Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp Dược phẩm TW I

lời Mở đầu Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố quan trọng quyết định đến sự tồn tại, phát triển và diệt vong của các doanh nghiệp là hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả ấy, về mặt lượng, thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh là nhiệm vụ trung tâm, là mục tiêu hàng đầu của công tác quản lý tại các doanh nghiệp. Xí nghiệp Dược phẩm TWI là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động khá lâu trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp,

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp Dược phẩm TW I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ khi chuyển sang cơ chế mới xí nghiệp buộc phải tự hạch toán kinh doanh độc lập, phải làm ăn có lãi. Vì vậy, xí nghiệp luôn tìm mọi cách để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và ngày càng khẳng định mình là một trong những xí nghiệp dược hàng đầu của ngành dược cả nước. Với những kiến thức đã học và cùng với những thông tin thu thập được trong thời gian thực tập tại xí nghiệp em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp Dược phẩm TW I ” để làm luận văn tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm rõ cơ sở khoa học của vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và bước đầu vận dụng vào đơn vị thực tập. Luận văn được chia làm ba chương chính như sau: Chương I: Lý luận chung về hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương II: Thực trạng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp dược phẩm TW I. Chương III: Một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho Xí nghiệp Dược phẩm Trung Ương I. Vì trình độ có hạn nên mặc dù cố gắng, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các nhà quản lý. Em xin chân thành gửi lời biết ơn sâu sắc đến cô giáo: TS. Đoàn Thị Thu Hà - Khoa Khoa học Quản lý – Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ em thực hiện luận văn này. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân đã giảng dạy và giúp đỡ em trong suốt thời gian học ở trường. Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã góp ý cho bản luận văn này được hoàn thành tốt đẹp. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn toàn thể cán bộ công nhân viên Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương I đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em thực tập tại Xí nghiệp. Xin chúc Xí nghiệp luôn đổi mới và ngày càng phát triển. chương I Lý luận chung về hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường I. Một số khái niệm và sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh: Có thể nói rằng trong cơ chế thị trường, mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn...) đều có mục tiêu tối cao và lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Trong qúa trình hoạt động, các doanh nghiệp phải bảo đảm hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp cũng như của từng lĩnh vực, từng bộ phận bên trong doanh nghiệp. Vậy hiệu quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh là gì? 1. Khái niệm 1.1.Khái niệm hiệu quả Có thể đứng trên nhiều phạm vi và góc độ khác nhau để xem xét vấn đề hiệu quả. Nếu xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì khái niệm hiệu quả là hiệu quả kinh tế- xã hội, tức là phải tính đến cả yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội. Nếu xét ở góc độ kinh tế và phạm vi quản lý từng doanh nghiệp thì hiệu quả sản xuất kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp và phạm trù hiệu quả có thể đồng nhất với phạm trù lợi nhuận, được đo bằng hiệu số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nếu xem xét trên góc độ từng bộ phận và yếu tố riêng lẻ trong doanh nghiệp thì hiệu quả là một chỉ tiêu phản ánh trình độ trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh. 1.2. Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có và các nguồn lực có khả năng huy động của doanh nghiệp để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Biểu hiện tập trung nhất của hiệu quả là lợi nhuận.Tuy nhiên không nên hiểu hiệu quả sản xuất kinh doanh chỉ đơn thuần là lợi nhuận, mà hiệu quả sản xuất kinh doanh phải gắn liền với việc hoàn thành các mục tiêu đề ra, không thể có hiệu quả nếu mục tiêu của doanh nghiệp không đạt được. Vì vậy, việc giải quyết các vấn đề cơ bản nói trên được thể hiện trong việc xác định mục tiêu và lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh , xác định phương hướng đầu tư phát triển doanh nghiệp …Những vấn đề trên mở đầu cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Thông thường để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh ta so sánh giữa chi phí đầu vào và kết quả nhận được ở đầu ra của quá trình đó, điều đó có nghĩa là để đạt được kết quả đầu ra doanh nghiệp phải tốn một chi phí đầu vào như thế nào, sử dụng các nguồn lực ra sao, từ vốn, nhân sự, công nghệ để đạt được kết quả đó. Nếu gọi H là hiệu quả sản xuất kinh doanh thì : H = Kết quả đầu ra - Chi phí đầu vào ( nếu tính hiệu quả tuyệt đối) H = Cách đánh giá này phản ánh hiệu quả sử dụng của một số vốn đã bỏ ra để thu được một kết quả cao hơn, tức là đã có một sự xuất hiện của giá trị gia tăng với điều kiện H>1, khi H càng lớn, chứng tỏ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh càng đạt hiệu quả. Chỉ tiêu hiệu quả tương đối được sử dụng khi các nguồn lực rất khan hiếm và khó huy động. Như đã đề cập ở trên, hiệu quả sản xuất kinh doanh phải gắn liền với việc thực hiện những mục tiêu của doanh nghiệp, cho nên hiệu quả được thể hiện thông qua công thức sau: H = Với khái niệm này, hiệu quả sản xuất kinh doanh không chỉ là sự so sánh chi phí giá trị đầu vào và kết quả nhận được ở đầu ra của quá trình. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được hiểu trước tiên là việc hoàn thành mục tiêu và để đạt được mục tiêu ta phải sử dụng các nguồn lực như thế nào? Qua công thức trên còn thể hiện một quan điểm mới, đó là để đạt được hiệu quả không nhất thiết lúc nào cũng phải giảm chi phí, mà là sử dụng những chi phí đó như thế nào? Có những chi phí không cần thiết thì phải giảm đi, ngược lại có khi cần tăng lên sẽ đem lại một hiệu quả tốt hơn. 2. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở mỗi giai đoạn phát triển của mình thì các doanh nghiệp có thể có những mục tiêu khác nhau, nhưng mục tiêu cuối cùng bao trùm toàn bộ qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở sử dụng tối ưu các nguồn lực của mình. Trong nền kinh tế thị trường, sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh được thể hiện thông qua ba vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất: nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là cơ sở để đảm bảo sự tồn tại và phát triển ổn định của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp thể hiện sự có mặt của doanh nghiệp đó trên thị trường. Sự phát triển của một doanh nghiệp thể hiện sự vững vàng của doanh nghiệp đó trên thị trường, thể hiện sự bất chấp khó khăn thử thách của môi trường sản xuất kinh doanh, của các đối thủ cạnh tranh , trong khuôn khổ các thể chế chính sách của Nhà nước , và của xu thế phát triển chung của xã hội . Trong điều kiện các nguồn lực khan hiếm thì việc nâng cao hiệu quả là một tất yếu và một mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp không những chỉ để bù đắp mọi chi phí bỏ ra, mà nó còn đảm bảo sự tích luỹ cho quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp. Thứ hai: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và tiến bộ trong sản xuất kinh doanh. Chính sự thúc đẩy cạnh tranh đã yêu cầu các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu tư, tổ chức quản lý hoạt động tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp buộc phải chấp nhận sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, khốc liệt giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và với cả các doanh nghiệp nước ngoài. Chỉ có thắng lợi trong cạnh tranh thì doanh nghiệp mới đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình trong nền kinh tế thị trường cũng như trong hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ ba: Xét trên phương diện lý luận và thực tiễn thì phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng và không thể thiếu được trong việc kiểm tra, đánh giá và phân tích nhằm đưa ra các quyết định tối ưu nhất, lựa chọn được các giải pháp hợp lý nhất để thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp đã đề ra. Do vậy hiệu quả sản xuất kinh doanh có vai trò vừa là căn cứ vừa là mục tiêu của quản trị kinh doanh. II. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Đối với các doanh nghiệp công nghiệp, các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh bao gồm : 1. Các nhân tố khách quan 1.1. Nhân tố môi trường quốc tế và khu vực Các xu hướng chính trị trên thế giới, các chính sách bảo hộ và mở cửa của các nước trên thế giới, tình hình chiến tranh, sự mất ổn định chính trị, tình hình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới... ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như việc lựa chọn và sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Do vậy mà nó tác động gián tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Môi trường kinh tế ổn định cũng như chính trị trong khu vực ổn định là cơ sở để các doanh nghiệp trong khu vực tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ví dụ như tình hình mất ổn định của các nước Đông Nam á trong mấy năm vừa qua đã làm cho hiệu quả sản xuất của nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới nói chung, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu vực nói riêng bị giảm rất nhiều. Xu hướng tự do hoá mậu dịch của các nước ASEAN và của thế giới đã ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của các nước trong khu vực. 1.2. Nhân tố môi trường nền kinh tế quốc dân + Môi trường chính trị, luật pháp Môi trường chính trị ổn định luôn luôn là tiền đề cho việc phát triển và mở rộng các hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. Các hoạt động đầu tư nó lại tác động trở lại rất lớn tới các hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật, các quy trình quy phạm kỹ thuật sản xuất tạo ra một hành lang pháp lý ổn định cho các doanh nghiệp hoạt động, các hoạt động của doanh nghiệp như: sản xuất kinh doanh cái gì, bán cho ai? nguồn đầu vào lấy ở đâu đều trong khuôn khổ của pháp luật. Các doanh nghiệp phải chấp hành các quy định của pháp luật, phải thực hiện các nghĩa vụ của mình với nhà nước, với xã hội và với người lao động như thế nào là do luật pháp quy định (nghĩa vụ nộp thuế, trách nhiệm đảm bảo vệ sinh môi trường, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp... ). Có thể nói luật pháp là nhân tố kìm hãm hoặc khuyến khích sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới các kết quả cũng như hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. + Môi trường văn hoá xã hội Tình trạng thất nghiệp, trình độ giáo dục, phong cách, lối sống, phong tục, tập quán, tâm lý xã hội... đều tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, có thể theo hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Nếu không có tình trạng thất nghiệp, người lao động có nhiều cơ hội lựa chọn việc làm thì chắc chắn chi phí sử dụng lao động của doanh nghiệp sẽ cao do đó làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ngược lại nếu tình trạng thất nghiệp là cao thì chi phí sử dụng lao động của doanh nghiệp sẽ giảm làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng tình trạng thất nghiệp cao sẽ làm cho cầu tiêu dùng giảm và có thể dẫn đến tình trạng an ninh chính trị mất ổn định, do vậy lại làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trình độ văn hoá ảnh hưởng tới khả năng đào tạo cũng như chất lượng chuyên môn và khả năng tiếp thu các kiến thức cần thiết của đội ngũ lao động; phong cách, lối sống, phong tục, tập quán, tâm lý xã hội... ảnh hưởng tới cầu về sản phẩm của các doanh nghiệp qua đó ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. + Môi trường kinh tế vĩ mô Các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, tốc độ lạm phát, thu nhập bình quân trên đầu người... là các yếu tố tác động trực tiếp tới cung cầu của từng doanh nghiệp. Nếu tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quốc dân cao, các chính sách của Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, sự biến động tiền tệ là không đáng kể, lạm phát được giữ mức hợp lý, thu nhập bình quân đầu người