch XNK 7,656 100 8,413 100 9,15 100 6 Kế hoạch 7,5 8 9 7 % hoàn thành 102 105 102 8 Tốc độ tăng % 9,9 8 Biểu đồ cơ cấu kim ngạch xuất nhập khẩu (Triệu USD) Năm Nhìn vào bảng 3 ta thấy trong ba năm qua Công ty luôn hoàn thành và vượt kế hoạch đề ra từ 2 - 5% tốc độ tăng năm sau so với năm trước là gần 10%. Điều này là kỳ tích của Công ty trong khi cuộc khủng hoảng tiền tệ vẫn còn khó khăn đến tận bây giờ nhưng Công ty đã tìm mọi cách giải quyết khó khăn như tích cực nhận uỷ thác xuất nhập khẩu cho các đơn vị khác, ngoài các cửa hàng của Công ty, Công ty tích cực mở rộng thị trường bằng cách mở rộng thêm các đại lý nhỏ ở các tỉnh khác trong cả nước, nhờ đó mà kim ngạch xuất nhập khẩu và doanh thu của Công ty liên tục tăng cao. 1.2. Tình hình lợi nhuận. Trong các năm qua do các khó khăn chung của các đơn vị tham gia xuất nhập khẩu, cũng như hoạt động kinh doanh, cho nên lợi nhuận do dó mà bị ảnh hưởng. Xét về mục đích kinh doanh thì lợi nhuận là thước đo hiệu quả của Công ty, nhưng trong thực trạng hiện nay hoạt động có lợi nhuận và giải quyết công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên và duy trì hoạt động chờ thời cơ. Điều này được Nhà nước luôn khuyến khích và ủng hộ. Bảng 4: Tình hình lợi nhuận Công ty. Đơn vị: Triệu đồng. Năm Chỉ tiêu 1998 1999 2000 1. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh 170 230 231 2. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính 25,3 50,1 33,7 3. Lợi nhuận từ hoạt động bất thường 51 75 104 4. Tổng lợi nhuận trước thuế 246,3 355,1 368,7 Nhìn vào bảng lợi nhuận của Công ty ta thấy rằng Công ty luôn làm ăn có lợi nhuận, năm sau luôn cao hơn năm trước. Nhưng với số lợi nhuận của Công ty có được không thể mở rộng kinh doanh với quy mô lớn được. Vì hoạt động xuất nhập khẩu thông thường là phải nhiều vốn. Mấy trăm triệu hàng năm Công ty đã có được thành quả và nỗ lực của tập thể cán bộ nhân viên Công ty và có thể khẳng định rằng Công ty làm ăn có hiệu quả và đang trên con đường tiến đến thành công. 1.3. Tình hình tài chính và nguồn vốn của Công ty. Bảng 5: Nguồn vốn Công ty. Đơn vị : Triệu đồng. Năm Chỉ tiêu 1998 1999 2000 1. Nguồn vốn kinh doanh 3.141 3.177 3.256 - Vốn ngân sách cấp cố định 1.750 1.750 1.750 - Vốn ngân sách cấp bổ sung 1.250 1.250 1.250 - Tự bổ sung 141 177 256 2. Nguồn vốn tín dụng 28.375 27.742 27.331 - Vay ngắn hạn 17.735 18.723 19.320 - Vay dài hạn 10.640 9.019 8.011 3. Nguồn vốn chủ sở hữu 2.750 2.927 3.183 Là Công ty kinh doanh vật tư thiết bị du lịch và các mặt hàng khác nên Công ty có mối quan hệ giao dịch với nhiều bạn hàng trong và ngoài nước. Chính môi trường kinh doanh phức tạp và độ rủi ro lớn nên phải có kế hoạch tài chính dài hạn, KHTC phù hợp giúp Công ty tăng lợi nhuận. Căn cứ vào số liệu bảng trên ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu liên tục tăng lên điều này là do Công ty có lợi nhuận bổ sung qua các năm. Mặt khác các khoản vay dài hạn của Công ty cũng liên tục giảm điều này phản ánh doanh nghiệp đã thanh toán nợ dài hạn của mình một phần. Các khoản vay ngắn hạn tăng lên là do hoạt động kinh doanh phải mở rộng còn thêm vốn. So sánh giữa nguồn vốn tín dụng và nguồn vốn vay luôn giảm, vốn chủ sở hữu luôn tăng ta thấy khả năng tài chính năm sau luôn cao hơn các năm trước. Nhưng ta có thể thấy rằng nguồn vốn vay Công ty quá cao, do đó Công ty phải trả lãi nhiều. Điều này ánh hưởng đến lợi nhuận và hiệu quả của Công ty. Bảng 6: Bảng cơ cấu tài sản của Công ty. Đơn vị: Triệu đồng. Năm Chỉ tiêu 1998 1999 2000 TSCĐ 2.050 2.750 2.810 TSLĐ 5.750 5.900 7.320 Vì hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đơn thuần nên TSCĐ Công ty rất ít chủ yếu là thiết bị văn phòng và nhà cửa kho tàng, cửa hàng. Trong hoạt động kinh doanh Công ty đòi hỏi rất nhiều vốn kinh doanh cho nên Công ty luôn phải vay ngân hàng, TSLĐ của Công ty được biểu hiện chủ yếu bằng tiền được gửi tại các ngân hàng. 1.4 Tình hình chi phí của Công ty. Nói đến hiệu quả kinh doanh thì nó gắn liền với lợi nhuận của Công ty về mặt hiệu quả kinh tế. Lợi nhuận gắn liền với doanh thu và chi phí, giảm chi phí là mục tiêu của doanh nghiệp, giảm chi phí nó đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận. Giảm chi phí ở đây là giảm các khoản chi phí không hiệu quả, các khoản chi phí lãng phí không cần thiết... chứ không phải là giảm bằng mọi cách, giảm chi phí nhưng vẫn đảm bảo hoạt động kinh doanh của Công ty. Dưới đây là bảng cơ cấu chi phí của Công ty phản ánh tình hình chi phí của Công ty qua ba năm qua của Công ty thông qua các khoản chi chính. Bảng 7: Bảng cơ cấu chi phí của Công ty. Đơn vị : Triệu đồng . Năm Chỉ tiêu 1988 1999 2000 Giá trị % Giá trị % Giá trị % 1. Chi phí mua hàng hoá 40.000 82,92 43.000 80,03 51.500 76,51 2. Chi phí bán hàng 2.281 4,61 2.300 4,28 2.500 3,71 3. Chi phí QLDN 3.500 7,08 3.982 7.41 4.200 6,24 4. Chi phí hoạt động tài chính. 475,7 0,96 399,9 0,74 716,3 1,06 5. Chi phí bất thường 3.174 6,63 4.050 7,54 8.396 12,48 6. Tổng chi phí 49.430,7 100 53.713,9 100 67.312,3 100 Trong ba năm qua cơ cấu chi phí của Công ty luôn thay đổi, điều này là cơ cấu mặt hàng thay đổi. Các khoản chi khác của Công ty tăng lên khá nhanh điều này Công ty nên có biện pháp điều chỉnh lại. Các khoản nộp của công ty là thuế VAT và nộp ngân sách nhà nước. Năm 1998 Công ty nộp 3,51 tỷ đồng. năm 1999 nộp 4,1 tỷ đồng và năm 2000 nộp 5,52 tỷ đồng. Qua phân tích các bảng có thể rút ra một bảng tổng hợp sau: Bảng 8: Bảng tổng hợp tình hình thực tế kết quả kinh doanh 3 năm qua. Chỉ tiêu Đơn vị 1998 1999 2000 - Tổng doanh thu Triệu đồng 49.677 54.087 67.681 - Tổng chi phí Triệu đồng 49.482,7 53.731,9 67.312,7 - Lợi nhuận trước thuế Triệu đồng 246,3 355,1 368,7 - Tổng KN xuất nhập khẩu Triệu USD 7,656 8,413 9,15 - Vốn kinh doanh Triệu đồng 3.141 3.177 3.256 - Vốn chủ sở hữu Triệu đồng 2.750 2.927 3.183 - TSCĐ Triệu đồng 2.050 2.750 2.810 - TSLĐ Triệu đồng 5.750 5.900 7.320 Qua bảng tổng kết trên ta có thể thấy rằng: Kim ngạch xuất nhập khẩu lớn hơn tổng doanh thu chứng tỏ hoạt động uỷ thác chiếm phần khá lớn. Công ty đang làm ăn có lãi dựa vào chỉ tiêu lợi nhuận, Nguồn vốn chủ sở hữu tăng do được bổ sung từ lợi nhuận. Tình trạng kinh doanh của Công ty hiện trạng là khá tốt. 2- Đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty. 2.1. Hiệu quả kinh doanh tổng quát. HQKD = Kết quả thu được Chi phí bỏ ra HQKD 1998 = 49.428,7 49.428,7 = 1,005 HQKD 1999 = 54.087 53713,9 = 1,006 HQKD 2000 = 67.681 67.312,3 = 1,005 - Hiệu quả kinh doanh tuyệt đối. HQKD 1998 = 49.428,7 - 49.677 = 246,3 HQKD 1999 = 54.087 - 53.713,9 = 355,1 HQKD 2000 = 67.681 - 67.313,3 = 368,7 Từ số liệu trên ta thấy: Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tương đối nó cũng nói lên rằng cứ một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Cụ thể năm 1998 và năm 2000 là một đồng chi phí bỏ ra tạo ra 1,005 đồng, năm 1999 một đồng chi phí tạ ra doanh thu là 1,006 đồng. Hiệu quả tuyệt đối > 1 nhưng với số liệu cụ thể trên là hiệu quả chưa cao. - Chỉ tiêu suất lợi nhuận theo doanh thu. Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu Tổng lợi nhuận = x 100 Tổng doanh thu 246,3 Năm 1998: x 100 = 0,49 49.677 355,1 + Năm 1999: x 100 = 0,56 54.087 368,7 + Năm 2000: x 100 = 0,54 67.681 - Chỉ tiêu chỉ suất lợi nhuận theo chi phí Tổng lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí = x 100 Tổng chi phí 246,3 + Năm 1998: x 100 = 0,5 49.428,7 355,1 + Năm 1999 x 100 = 0,66 53.713,9 368,7 + Năm 2000 x 100 = 0,55 67.312,3 Nhận xét: Nhìn vào bảng tỷ suất lợi nhuận ta có thể thấy rằng suất lợi nhuận liên tục giảm, chứng tỏ doanh thu tăng, lợi nhuận tăng, nhưng tốc độ tăng của lợi nhuận thấp hơn mức độ tăng của doanh thu. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo chi phí không ổn định chứng tỏ chi phí tăng nhưng tăng không đều. 2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn - Chỉ tiêu doanh thu theo đồng vốn kinh doanh Tổng doanh thu Doanh thu vốn kinh doanh = Vốn kinh doanh 49.677 Năm 1998: = 15,82 3.141 54.087 Năm 1999: = 17,02 2.177 67.681 Năm 2000: = 20,79 3.256 - Chỉ tiêu lợi nhuận theo vốn kinh doanh Tổng lợi nhuận Lợi nhuận theo vốn kinh doanh = Vốn kinh doanh 246,3 + Năm 1998: = 0,078 3.141 355,1 + Năm 1999 : = 0,112 3.177 368,7 + Năm 2000: = 0,113 3.256 Nhận xét: Nhìn vào số liệu trên ta có thể thấy rằng năm 2000 cứ 1 đồng vốn kinh doanh tạo ra 20,79 đồng doanh thu là và tạo ra 0,113 đồng lợi nhuận là cao nhất. - Chỉ tiêu doanh thu theo tài sản cố định. Tổng doanh thu Doanh thu theo TSCĐ = TS cố định 49.677 + Năm 1998: = 24,23 2.050 54.087 + Năm 1999: = 19,67 2.750 67.681 + Năm 2000: = 24,09 2.810 - Chỉ tiêu lợi nhuận theo vốn cố định: Tổng lợi nhuận Lợi nhuận theo TSCĐ = TS cố định 246,3 + Năm 1998: = 012 2.050 355,1 + Năm 1999 : = 0,13 2.750 368,7 + Năm 2000: = 0,13 2.810 Nhận xét: Nhìn vào chỉ tiêu ta thấy rằng cứ một đồng tài sản cố định tạo ra 24,23 đồng doanh thu, 0,12 đồng lợi nhuận năm 1998; 19,67 đồng doanh thu, 0,13 đồng lợi nhuận năm 1999 và 24,09 đồng doanh thu, 0,13 đồng lợi nhuận năm 2000, chứng tỏ chỉ tiêu này ổn định qua các năm. - Chỉ tiêu đánh giá doanh thu theo tài sản lưu động: Tổng doanh thu Doanh thu theo TS lưu động = Tài sản lưu động 49.677 + Năm1998: = 8,64 5.750 54.087,7 + Năm 1999: = 9,17 5.900 67.681 + Năm 2000: = 9,24 7.321 - Chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận theo tài sản lưu động Tổng lợi nhuận Lợi nhuận theo TSLĐ = Tải sản lưu động 246,3 + Năm1998: = 0,04 5.750 355,1 + Năm 1999: = 0,06 5.900 368,7 + Năm 2000: = 0,05 7.320 Nhận xét: Năm 1998 cứ một đồng tài sản lưu động tạo ra 8,64 đồng doanh thu và 0,04 đồng lợi nhuận. Năm 1999 cứ một đồng tài sản lưu động tạo ra 9,17 đồng doanh thu và 0,06 đồng lợi nhuận. Năm 2000 cứ một đồng tài sản lưu động tạo ra 9,24 đồng doanh thu và 0,05 đồng lợi nhuận, nhìn vào chỉ tiêu này tăng qua từng năm. - Chỉ tiêu đánh giá doanh thu và lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu. Doanh thu theo vốn chủ sở hữu = Tổng doanh thu Vốn chủ sở hữu + Năm1998: 49.677 2.750 = 18,06 + Năm1999: 54.087 2.927 = 18,47 + Năm 2000 67.681 3.183 = 21,26 - Lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu = Tổng lợi nhuận Vốn chủ sở hữu + Năm1998: 246,3 2.750 = 0,09 + Năm1999: 355,1 2.917 = 0,12 + Năm 2000: 368,7 3.183 = 0,12 Nhìn vào chỉ tiêu này thì năm 2000 là hiệu quả nhất. 2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động. - Năng suất lao động bình quân W = Tổng doanh thu Tổng lao động W 1998 = 49.677 63 = 789 triệu/ người W 1999 = 54.087 63 = 859 triệu/ người W 2000 = 67.691 63 = 1.074 triệu/ người - Chỉ tiêu lợi nhuận lao động PLĐ = Tổng lợi nhuận Tổng lao động W 1998 = 246,3 63 = 3,9 triệu/ người W 1999 = 355,1 63 = 5,6 triệu/ người W 2000 = 368,7 63 = 5,85 triệu/ người Căn cứ vào chỉ tiêu này thì năm 1998 một người lao động tạo ra 789 triệu đồng doanh thu và 3,9 triệu đồng lợi nhuận. Năm 1999 một người lao động tạo ra 859 triệu đồng doanh thu và 5,6 triệu đồng lợi nhuận. Năm 2000 một người lao động tạo ra 1,074 tỷ đồng và 5,85 triệu đồng lợi nhuận là cao nhất. Bảng 9: Bảng tổng hợp các chỉ tiêu phản ánh HQHĐ xuất nhập khẩu. STT Chỉ tiêu Đơn vị 1998 1999 2000 HQKD tương đối Đồng/đồng 1,005 1,006 1,005 HQKD tuyệt đối Triệu đồng 246,3 355,1 368,7 Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu % 0,49 0,65 0,54 Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí % 0,5 0,66 0,55 Doanh thu vốn kinh doanh Đồng/đồng 15,82 17,02 20,79 Lợi nhuận vốn kinh doanh Đồng/đồng 0,078 0,112 0,113 Doanh thu theo TSCĐ Đồng/đồng 24,23 19,67 24,09 Lợi nhuận TSCĐ Đồng/đồng 0,12 0,13 0,13 Doanh thu theo TSLĐ Đồng/đồng 8,64 9,17 9,24 Lợi nhuận theo TSLĐ Đồng/đồng 0,04 0,06 0,05 Doanh thu theo vốn CSH Đồng/đồng 18,06 18,47 21,26 Lợi nhuận theo vốn CSH Đồng/đồng 0,09 0,12 0,12 Năng suất lao động bình quân Triệu/ người 789 859 1074 Lợi nhuận theo lao động Triệu/ người 3,9 5,64 5,85 3. Nhận xét công tác nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty. 3.1. Kết quả đạt được. Từ khi Công ty ra đời Công ty đã đống góp vào sự phát triển của ngành và kinh tế đất nước. Đó là, trong những năm qua Công ty đã xuất nhập khẩu và cung ứng đầy đủ các loại vật tư thiết bị cho khách hàng đánh giá cao. Ngoài ra Công ty còn nhận uỷ thác xuất nhập khẩu cho các ngành khác như dệt, giầy da, nông lâm sản... đem lại nguồn thu cho đất nước và cung cấp nguyên vật liệu cho người lao động. Công ty luôn có quan hệ với bạn hàng tin cậy với nước ngoài và luôn mở rộng quy mô hoạt động như mở thêm nhiều hơn nữa cho khách hàng miền Nam. Đặc biệt Công ty có một cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý gọn nhẹ năng động cao phù hợp với quy mô của Công ty là vừa và nhỏ. Điều này thể hiện ở các phòng ban chức năng Công ty, các phòng ban này hoạt động độc lập về công việc nhiệm vụ nhưng lại phối hợp chặt chẽ với nhau trong hoạt động kinh doanh. Điều đó cho thấy trong ba năm qua kim ngạch xuất nhập khẩu và tổng doanh thu của Công ty luôn tăng cao. Về kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1999 tăng 9,9% so với năm 1998 và năm 2000 tăng rất cao đó là 25% so với năm 1999. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng cao là do xuất nhập khẩu tăng, các mặt hàng kinh doanh bán chạy, tồn kho ít, các hoạt động dịch vụ Công ty cũng tăng nhanh. Bên cạnh các thành tích đó thì trong ba năm qua lợi nhuận, TSCĐ, TSLĐ, vốn chủ sở hữu đều tăng phản ánh sự hoạt động kinh doanh của Công ty đang tốt. Hiệu quả tương đối lớn hơn một, nhưng với mức 1,005 - 1,006 là thấp cần phải cải thiện 3.2. Các tồn tại cần tháo gỡ. Trong công tác hoạt động điều tra nghiên cứu thị trường Công ty chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh, công tác giao dịch hiểu biết khách hàng còn kém nguyên nhân là bộ phận tham mưu về thị trường ở phòng kinh doanh còn rất ít, chuyên môn chưa sâu, phải thực hiện nhiều nhiệm vụ nên không có thời gian chuyên tâm vào việc nghiên cứu thị trường nhất là thị trường nước ngoài. Công ty chưa có một đai diện chính thức nào ở nước ngoài đó hàng rào ngăn chở việc nâng cao năng lực kinh doanh của Công ty. Một mặt nữa đó là năng lực cạnh tranh của Công ty còn kém, trong khi các Công ty và đơn vị trong và ngoài nước cạnh tranh khốc liệt thì Công ty hầu như không có biện pháp gì mới do vậy Công ty thường chỉ ký được các hợp đồng nhỏ và vừa có giá trị không lớn. Nguyên nhân của tình trạng này là do Công ty chưa xây dựng được một chiến lược cạnh tranh có hiệu quả, lượng vốn kinh doanh của Công ty thì quá thấp không thể đáp ứng được của công tác Marketing, công tác xây dựng chiến lược của Công ty chưa được chú trọng, Công ty chỉ chú trọng xây dựng kế hoạch hàng năm, các chiến lược dài hạn chỉ là mơ hồ. Hơn nữa, Công ty không thể thi hành các biện pháp cạnh tranh với chi phí cao như quảng cáo trên truyền hình, các ấn phẩm, tạp chí,... Ngoài ra trong việc huy động nguồn hàng Công ty chưa thiết lập được với các cơ sở đơn vị sản xuất kinh doanh do thu mua hàng của Công ty phần nhiều theo kiểu gom hàng từng hộ gia đình và chỉ hoạt động tạo nguồn hàng khi có nhu cầu điều này dễ bị thụ động về nguồn hàng và chất lượng hàng hoá. 4. Nguyên nhân khách quan, chủ quan của những hạn chế và nhược điểm trên. 4.1. Những nguyên nhân khách quan. Trong các năm qua liên tiếp xảy ra các biến cố không lấy gì làm mong đợi. 4.1.1. Cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ trong khu vực (1997) đã ảnh hưởng đến nền kinh tế các nước châu á trong đó có Việt Nam. Nó làm cho tốc độ phát triển của các nước bị khủng hoảng có tăng trưởng âm. Các ngành thương nghiệp, công nghiệp bị đình đốn, công nhân bị sa thải, các doanh nghiệp bị phá sản và không có khả năng trả nợ. Tác động của nó tới Việt Nam rất rõ nét, tăng trưởng kinh tế bình quân năm 1997 là khoảng 6%, năm 1998 hơn 5%. Các ngành xuất nhập khẩu đã giảm mạnh bởi vì trên 70% hàng xuất khẩu của Việt Nam là xuất sang các nước Châu á, ASEAN. Do đó, sức mua của người tiêu dùng giảm mạnh. 4.1.2. Hiện tượng thiểu phát của Việt Nam năm 1998 – 1999 đã làm điêu đứng các ngành mũi nhọn của Việt Nam như mía, đường, ngành xi măng, sắt thép. Do các ngành này dự báo không chính xác, mặt khác lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Châu á, nên sản xuất ra mà không có khách hàng mua. Giá cả các mặt hàng thấp không khuyến khích người nhà sản xuất tiếp tục sản xuất, dẫn đến người lao động bị mất việc làm, không có thu nhập, không có tích luỹ, sức mua giảm. Công ty kinh doanh các mặt hàng thường là những mặt hàng có giá trị lớn, chỉ có gia đình có thu nhập khả mới có khả năng mua. Khi thu nhập của họ bị cắt giảm, khả năng chi trả cho những phương tiện sinh hoạt trên sẽ bị cắt giảm. Đây là nguyên nhân gây ra doanh thu của Công ty giảm. 4.1.3. áp dụng luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) từ ngày 1/1/1999 đã gây ra không ít khó khăn cho việc tính toán. Thực hiện luật thuế này khiến cho các doanh nghiệp nói chung và công ty vật tư thiết bị vật tư du lịch nói riêng phải nộp thuế nhiều hơn các năm gấp 1,5 – 2 lần. 4.1.4. Chính sách của Nhà nước về xuất nhập khẩu đã làm cho Công ty mất đi vị thế của mình trong lĩnh vực vật tư thiết bị du lịch bởi lẽ các chính sách này cho phép các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tự do xuất nhập khẩu hàng hoá mà họ cần. Điều này gây không ít khó khăn cho công ty trong kinh doanh. Do đó, hàng hoá nhập khẩu sẽ không tránh khỏi hàng hoá kém phẩm chất, kém mẫu mã và cuối cùng họ bán phá giá. Mặt khác hiện tượng buôn lậu cũng diễn ra thường xuyên làm cho thị trường thiết bị văn du lịch ngày càng lộn xộn. Mặt hàng của Công ty mất đi tính thuần chủng của mình khi có nhiều hàng hoá có mẫu mã. Tăng doanh thu, tăng hiệu quả kinh tế là mục tiêu mà công ty phải đạt được bằng bất cứ điều kiện nào. Tuy rằng các nhân tố 4.1.1; 4.1.2; 4.1.3 chỉ mang tính tạm thời nhưng những gì mà nó gây ra cho công ty trong 3 năm trên thật không nhỏ. Năng xuất lao động giảm, hiệu quả sử dụng vốn giảm. Kế đó là tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt, ngày càng có nhiều hãng kinh doanh cùng ngành nên Công ty phải đối phó với những biện pháp mạnh, nhưng kết quả doanh thu cũng không tăng được là bao. 4.2. Những nguyên nhân từ phía bên Công ty 4.2.1. Công tác khách hàng, công tác thị trường đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong doanh nghiệp. Nó là một trong những nhân tố quy định sự tồn tại của doanh nghiệp. Hiện nay tại công ty công tác này chưa được chú trọng lắm, nó chỉ biểu hiện ở mức vừa phải như quảng cáo, tuyên truyền, mở hội nghị khách hàng. Công ty chưa đi sâu vào từng thị hiếu của khách hàng, từng thị trường riêng biệt. Chưa có những biện pháp mạnh như khuyến mãi, tiếp thị, giảm giá mà chỉ bó hẹp trong các cửa hàng đại lý. Đây là tác nhân gây nên sự giảm sút về doanh thu. Nếu xét một góc độ khác, công tác khách hàng, công tác thị trường còn là quan tâm đến khách hàng sau khi mua tức dịch vụ khuyến mại khác. Tuy công tác này không phải là