Nâng cao hiệu quả kinh doanh Xuất nhập khẩu hàng hoá của Công ty Cung ứng nhân lực Quốc tế & Thương mại (SONA)

lời mở đầu Xuất nhập khẩu hàng hoá là lĩnh vực kinh doanh buôn bán hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài nhằm thu được lợi nhuận và hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Đặc biệt là lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xu hướng quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước ngày càng phát triển. Đại bộ phận các doanh nghiệp, công ty hiện nay trực tiếp hoặc gián tiếp đều có liên

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1197 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh Xuất nhập khẩu hàng hoá của Công ty Cung ứng nhân lực Quốc tế & Thương mại (SONA), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan đến giao dịch thương mại quốc tế. Chính vì vậy, các quan hệ giao dịch thương mại giữa Việt nam và các nước Mỹ, Nhật, Tây Âu ... ngày càng tăng cường; và các chính sách của chính phủ các nước này sẽ có tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước. Một số doanh nghiệp, Ngân hàng, các công ty bảo hiểm , công ty cổ phần mặc dù không liên quan trực tiếp đến buôn bán quốc tế, song vẫn có những mối quan hệ nhất định về kinh doanh xuất nhập khẩu. Việc chuyển sang nền kinh tế mở vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với đó là sự phát triển của hàng loạt các loại hình doanh nghiệp mới: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.. và kéo theo sự sôi động của một thị trường tràn ngập hàng hoá. Vì vậy,khó khăn của các doanh nghiệp Nhà nước là điều không tránh khỏi. Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường mang đầy tính cạnh tranh thì không có con đường nào khác là phải nâng cao khả năng cạnh tranh qua việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này càng mang tầm quan trọng đặc biệt đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Thông qua xuất nhập khẩu chúng ta có điều kiện nắm bắt và tiếp cận những thành tựu khoa học kỹ thuật trên thế giới, thúc đẩy sản xuất trong nước ngày càng phát triển, kích thích và mở rộng nhu cầu trong nước, đưa cuộc sống con người ngày càng văn minh hiện đại, khai thác triệt để tiềm năng và thế mạnh của đất nước và thế giới trên cơ sở phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá quốc tế. Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh để đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ. Xuất phát từ thực tế sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, đồng thời trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của công tác xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung, cùng với lượng kiến thức của mình em chọn đề tài: "Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá của Công ty Cung ứng nhân lực Quốc tế và Thương mại (SONA)" làm chuyên đề của mình. Bố cục của chuyên đề gồm các phần: Lời nói đầu. Chương I : Cơ sở lý luận về kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường Chương II : Phân tích và đánh giá tình hình hình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty SONA Chương III : Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá của Công ty Cung ứng nhân lực Quốc tế và Thương mại (SONA) Kết luận. Qua đây tôi xin chân thành biết ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn Nguyễn Văn Tuấn. Đồng thời cũng xin được gửi lời biết ơn sâu sắc tới các cán bộ Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu và các Phòng khác của Công ty SONA đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập và nghiên cứu, hoàn thành chuyên đề này. Tuy nhiên, do thời gian có hạn và lượng kiến thức còn hạn hẹp nên tôi không tránh khỏi những sai sót trong khi làm chuyên đề, rất mong nhận được sự cảm thông và đóng góp ý kiến của các thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp đối với chuyên đề này. Chương I Cơ sở lý luận về kinh doanh xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường I- tổng quan về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu 1. Tính tất yếu khách quan của thương mại quốc tế (TMQT): Xuất nhập khẩu hàng hoá là lĩnh vực kinh doanh buôn bán hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài nhằm thu được lợi nhuận và hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Buôn bán hàng hoá và dịch vụ là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế - xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá nói riêng của các quốc gia nói chung. Xuất nhập khẩu tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. Xuất nhập khẩu hàng hoá là một trong những yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế và do đó nó góp phần quyết định sự thắng bại của một đường lối công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển cũng như của Việt Nam. Xuất nhập khẩu là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế. Sự ra đời và phát triển của TMQT gắn liền với quá trình phân công lao động quốc tế. Với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật phạm vi chuyên môn hoá ngày một tăng. Số sản phẩm cùng dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của con người ngày một dồi dào. Điều đó phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng. TMQT cũng vì thế mà ngày càng phát triển mở rộng và phức tạp. Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương thì mỗi nước muốn đạt được sự thịnh vượng phải gia tăng khối lượng tiền tệ. Muốn có của cải, các nước phải phát triển buôn bán với nước ngoài. Lý thuyết trọng thương chỉ ra rằng lợi nhuận buôn bán là kết quả của sự thay đổi không ngang giá và lừa gạt giữa các quốc gia, TMQT chỉ có lợi cho một bên và gây ra thiệt hại cho bên kia. Đến giai đoạn cuối họ cho rằng có thể tăng cường nhập khẩu nếu qua đó đẩy mạnh được xuất khẩu, cán cân thương mại vẫn nghiêng về phía xuất khẩu. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các quốc gia là cơ sở xuất hiện TMQT. Chính sự khác nhau đó mà mỗi nước có lợi thế riêng là chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của mình để nhập khẩu những hàng hoá cần thiết khác mà trong nước chưa có điều kiện để sản xuất hay sản xuất với chi phí lớn không hiệu quả. Điều quan trọng ở đây là mỗi quốc gia phải tự xác định cho được những mặt hàng nào mà nước mình có lợi nhất trên thị trường cạnh tranh quốc tế. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất cũng giải thích được lý do buôn bán giữa các nước về những mặt hàng như dầu lửa, lương thực, dịch vụ du lịch,... Do đó đã nhiều câu hỏi được đặt ra là: Tại sao Mỹ lại nhập cà phê và xuất khẩu lương thực? Tại sao Nhật Bản lại xuất khẩu hàng công nghiệp và chi nhập khẩu nguyên liệu thô? Tại sao một nền kinh tế kém phát triển như Việt Nam lại có thể hy vọng đẩy mạnh xuất khẩu?... Lý thuyết lợi thế so sánh của nhà kinh tế học David Ricardo (1817) đã phần nào giải thích một cách căn bản và có hệ thống những câu hỏi này. Quy luật lợi thế tương đối nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Lý thuyết này khẳng định nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối (hay có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất) thì thương mại sẽ có lợi cho cả hai bên. Thậm chí nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào TMQT để tạo ra lợi ích cho mình. Khi tham gia vào TMQT, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất, xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất và nhập khẩu các hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất. Tuy nhiên, người ta