tăng... sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và ngược lại. + Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái và cơ sở hạ tầng Các điều kiện tự nhiên như : các loại tài nguyên khoáng sản, vị trí địa lý, thơi tiết khí hậu,... ảnh hưởng tới chi phí sử dụng nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, ảnh hưởng tới mặt hàng kinh doanh, năng suất chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng tới cung cầu sản phẩm do tính chất mùa vụ... do đó ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong vùng. Tình trạng môi trường, các vấn đề về xử lý phế thải, ô nhiễm, các ràng buộc xã hội về môi trường,... đều có tác động nhất định đến chi phí kinh doanh, năng suất và chất lượng sản phẩm. Một môi trường trong sạch thoáng mát sẽ trực tiếp làm giảm chi phí kinh doanh, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế quyết định sự phát triển của nền kinh tế cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp. Hệ thống đường sá, giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống ngân hàng tín dụng, mạng lưới điện quốc gia... ảnh hưởng tới chi phí kinh doanh, tới khả năng nắm bắt thông tin, khả năng huy động và sử dụng vốn, khả năng giao dịch thanh toán... của các doanh nghiệp do đó ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Môi trường khoa học kỹ thuật công nghệ Tình hình phát triển khoa học kỹ thuật công nghệ, tình hình ứng dụng của khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất trên thế giới cững như trong nước ảnh hưởng tới trình độ kỹ thuật công nghệ và khả năng đổi mới kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp do đó ảnh hưởng tới năng suất chất lượng sản phẩm tức là ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.3. Nhân tố môi trường ngành - Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trong ngành: Mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành với nhau ảnh hưởng trực tiếp tới lượng cung cầu sản phẩm của mỗi doanh nghiệp, ảnh hưởng tới giá bán, tốc độ tiêu thụ sản phẩm... do vậy ảnh hưởng tới hiệu quả của mỗi doanh nghiệp. - Khả năng gia nhập mới của các doanh nghiệp Trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay trong hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề sản xuất kinh doanh có mức doanh lợi cao thì đều bị rất nhiều các doanh nghiệp khác nhóm ngó và sẵn sàng đầu tư vào lĩnh vực đó. Vì vậy buộc các doanh nghiệp trong các ngành có mức doanh lợi cao đều phải tạo ra các hàng rào cản trở sự gia nhập mới bằng cách khai thác triệt để các lợi thế riêng có của doanh nghiệp, bằng cách định giá phù hợp (mức ngăn chặn sự gia nhập này có thể làm giảm mức doanh lợi) và tăng cường mở rộng chiếm lĩnh thị trường. - Sản phẩm thay thế Hầu hết các sản phẩm của một doanh nghiệp đều có sản phẩm thay thế; số lượng, chất lượng, giá cả, mẫu mã bao bì của sản phẩm thay thế, các chính sách tiêu thụ của các sản phẩm thay thế ảnh hưởng rất lớn tới lượng cung cầu, chất lượng, giá cả và tốc độ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Do đó ảnh hưởng tới kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Người cung ứng Các nguồn lực đầu vào của một doanh nghiệp được cung cấp chủ yếu bởi các doanh nghiệp khác, các đơn vị kinh doanh và các cá nhân. Việc đảm bảo chất lượng, số lượng cũng như giá cả các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp phụ thuộc vào tính chất của người cung ứng và các hành vi của họ. Nếu các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp là không có sự thay thế và do các nhà độc quyền cung cấp thì việc đảm bảo yếu tố đầu vào và chi phí về các yếu tố đó của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào các nhà cung ứng; khi đó chi phí về các yếu tố đầu vào thường cao hơn mức bình thường sẽ làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn nếu các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp là sẵn có và có thể chuyển đổi thì việc đảm bảo về số lượng, chất lượng cũng như hạ chi phí về các yếu tố đầu vào là dễ dàng và không bị phụ thuộc vào người cung ứng, do đó nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Người mua Khách hàng là một vấn đề vô cùng quan trọng và được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm chú ý. Nếu như sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra mà không có người hoặc là không được người tiêu dùng chấp nhận rộng rãi thì doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất được. Mật độ và cơ cấu dân cư, mức độ thu nhập, tâm lý và sở thích tiêu dùng… của khách hàng ảnh hưởng lớn tới sản lượng và giá cả sản phẩm của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới sự cạnh tranh của doanh nghiệp, vì vậy ảnh hưởng tới hiệu quả của doanh nghiệp. 2. Các nhân tố chủ quan ( nhân tố bên trong doanh nghiệp) 2.1. Bộ máy quản trị doanh nghiệp và trình độ quản lý Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, bộ máy quản trị doanh nghiệp phải có cơ cấu hợp lý, gọn nhẹ với chi phí quản lý tiết kiệm đồng thời phải là bộ máy có trình độ năng lực thực sự để thực hiện nhiều chức năng và nhiệm vụ khác nhau, đưa doanh nghiệp đến mục tiêu mong muốn. Với chức năng và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của bộ máy quản trị doanh nghiệp, có thể khẳng định rằng chất lượng của bộ máy quản trị quyết định rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu bộ máy quản trị được tổ chức với cơ cấu phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, gọn nhẹ linh hoạt, có sự phân chia nhiệm vụ chức năng rõ ràng, có cơ chế phối hợp hành động hợp lý, với một đội ngũ quản trị viên có năng lực và tinh thần trách nhiệm cao sẽ đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Nếu bộ máy quản trị doanh nghiệp được tổ chức không hợp lý (quá cồng kềnh hoặc quá đơn giản), chức năng nhiệm vụ chồng chéo và không rõ ràng, sự phối hợp trong hoạt động không chặt chẽ, các quản trị viên thì thiếu năng lực và tinh thần trách nhiệm, sẽ dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không cao. 2.2. Lao động và tiền lương Lao động là một trong các yếu tố đầu vào quan trọng, tham gia vào mọi hoạt động, mọi giai đoạn, mọi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trình độ, năng lực( kiến thức và kĩ năng, kĩ xảo), tinh thần trách nhiệm của người lao