giai đoạn quá quan trọng nhưng lại là cầu nối giữa khách hàng và Công ty ngày càng bền chặt, nhưng công ty đã không làm được như vậy. 4.2.2. Công tác tổ chức quản lý đối với Công ty và nhân sự. Trong 3 năm qua công tác quản lý và nhân sự đã bộc lộ nhiều vấn đề cần quan tâm và có những biện pháp giải quyết. Những quyết định quản lý của Công ty đối với các bộ phận bị xem nhẹ và có xu hướng thả lỏng. Đây thật sự không phải là xu hướng tốt đẹp mà Công ty tìm kiếm. Quản lý con người cũng là vấn đề cần lưu ý, mấu chốt ở đây là Công ty nên có một chế độ đãi ngộ và khả năng thăng tiến thoả đáng chứ không nên coi họ là người làm công ăn lương bình thường. Sự thiếu tính chủ động, sáng tạo, không chịu tìm bạn hàng, phần lớn xuất phát từ sự thiếu quản lý và thúc đẩy động lực cho họ. Phần III Mộ._.n hành thành lập các đại lý phân phối hàng hoá tại các tình trong cả nước. Nhưng nếu Công ty đặt đại lý bằng cách bỏ vốn xây dựng mạng lưới chi nhánh hay các đơn vị thuộc Công ty sẽ rất khó khăn và lãng phí nguồn nhân lực bởi lẽ: Thị trường tại các tỉnh, nếu không am hiểu sẽ không nắm vững và có được những thông tin chính xác. Vốn đầu tư lớn cho việc xây dựng trong khi Công ty lại hạn hẹp về vốn, không khả thi. Ngoài ra, nhu cầu tại đó còn nhỏ, không đủ bù đắp chi phí xây dựng. Vì những nguyên nhân trên để Công ty mở rộng mạng lưới phân phối của mình tại các tỉnh nên tiến hành bằng cách liên doanh – liên kết với một số cơ sở tại tỉnh đó dưới hình thức đại lý. Công ty nên thành lập các cấu trúc kênh dài và trung trong khi đó vẫn tiếp tục duy trì kênh trực tiếp và kênh một cấp cụ thể: MATOURIMEX MATOURIMEX Đại lý Người bán buôn Người bán buôn Người bán buôn Người bán lẻ Người bán lẻ Người tiêu dùng Người tiêu dùng (4) 2 cấp (5) 3 cấp Hai cấu trúc kênh này có ưu điểm là giúp Công ty tiêu thụ được hàng hoá nhanh chóng đến tận ngóc ngách của vùng nông thôn, tiêu thụ với khối lượng hàng hoá lớn, giảm tồn kho, tăng vòng quay của vốn và tăng doanh thu dẫn đến tăng hiệu quả. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, kênh càng nhiều cấp càng khó kiểm soát hơn. Điều này đúng. Để khắc phục được tình trạng này, Công ty có thể đưa ra một vài biện pháp tập trung vào các hoạt động lựa chọn và khuyến khích các thành viên kênh hoạt động, giải quyết những vấn đề về sản phẩm, giá, xúc tiến qua kênh, phân phối và đánh giá của họ qua thời gian. + Tuyển chọn các thành viên kênh: Cũng giống như tuyển chọn lao động trong Công ty nhưng những tiêu chuẩn tuyển chọn có khác với tuyển chọn lao động, đó là thành viên trong nghề, những mặt hàng họ bán, mức lợi nhuận và khả năng phát triển, khả năng chi trả, tính hợp tác và uy tín, điều kiện kinh doanh. Tất cả các điều kiện này phải phù hợp với yêu cầu của Công ty đưa ra. + Khuyến khích các thành viên của kênh Trước hết, nhà sản xuất phải tìm hiểu được nhu cầu và mong muốn của thành viên kênh để có chế độ khuyến khích kịp thời, hợp lý. Bởi vì, các trung gian là các đơn vị kinh doanh độc lập, họ là một thị trường độc lập, có sức mạnh riêng, có chiến lược kinh doanh riêng. Đôi khi quan điểm của nhà sản xuất và các trung gian không tương thích nhau. Vì vậy, công ty phải điều tra để có chính sách thích ứng với nhu cầu và mong muốn của họ. Có 3 phương pháp để khuyến khích thành viên kênh phổ biến, đó là hợp tác, thiết lập quan hệ thành viên và xây dựng chương trình phân phối. Các phương pháp này tập trung vào việc tạo ra quan hệ liên kết chặt chẽ trong kênh. Chúng chỉ khác nhau ở mức độ kế hoạch hoá và điều khiển từ chỗ chỉ là những biện pháp khuyến khích đơn lẻ không được tính toán trước đến việc thiết lập một hệ thống Marketing chiều dọc có quy hoạch và được quản trị một cách chuyên nghiệp. + Đánh giá hoạt động của các thành viên kênh. Công ty phải định kỳ đánh giá hoạt động của thành viên kênh theo các tiêu chuẩn như: mức doanh thu đạt được, mức lưu kho trung bình, thời gian giao hàng, các xử lý hàng hoá thất thoát hư hỏng, mức độ họp tác trong các chương trình quảng cáo và huấn luyện của Công ty và những dịch vụ mà họ cung cấp. Việc đặt định mức doanh số cho các kênh trung gian cũng là một biện pháp thúc đẩy họ làm việc hiệu quả hơn. Trong đó vấn đề tổ chức mạng lưới bán hàng và các phương thức phân phối là một nhân tố quan trọng để kết hợp giữa bán xỉ và lẻ. Bán lẻ: Phương thức này chủ yếu phục vụ các nhu cầu nhỏ bé, số lượng ít, có tính tức thời. Để phát triển được phương thức này cần chú ý đến các dịch vụ bán hàng như: Sửa chữa, bản hành cũng như hướng dẫn kỹ thuật khi bán, thậm chí có thể giao hàng đến tận nhà để tăng ưu thế cạnh tranh. Bán buôn: Phải có những chính sách khuyến mãi phù hợp như: Giảm giá theo số lượng cho những đơn hàng có số lượng lớn. Bán trả chậm., thực chất của hình thức này là biến tướng của giảm giá nhưng mức giá này phụ thuộc vào lãi suất ngân hàng tại thời điểm đó. Bởi vì, do nhu cầu thiết bị âm thanh có tính đặc thù là phụ thuộc rất nhiều vào kế hoạch, chiến lược phát triển mạng lưới thông tin, tiền sẽ do cấp trên trẻ nếu là đơn vị của Nhà nước, còn cá nhân mua để hoạt động thì chưa có khả năng thanh toán ngay do khả năng sinh lời của các mặt hàng này chậm. Phương thức này có ưu điểm là đáp ứng được nhu cầu có khối lượng lớn đối với khách hàng trong nước và duy trì được mối quan hệ làm ăn lâu dài với bạn hàng. Tuy nhiên, phải qui định sự ràng buộc chặt chẽ về nghĩa vụ trong hợp đồng tránh tình trạng rủi ro sau này. Bán hàng qua mạng lưới: Phương thức này là sự kết hợp tổ chức giữa các đại lý bán hàng của Công ty. Nó có ưu thế là đáp ứng những nhu cầu cả ở những địa bàn xa xôi nhất và còn là một công cụ hữu hiệu để tăng trưởng thị phần trước sức ép của các đối thủ cạnh tranh. 