cũng thấy rằng TMQT vẫn diễn ra do sự chênh lệch giữa các nước về chi phí cơ hội của hàng hoá tạo ra trong điều kiện sản xuất khá giống nhau. Chẳng hạn như, một nền kinh tế khép kín có các nguồn lực nhất định có thể làm ra máy video và áo sơ mi. Càng dùng nhiều nguồn lực vào việc làm ra máy video, thì càng ít nguồn lực có thể dùng làm áo sơ mi. Chi phí cơ hội của máy video là lượng áo sơ mi bị hy sinh do dùng các nguồn lực vào việc làm ra các máy video thay cho các áo sơ mi. Cũng như sự trao đổi buôn bán ô tô là khá phát triển giữa Mỹ và Nhật Bản; điều tương tự cũng xảy ra đối với các mặt hàng điện tử giữa các nước Tây Âu. Rõ ràng là, không có thế lực nào bắt buộc hai nước phải buôn bán với nhau nếu một nước không có lợi. Các quốc gia hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn mặt hàng cũng như đối tác buôn bán có khả năng đem lại lợi ích cao cho họ. Do vậy, sự chênh lệch giữa các nước về chi phí tương đối trong sản xuất quyết định phương thức TMQT. Vậy TMQT bắt nguồn từ đâu: Một là, TMQT xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá sản xuất một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất thì chắc chắn đem lại lợi nhuận lớn hơn. Nguồn lực tự nhiên gồm: đất đai, thời tiết, khí hậu, vị trí địa lý. Nguồn tài nguyên ảnh hưởng tới TMQT là rất rõ, nó giải thích tại sao một nước kinh doanh xuất khẩu nông sản, lương thực, dầu lửa, dịch vụ du lịch,... Nguồn nhân lực là lực lượng con người trong một quốc gia. Đây là lực lượng trực tiếp sản xuất ra sản phẩm nên nó ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện sản xuất, đặc biệt là lao động có kỹ năng cao. Lực lượng lao động của một nước càng có kỹ năng cao thì nước đó càng có nhiều khả năng để trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm chế tạo, đặc biệt là các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao giá cả phải chăng trên thị trường thế giới. Những thập kỷ qua đã nói lên điều này, nhờ dựa vào lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ mạt mà các nước Đông Nam á đã thành công chiến lược hướng vào xuất khẩu các sản phẩm có sử dụng nhiều lao động. Hạ tầng cơ sở của một nước như: giao thông vận tải với truyền thông, hệ thống cung cấp điện năng và các phương tiện công cộng đóng một vai trò quan trọng về việc có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển thương mại của một nước đó đối với thế giới. Ví dụ như đường sá, bến cảng không thích hợp có thể làm tăng chi phí lưu thông hàng hoá, không có điều kiện để phát triển các hoạt động dịch vụ. Ngược lại, cơ sở hạ tầng tốt là một nguồn lực phục vụ cho xuất khẩu, như hệ thống truyền thông tin phát triển giúp cho các bên liên lạc trao đổi dễ dàng, nhanh, xúc tiến quá trình thương mại giữa các nước. Hai là, hiệu quả kinh tế theo qui mô, nghĩa là hầu hết các hàng hoá được sản xuất ra đắt hơn khi sản xuất với khối lượng nhỏ, và trở nên rẻ hơn khi qui mô sản xuất tăng lên. Do vậy mà một nền sản xuất có qui mô lớn người ta có thể tiết kiệm trong việc sử dụng máy móc thiết bị và nguyên liệu. Hơn nữa, do sự phân công công việc ra giữa nhiều người khác nhau, mỗi người có thể trở thành chuyên gia trong một lĩnh vực của quá trình sản xuất thông qua kinh nghiệm và đào tạo chuyên môn. Hiệu quả kinh tế theo qui mô có ý nghĩa quan trọng cho lĩnh vực TMQT của các nước nhỏ, và bị giới hạn nhiều hơn so với các nước lớn. Điều này cho thấy tại sao các nước nhỏ thường mở rộng thương mại hơn so với các nước lớn (khi đo lường, chẳng hạn bằng tỷ lệ xuất khẩu/GDP). Đối với các nước nhỏ việc cố gắng để sản xuất ra mọi hàng hoá trong nước chắc chắn là phi hiệu quả. Hiệu quả kinh tế theo quy mô là lý do quan trọng giải thích TMQT về những hàng hoá nhất định nào đó. Ba là, sự khác nhau về thị hiếu, sở thích, phong tục tập quán, sự độc quyền về bản quyền, bằng phát minh sáng chế, tri thức chuyên môn của một số người. Thị hiếu rất khác nhau cả giữa các nước và mọi người. Điều này nói lên việc buôn bán các sản phẩm rất khác nhau giữa các nước tương tự. Một tác động khác là sự tồn tại những bằng phát minh sáng chế, quyền sở hữu công nghiệp. Công ty có quyền sở hữu về một phát minh sáng chế có thể từ chối cấp giấy phép sản xuất hoặc gia công chế biến đối với các công ty ở nước khác hoặc chỉ cho phép với điều kiện là các sản phẩm ấy không được xuất khẩu. Điều này tạo cho nước sở hữu phát minh có một sự độc quyền thực sự về loại sản phẩm này. Trên thị trường thế giới. Cuối cùng là, do nhu cầu kinh tế hay sở thích làm giầu mà bất cứ một quốc gia nào trên thế giới cũng muốn. Muốn đất nước giàu có thì TMQT phải phát triển. Những lợi ích mà TMQT đem lại đã làm cho thương mại và thị trường thế giới trở thành nguồn lực của nền kinh tế quốc dân, là nhân tố kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, là một phương tiện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. TMQT vừa là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với các nước khác trên thế giới, vừa là nguồn hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội văn minh hơn, thịnh vượng hơn. Trong thế giới hiện đại không một quốc gia nào bằng chính sách "đóng cửa với nước ngoài lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế trong nước". Muốn phát triển nhanh, mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải tận dụng có hiệu quả tất cả những thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật của loài người đã đạt được. Nền kinh tế "mở cửa" sẽ mở ra những tiềm năng sẵn có của một nước nhằm sử dụng sự phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất. Nhận thức được vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã có những bước đi đúng đắn trong đường lối đối ngoại của mình. Với chính sách đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ quốc tế, mở cửa và hướng mạnh ra xuất khẩu đã làm cho nền kinh tế nước ta sống dậy, hoạt động ngoại thương trong 10 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu đáng kể, như hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở nước ta không ngừng gia tăng, từ năm 1986 đến năm 1996 trung bình hàng năm tăng 25-27% đóng góp một phần không nhỏ cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Do vậy, tại Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định: "Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thương lượng. 2. Khái niệm và các loại hình kinh doanh xuất nhập khẩu chủ yếu. 2.1. Khái niệm Kinh doanh xuất nhập khẩu là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Kinh doanh xuất nhập khẩu là sự mở rộng của các quan hệ mua bán trong nước và ngoài nước. Trước đây, khi chưa có quan hệ trao đổi hàng hoá, cá nhân mỗi con người cũng như mỗi quốc gia đều tự thoả mãn lấy các nhu cầu của mình, lúc đó mọi nhu cầu của con người cũng như của quốc gia bị hạn chế. Quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá xuất hiện khi có sự ra đời cuả quá trình phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và tác động của những quy luật kinh tế khách quan, phạm vi chuyên môn hóa và phân công lao động xã hội ngày càng rộng, nó vượt ra khỏi một nước và hình thành nên các mối quan hệ giao dịch quốc tế. Chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế càng sâu sắc, các mối quan hệ quốc tế càng được mở rộng, các nước càng có sự phụ thuộc lẫn nhau và hình thành các mối quan hệ buôn bán với nhau. Tóm lại kinh doanh xuất nhập khẩu là quá trình buôn bán giữa các nước với nhau, là lĩnh vực phân phối, lưu thông hàng hoá với nước ngoài . 