động tác động trực tiếp đến tất cả các giai đoạn các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, tác động trực tiếp đến năng suất, chất lượng sản phảm, tác động tới tốc độ tiêu thụ sản phẩm do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra biết phân công và hợp tác lao động hợp lý giữa các bộ phận sản xuất, giữa các cá nhân trong doanh nghiệp, sử dụng người đúng việc sao cho phát huy tốt nhất năng lực sở trường của người lao động, là một nội dung trong công tác tổ chức lao động của doanh nghiệp nhằm làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả cao. Như vậy nếu ta coi chất lượng lao động là điều kiện cần để tiến hành sản xuất kinh doanh thì công tác tổ chức lao động hợp lý là điều kiện đủ để doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Bên cạnh lao động thì tiền lương và thu nhập của người lao động cũng ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì tiền lương là một bộ phận cấu thành lên chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời nó còn tác động tói tâm lý người lao động trong doanh nghiệp. Nếu tiền lương cao thì chi phí sản xuất kinh doanh sẽ tăng do đó có thể làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhưng lại tác động tới tính thần và trách nhiệm người lao động cao hơn do đó làm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp dẫn đến tăng kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Còn nếu mức lương thấp thì kết quả ngược lại. Cho nên doanh nghiệp cần chú ý tới các chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu nhập, các biện pháp khuyến khích sao cho hợp lý, hài hoà giữa lợi ích của người lao động và lợi ích của doanh nghiệp. 2.3. Tình hình tài chínhvà khả năng huy động vốn của doanh nghiệp Doanh nghiệp có khả năng tài chính mạnh thì không những đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục và ổn định mà còn giúp cho doanh nghiệp có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ và áp dụng kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nhằm làm giảm chi phí, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Ngược lại, nếu như khả năng về tài chính của doanh nghiệp yếu kém thì doanh nghiệp không những không đảm bảo được các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường mà còn không có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất do đó không nâng cao được năng suất và chất lượng sản phẩm. Khả năng tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín của doanh nghiệp, tới khả năng chủ động trong sản xuất kinh doanh, tới tốc độ tiêu thụ và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới mục tiêu tối thiểu hoá chi phí bằng cách chủ động khai thác và sử dụng tối ưu các nguồn lực đầu vào. Vì vậy tình hình tài chính của doanh nghiệp tác động rất mạnh tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp đó. 2.4. Đặc tính của sản phẩm và công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm * Đặc tính của sản phẩm Ngày nay đặc tính chất lượng của sản phẩm trở thành một công cụ cạnh tranh quan trọng của các doanh nghiệp trên thị trường, vì chất lượng của sản phẩm làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng về sản phẩm ; chất lượng sản phẩm càng cao sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm luôn luôn là yếu tố cạnh tranh sống còn của mỗi doanh nghiệp, khi chất lượng sản phẩm không đáp ứng được những yêu cầu của khách hàng, lập tức khách hàng sẽ chuyển sang tiêu dùng các sản phẩm khác cùng loại. Chất lượng của sản phẩm góp phần tạo nên uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường. Những đặc tính mang hình thức bên ngoài của sản phẩm như : Mẫu mã, bao bì, nhãn hiệu…trước đây không được coi trọng nhưng ngày nay nó đã trở thành những yếu tố cạnh tranh không thể thiếu được. Thực tế cho thấy, khách hàng thường lựa chọn các sản phẩm theo trực giác, vì vậy những loại hàng hoá có mẫu mã bao bì, nhãn hiệu đẹp và gợi cảm…luôn giành được ưu thế hơn so với các hàng hoá khác cùng loại. Như vậy các đặc tính của sản phẩm là nhân tố quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần rất lớn tới việc tạo uy tín, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm nên có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm Tiêu thụ sản phẩm là một khâu cuối cùng và cũng là khâu quyết định tới toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có tiêu thụ được hay không mới là điều quan trọng nhất. Tốc độ tiêu thụ nó quyết định tốc độ sản xuất và nhịp độ cung ứng nguyên vật liệu. Cho nên nếu doanh nghiệp tổ chức được mạng lưới tiêu thụ sản phẩm phù hợp với thị trường và các chính sách tiêu thụ hợp lý khuyến khích người tiêu dùng sẽ giúp cho doanh nghiệp mở rộng và chiếm lĩnh được thị trường, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, tăng vòng quay của vốn, góp phần giữ vững và đảy nhanh nhịp độ sản xuất cũng như cung ứng các yếu tố đầu vào nên góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.5. Nguyên vật liệu và công tác tổ chức đảm bảo nguyên vật liệu Nguyên vật liệu là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng và không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Số lượng, chủng loại, cơ cấu, chất lượng, giá cả của nguyên vật liệu và tính đồng bộ của việc cung ứng nguyên vật liệu ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu, ảnh hưởng tới năng suất và chất lượng của sản phẩm do đó ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí sử dụng nguyên vật liệu của các doanh nghiệp công nghiệp thường chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành đơn vị sản phẩm cho nên việc sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu đồng nghĩa với việc tạo ra kết quả lớn hơn với cùng một lượng nguyên vật liệu. Bên cạnh đó, chất lượng của công tác đảm bảo nguyên vật liệu cũng ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu công tác tổ chức đảm bảo nguyên vật liệu được tốt, tức là luôn luôn cung cấp đầy đủ, kịp thời và đồng bộ, đúng số lượng, chất lượng, chủng loại các loại nguyên vật liệu cần thiết theo yêu cầu của sản xuất kinh doanh, không để xảy ra tình trạng thiếu hay là ứ đọng nguyên vật liệu, đồng thời thực hiện việc tối thiểu hoá chi phí sử dụng nguyên vật liệu, sẽ đảm bảo cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường và góp