2. Tiết kiệm chi phí. Một Công ty làm ăn có hiệu quả cũng đồng nghĩa với việc làm thế nào để thu được lợi nhuận cao nhất. Và người ta nghĩ ngay tới giải pháp tiết kiệm: Trong cơ chế mơí, tiết kiệm không chỉ là sự quan tâm của mỗi doanh nghiệp mà còn là sự quan tâm của chính phủ. Với khẩu hiệu: “ Tiết kiệm là quốc sách hàng đầu” đã cho chúng ta thấy cái giá phải trả cho sự lãng phí vô cùng to lớn. Đối với nền kinh tế quốc dân, cần tiết kiệm 1% giá trị ngân sách Nhà nước có thể đầu tư không biết bao nhiêu công trình phúc lợi, nhân sinh. Đối với doanh nghiệp sẽ làm tăng lợi nhuận, giảm lãng phí vật tư, nguyên liệu, … Công ty hiện nay, do đặc điểm là doanh nghiệp kinh doanh không sản xuất trực tiếp, bốn khâu của quá trình này là nhập hàng phân phối, lưu thông – trao đổi và tiêu dùng. Trong 4 khâu này Công ty bao giờ cũng phải nghĩ tới việc thực hiện tiết kiệm ở hai khâu là nhập hàng và lưu thông hàng hoá. Tham khảo chi phí trong 3 năm của công ty về chi phí mua hàng, chi phí lưu thông và chi phí quản lý, ta có nhận xét xác thực. Qua các năm tổng chi phí đều tăng, nhưng chi cho mua hàng giảm về tỷ trọng trong khi doanh thu vẫn tăng chứng tỏ công ty đã có nhiêù biện pháp giảm chi trong khoản này. Để thực hiện tiết kiệm ở khâu nhập hàng, có biện pháp có thể áp dụng là: - Công ty cần nghiên cứu đúng đắn nhu cầu thị trường về vật tư hàng hoá. Đây là biện pháp quan trọng để doanh nghiệp sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực hiện có. Công ty cần tính toán đầy đủ để nhập hàng với khối lượng hợp lý, không quá thừa cũng không quá thiếu. Việc này sẽ có ưu điểm lớn là tiết kiệm chi phí giao dịch, nhận, chuyên chở hàng và sau đó là tránh tồn kho quá nhiều trong khi vẫn đáp ứng được nhu cầu đa dạng của thị trường. - Trong điều kiện hiện nay, khách hàng chỉ mua những loại hàng hị cần. Vì vậy, việc xác định đúng đắn đơn đặt hàng muốn nhập cũng giữ một vai trò quan trọng trong thực hiện tôí ưu hoá yếu tố đầu vào. Vì có như vậy mới đảm bảo tiêu thu hàng hoá nhanh, tăng vòng quay của vốn. Lập đúng đơn hàng còn giúp cho Công ty xác định được những vật tư hàng hoá nào cần thiết cho Công ty, tìm hiểu và mua được nguồn hàng thích hợp. - áp dụng nguyên tắc: “Quy luật số lớn”. Công ty nên xác định phương án nhập khẩu rõ ràng, cụ thể. Khi nhập thì nhập với số lượng lớn, tránh tình trạng nhập tràn lan. Có như vậy, chi phí giao dịch vận chuyển sẽ giảm đi rất nhiều so với nhập làm nhiều lần. Khâu lưu thông là khâu hoạt động mà dựa vào đó sự tuần hoàn và vận chuyển của vốn kinh doanh của các doanh nghiệp đuực thực hiện thông qua hệ thống kinh doanh: vận tải, kho vận, kinh doanh thương mại. Một khối lượng hàng hoá khổng lồ. Như vậy, nếu tiết kiệm ở khâu này, cho phép chi phí sản xuất lưu thông dẫn đến giảm đáng kể chi phí sản xuất sản phẩm. Thực chất của việc tiết kiệm ở đây là sử dụng dè sẻn tất cả nguồn tài nguyên đầu tư vào lĩnh vực lưu thông, tránh hư hao mất mát, sử dụng một cách hợp lý tài nguyên sao cho có hiệu qủa nhất. Có thể có một số biện pháp tiết kiệm chi phí lưu thông: - Cần nghiên cứu thị trường để xác định nhu cầu tiêu dùng của thị trường là bao nhiêu để từ đó lên kế hoạch sản xuất và dự kiến chi phí lưu thông. Bảng dự kiến chi phí này phải phù hợp, sát tình hình thực tiễn, độ chính xác cao và tiện cho làm mục tiêu phấn đấu. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tốt kế hoạch lưu chuyển vật tư hàng hoá góp phần làm giảm chi phí lưu thông. - Giảm chi phí lưu thông vận tải trong lưu thông vật tư hàng hoá: Theo tính toán chi phí vận chuyển cho vật tư hàng hoá chiếm 70% - 90% tổng chi phí lưu thông. Trong khâu này, hàng hoá thường hư hao mất mát lớn nhất do điều kiện cơ sở hạ tầng của ta còn kém. Tiết kiệm trong khâu này chính là giảm phí tổn vận tải, giảm hư hỏng mất mát trong quá trình vận chuyển, chất lượng hàng hoá phải được bảo đảm. Các biện pháp để giảm chi phí vận tải như sử dụng các phương tiện sẵn có, lựa chọn kênh mua bán và tiêu thụ sản phẩm hợp lý, giảm chi phí bốc dỡ hàng, tích cực ứng dụng khoa học kỹ thuật tiến tiến vào khâu này. - Tổ chức công tác tiếp nhận vật tư hàng hoá về số lượng và chất lượng, bảo quản tốt hàng hoá ở các đơn vị của Công ty. Thực tế lưu thông vật tư cho thấy, hàng hoá trong quá trình vận chuyển đến tay người tiêu dùng hầu hết phải qua các khâu tiếp nhận và bảo quản ở hệ thống kho, bến cảng và cửa hàng. Nếu ở nơi này không quán triệt vấn đề tiết kiệm nhằm giảm bớt hạn chế hư hao, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và xây dựng. Thực hiện tiết kiệm ở công đoạn này là tối ưu hoá lực lượng dữ trữ, sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn đầu tư vào quá trình này. - Tổ chức hạch toán và thống kê vật tư hàng hoá là công cụ quảntọng góp phần quản lý vấn đề tiết kiệm. Tổ chức tốt công tác này giúp Công ty nắm được tình hình diễn biến vật tư hàng hoá trong quá trình xuất khẩu, nhập khẩu, sử dụng hàng hoá. 3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Công ty là một doanh nghiệp Nhà nước, vốn được Nhà nước cấp theo mức độ đóng góp vào ngân sách của Công ty. Hàng năm Công ty vẫn phải nhập hàng với số lượng lớn. Tiền của Công ty thường đổi ra ngoại tệ để trả người bán. Kể từ năm 1997 trở lại đây, Công ty không còn đi vay ngân hàng như trước. Hàng năm, Nhà nước cấp vốn bổ sung khoảng hơn một tỷ cho Công ty và quỹ ngày càng lớn mạnh. Tuy nhiên khả năng sử dụng vốn của Công ty còn thấp, không đi vào lưu thông, không sinh lời. Để khắc phục phần nào tình trạng trên Công ty có thể áp dụng một vài phương pháp sau: - Công ty có thể tham gia góp vốn liên doanh – liên kết với các Công ty TNHH kinh doanh cùng ngành nhằm tăng sức cạnh tranh của Công ty trên thương trường. Việc này sẽ giúp các bên tham gia phát huy được thế mạnh của mình, mở rộng thị trường và cơ hội kinh doanh. Ngày nay, với xu thế toàn cầu hoá các hoạt động kinh doanh, các Công ty đa quốc gia muốn bành trướng vị thế của mình ra các nước đang phát triển. Do đó nó gây cho các doanh nghiệp tại các nước sở tại chịu sức ép cạnh tranh mạnh mẽ gây ra sự liên kết giữa các doanh nghiệp cùng ngành để đối phó với các Công ty đa quốc gia trên. Công ty cũng không nằm ngoài tình trạng trên. Đây là trường hợp bắt buộc, nếu Công ty đi khỏi xu thế này, Công ty sẽ bị cô lập. - Đẩy nhanh vòng quay của vốn lưu động, tích cực hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực nhập uỷ thác, nhập tái xuất, đa dạng hoá mặt hàng nhập khẩu, đưa lồng vốn vào vòng luân chuyển. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động là một trong những chỉ tiêu tổng hợp dùng để đánh giá chất lượng công tác sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển vốn nhanh hay chậm. Nói lên tình hình tổ chức các mặt công tác: mua sắm, dự trữ sản xuất tiêu thụ của Công ty hợp lý hay không, các khoản vật tư dự trữ sử dụng tốt hay xấu và các khoản phí tổn trong sản xuất kinh doanh cao hay thấp, tiết kiệm hay không. Đầu tư mua hàng hoá gửi đến các cửa hàng, đại lý trên cả nước với phương thức trả chậm. Trong vòng một tháng hoặc hai tháng nhằm làm giảm vốn tiền mặt trong Công ty. Đó là hình thức đầu tư lâu dài, rủi ro thấp, nhưng vốn có thể sinh lãi. 4. Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn. Cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước mà nước ta đang hướng tới xây dựng, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu và giải quyết. Đặc biệt trong lĩnh vực kế hoạch dài hạn; trong những năm chuyển đổi cơ chế, đã tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về vai trò và sự tồn tại khách quan của công tác này. Thực chất của quá trình lập kế hoạch dài hạn (tức là chiến lược) là quá trình định hướng và điều khiển theo định hướng đối với sự phát triển sản xuất, theo quy luật tái sản xuất mở rộng ở mọi cấp của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói riêng. Đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chiến lược kinh doanh đóng một vai trò quan trọng trong con đường phát triển của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp nhằm phác thảo những quỹ đạo tiến triển đủ vững chắc và lâu dài, chung quanh quỹ đạo đó có thể sắp đặt những quyết định, những hành động chính xác của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo cách tiếp cận khác thì chiến lược là một phương tiện để doanh nghiệp trả lời các câu hỏi sau: Công ty muốn đi đến đâu? Công ty có thể đi đến đâu? Công ty đi đến đó bằng cách nào? Công ty có những gì và Công ty khác có những gì? Nói chung, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp hàm ý và phản ánh mục tiêu của doanh nghiệp, thời gian dài hạn, quá trình ra quyết định, môi trường cạnh tranh và lợi thế cũng như yếu điểm của doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh. Trong thực tế, những năm qua công tác xây dựng chiến lược ở Công ty chưa được chú trọng lắm nên ít ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Công ty mới chỉ chú trọng đến việc xây dựng kế hoạch năm, còn phác thảo chiến lược chỉ là mờ nhạt. Muốn có chiến lược phát triển của doanh nghiệp đều phải tiến hành xây dựng theo một tiến trình. Thực chất của tiến trình này là lựa chọn những lĩnh vực hoạt động kinh doanh và đảm bảo các nguồn lực cho chúng nhằm duy trì và phát triển doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn của Công ty, từ nay đến năm 2009, Công ty có thể xây dựng một chiến lược với nội dung như sau: “ Chiến lược đến với phần thị trường của Công ty”. Trong chiến lược này gồm: - Duy trì thị trường và khách hàng sẵn có, tích cực tìm kiếm thị trường mới, đảm bảo hàng hoá Công ty sản xuất kinh doanh được tiêu thụ đều đặn và nhanh chóng. - Tăng kim ngạch xuất nhập khẩu trên cơ sở thiết lập những đại diện và những chính sách khuyến khích thoả đáng. - Tiếp tục duy trì những mặt hàng hiện có, đồng thời tìm kiếm sản phẩm mới, mặt hàng mới đáp ứng nhu cầu khách hàng ngày càng đa dạng. Tuy nhiên, để có một chiến lược dài hạn hoàn hảo trong tương lai, Công ty cần đi theo một quy trình chặt chẽ trong hoạch định chiến lược mà ở đó, nó có vai trò làm cho mọi việc đạt đến đúng mục tiêu đã định và kiểm soát sẽ giữ cho mọi việc đi đúng hướng đã đề ra. Như vậy, khi có những sai lầm trong hoạch định chúng sẽ được phát hiện và điều chỉnh kịp thời mà không gây thiệt hại cho Công ty. Nhiều nhà quản trị thường mắc sai lầm và điều chỉnh các kế hoạch khi chúng đã trải qua quá trình thực hiện, dẫn đến những lãng phí rất lớn các nguồn lực. Do đó, như tiến sĩ Deming đã nhận xét “Khoảng 80% lãng phí xuất phát từ các đầu bút chì và đường dây điện thoại”. Sơ đồ 4: Tiến trình hoạch định kế hoạch. A Lập kế hoạch D Tiến hành các hoạt động điều chỉnh B Thực hiện kế hoạch C So sánh sự chuẩn bị và kết quả cuối cùng với kế hoạch Hoạch định Kiểm soát Điều chỉnh kế hoạch tương lai Điều chỉnh sự chệch hướng của KH thực hiện Phản hồi Từ chu kỳ hoạch định trên, có thể rút ra nhận xét rằng kế hoạch mà Công ty muốn đề ra sẽ không hoàn toàn mất ý nghĩa khi nó có những sai sót xảy ra, bởi vì, quá trình kiểm soát trong quá trình thực hiện kế hoạch sẽ tìm ra nhưng sai sót đó và điều chỉnh ngay khi nó chưa có những tác động xấu. Để chu kỳ tiếp theo, sai lầm trên sẽ không lặp lại, kế hoạch ngày càng hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn. Để cụ thể và chi tiết hơn chu kỳ trên, dưới đây xin đưa ra tiến trình hoạch định chiến lược mà Công ty nên áp dụng. Tuy vậy những ngưòi tham gia hoạch định không nhất thiết phải tuân theo thứ tự các bước, mà có thể trở qua trở lại, bỏ qua bước mà họ không thấy phù hợp với hoàn cảnh của Công ty. Bước 1 Xác định sứ mệnh và xác định mục tiêu của tổ chức Bước 2 Phân tích các đe doạ và cơ hội thị trường Bước 3 Đánh giá điểm mạnh và điểm của tổ chức Bước 4: Xây dựng kế hoạch chiến lược để lựa chọn Bước 5: Triển khai kế hoạch chiến lược Bước 6: Triển khai các kế hoạch tác nghiệp Bước 7: Kiểm tra và đánh giá kết quả Bước 8: Lập lại quá trình hoạch định Cụ thể: Bước 1: Công ty trả lời được các câu hỏi: “Công ty là ai?”. Công ty muốn trở thành một tổ chức như thế nào? Các mục tiêu định hướng của Công ty là gì? … Bước 2: Những đe doạ và cơ hội tồn tại có thể có từ các yếu tố sau đây: Sơ đồ 5: Các tác nhân đe doạ hoạt động kinh doanh của công ty. Quyền thương lượng trả giá của nhà cung cấp Quyền thương lượng trả giá của khách hàng Sự đe doạ hàng hoá dịch vụ thay thế Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh Công ty NATOURIMEX Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành Bước 3: Đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu của tổ chức - Việc này cho phép Công ty nhận diện được khả năng chủ yếu của mình trong toàn bộ lĩnh vực. - Bảng sau đây sẽ đánh giá điểm mạnh, điểm yếu ở cấp chức năng và cấp chiến lược, nó nêu ra một số tiêu thức cơ bản phục vụ cho việc đánh giá và thích hợp với Công ty kinh doanh một lĩnh vực mặt hàng đặc chủng như công ty. Bảng mẫu đánh giá các điểm mạnh, điểm yếu. Tiêu thức Nội dung chi tiết Thang điểm A B C D E Tài chính Khả năng vay nợ Tỷ số vốn trên nợ (vốn/nợ) Tỷ số vòng quay hàng tồn kho Lợi nhuân biên Kinh doanh – sản xuất Năng suất lao động Địa điểm đặt Công ty, kho tàng Kiểm soát – quản lý Nhân sự hành chính Chất lượng nhân sự Truyền thống Chất lượng cán bộ lãnh đạo Tỷ số lao động sản xuất/ LĐ hành chính, phụ Marketing Thị phần Uy tín của sản phẩm, dịch vụ Thái độ khách hàng Hiệu quả của quảng cáo, khuyến mãi Công nghệ Công nghệ chế tạo sản phẩm Năng lực R & D Chỉ dẫn: A: Mức độ cao hơn các đối thủ B: Trên trung bình, đáp ứng tốt nhu cầu, không có vấn đề gì. C:Trung bình, có thể chấp nhận được, ngang nhau trong cạnh tranh. D: Có vấn đề, nó có thể thực hiện, cần điều chỉnh cho hoàn hảo. E: Có nhiều vấn đề cần quan tâm, ở mức khủng hoảng. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có những biến đổi lớn với những nét đặc trưng. Nước ta đang từng bước hoàn thành kế hoạch 5 năm 1996 – 2000 và tiếp tục thực hiện kế hoạch 2000 – 2004. Đại hội Đảng IX và X sẽ được diễn ra, Nhà nước tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế có sự điều tiết của Nhà nước nhằm phát triển theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tiếp tục cải cách về cơ chế chính sách nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng. Tuy nhiên bước đầu công cuộc cải cách cũng không tránh khỏi những vướng mắc, thiếu đồng bộ, đòi hỏi chúng ta phải theo dõi sát để thực hiện. Xu thế quốc tế hoá tiếp tục phát triển, Việt Nam ra nhập ASEAN, tham gia vào AFTA, ra nhập APEC và tương lai gần sẽ là WTO, không gian tự do hoá sẽ được thông thoáng hơn, gianh giới thị trường nội ngoại sẽ hẹp lại. Điều này một mặt tạo ra những thuận lợi trong kinh tế đối ngoại, mặt khác sẽ làm cho cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài đều tham gia hoạt động trên thị trường Việt Nam. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp Nhà nước đang có sự thay đổi lớn. Xu hướng cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, hệ thống kế toán thay đổi, chính sách thuế xuất nhập khẩu có điều chỉnh mọi mặt hàng, ngành hàng thuộc Bộ thương mại quản lý, các Công ty ra đời và phá sản sẽ làm thay đổi cơ cấu cân đối kim ngạch xuất nhập khẩu. Trong khi đó Công ty muốn đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh thì phải qua nhiều đầu mối xuất nhập khẩu phức tạp, tốn kém chi phí. Từ sự thay đổi kinh tế xã hội ở trên, công ty không thể không coi trọng chiến lược kinh doanh của mình. Chỉ có làm như vậy Công ty mới đối phó được sự thay đổi khó lường của môi trường kinh tế. Chỉ có làm như vậy, Công ty mới tồn tại và phát triển lâu dài, Công ty mới có thể đi đúng hướng và trả lời được câu hỏi: “ Công ty đang đi về đâu? Đích của Công ty muốn đến là gì? Có phải lợi nhuận càng cao là phúc lợi xã hội càng lớn hay tăng quy mô thị trường? …” Tóm lại, việc xây dựng chiến lược kinh doanh sẽ giúp Công ty xác định được phương hướng kinh doanh đúng đắn, có hiệu quả cao, lâu dài, giúp Công ty định hướng được quỹ đạo kinh doanh và điều chỉnh theo nó. Xây dựng chiến lược kinh doanh giúp Công ty phân tích và dự đoán moi trường kinh doanh nhằm xác định được thời cơ,có kế hoạch đầu tư và lương trước được những rủi ro đe doạ từ môi trường bên ngoài (đối thủ cạnh tranh, khách hàng, người cung cấp, tiêu dùng). Nó cũng giúp Công ty chủ động hơn giành thắng lợi trên thương trường. Chiến lược được hoạch định và thực thi dựa trên sự phát hiện và tận dụng các cơ hội kinh doanh, các lợi thế so sánh của doanh nghiệp nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao. 5. Xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi và hoàn thiện công tác tổ chức cán bộ. Xây dựng một đội ngũ cán bộ giỏi và hoàn thiện công tác tổ chức cán bộ luôn luôn được bao hàm bởi một tiến trình quản trị nguồn nhân lực có hiệu quả. Bởi lẽ mọi sự xuất phát từ con người đều liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động quản trị nhân sự ttrong Công ty. Quản trị nhân sự là một khoa học ứng dụng. Nó là nghệ thuật kết hợp nhuần nhuyễn nhiều thành tựu của các ngành khoa học khác nhau tạo thành một hệ thống tổng thể những phương tiện nhằm thu hút, lôi cuốn những người giỏi về với doanh nghiệp. Giữ cho được đội ngũ nhân sự mà doanh nghiệp đang có, động viên thúc đẩy nhân viên, tạo điều kiện cho họ bộc lộ, thăng hoa và cống hiến tài năng cho Công ty. Tất cả các tác động này không có kỹ thuật chính xác nào hỗ trợ và nó diễn ra trong bối cảnh một Công ty, bối cảnh văn hoá xã hội, chính trị và nhất là thể hiện trong tất cả các cấp quản trị. Như đã nói ở phần phương hướng, phần lớn các cán bộ nhân viên của Công ty đều là người có trình độ đại học và trên đại học. Bên cạnh những người phát huy hết khả năng của mình còn có những người chưa thực sự quan tâm đến Công ty, chưa phát huy hết khả năng dẫn đến lãng phí nguồn nhân lực. Sơ đồ 6: Tiến trình quản trị nguồn nhân lực Các tác lực môi trường bên trong và ngoài NATOURIMEX Hoạch định và dự báo nguồn nhân lực: Phân tích nhu cầu tuyển dung Phân tích chức danh và đánh giá công việc Đánh giá thành tích Tuyển mộ: Các nguồn bên trong Các nguồn bên ngoài Quản lý con người Quyết định tuyển dụng Tuyển chọn nhân sự Định hướng và hội nhập Thúc đẩy và động viên Điều động nhân sự: Thăng chức, giáng chức Thuyên chuyển, điều động nội bộ Điều chỉnh cơ cấu tổ chức hay công việc Huấn luyện và phát triển nhân sự Những công việc cần người Các tác lực môi trường bên trong và bên ngoài NATOURIMEX NATỏUIMẽ Công tác tổ chức cán bộ của Công ty sao cho vừa phát huy được sự năng động sáng tạo tự chủ của mỗi thành viên, vừa tạo ra được sức mạnh của Công ty để vươn lên trong cơ chế thị trường, có đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trên một góc độ nào đó, hoạt động kinh doanh trong cơ chế hiện nay thì việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ được đông đảo các nhà kinh doanh hiện nay coi là nhân tố quyết định trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, ta biết rằng, kinh doanh là một hoạt động của con người. Hiệu quả kinh doanh phụ thuộc vào năng lực tập thể của người kinh doanh và biện pháp thực hiện mục tiêu. Nếu không chuẩn bị tốt đỗi ngũ cán bộ thì chắc chắn hiệu quả kinh doanh đem lại sẽ kém. Vì thế, với công ty là một Công ty đang đà phát triển cần có hệ thống tổ chức cán bộ hợp lý. Trong thời gian tới Công ty tự bỏ kinh phí để đào tạo mới, đào tạo lại đối với từng cán bộ quản lý, kỹ thuật về các mặt chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ. Muốn có kế hoạch bồi dưỡng trìn độ cán bộ công nhân quản lý cho thật hiệu quả, cần phân tích trình độ của từng loại nhằm đào tạo đúng chuyên môn, tay nghề làm sao cho sử dụng đúng người, đúng việc