2.2. Các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu chủ yếu a/ Các hình thức nhập khẩu - Nhập khẩu uỷ thác - Nhập khẩu trực tiếp - Nhập khẩu hàng đổi hàng - Tái nhập khẩu - Tạm nhập, tái xuất b/ Các hình thức xuất khẩu Xuất khẩu hàng hoá dưới các hình thức trao đổi hàng hoá, hợp tác sản xuất và gia công quốc tế. Xuất khẩu trực tiếp. - Xuất khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ, vật tư phụ tùng cho sản xuất. Chuyển khẩu- tạm nhập tái xuất. Tái xuất khẩu. - Các dịch vụ xuất khẩu như làm đại lý, uỷ thác cho các tổ chức nước ngoài. - Hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế Việt Nam ở nước ngoài. 3. Nội dung công tác kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá ở các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu . 3.1 Nội dung hoạt động xuất nhập khẩu . Thông thường nội dung hoạt động bao gồm các nội dung sau: 3.1.1. Nghiên cứu thị trường Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên với bất cứ công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận để lập kế hoạch marketing. Khi nghiên cứu thị trường phải tìm hiểu nước nào là thị trường có triển vọng nhất đối với sản phẩm của công ty? Khả năng số lượng bán ra được bao nhiêu? Sản phẩm cần có những thích ứng gì trước những đòi hỏi của thị trường? Nên chọn phương pháp bán hàng nào cho phù hợp. a/ Nghiên cứu thị trường trong nước Trước hết doanh nghiệp phải nắm chắc tình hình trong nước về các mặt có liên quan đến việc xuất nhập khẩu - Nhận biết hàng hoá xuất nhập khẩu - Doanh nghiệp nắm chắc các chính sách, chế độ tập quán của nước liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá. b/ Nghiên cứu thị trường nước ngoài Nghiên cứu thị trường nước ngoài theo các khía cạnh chủ yếu: đặc tính hàng hoá, thị hiếu của khách hàng, chính sách tập quán thương mại, tình hình tài chính, tín dụng, điều kiện chuyên chở và bốc xếp, nắm chắc các điều kiện về phẩm chất và chủng loại hàng, đặc tính thị trường như dung lượng thị trường, giá thị trường. c/ Lựa chọn đối tượng giao dịch. Trên cùng một thị trường, cùng một loại hàng có rất nhiều nhà kinh doanh khác nhau, vì vậy khi lựa chọn cần tìm hiểu về: thái độ chính trị của đối tượng giao dịch, khả năng kinh tế , loại hình doanh nghiệp, phạm vi kinh doanh, vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật của đối tác , uy tín của đối tác trên thị trường đó. Lựa chọn đối tượng giao dịch nên dùng các phương pháp như qua sách báo, tài liệu, qua tư vấn của nhà nước , qua điều tra trực tiếp hoặc buôn bán thử để tìm hiểu dần. 3.1.2. Các bước giao dịch Sau giai đoạn nghiên cứu tiếp cận thị trường là giai đoạn giao dịch, thương lượng với nhau về các điều kiện để đi đến ký kết hợp đồng. Lập kế hoạch cụ thể để tiến hành hoạt động giao dịch gồm nhiều chi tiết trong đó có các vấn đề sau: - Hỏi giá: Người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng. Nội dung của mục hỏi giá gồm: Tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng. - Chào hàng: Trong chào hàng nêu rõ: Tên hàng, quy cách phẩm chất, số lượng, giá cả, điều kiện cơ sở giao hàng, thời hạn giao hàng, điều kiện thanh toán, bao bì, ký mã hiệu, thể thức giao nhận hàng... trường hợp hai bên đã có quan hệ mua bán với nhau hoặc có điều kiện chung giao hàng điều chỉnh thì chào hàng có khi nêu những nội dung cần thiết cho lần giao dịch đó như tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, giá, thời hạn giao hàng. Những điều kiện còn lại sẽ áp dụng như những hợp đồng đã ký trước đó hoặc theo điều kiện chung giao hàng giữa hai bên. - Đặt hàng: Trong đặt hàng, người mua nêu cụ thể về hàng hoá định mua và tất cả những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng. - Hoàn giá: Khi người nhận được chào hàng (hoặc đặt hàng) không chấp nhận hoàn toàn chào hàng ( đặt hàng), mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị mới này là hoàn giá. Khi có hoàn giá, chào hàng trước coi như huỷ bỏ. Trong buôn bán quốc tế, mỗi lần giao dịch thường trải qua nhiều lần hoàn giá mới đi đến kết thúc. - Chấp nhận: Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng (hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra. Khi đó hợp đồng được thành lập. - Xác nhận: Hai bên mua và bán, sau khi đã thống nhất thoả thuận với nhau về điều kiện giao dịch, có khi cẩn thận ghi lại mọi điều đã thoả thuận, gửi đối phương. Đó là văn kiện xác nhận. Văn kiện do bên bán gửi thường gọi là giấy xác nhận bán hàng, do bên mua gửi là giấy xác nhận mua hàng. 3.1.3. Giao dịch, đàm phán trước khi ký kết hợp đồng. Đàm phán giao dịch qua thư tín. Đàm phán giao dịch qua điện thoại. Giao dịch đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp. 3.1.4. Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương. Hình thức văn bản của hợp đồng là bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu của nước ta trong quan hệ với nước ngoài 3.1.5. Tổ chức thực hiện hợp đồngxuất nhập khẩu Sau khi đã ký kết hợp đồng, các bên có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng theo đúng những điều khoản đã ký trong hợp đồng. 3.2. Trình tự thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá. * Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá bao gồm các bước sau: Ký hợp đồng xuất khẩu Kiểm tra L/C Xin giấy phép xuất khẩu Chuẩn bị hàng xuất khẩu Uỷ thác thuê tàu Kiểm nghiệm hàng hoá Làm thủ tục hải quan Giao hàng lên tàu Mua bảo hiểm Làm thủ tục thanh toán Giải quyết khiếu nại * Trình tự nhập khẩu hàng hoá bao gồm các bước sau: Ký kết kinh doanh nhập khẩu Xin giấy phép nhập khẩu Mở L/C khi bên bán báo Đôn đốc bên bán giao hàng Thuê tàu Mua bảo hiểm hàng hoá Làm thủ tục hải quan Nhận hàng Kiểm tra hàng hoá Giao hàng cho đơn vị đặt hàng Làm thủ tục thanh toán Khiếu nại về hàng hoá (nếu có) 4. Vai trò của xuất nhập khẩu . Xuất nhập khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của Nhà nước. Chính vì vậy, xuất nhập khẩu có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất nhập khẩu có thể làm tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách nhà nước, kích thích đổi mới công nghệ, tiếp cận được phương thức quản lý và kinh doanh mới, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, tạo sự cạnh tranh của hàng hoá nội và ngoại, nâng cao mức sống của người dân. Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố tiềm năng : tài nguyên thiên nhiên, lao động. Những yếu tố thiếu hụt : vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng đối với nước ta, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá hiện nay. Về thực chất chiến lược này là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước giàu. Với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và thương mại nói riêng phải được coi là một chính sách cơ cấu có tầm quan trọng chiến lược nhằm phục vụ quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Chính sách xuất nhập khẩu phải tranh thủ được tới mức cao nhất nguồn vốn kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của nước ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động. II- những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu A. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài. 1. Nhân tố kinh tế - xã hội trong nước. Nhân tố kinh tế - xã hội trong nước có ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu ở đây bao gồm trạng thái của nền kinh tế trong nước và các chính sách của nhà nước. 1.1 Trạng thái của nền kinh tế trong nước. a/ Dung lượng sản xuất Dung lượng sản xuất thể hiện số lượng đầu mối tham gia vào sản xuất hàng hoá xuất nhập khẩu và với số lượng sản xuất lớn thì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu trong công tác tạo nguồn hàng, song cũng trong thuận lợi đó, doanh nghiệp có thể phải đương đầu với tính cạnh tranh cao hơn trong việc tìm bạn hàng xuất khẩu và nguy cơ phá giá hàng hoá bán ra thị trường thế giới. b/ Tình hình nhân lực. Một nước có nguồn nhân lực dồi dào là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước xúc tiến xuất nhập khẩu các mặt hàng có sử dụng sức lao động. Về mặt ngắn hạn, nguồn nhân lực được xem như là không biến đổi, vì vậy chúng ít tác động tới sự biến động của hoạt động xuất nhập khẩu. Nước ta nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ là điều kiện thuận lợi để xuất khẩu các sản phẩm sử dụng nhiều lao động như hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc ... và nhập khẩu thiết bị, máy móc kỹ thuật, công nghệ tiên tiến... c/ Nhân tố công nghệ. Ngày nay, khoa học công nghệ tác động đến tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội và mang lại nhiều lợi ích, trong xuất nhập khẩu nó cũng mang lại hiệu quả cao. Nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông, các doanh nghiệp ngoại thương có thể đàm thoại trực tiếp với khách hàng qua telex, fax, điện tín... giảm bớt những chi phí đi lại, xúc tiến hoạt động xuất nhập khẩu. Giúp các nhà kinh doanh nắm bắt các thông tin về diễn biến thị trường một cách chính xác, kịp thời. Bên cạnh đó, nhờ có xuất nhập khẩu mà các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp xúc với các thành tựu công nghệ tiên tiến trên thế giới, thay thế, đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp sản xuất. Khoa học công nghệ còn tác động tới các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, các kỹ nghệ nghiệp vụ trong ngân hàng... Đó cũng chính là các yếu tố tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu. d. Cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng tốt là một yếu tố không thể thiếu nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Cơ sở hạ tầng bao gồm: đường xá, bến bãi, hệ thống vận tải, hệ thống thông tin, hệ thống ngân hàng... có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu. Nếu các hoạt động này là hiện đại sẽ thúc đẩy hiệu quả xuất nhập khẩu, ngược lại nó sẽ kìm hãm tiến trình xuất nhập khẩu. 1.2 Các chính sách và quy định của Nhà nước. Thông qua việc đề ra các chính sách và quy định, Nhà nước thiết lập môi trường pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của các doanh nghiệp nên nó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu. Chúng ta có thể xem xét tác động của các chính sách đó dưới các khía cạnh sau. a/ Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh tỷ lệ giữa giá trị của hai đồng tiền của hai nước với nhau. Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Một tỷ giá hối đoái chính thức được điều chỉnh theo quá trình lạm phát có liên quan gọi là tỷ giá hối đoái được điều chỉnh theo quá trình lạm phát có liên quan hay là tỷ giá hối đoái thực tế. Trong quan hệ buôn bán ngoại thương, tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng, tác động lớn tới hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái tăng hay giảm sẽ làm thay đổi giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu, ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Có thể đưa ra ví dụ trong xuất khẩu như: Nếu tỷ giá hối đoái chính thức là không đổi và tỷ giá hối đoái thực tế tăng lên thì các nhà xuất khẩu các sản phẩm sơ chế, là người bán theo mức giá cả quốc tế nằm ngoài tầm kiểm soát của họ sẽ bị thiệt. Họ phải chịu chi phí cao hơn do lạm phát trong nước. Hàng xuất khẩu trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán với tỷ giá hối đoái chính thức cố định không được tăng lên để bù lại chi phí sản xuất cao hơn. Các nhà xuât khẩu các sản phẩm chế tạo có thể làm tăng giá cả xuất khẩu của họ để bù đắp lại chi phí nội địa cao hơn, nhưng kết quả khả năng chiếm lĩnh thị trường sẽ giảm. Họ chỉ có thể giữ nguyên mức giá tính theo ngoại hối và lợi nhuận thấp. Nếu tình trạng ngược lại là tỷ giá hối đoái thực tế giảm so với tỷ giá hối đoái chính thức, khi đó sẽ có lợi cho các nhà xuất khẩu nhưng lại bất lợi cho các nhà nhập khẩu. b/ Thuế quan và quota. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng trực tiếp của thuế xuất nhập khẩu và quota. Thuế xuất khẩu có xu thế làm giảm xuất khẩu và do đó làm giảm nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Tuy nhiên, đối với nước ta hiện nay, thực hiện chủ trương khuyến khích xuất khẩu nên hầu hết các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt các mặt hàng nông sản, không phải chịu thuế xuất khẩu. Thuế nhập khẩu có xu thế làm giảm nhập khẩu và do đó làm tăng nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Hiện nay ở nước ta, rất nhiều mặt hàng phải chịu thuế nhập khẩu để hạn chế nhập khẩu nhằm bảo vệ các ngành sản xuất các mặt hàng đồng nhất ở trong nước. Nhưng bắt đầu giai đoạn này, thực hiện chủ trương hội nhập với thế giới, tham gia vào AFTA,nước ta đang tiến dần tới việc xoá bỏ dần một số hình thức bảo hộ bằng thuế nhập khẩu. Còn quota là hình thức hạn chế về số lượng xuất nhập khẩu, có tác động một mặt làm giảm số đầu mối tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp, mặt khác tạo cơ hội thuận lợi cho những người xin được quota xuất nhập khẩu. c/ Các chính sách khác của Nhà nước. Các chính sách khác của Nhà nước như xây dựng các mặt hàng chủ lực, trực tiếp gia công xuất khẩu, đầu tư cho xuất nhập khẩu, lập các khu chế xuất, các chính sách tín dụng xuất nhập khẩu ... cũng góp phần to lớn tác động tới tình hình xuất nhập khẩu của một quốc gia. Tuỳ theo mức độ can thiệp, tính chất và phương pháp sử dụng các chính sách trên mà hiệu quả và mức độ ảnh hưởng của nó tới lĩnh vực xuất nhập khẩu sẽ như thế nào. Bên cạnh các chính sách trên, nhóm các chính sách hỗ trợ mang tính thể chế - tổ chức, các khung pháp lý và hệ thống hành chính cũng là một trong các nhân tố tác động trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Những thay đổi cơ bản trong quản lý quá trình xuất nhập khẩu của Nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu. Đặc biệt là từ khi ra đời Nghị định 57/1998NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành thì quyền tự do kinh doanh của thương nhân được mở rộng tạo ra một bước tiến mới, họ được quyền kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật cho phép, tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp. Thủ tục xin phép đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp với những điều kiện ràng buộc về vốn, tiêu chuẩn, nghiệp vụ... đối với doanh nghiệp đã được dỡ bỏ. Từ khi thi hành nghị định này ( 1/9/1998 ) nước ta đã có hơn 30.000 doanh nghiệp được quyền tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, sự tăng lên về con số này khó tránh khỏi tình trạng tranh mua, tranh bán, giá cả cạnh tranh, ép giá, dìm gi._.á , làm cho nhiều doanh nghiệp bước đầu chưa tìm được lối thoát nên hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu còn thấp. Những thay đổi về thủ tục thông quan xuất nhập khẩu hàng hóa tại các cửa khẩu, việc áp dụng các luật thuế mới đối với hàng hóa xuất nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến quá trình xuất nhập khẩu. Nhà nước luôn luôn tạo điều kiện để xúc tiến nhanh quá trình xuất nhập khẩu nhưng việc áp dụng các văn bản đã được ban hành xem ra vẫn còn tồn tại một khoảng cách khá xa giữa văn bản và thực tế, giữa nói và làm, nhiều khi vẫn còn xảy ra " cuộc chiến " giữa " luật và lệ ". 