phần rất lớn vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.6. Cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ sản xuất của doanh nghiệp Cơ sở vật chất kỹ thuật trong doanh nghiệp là yếu tố vật chất hữu hình quan trọng phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, làm nền tảng quan trọng để doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh. Cơ sở vật chất đem lại sức mạnh kinh doanh cho doanh nghiệp trên cơ sở sức sinh lời của tài sản. Cơ sở vật chất dù chiếm tỷ trọng lớn hay nhỏ trong tổng tài sản của doanh nghiệp thì nó vẫn có vai trò quan trọng thúc đẩy các hoạt động kinh doanh, nó thể hiện bộ mặt kinh doanh của doanh nghiệp qua hệ thống nhà xưởng, kho tàng, cửa hàng, bến bãi…Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp càng được bố trí hợp lý bao nhiêu thì càng góp phần đem lại hiệu quả cao bất nhiêu. Điều này thấy khá rõ nếu một doanh nghiệp có hệ thống nhà xưởng, kho tàng, cửa hàng, bến bãi được bố trí hợp lý, nằm trong khu vực có mật độ dân cư lớn, thu nhập về cầu về tiêu dùng của người dân cao…và thuận lợi về giao thông sẽ đem lại cho doanh nghiệp một tài sản vô hình rất lớn đó là lợi thế kinh doanh đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao. Trình độ kỹ thuật và trình độ công nghệ sản xuất của doanh nghiệp ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng tới mức độ tiết kiệm hay tăng phí nguyên vật liệu do đó ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật sản xuất cao, có công nghệ sản xuất tiên tiến và hiện đại sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, còn nếu trình độ kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp thấp kém hoặc công nghệ sản xuất lạc hậu hay thiếu đồng bộ sẽ làm cho năng suất, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp rất thấp, sử dụng lãng phí nguyên vật liệu. 2.7. Môi trường làm việc trong doanh nghiệp * Môi trường văn hoá trong doanh nghiệp Môi trường văn hoá do doanh nghiệp xác lập và tạo thành sắc thái riêng của từng doanh nghiệp. Đó là bầu không khí, là tình cảm, sự giao lưu, mối quan hệ, ý thức trách nhiệm và tinh thần hiệp tác phối hợp trong thực hiện công việc. Môi trường văn hoá có ý nghĩa đặc biệt và có tác động quyết định đến việc sử dụng đội ngũ lao động và các yếu tố khác của doanh nghiệp. Trong kinh doanh hiện đại, nhiều doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh rất quan tâm chú ý và đề cao môi trường văn hoá của doanh nghiệp, vì ở đó có sự kết hợp giữa văn hoá các dân tộc và các nước khác nhau. Những doanh nghiệp thành công trong kinh doanh thường là những doanh nghiệp chú trọng xây dựng, tạo ra môi trường văn hoá riêng biệt khác với các doanh nghiệp khác. Văn hoá doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn cho các doanh nghiệp, nó ảnh hưởng to lớn đến việc hình thành và thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược và các chính sách của doanh nghiệp. Cho nên hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào môi trường văn hoá trong doanh nghiệp. * Các yếu tố mang tính chất vật lý và hoá học trong doanh nghiệp Các yếu tố không khí, không gian, ánh sáng, độ ẩm, độ ồn, các hoá chất gây độc hại... là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới thời gian lao động, tới tinh thần và sức khoẻ của lao động do đó nó ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng lao động của doanh nghiệp, đồng thời nó còn ảnh hưởng tới độ bền của máy móc thiết bị, tới chất lượng sản phẩm. Vì vậy ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Môi trường thông tin : Hệ thống trao đổi các thông tin bên trong doanh nghiệp ngày càng lớn hơn bao gồm tất cả các thông tin có liên quan đến từng bộ phận, từng phòng ban, từng người lao động trong doanh nghiệp và các thông tin khác. Để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh thì giữa các bộ phận, các phòng ban cũng như những ngưòi lao động trong doanh nghiệp luôn có mối quan hệ ràng buộc đòi hỏi phải giao tiếp, phải liên lạc và trao đổi với nhau các thông tin cần thiết. Do đó mà hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào hệ thống thông tin của doanh nghiệp. Việc hình thành qúa trình chuyển thông tin từ người này sang người khác, từ bộ phận này sang bộ phận khác tạo sự phối hợp trong công việc, sự hiểu biết lẫn nhau, bổ sung những kinh nghiệm, những kiến thức và sự am hiểu về mọi mặt cho nhau một cách thuận lợi nhanh chóng và chính xác là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. III. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 1. Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp Các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp cho phép ta đánh giá được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp. Nó là mục tiêu cuối cùng mà doanh nghiệp đặt ra. 1.1. Chỉ tiêu lợi nhuận Lợi nhuận vừa là chỉ tiêu phản ánh kết quả đồng thời vừa là chỉ tiêu phản ánh tính hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các chủ doanh nghiệp thường quan tâm tới cái gì mà họ thu được sau qu._.á trình sản xuất kinh doanh và thu được bao nhiêu, do đó chỉ tiêu lợi nhuận được các chủ doanh nghiệp đặc biệt quan tâm và đặt nó vào mục tiêu quan trọng nhất của doanh nghiệp. Còn đối với các nhà quản trị thì lợi nhuận vừa là mục tiêu cần đạt được vừa cơ sở để tính các chỉ tiêu hiệu quả của doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm: - Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh - Lợi nhuận từ hoạt động tài chính - Lợi nhuận bất thường khác Lợi nhuận thường được tính bằng công thức sau: E = K - C Trong đó: E : Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp K : Tổng doanh thu của doanh nghiệp C : Tổng chi phí bỏ ra để đạt được doanh thu đó. 1.2. Các chỉ tiêu về doanh lợi Các chỉ tiêu về doanh lợi cho ta biết hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp, nó là các chỉ tiêu được các nhà quản trị, các nhà đầu tư, các nhà tín dụng đặc biệt quan tâm chú ý tới, nó là mục tiêu theo đuổi của các nhà quản trị. * Doanh lợi trên toàn bộ vốn kinh doanh DVKD : Doanh lợi trên toàn bộ vốn kinh doanh P : Lợi nhuận trước hay sau thuế lợi tức ( nếu là trước thuế lợi tức có thể tính thêm lãi trả vốn vay) thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc từ tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. VKD : Tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp (vốn chủ sở hữu cộng vốn vay) Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn kinh doanh, doanh nghiệp tạo ra được mấy đồng lợi nhuận trước hoặc sau thuế lợi tức. DVKD càng cao càng tốt. * Doanh lợi trên vốn chủ sở hữu (vốn tự có) PR = DVCSH CCSH DVCSH : Doanh lợi vốn chủ sở hữu PR: Lợi nhuận (trước hoặc sau thuế) CCSH : Vốn chủ sở hữu ( vốn tự có của doanh nghiệp) Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn chủ sở hữu doanh nghiệp tạo ra được mấy đồng lợi nhuận trước hoặc sau thuế. * Doanh lợi trên doanh thu bán hàng DTR : Doanh lợi doanh thu bán hàng Psản xuất : Lợi nhuận trước hoặc sau thuế lợi tức thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp TR : Tổng doanh thu bán hàng Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi nhuận trước hoặc sau thuế lơị tức. 1.3 Chỉ tiêu khác H : Hiệu quả kinh tế của sản xuất Q : Sản lượng sản xuất tính theo giá trị C : Chi phí tài chính (chi phí xác định trong kế toán tài chính) CTT : Chi phí kinh doanh thực tế CPĐ : Chi phí kinh doanh phải đạt (chi phí kinh doanh là chi phí được xác định trong quản trị chi phí kinh doanh, nó khác với chi phí tài chính). Hai chỉ tiêu sau còn được dùng để đánh giá tính hiệu quả ở từng bộ phận trong doanh nghiệp. 2. Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh bộ phận Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh bộ phận cho phép ta đánh giá được hiệu quả của từng mặt, từng yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. 2.1. Hiệu quả sử dụng vốn Sử dụng vốn có hiệu quả là một yêu cầu tất yếu của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn được thể hiện theo các chỉ tiêu sau : * Số vòng quay của toàn bộ vốn kinh doanh và số ngày của một vòng quay. - Số vòng quay của toàn bộ vốn kinh doanh (n) n : càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. - Số ngày một vòng quay (s) Chỉ tiêu này cho biết số ngày công cần thiết để doanh nghiệp có thể thu hồi được toàn bộ vốn kinh doanh. S càng nhỏ thì càng tốt. * Hiệu quả sử dụng vốn lưu động (tài sản lưu động) - Doanh lợi vốn lưu động DVLD : Doanh lợi vốn lưu động VLD : Vốn lưu động bình quân của doanh nghiệp Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn lưu động doanh nghiệp tạo ra mấy đồng lợi nhuận. - Số vòng quay vốn lưu động (nLD) - Số ngày một vòng quay vốn lưu động (Slđ) - Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động (HLD) HLD : cho biết trong một đồng doanh thu có bao nhiêu đồng vốn lưu động HLD càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao và số tiền tiết kiệm càng nhiều. * Hiệu quả sử dụng vốn cố định (tài sản cố định) Hiệu quả sử dụng vốn cố định cho ta biết khả năng khai thác và sử dụng các loại tài sản cố định của doanh nghiệp. - Sức sinh lợi của tài sản cố định DVCD : Doanh lợi vốn cố định TSCĐ : Giá trị tài sản cố định bình quân trong kỳ của doanh nghiệp Chỉ tiêu này cho biếy cứ một đồng vốn cố định tạo ra được mấy đồng lợi nhuận. DVCD càng cao chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng tài sản càng có hiệu quả. - Sức sản xuất của tài sản cố định (N) N càng lớn càng tốt - Hệ số đảm nhiệm vốn cố định ( HCD) HCD : Càng nhỏ hiệu quả sử dụng tài sản cố định càng cao. 2.2. Hiệu quả sử dụng lao động Lao động là yếu tố đầu vào cơ bản của sản xuất, hiệu quả sử dụng lao động góp phần nâng cao hiệu quả chung của toàn doanh nghiệp. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động bao gồm : - Sức sinh lời bình quân của lao động Pbq : Lợi nhuận bình quân một lao động L : Số lao động bình quân trong kỳ - Năng suất lao động W : năng suất đơn vị lao động, W càng cao càng tốt Q : Sản lượng sản xuất ra (đơn vị có thể là hiện vật hoặc giá trị) L : Số lao động bình quân trong kỳ hoặc tổng thời gian lao động (tính theo giờ, ca, ngày lao động) - Hiệu suất tiền lương ( HTL) TL : Tổng tiền lương chỉ ra trong kỳ HTL : Càng cao chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng chi phí lao động hợp lý. 3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả về mặt kinh tế -xã hội - Nộp ngân sách, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước : doanh nghiệp làm ăn có lãi mới có thể nộp thuế và làm tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước cũng như đối với xã hội và cộng đồng, góp phần phân phối lại thu nhập và phục vụ phát triển nền kinh tế quốc dân - Tạo công ăn việc làm cho người lao động: Chỉ tiêu này của doanh nghiệp càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp đó làm ăn tốt, tạo được nhiều chỗ làm cho người lao động, góp phần làm tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống chung của cộng đồng, giảm tệ nạn xã hội . chương II thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp dược phẩm trung ương I I. giới thiệu khái quát về xí nghiệp dược phẩm trung ương i 1. Quá trình hình thành và phát triển 1.1. Hoàn cảnh ra đời Xí nghiệp Dược phẩm Trung Ương I là một doanh nghiệp Nhà nước, thành viên của Tổng Công ty Dược Việt Nam, chuyên sản xuất các mặt hàng thuốc chữa bệnh, hoạt động dưới sự quản lý Nhà nước của Cục quản lý Dược Bộ Y Tế. Tiền thân của xí nghiệp là một cơ sở sản xuất Dược tại chiến khu Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Cơ sở này được giao nhiệm vụ sản xuất thuốc phục vụ chiến trường. Năm 1954, hoà bình lập lại, cơ sở đã chuyển về Hà Nội. Nhiệm vụ sản xuất chính của Xí nghiệp vẫn là sản xuất thuốc men, bông băng, các vật tư y tế phục vụ trong quân đội và nhân dân. Do nhiệm vụ sản xuất đa dạng, số lượng mặt hàng nhiều nên nhằm đảm bảo tính chuyên môn, xí nghiệp đã tách ra thành ba xí nghiệp sau: ã Xí nghiệp Dược phẩm I: chuyên sản xuất thuốc tân dược. ã Xí nghiệp Dược hoá: sản xuất các loại hoá chất làm thuốc, một số loại vật tư y tế. ã Xí nghiệp Dược phẩm III tại Hải Phòng: chuyên sản xuất thuốc tân dược. Năm 1975, Xí nghiệp Dược phẩm I đổi tên thành Xí nhiệp Dược phẩm Trung Ương I , tên giao dịch hiện nay là PHARBACO, cơ sở của xí nghiệp đặt tại 160 Tôn Đức Thắng quận Đống Đa thành phố Hà Nội. Ngày 22 tháng 4 năm 1993, Xí nghiệp được thành lập lại theo Nghị định 388-HĐBT và theo Quyết định số 40/BYT-QĐ của Bộ trưởng Bộ Y Tế, được cấp giấy phép kinh doanh số 108249 ( ngày 20 tháng 3 năm 1993). Tổng số vốn