một cách có hiệu quả nhất. Đây chính là sức mạnh tổng hợp là điều kiện cần thiết để có thể phát huy tới mức cao nhất năng lực sáng tạo, sự năng động của tài nguyên chất xám mà không một siêu máy tính nào của kỷ nguyên thông tin có thể thay thế được. Mặt khác Công ty nên có một chiến lược đầu tư dài hạn thu hút nhân tài, trọng dụng những nguời có năng lực vào vị trí xứng đáng. Qua đó năng suất công việc sẽ tăng lên. Tuy nhiên để có được một đội ngũ cán bộ tương đối hoàn hảo phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình, Công ty không chỉ biết đòi hỏi mà cũng cần phải có biện pháp khuyến khích vật chất và tinh thần đồng đội đủ sức để phát huy sáng tạo như: Công ty nên tiến hành việc thưởng công theo đúng kết quả lao động của mỗi cán bộ công nhân viên; thưởng phần trăm theo khối lượng hoàn thành công việc; có thưởng thêm phần trăm cho nhóm, đơn vị, cá nhân làm tăng thêm giá trị công việc, khoán chi phí kinh doanh đối với từng phương án kinh doanh cho cá nhân hay nhóm thực hiện; kết hợp với các biện pháp khuyến khích vật chất là các biện pháp khuyến khích về tinh thần. Động viên, khen ngợi, tạo bầu không khí thân thiện giữa cá nhân với nhau, giữa các bộ phận với nhau. Sự gắn bó đoàn kết trong Công ty sẽ đem lại sức mạnh trong hoạt động kinh doanh, thúc đẩy quá trình kinh doanh đã đặt ra. Để làm tốt điều này, Công ty nên tổ chức các kỳ nghỉ cho cán bộ công nhân viên chức trong thời gian rảnh rỗi, tăng các hoạt động có tính tập thể, đồng thời có các biện pháp xử phạt hợp lý, kiên quyết chống hiện tượng tuỳ tiện thiếu trách nhiệm, vô tổ chức và mọi biểu hiện tham ô lãng phí. Thêm vào đó Công ty cần cải tiến lề lối làm việc sao cho gọn nhẹ, tránh phiền hà nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc quản lý do Nhà nước qui định: cải tiến sổ sách ghi chép, thống kê, lưu trữ, thông tin liên lạc để phục vụ cho công tác quản lý được nhanh chóng, chính xác. 6. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và quản lý của Công ty. Công ty thiết bị vật tư du lịch là một đơn vị kinh doanh thuơng mại nên số lượng cán bộ nhân viên lớn. Nhìn vào sơ đồ tổ chức bộ máy của Công ty ta thấy rằng đó là cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, giám đốc là người nắm mọi hoạt động của Công ty và là người ra quyết định cuối cùng. Nhưng Công ty có nhiều chi nhánh, trung tâm nằm rải rác ở các tỉnh trên toàn quốc dẫn đến việc quản lý tập trung chưa tốt. Các quyết định đưa ra nhiều khi thi hành chậm chễ hoặc thi hành không tốt dẫn đến kết quả kinh doanh chưa cao. Ngoài ra, ở Công ty khâu tổng hợp và xử lý thông tin chưa kịp thời dẫn đến việc chậm chễ khi tiến hành ra quyết định. Thêm vào đó trong quá trình quản lý một số bộ phận làm ăn không có hiệu quả nên Công ty có ý định xem xét lại sự tồn tại của các bộ phận này. Đảm bảo sự quản lý của Công ty với đồng vốn bỏ ra. Củng cố tổ chức phòng xuất nhập khẩu, các cửa hàng nhằm nâng cao khả năng thích ứng của các phòng này trong kinh doanh. Hoàn chỉnh các quy chế hiện có, xây dựng các quy chế cho các lĩnh vực hoạt động mới đảm bảo sự công bằng trong phân phối thu nhập, khuyến khích cho mọi người tham gia vào việc tìm khách hàng, giữ khách hàng và bán hàng. Kết luận. Hiệu quả kinh doanh là một vấn đề đặt ra cho mọi quốc gia, mọi thời đại, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp trước khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một ngành, một sản phẩm hay một dịch vụ nào đó ngoài việc phải trả lời các câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? Cũng cần biết họ sẽ phải bỏ ra bao nhiêu chi phí và những lợi ích có từ dự án đầu tư, dĩ nhiên, những lợi ích đó dù tồn tại dưới hình thức nào cũng phải lớn hơn chi phí bỏ ra. Nói cách khác, các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp bao giờ cũng mong muốn thu được lợi nhuận tối đa vói một chi phí thấp nhất có thể. Sở dĩ nhu vậy là vì lợi nhuận mà nói rộng ra là hiệu quả kinh doanh, vừa là động lực, vừa là tiền đề để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển được trong môi trường cạnh tranh vô cùng khắc nghiệt, mọi rui ro bất chắc luôn có thể xảy ra, nguy cơ thua lỗ, phá sản luôn rình rập. Trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng mở rộng, vấn đề hiệu quả luôn được quan tâm hàng đầu. Đối với các doanh nghiệp đây là một vấn đề khó khăn chưa được giải quyết triệt để. Để giải quyết nó không những phải có kiến thức năng lực mà cần có kinh nghiệm thực tiễn. Mặc dù hoạt động kinh doanh của công ty vật tư thiết bị du lịch có những thành tựu và kết quả chưa được như mong muốn. Nhưng vấn đề hiệu quả luôn được công ty đặt lên hàng đầu. Làm thế nào để hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, khắc phục những thiếu sót trong quá trình hoạt động. Với mong muốn góp phần để cùng nghiên cứu tìm tòi, suy nghĩ và đóng góp một số ý kiến nhỏ bé của mình để làm cho hoạt động kinh doanh của Công ty vật tư thiết bị du lịch được tốt hơn. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn viết đề tài này. Với kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, việc tìm ra những biện pháp có ý nghĩa thiết thực là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Do vậy, tôi rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và bạn đọc. Em xin trân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn TS. Lê Thị Anh Vân và các cô chú phòng kinh tế tài chính của công ty đã tạo điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành đề tài này. Danh mục tài liệu tham khảo Báo cáo tài chính của công ty và một số tài liệu khác. Cẩm nang nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu. Đổi mới kinh tế Việt Nan và chính sách kinh tế đối ngoại. Giáo trình quản trị doanh nghiệp - Trường ĐH Kinh tế quốc dân. Giáo trình kinh tế và tổ chức sản xuất - Trường ĐH Kinh tế quốc dân. Giáo trình Quản trị giao dịch và thanh toán thương mại trong giao dịch quốc tế - Trường ĐH Kinh tế quốc dân. Giáo trình quản trih kinh doanh thương mại quốc tế - Trường ĐH Kinh tế quốc dân. Vì sao phải đặt vấn đề Hiệu quả và cạnh tranh - Tạp chí cộng sản. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nền kinh tế Việt Nam - Nhà xuất bản quốc gia. Marketing quốc tế và quản lý xuất khẩu - Nhà xuất bản giáo dục. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9225.doc
Tài liệu liên quan