2. Nhân tố tài nguyên thiên nhiên và địa lý. Nguồn tài nguyên thiên nhiên là một trong những nhân tố quan trọng làm cơ sở cho quốc gia xây dựng cơ cấu ngành và vùng để xuất nhập khẩu. Nó góp phần ảnh hưởng đến loại hàng, quy mô hàng xuất nhập khẩu của quốc gia. Vị trí địa lý có vai trò như là nhân tố tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế cũng như xuất nhập khẩu của một quốc gia. Vị trí địa lý thuận lợi là điều kiện cho phép một quốc gia tranh thủ được phân công lao động quốc tế, hoặc thúc đẩy xuất nhập khẩu dịch vụ như du lịch, vận tải, ngân hàng... 3. ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thế giới. Trong xu thế toàn cầu hoá thì phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng, vì vậy mà mỗi sự biến động của tình hình kinh tế - xã hội ở nước ngoài đều có những ảnh hưởng nhất định đến hoạt động kinh tế trong nước. Lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể ở nước ngoài, chịu sự chi phối và tác động của các nhân tố ở nước ngoài nên nó lại càng rất nhạy cảm. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính sách xuất nhập khẩu, tình hình lạm phát, thất nghiệp hay tăng trưởng và suy thoái kinh tế... của các nước đều ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở nước ta. B. Nhóm nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp. Nhân tố bộ máy quản lý Là sự tác động trực tiếp của các cấp lãnh đạo xuống cán bộ công nhân viên nhằm mục đích buộc phải thực hiện một hoạt động. Để quản lý tập trung thống nhất phải sử dụng phương pháp hành chính. Việc thiết lập cơ cấu tổ chức của bộ máy doanh nghiệp cũng như cách thức điều hành của các cấp lãnh đạo là nhân tố quyết định tính hiệu quả trong kinh doanh. Nếu một doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức hợp lý, cách điều hành sáng suốt sẽ góp phần thúc đẩy hiệu quả hoạt động kinh doanh, ngược lại nếu cơ cấu tổ chức xệch xoạc, cách điều hành kém cỏi sẽ dẫn đến hiệu quả thấp trong hoạt động kinh doanh. 2. Nhân tố con người. Con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động. Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đặc biệt phải nhấn mạnh đến yếu tố con người bởi vì nó là chủ thể sáng tạo và trực tiếp điều hành các hoạt động ảnh hưởng của nhân tố này thể hiện qua hai chỉ tiêu chủ yếu nhất. Đó là tinh thần làm việc và năng lực công tác. Tinh thần làm việc được biểu hiện bởi bầu không khí trong doanh nghiệp, tình đoàn kết và ý chí phấn đấu cho mục tiêu chung. Năng lực của nhân viên lại biểu hiện qua kỹ năng điều hành, công tác nghiệp vụ cụ thể và qua kết quả của hoạt động. Để nâng cao vai trò của nhân tố con người, các doanh nghiệp một mặt phải chú trọng đào tạo cán bộ, công nhân viên, bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ của họ, mặt khác, phải quan tâm thích đáng đến lợi ích cá nhân, bao gồm cả lợi ích vật chất lẫn lợi ích tinh thần. 3. Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngoại thương phụ thuộc rất lớn vào hệ thống mạng lưới kinh doanh của nó. Một mạng lưới kinh doanh rộng lớn, với các điểm kinh doanh được bố trí hợp lý là điều kiện để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh như tạo nguồn hàng, vận chuyển, làm đại lý xuất nhập khẩu ... một cách thuận tiện hơn và do đó góp phần nâng cao hơn hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Nếu mạng lưới kinh doanh là quá thiếu, hoặc bố trí ở các điểm không hợp lý sẽ gây cản trở cho hoạt động kinh doanh làm triệt tiêu tính năng động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. 4. Khả năng cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp như vốn cố định bao gồm các máy móc, thiết bị chế biến, hệ thống kho hàng, hệ thống phương tiện vận tải, các điểm thu mua hàng, các đại lý, chi nhánh và trang thiết bị của nó cùng với vốn lưu động là cơ sở cho hoạt động kinh doanh. Các khả năng này quy định quy mô, tính chất của lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu, và vì vậy cũng góp phần quyết định đến hiệu quả kinh doanh. III- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. 1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cần phải dựa vào hệ thống tiêu chuẩn sau: - Doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường nhưng phải tuân thủ sự quản lý vĩ mô của nhà nước. - Phải kết hợp hài hoà ba lợi ích kinh tế: cá nhân, tập thể, nhà nước. Tuyệt đối không vì lợi ích cá nhân làm tổn hại lợi ích tập thể. - Lợi nhuận doanh nghiệp kiếm được phải dựa trên cơ sở vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quy luật của nền sản xuất hàng hoá. - Mức thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp trên lao động phải thường xuyên tăng lên. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu người ta thường dựa vào nhóm chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu Công thức xác định *Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động - Năng xuất lao động Kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ Tổng số lao động bình quân trong kỳ - Kết quả sản xuất trên một đồng chi phí tiền lương Kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ Tổng số lao động bình quân trong kỳ - Lợi nhuận bình quân tính cho một lao động Lợi nhuận trong kỳ Tổng số lao động bình quân trong kỳ *Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định - Sức sản xuất của vốn cố định Kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ Số dư bình quân vốn cố định trong kỳ - Sức sinh lợi của vốn cố định Lợi nhuận trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ Hiệu suet sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị Thời gian làm việc thực tế của MMTB Thời gian làm việc theo thiết kế * Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốnlưu động - Sức sản xuất của vốn lưu động Kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ - Sức sinh lợi của vốn lưu động Lợi nhuận trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ - Số ngày luân chuyển bình quân 1 vòng quay 365 ngày Số vòng quay vốn lưu động - Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ Doanh thu tiêu thụ ( trừ thuế ) * Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế tổng hợp - Kim ngạch xuất nhập khẩu trên tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ Kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ - Kim ngạch xuất nhập khẩu trên một đồng vốn sản xuất Kim ngạch xuất nhập khẩu trong kỳ Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ - Doanh lợi theo chi phí Lợi nhuận trong kỳ Tổng chi phí tiêu thụ và sản xuất trong kỳ - Doanh lợi theo vốn sản xuất Lợi nhuận trong kỳ Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ - Doanh lợi kim ngạch xuất nhập khẩu thuần Lợi nhuận trong kỳ Kim ngạch xuất nhập khẩu thuần Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng các yếu tố riêng lẻ phản ánh hiệu quả sử dụng từng yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các chỉ tiêu này càng lớn phản ánh hiệu quả sử dụng các yếu tố càng cao, đồng thời nó cũng phản ánh một khía cạnh nào đó hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu 2.1 Các quan điểm cơ bản trong việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp có liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau, do đó khi đánh giá hiệu quả cần quán triệt những quan điểm sau: - Bảo đảm thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do đặc điểm của nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cho nên đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Nó thể hiện trước hết các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc các đơn hàng nhà nước giao hoặc các hợp đồng kinh tế nhà nước ký kết với các doanh nghiệp vì đó là nhu cầu, là điều kiện để phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế hàng hoá. Những nhiệm vụ kinh tế và chính trị nhà nước giao cho doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp trước hết việc sản xuất kinh doanh cần phải hướng tới đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế, của thị trường trong nước, lợi ích quốc gia. - Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích xã hội Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. trước hết nhằm đáp ứng bảo đảm lợi ích cá nhân, tập thể người lao động nhưng cũng không phải vì thế mà gây tổn thương đến lợi ích quốc gia mà cần phải gắn chặt lợi ích quốc gia khi nâng cao lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể. Đồng thời cũng không vì lợi ích xã hội mà làm tổn thương đến lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân người lao động. - Bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh cần phải xuất phát và bảo đảm yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền sản xuất của ngành, của địa phương và cơ sở. Trong từng đơn vị cơ sở khi đánh giá hiệu quả kinh doanh cần phải xem xét đầy đủ các mối quan hệ qua lại, tác động của các tổ chức , lĩnh vực trong một hệ thống theo những mục tiêu nhất định. - Bảo đảm tính thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định các mục tiêu, biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh cần phải xuất phát từ đặc điểm kinh tế xã hội của ngành, của địa phương và những khả năng thực tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Có như vậy các chỉ tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh mà doanh nghiệp đề ra mới có cơ sở khoa học và thực tiễn để thực hiện. - Phải căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về giá trị và hiện vật để đánh giá hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá hiệu quả kinh doanh một mặt cần phải căn cứ vào số lượng sản phẩm đã tiêu thụ, mặt khác phải căn cứ vào số lượng sản phẩm đã sản xuất ra, số lượng sản phẩm dở dang, bán thành phẩm để xác định chỉ tiêu hiệu quả về mặt hiện vật. 2.2 Các mối quan hệ kinh tế chủ yếu cần phải giải quyết khi nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, có liên quan đến tất cả các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp do đó chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp cần phải thực hiện các mối quan hệ kinh tế chủ yếu sau đây: - Mối quan hệ giữa các hàng hoá tiêu thụ trên thị trường với hàng hoá sản xuất ra và tổng sản lượng.Trong đó phải tăng tốc độ tiêu thụ hàng hoá trên thị trường, giảm hàng hoá tồn kho, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang. - Mối quan hệ giữa tốc độ tăng kết quả lao động sống và chi phí chi ra để duy trì và phát triển sức lao động.Trong đó tốc độ tăng năng xuất lao động phải nhanh hơn tốc độ tăng lương bình quân và tăng tiền công lao động. - Mối quan hệ giữa tốc độ tăng kết quả sản xuất kinh doanh và tăng các nguồn chi phí để đạt kết quả đó. Trong đó tăng kết quả phải nhanh hơn tăng chi phí. - Mối quan hệ giữa kết quả sản xuất kinh doanh và tăng chi phí sử dụng tài sản lưu động để đạt kết quả đó. Trong đó tốc độ tăng kết quả nhanh hơn chi phí tài sản cố định để đạt kết quả đó. - Mối quan hệ giữa tăng vốn đầu tư và tăng năng lực sản xuất mới.Trong đó tốc độ tăng năng lực sản xuất mới nhanh hơn tốc độ tăng vốn đầu tư để đạt tăng năng lực mới. chương ii phân tích và đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty sona I. khái quát về công ty 1. Sự hình thành và phát triển a/ Tên công ty: Tên đầy đủ: Công ty cung ứng nhân lực quốc tế và thương mại Tên giao dịch: International manpower supply and trade company Tên giao dịch viết tắt: sona b/ Địa chỉ: 34 - Đại Cồ Việt, Quận Hai Bà Trưng, Hà nội. c/ Cơ quan sáng lập: Công ty Cung ứng nhân lực Quốc tế và Thương mại (SONA), tiền thân từ Công ty dịch vụ lao động với nước ngoài, trực thuộc Cục quản lí lao động với nước ngoài - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Ngày 26 tháng 3 năm 1993, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ra Quyết định số: 193/LĐTBXH ban hành điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty dịch vụ lao động ngoài nước; Ngày 09 tháng 06 năm 1993, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ra Quyết định số: 340/LĐTBXH - QĐ thành lập Công ty Dịch vụ lao động ngoài nước; Ngày 11 tháng 12 năm 1997, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ra Quyết định số: 1505/LĐTBXH - QĐ đổi tên Công ty Dịch vụ lao động ngoài nước thành Công ty Cung ứng nhân lực Quốc tế và Thương maị trực thuộc Cục Quản lý lao động với nước ngoài - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Công ty SONA hoạt động theo quy chế doanh nghiệp nhà nước hoạt động trên hai lĩnh vực là xuất khẩu lao động và kinh doanh thương mại. 2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của công ty a/ Chức năng cơ bản của Công ty SONA - Chức năng ưu tiên hàng đầu của Công ty là cung ứng nhân lực đi làm việc và tu nghiệp có thời hạn ở nước ngoài. Hàng năm SONA có khả năng tuyển chọn và cung ứng một số lượng lớn lao động đi làm việc ở nước ngoài với những ngành nghề khác nhau. Trước khi đi làm việc ở nước ngoài, người lao động được giáo dục đầy đủ về pháp luật của nước tiếp nhận lao động, được đào tạo, bổ túc ngoại ngữ, nâng cao trình độ nghiệp vụ, bảo đảm cho họ làm tốt công việc và đáp ứng yêu cầu của chủ sử dụng lao động. Ngoài việc cung ứng lao động, SONA còn tổ chức các dịch vụ khác : Phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần cho người lao động Việt nam tại nước ngoài; Xuất nhập khẩu trực tiếp hàng hoá, mở đại lý bán vé máy bay để phục vụ cho lao động ở công ty và các đối tượng khác có nhu cầu. b/ Công ty SONA có những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Tự tạo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của Công ty, bảo đảm tự trang bị và đổi mới trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh. - Đảm bảo hạch toán kế toán đầy đủ, cân đối xuất nhập khẩu, làm tròn nghĩa vụ với cấp trên. - Tuân thủ đầy đủ các chính sách, chế độ quản lý kinh tế, quản lý xuất nhập khẩu và giao dịch đối ngoại, thực hiện các cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại thương và các hợp đồng khác có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty. Quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn các nguồn vốn nhằm thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng và gia tăng khôí lượng hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường quốc tế nhằm phát triển hoạt động, khai thác tối đa nguồn lực của Công ty. Thực hiện tốt các chính sách cán bộ, chế độ quản lý tài sản tài chính phân phối theo lao động tiền lương, đảm bảo công bắng xã hội, đào tạo bồi dưỡng để không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, nghiệp vụ cho các bộ công nhân viên trong Công ty. c/ Các quyền hạn chức năng cơ bản - Tổ chức việc thực hiện các hoạt động cung ứng lao động, thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá theo đúng các mặt hàng đã dăng ký kinh doanh. - Được phép vay vốn (cả vốn ngoại tệ) tại các ngân hàng Việt nam và nước ngoài, được vay vốn từ trong dân và nước ngoài nhằm thực hiện hoạt động kinh doanh của Công ty, thực hiện các quy điịnh về ngoại hối của nhà nước. - Được