chủ sở hữu là 17.600 triệu đồng, trong đó: - Ngân sách Nhà nước cấp là 9.500 triệu đồng - Vốn tự bổ sung là 8.100 triệu đồng tính đến năm 1993. Xí nhiệp dược phẩm Trung Ương I có quá trình phát triển lâu dài, đã trải qua và phục vụ hai cuộc kháng chiến, Xí nghiệp luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao, đạt nhiều cờ thi đua và danh hiệu quyết thắng. Từ năm 1993 đến nay, tuy gặp nhiều khó khăn do chuyển sang cơ chế tự hạch toán nhưng Xí nghiệp vẫn đứng vững, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao, quy mô của Xí nghiệp ngày càng được mở rộng và lớn mạnh, hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp có hiệu quả, đời sống của cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao. 1.2. Chức năng nhiệm vụ của xí nghiệp Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, nghiên cứu và sản xuất thuốc phục vụ chiến trường là nhiệm vụ chủ yếu của xí nghiệp. Kể từ khi được thành lập cho đến đầu thập kỷ 90, Xí nghiệp chỉ sản xuất các loại thuốc theo yêu cầu của Nhà nước: chủ yếu là thuốc bổ và thuốc chữa bệnh đơn giản, chứ chưa hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Bước sang cơ chế thị trường cùng với việc xoá bỏ chế độ bao cấp, Xí nghiệp chuyển sang chế độ hạch toán kinh doanh độc lập. Sản phẩm của xí nghiệp đã đa dạng hơn cả về số lượng và chủng loại. Sản phẩm chính của xí nghiệp là các loại thuốc bổ như: Vitamin B1, B6, B12,VitaminC... và các loại thuốc kháng sinh như: Penicilin, Ampicilin, gentamixin, Amoxilin…. Ngoài những loại thuốc mà Xí nghiệp thường sản xuất, xí nghiệp còn sản xuất các loại thuốc như: Glucoza 30%, Amminalin, Novocain, Long não nước, Canxiclorua… Bên cạnh việc đa dạng hoá các sản phẩm thuốc, Xí nghiệp luôn quan tâmđến việc nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất ra để từ đó nâng cao uy tín của sản phẩm trên thị trường trong nước, tạo ra cho xí nghiệp một thế đứng vững trong cạnh tranh. 2. Một số đặc điểm chủ yếu của xí nghiệp. 2.1. Đặc điểm của ngành nghề kinh doanh. Sản xuất dược phẩm là một lĩnh vực đặc biệt của ngành công nghiệp hoá chất bởi sản phẩm của nó dùng để phòng bệnh và chữa bệnh cho con người. Đây là ngành sản xuất rất độc hại, cần nhiều vốn nhưng không cần nhiều lao động vì thế quy trình sản xuất chủ yếu là tự động và bán tự động. Do đó có thể nói ngành Dược là ngành cần độ chính xác cao trong sản xuất và rất nhạy cảm về mặt xã hội . Do tính chất của sản phẩm, nguyên liệu sản xuất của ngành rất đa dạng về chủng loại và phần lớn vẫn còn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Các loại nguyên vật liệu dùng cho sản xuất tá dược rất độc hại, nguy hiểm và dễ cháy nổ. Vì vậy việc mua bán, vận chuyển, và bảo quản nguyên vật liệu khá phức tạp. Sản phẩm của ngành nhìn chung khó bảo quản, có tính chất mùa vụ, tính chất vùng và có thời hạn sử dụng nhất định. Đặc biệt sản phẩm ngành Dược không có sản phẩm thay thế, không có sản phẩm phế phẩm và được sử dụng theo đơn chỉ dẫn của bác sỹ và dược sỹ. Sản phẩm dược chỉ có giá trị khi thành phần của nó được đảm bảo và còn hạn sử dụng, nếu quá thời hạn sử dụng sản phẩm sẽ không còn tác dụng và sẽ gây ra phản ứng phụ ảnh hưởng tới sức khoẻ và sinh mạng của con người. Bao bì của sản phẩm phải đảm bảo an toàn tuyệt đối trong việc bảo vệ cũng như sử dụng sản phẩm, bao bì phải đảm bảo yêu cầu là dễ phân biệt và ghi rõ công dụng, chỉ dẫn trên mỗi bao bì. Điều kiện bảo quản phải tuân thủ nghiêm ngặt theo quy định của Bộ Y Tế. Để đảm bảo chất lượng, các sản phẩm Dược không thể để quá lâu, thời hạn sử dụng và hàm lượng biệt dược trên mỗi sản phẩm phải được in ấn rõ ràng và chính xác tuyệt đối. Đồng thời có một sự đòi hỏi mức độ chính xác cực cao trong cân đo và kiểm tra tỉ mỷ ngặt nghèo ở mọi khâu: từ khâu nguyên vật liệu, khâu sản xuất, khâu bao gói, đến khâu bán hàng. Đây là một khó khăn rất lớn trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp trong ngành. Sản phẩm dược là một hàng hoá thiết yếu nhưng không phải là hàng hoá được sử dụng hàng ngày, mà chỉ được sử dụng khi người ta mắc bệnh hay khi nào cần thiết mới phải dùng. 2.2. Bộ máy tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý của xí nghiệp a. Tổ chức Bộ máy sản xuất của xí nghiệp. Với tổng diện tích mặt bằng sản xuất là 3500 m2 xí nghiệp được chia ra làm 4 phân xưởng, bao gồm 3 phân xưởng sản xuất chính và 1 phân xưởng sản xuất phụ. Trong mỗi phân xưởng lại chia ra các tổ, mỗi tổ đảm nhiệm chức năng sản xuất riêng. Ba phân xưởng sản xuất chính đó là: + Phân xưởng sản xuất thuốc viên bao gồm các tổ: Tổ pha chế, tổ đập viên, tổ trình bày và tổ kiểm nghiệm, có nhiệm vụ chuyên sản xuất các loại thuốc viên như: Ampicilin, Cloxit, Vitamin B1, B6, B12, Vitamin C… + Phân xưởng sản xuất thuốc tiêm chuyên sản xuất các loại thuốc như: Novocain, Long não nước, Glucoza30%, Canxiclorua, Vitamin B1, B12… Bao gồm các tổ: Tổ pha chế, tổ đóng ống, tổ hàn ống, tổ kiểm nghiệm và tổ trình bày. + Phân xưởng sản xuất thuốc kháng sinh tiêm: chuyên sản xuất thuốc tiêm Penicilin kháng sinh và một số loại thuốc Penicilin thú y khác, bao gồm các tổ như ở phân xưởng thuốc tiêm. Bên cạnh 3 phân xưởng sản xuất chính còn có một phân xưởng sản xuất phụ. Đó là phân xưởng cơ điện - chuyên phục vụ sửa chữa máy móc, thiết bị, cung cấp điện dùng cho sản xuất của xí nghiệp. Ngoài ra xí nghiệp còn có các tổ phục vụ khác: Tổ khí nén, lò hơi… nhằm đảm bảo cung cấp lao vụ cho các phân xưởng, các bộ phận sản xuất và các bộ phận quản lý. Sơ đồ tổ chức bộ máy sản xuất của xí nghiệp phó giám đốc sản xuất PX cơ điện PX kháng sinh tiêm PX viên Tổ pha chế Tổ đập viên Tổ kiểm nghiệm Tổ trình bày PX tiêm Tổ pha chế Tổ đóng ống Tổ hàn ống Tổ in ống Tổ soi ống Tổ đóng ống Tổ hàn ống Tổ pha chế Tổ in ống Tổ soi ống Mũi tên thể hiện quy trình sản xuất b. Bộ máy tổ chức quản lý Ban Giám đốc gồm có: Một Giám đốc và ba Phó giám đốc + Giám đốc là người chỉ huy cao nhất, phụ trách chung, trực tiếp điều hành chỉ đạo ba Phó giám đốc và hai phòng: Tài vụ kế toán và Tổ chức hành chính. + Phó Giám đốc sản xuất : Thay mặt Giám đốc điều hành các công việc sản xuất và quản lý sản xuất ở các bộ phận hoặc các phân xưởng sản xuất, các phòng ban liên quan đến sản xuất. Phó Giám đốc sản xuất phụ trách các hoạt động sản xuất của 4 phân xưởng: Phân