kí kết hợp đồng với các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế nhằm tạo nguồn cung ứng hàng hoá cho hoạt động xuất khẩu, đồng thời cung cấp các dịch vụ về xuất nhập khẩu cho các đơn vị này trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, hai bên cùng có lợi. Được đàm phán, kí kết và thực hiện các hợp đồng xuất nhập khẩu với người nước ngoài trong phạm vi kinh doanh cuả Công ty theo các quy định của nhà nước và luật pháp quốc tế. Được mời các bên nước ngoài hoặc cử cán bộ ra nước ngoài để đàm phán kí kết hợp đồng, khảo sát thị trường, trao đổi nghiệp vụ... - Được đặt các văn phòng đại diện của Công ty ở nước ngoài theo quy định của nhà nước Việt nam và nước sở tại. Được thu thập và cung cấp thông tin về kinh tế và thị trường thế giới. Hợp tác với các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng luật pháp và tập quán của mỗi nước nhằm tìm kiếm và mở rộng thị trường cung ứng và dịch vụ lao động. Cung cấp thông tin, hướng dẫn các thủ tục, luật lệ quy định có liên quan đến người Việt nam đi làm việc ở nước ngoài. cung ứng lao động Việt nam cho các Tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài. Chuyển tiếp và trả hàng cho người Việt nam đi lao động, học tập, công tác ở nước ngoài gửi về cho gia đình. Tổ chức dịch vụ phục vụ nhu cầu về vật chất và tinh thần của người lao động Việt nam ở nước ngoài. Làm dịch vụ chuyển tiền từ nước ngoài về theo yêu cầu của người lao động. Liên doanh, liên kết làm dịch vụ sản xuất, kinh doanh hoặc gia công tại chỗ tạo nguồn giải quyết việc làm cho người lao động thuộc Công ty và những người lao động đã về nước. Tổ chức dịch vụ đưa đón người lao động đi, về phép và hướng dẫn thủ tục cho người thân nhân của họ muốn đi thăm con em ở nước ngoài theo quy định. Ngoài ra Công ty có quyền tự do lựa chọn, quyết định các phương thức kinh doanh cũng như chủ động trong việc tìm kiếm bạn hàng trong và ngoài nước. Công ty có đầy đủ quyền hạn trong việc tổ chức, sắp xếp bộ máy tổ chức nhân sự trong công ty nhằm bảo đảm hiệu suất kinh doanh cao nhất. Bên cạnh việc phải tuân thủ các quy định về hạch toán, quản lý tài sản ..., Công ty cũng có quyền chủ động áp dụng các chính sách lương thưởng phù hợp đối với cán bộ công nhân viên trong Công ty theo chế độ chính sách do nhà nước ban hành. Công ty Cung ứng nhân lực Quốc tế và Thương mại hoạt động theo nguyên tắc sau đây: Thực hiện hạch toán kinh tế và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, đảm bảo có lãi để tái sản xuất mở rộng nhằm bảo toàn và phát triển vốn được giao, đồng thời giải quyết thoả đáng, hài hoà lợi ích của cá nhân người lao động của đơn vị và Nhà nước theo kết quả đạt được trong khuôn khổ của luật pháp quy định. - Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ thủ trưởng trong quản lý, điều hành kinh doanh trên cơ sở thực hiện quyền làm chủ của tập thể công nhân viên chức trong đơn vị, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh theo hướng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy a/ Về tổ chức bộ máy Trên cơ sở Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty ban hành kèm theo Quyết định số: 193/LĐTBXH - QĐ ngày 26 tháng 03 năm 1993 của Bộ trưởng Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội; Công ty đã chủ động xin ý kiến chỉ đạo của Bộ, Cục thực sự sắp xếp lại nhân sự và tổ chức bộ máy hoạt động theo mục tiêu giữ ổn định để phát triển. Tiến hành thể chế hoá công tác tổ chức lao động của Công ty bằng các quy chế, quy định, nội quy phù hợp với quy định pháp luật của Nhà nước, của Bộ và của Cục. Tổ chức bộ máy Công ty phù phợp với chức năng nhiệm vụ và hoạt động kinh doanh của Công ty. + Từ các nhiệm vụ, chức năng, ngành nghề và các lĩnh vực kinh doanh của công ty, tổ chức bộ máy của công ty bao gồm: b/ Cơ cấu tổ chức Giám đốc Phó giám đốc Văn phòng Đại diện tại nước ngoài Chi nhánh tại TP HCM Phòng tổ chức hành chính Phòng tư vấn du học Phòng tài chính kế toán Phòng kinh doanh dịch vụ Phòng ĐTGD & hướng nghiệp lao động Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá Phòng XKLĐI + XKLĐII ii- phân tích thực trạng hoạt độngkinh doanh của công ty sona Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty Là một doanh nghiệp nhà nước về cung ứng lao động quốc tế và xuất nhập khẩu hàng hoá nên Công ty rất có lợi thế trong việc tìm kiếm khách hàng trong và ngoài nước, tìm kiếm nguồn cung ứng và thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá cung ứng lao động quốc tế. Trong lĩnh vực cung ứng lao động quốc tế, với danh tiếng của một doanh nghiệp nhà nước đã nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực này, SONA có lợi thế hơn so với nhiều Công ty khác trong nước trong việc huy động nguồn lao động có trình độ, tay nghề, sức khoẻ đáp ứng được yêu cầu của chủ sử dụng lao động ở nước ngoài, đồng thời Công ty cũng rất quen thuộc và giữ được uy tín với nhiều thị trường sử dụng lao động là người Việt nam về chất lượng dịch vụ lao động cung ứng. Nếu biết tận dụng thế mạnh này, kết hợp với đội ngũ cán bộ có trình độ, am hiểu về thị trường nước ngoài của Công ty thì tiềm năng mở rộng khai thác thị trường sử dụng lao động ở nước ngoài của SONA là rất lớn. Ngoài ra với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, Công ty có thể thu hút nhiều khách hàng trong và ngoài nước cùng hợp tác làm ăn với Công ty dựa trên một số ưu thế về nguồn vốn, các ưu đãi về tín dụng của Ngân hàng dành cho Công ty và đội ngũ cán bộ có trình độ của Phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu. Kết hợp các thế mạnh trên đây, Công ty có thể chủ động trong việc lựa chọn lĩnh vực kinh doanh, tiếp cận các thị trường nước ngoài và thu hút khách hàng nội địa. 1.1. Đối với lĩnh vực cung ứng lao động Quốc tế Công ty SONA cung ứng lao động cho rất nhiều nước như: Nhật, Libia, U.E.A, khu vực Trung Đông, Cộng hoà Sip, Hàn quốc, Đài loan, Malaysia.... Nguồn lao động trong nước của Công ty chủ yếu tại một số tỉnh ngoại thành như: Hà nam, Hà tây, Nghệ an, Hà tĩnh, Thanh hoá, Hải dương, Bắc ninh, Hưng yên.... 1.2. Đối với lĩnh vực thương mại * Về kinh doanh dịch vụ trong nước Chủ yếu là hoạt động dịch vụ phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của người lao động, ngoài ra còn phát triển thêm dịch vụ đại lý bán vé máy bay để phục vụ cho đối tượng lao động của Công ty và các đối tượng khác có nhu cầu. Năm 2001 Công ty còn mở thêm dịch vụ tư vấn du học nhằm tăng thêm doanh thu cho công ty. * Về kinh doanh xuất nhập khẩu: Các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và các mặt hàng chủ yếu của Công ty bao gồm: - Hoạt động nhập khẩu: chủ yếu là nhận uỷ thác nhập khẩu cho các Công ty trong nước, do vậy mặt hàng nhập khẩu khá đa dạng bao gồm: + Về thiết bị vật tư: Máy móc xây dựng, máy móc nông nghiệp, các thiết bị khác và sắt thép. + Về hàng tiêu dùng: Các loại hoa quả, bột ngọt, và mọt số vật dụng gia dụng khác. - Hoạt động xuất khẩu: Từ trước đến nay, hoạt động xuất khẩu của Công ty SONA là nhận uỷ thác xuất khẩu cho các Công ty trong nước, chủ yếu là một số mặt hàng nông sản, đồ mỹ nghệ và một số mặt hàng khác. 2 - Phân tích , đánh giá các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh. 2.1. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được thể hiện qua các bảng số liệu sau: Bảng 1 - Tổng hợp kết quả hoạt động kinh doanh 1998 - 2000 Đơn vị tính: 1.000 đồng Chỉ tiêu Mã số 1998 1999 2000 1 2 3 4 5 Tổng doanh thu 1 13.597.477 6.561.325 5.146.820 Trong đó doanh thu hàng XK 2 + Hàng bán bị trả lại 6 53.902 + Thuế DT, TNĐB và thuế NK phải nộp 7 225.550 Doanh thu thuần 10 13.318.026 6.561.325 5.146.820 Giá vốn hàng bán 11 10.823.041 4.180.204 2.693.251 Lợi nhuận gộp 20 2.494.985 2.381.121 2.453.570 Chi phí bán hàng 21 65.091 36.323 59.766 Chi phí quản lý doanh nghiệp 22 2.079.953 2.087.118 2.235.930 Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh 30 349.941 257.680 157.874 Thu nhập từ hoạt động tài chính 31 893.999 1.102.279 1.085.170 Chi phí hoạt động tài chính 32 Lợi nhuận thuần từ hoạt động tài chính 40 893.999 1.102.279 1.085.170 Các khoản thu nhập bất thường 41 72.099 390.473 158.000 Chi phí bất thường 42 5.049 Lợi nhuận bất thường 50 72.099 385.424 158.000 Tổng lợi nhuận trước thuế 60 1.316.039 1.745.383 1.401.045 Thuế thu nhập doanh nghiệp 70 666.640 697.728 448.334 Lợi nhuận sau thuế 80 649.399 1.047.655 952.710 Bảng 2 - Báo cáo một số chỉ tiêu đánh giá tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp Chỉ tiêu Đơn vị tính 1998 1999 2000 1 2 3 4 5 Bố trí cơ cấu tài sản và nguồn vốn - Bố trí cơ cấu tài sản + Tài sản cố định / Tổng tài sản % 9,06 8,89 7,30 + Tài sản lưu động/ Tổng tài sản % 90,94 91,11 92,70 - Bố trí cơ cấu nguồn vốn + Nợ phải trả/ Tổng nguồn vốn Trong đó: Đặt cọc và lương LĐ/Tổng nguồn vốn % % 83,38 75,01 79,37 72,16 80,06 72,82 + Nguồn vốn chủ sở hữu/ Tổng nguồn vốn % 16,62 20,63 19,94 Tỷ suất sinh lời - Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu + Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu % 9,88 26,60 27,22 + Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu % 4,88 15,97 18,51 - Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản + Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản % 4,69 6,71 4,87 Trong đó: Tỷ suất lợi nhuận trước thuế (Tổng tài sản - Đặt cọc LĐ - Lương lao động) % 18,77 24,11 17,93 + Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản % 2,31 4,03 3,31 Trong đó: Tỷ suất lợi nhuận sau thuế (Tổng tài sản - Đặt cọc LĐ - Lương lao động) % 9,26 14,47 12,19 - Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu + Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/ nguồn vốn chủ sở hữu % 28,22 32,54 24,44 + Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/ nguồn vốn chủ sở hữu % 13,92 19,53 16,62 Thuế và các khoản phải nộp NS trên vốn CSH % 25,93 37,51 16,89 2.2. Phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh Từ các số liệu trên, cho thấy tình hình hoạt động của Công ty qua một số chỉ tiêu dưới đây a/ Về bố trí cơ cấu tài sản: - Tỷ lệ Tài sản cố định của các năm 1998 là: 9,06%, năm 1999 là: 8,89% và năm 2000 là: 7,30% trên tổng số tài sản cho ta thấy: Tài sản cố định của Công ty chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng tài sản; chủ yếu là Tài sản lưu động: năm 1998 là: 90,94%, năm 1999 là 91,11% và năm 2000 là: 92,70%. Đây là cơ cấu bất hợp lý, do Công ty không được đầu tư tài sản cố định; điều này làm hạn chế khả năng mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao chất lượng dịch vụ và do đó hạn chế quy mô lợi nhuận. b/ Về bố trí cơ cấu nguồn vốn: - Nợ phải trả chiếm 83,38% năm 1998, chiếm 79,3% năm 1999 và chiếm 80,06% năm 2000 trên tổng nguồn vốn của Công ty.Trong đó Nợ phải trả chủ yếu là tiền đặt cọc và tiền lương tháng chưa lĩnh của lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài: Năm 1998 là: 75,01%, năm 1999 là: 72,16% và năm 2000 là: 72,82 trong tổng nguồn vốn. - Nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty năm 1998 là: 16,62%, năm 1999 là: 20,63% và năm 2000 là: 19,94% trên Tổng nguồn vốn cho thấy vốn để Công ty kinh doanh trong các năm vừa qua là rất thấp. Để công ty hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong tình hình mới thì việc bổ sung vốn cho Công ty là rất cần thiết. c/ Tỷ suất sinh lời: - Tỷ suất lợi nhuận trước và sau thuế thu nhập doanh nghiệp trên Doanh thu cho ta thấy cứ làm ra 1.000 đồng Doanh thu thì: Lợi nhuận trước thuế của Công ty đạt: Năm 1998 là 98,8 đồng, năm 1999 là: 266 đồng và năm 2000 là: 272,2 đồng; Lợi nhuận sau thuế đạt : Năm 1998 là: 48,8 đồng, năm 1999 là: 159,7 đồmg và năm 2000 là: 185,1 đồng. - Tỷ suất Lợi nhuận trước và sau Thuế thu nhập doanh nghiệp trên Tổng tài sản cho ta biết cứ 1.000 đồng tài sản đưa vào kinh doanh sau 1 năm, Lợi nhuận trước Thuế đạt: Năm 1998 là: 46,9 đồng, năm 1999 là: 61,7 đồng và năm 2000 là: 48, 7 đồng; Lợi nhuận sau Thuế: Năm 1998 là: 23,1 đồng, năm 1999 là: 40,3 đồng và năm 2000 là: 33,1 đồng. - Tổng tài sản của Công ty bao gồm cả Nợ phải trả là tiền đặt cọc và tiền lương hàng tháng của lao động chưa lĩnh. Theo chế độ tài chính hiện hành đối với doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động, hai khoản này không được phép sử dụng vào mục đích kinh doanh mà gửi vào kho bạc Nhà nước. Loại bỏ hai khoản nợ này ra khỏi Tổng tài sản, ta có: Cứ 1.000 đồng tài sản đưa vào kinh doanh sau 1 năm: Lợi nhuận trước Thuế đạt 187,7 đồng năm 1998, đạt 241,1 đồng năm 1999 và 179,3 đồng năm 2000; Lợi nhuận sau Thuế đạt 92,6 đồng năm 1998, đạt 144,7 đồng năm 1999 và đạt 121,9 đồng năm 2000. - Nhìn vào tỷ suất Lợi nhuận trước và sau Thuế thu nhập doanh nghiệp trên Vốn chủ sở hữu ta thấy rằng: Cứ 1.000 đồng Vốn chủ sở hữu bỏ vào kinh doanh sau 1 năm thu được: Lợi nhuận trước Thuế năm 1998: 282,2 đồng , năm 1999:325,4 đồng và năm 2000: 244,4 đồng; Lợi nhuận sau Thuế năm 1998: 139,2 đồng, năm 1999: 195,3 đồng và năm 2000: 166,2 đồng. Như vậy: Các chỉ tiêu tài chính và kết quả kinh doanh của Công ty các năm 1998, 1999 và 2000 cho ta thấy rằng: Công ty kinh doanh luôn đạt hiệu quả cao. Bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh của mình. Nền tài chính của Công ty vững mạnh. d/ Nộp Ngân sách: Tình hình nộp Ngân sách của Công ty như sau: Năm 1998: nộp Ngân sách 1.209.467.000 đồng, tức là 1 đồng vốn cấp nộp Ngân sách 1,37 đồng; Năm 1999: nộp ngân sách 2.011.901.000 đồng, tức là 1 đồng vốn cấp nộp ngân sách 2,28 đồng; Năm 2000: nộp ngân sách 968.075.000 đồng, tức là 1 đồng vốn cấp nộp ngân sách 1,10 đồng. 3/ Đánh giá chung về kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty SONA trong những năm qua 3.1 Đánh giá về kết quả thực hiện kế hoạch năm 2001 và năm 2002 Bảng 3 - Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu năm 2001 và năm 2002 Chỉ tiêu Đơn vị tính Thực hiện 2001 Thực hiện 2002 Tỷ lệ phát triển Xuất khẩu lao động Người 759 2600 3,42 Du học Người 0 55 Đào tạo Người 679 3100 4,56 Xuất nhập khẩu hàng hoá * Xuất khẩu : - Cao su - Trị giá Tấn Tr.đ 1623 1.330 2798 28.257 1,72 21,2 * Nhập khẩu: - Sắt thép Máy móc, ô tô, vận tải Tổng trị giá Tấn Chiếc Tr.đ 9.645 159 5.739 10.828 124 50.076 1,12 0,77 8,73 Tổng doanh thu Tr. đ 85.094 129.166 1,52 * Doanh thu XKLĐ Tr. đ 6.712 8.650 1,21 * Doanh thu XNK HH và các dịch vụ khác (vé máy bay, du học) Tr. đ 78.382 120.516 1,54 Lợi nhuận Tr. đ 550 600 1,09 Nộp ngân sách nhà nước Tr. đ 7.560 11.050 1,46 Qua bảng số liệu trên cho thấy tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty ngày một khởi sắc. Với quan điểm luôn coi trọng và xác định xuất khẩu lao động là trọng tâm, là then chốt trong hoạt động của mình, do vậy trong năm 2001, đặc biệt là năm 2002 Công ty đã tập trung chỉ đạo, ưu tiên đầu tư mạnh cho hoạt động này, củng cố giữ vững và phát triển thị trường truyền thống tại Libia, củng cố và phát triển mở rộng thêm một bước tại thị trường Đài loan, Malaysia, từng bước khôi phục lấy lại thế cân bằng và ưu thế vốn có._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0386.doc