xưởng sản xuất thuốc viên Phân xưởng sản xuất thuốc tiêm Phân xưởng sản xuất thuốc kháng sinh Phân xưởng cơ điện + Phó Giám đốc kinh doanh: Thay mặt Giám đốc điều hành các công việc kinh doanh của xí nghiệp như: giải quyết vấn đề đầu vào, đầu ra, lập kế hoạch sản xuất - kinh doanh , tiêu thụ sản phẩm… Phó Giám đốc kinh doanh trực tiếp chỉ đạo hai phòng: phòng Kinh doanh và phòng Marketing. + Phó giám đốc khoa học - công nghệ: Được giao phụ trách vấn đề công nghệ, dây chuyền sản xuất, các vấn đề liên quan đến kỹ thuật sản xuất, chất lượng sản phẩm… Phó giám đốc khoa học - công nghệ chịu trách nhiệm phụ trách các phòng: phòng Kỹ thuật, phòng Kiểm nghiệm và phòng Nghiên cứu. * Các phòng ban chức năng: + Phòng Tài vụ - Kế toán: Trực thuộc giám đốc, có nhiệm vụ thu thập, xử lý và cung cấp thông tin cần thiết về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cho giám đốc cũng như các phòng ban khác có liên quan. + Phòng Tổ chức Hành chính: Trực thuộc Giám đốc, giúp Giám đốc trong công tác tổ chức quản trị nhân sự và phụ trách các vấn đề phúc lợi. + Phòng Kỹ thuật: Do Phó giám đốc khoa học - công nghệ trực tiếp phụ trách, có chức năng theo dõi toàn bộ quá trình sản xuất của Xí nghiệp, chỉ đạo về các vấn đề kỹ thuật cho các phân xưởng hay bộ phận sản xuất. + Phòng Kiểm nghiệm: Có nhiệm vụ kiểm tra chất lượng, hàm lượng nguyên liệu khi đưa vào pha chế cũng như kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi đem đi tiêu thụ. + Phòng Kinh doanh: Có chức năng lập kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đàm phán ký kết các hợp đồng với khách hàng và thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác. + Phòng Marketing: Có chức năng thực hiện các kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, cung cấp các thông tin về nghiên cứu thị trường để lập kế hoạch sản xuất kinh doanh sản phẩm. + Phòng nghiên cứu: Chuyên nghiên cứu các vấn đề liên quan đến kỹ thuật sản xuất như nghiên cứu về tá dược, nghiên cứu về tiến bộ kỹ thuật nhằm rút ngắn thời gian sản xuất, nghiên cứu việc ứng dụng khoa học công nghệ nhằm tạo ra các sản phẩm mới có chất lượng cao. Ngoài ra, còn một số phòng ban khác làm nhiệm vụ bảo đảm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp như: phòng Bảo vệ, phòng Đời sống. Sơ đồ bộ máy quản lý của Xí nhiệp Dược phẩm Trung Ương I như sau: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp Dược phẩm TWI Giám đốc Phân xưởng sản xuất thuốc tiêm Phó giám đốc sản xuất Phó giám đốc kinh doanh Phó giám đốc khoa học công nghệ Phòng kế toán Phòng tổ chức Phân xưởng sản xuất thuốc viên Phân xưởng sản xuất thuốc kháng sinh tiêm Phân xưởng cơ điện Phòng Kinh doanh Phòng Marketing Phòng Kỹ thuật Phòng Kiểm nghiệm Phòng Nghiên cứu 2.3. Một số nguồn lực chủ yếu của xí nghiệp 2.3.1. Vốn và công nghệ Tổng vốn của Xí nghiệp Dược phẩm TWI tính đến tháng12/2002 là 57.990.998.591 đồng. Trong đó vốn lưu động chiếm 67,47% trong tổng vốn và vốn cố định chiếm 32,53%. Trước đây máy móc thiết bị của xí nghiệp rất đa dạng, cả thô sơ lẫn hiện đại, nhiều kiểu, nhiều chủng loại khác nhau và được hình thành từ nhiều nguồn nên rất thiếu tính đồng bộ. Hiện nay, do cạnh tranh về chất lượng sản phẩm đã thúc đẩy xí nghiệp mua sắm thêm máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, dần dần tự động hoá trong sản xuất. Quy trình công nghệ sản xuất của xí nghiệp cũng được đổi mới, hoàn thiện. Từ kỹ thuật chủ yếu là dựa trên các loại thiết bị nhỏ, thủ công của phòng thí nghiệm, đến nay đã phát triển thành công nghệ bào chế hoàn chỉnh. Các phân xưởng sản xuất được trang bị máy móc tương đối hiện đại với dây chuyền công nghệ sản xuất khép kín. Hoạt động sản xuất của xí nghiệp được thực hiện ở ba phân xưởng sau: Một dây chuyền công nghệ sản xuất thuốc viên Một dây chuyền công nghệ sản xuất thuốc tiêm Một dây chuyền công nghệ sản xuất thuốc kháng sinh Trong mỗi phân xưởng lại có các loại máy chuyên dụng khác nhau. Mỗi loại phục vụ cho một dây chuyền sản xuất sản phẩm riêng. Quy trình sản xuất của mỗi loại sản phẩm mặc dù không giống nhau nhưng xét về thứ tự công việc thì đều trải qua các công đoạn như sau: + Nguyên liệu sau khi xuất kho sẽ được kiểm tra chất lượng theo các tiêu chuẩn quy định rồi mới chuyển sang công đoạn pha chế. Sau khi pha chế xong, bán thành phẩm của giai đoạn này được kiểm tra lại nhằm đảm bảo đầy đủ yếu tố về tỷ lệ, thành phần, các tính chất cần thiết. Các bước kiểm tra này đều do phòng kỹ thuật tiến hành thông qua các cán bộ của phòng tại từng phân xưởng. + Sau giai đoạn pha chế, kiểm nghiệm, các loại thuốc mới được đập viên, đóng ống theo từng loại. Sau khi được trình bày xong các loại thuốc này đều được kiểm tra về mặt lý, hoá sinh thông qua các tiêu chuẩn như: độ tan, độ cứng, độ bóng, độ bông, độ sơ…các công đoạn kiểm tra này đều do phòng kiểm nghiệm tiến hành trên dây chuyền kiểm tra đồng bộ. Cuối cùng là công đoạn đóng hộp, đóng lọ, ép vỉ, phân ống và trình bày sản phẩm. Sơ đồ sau đây mô tả quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của xí nghiệp: Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của phân xưởng sản xuất thuốc viên NL chính Pha chế Đập viên Đóng chai Trình bày Kiểm tra Bao bì Sấy rửa Hấp sấy, tiệt trùng Tiêu thụ Nhập kho thành phẩm Chai lọ Tẩy rửa Hấp sấy Đóng ống Hàn ống Soi ống Nguyên liệu Pha chế Tiêu thụ Nhập kho Kiểm tra Trình bày In ống Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của phân xưởng sản xuất thuốc tiêm là kháng sinh 2.3.2. Lao động Nhận thức được vai trò của nguồn lực lao động, Xí nghiệp Dược phẩm TWI luôn luôn củng cố đội ngũ lao động của mình thông qua đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho lao động và tuyển dụng thêm lao động mới. Vì vậy, chất lượng lao động ngày càng được nâng cao, với tổng số lao động hiện có là 585 người, trong đó 58 người lao động ký kết hợp đồng theo mùa vụ. Đối với ngành dược, sản phẩm không cho phép có phế phẩm và luôn phải đảm bảo độ chính xác tuyệt đối, vì vậy đòi hỏi người lao động không những phải có trình độ mà còn cần phải có sự cần cù, tỷ mỉ, trách nhiệm, và chuyên tâm. Với tổng số 585 lao động của xí nghiệp hiện nay thì 100 người có trình độ đại học ( chiếm 17,1% trong tổng số lao động của xí nghiệp), trung cấp 105 người (chiếm 18,15% trong tổng số) và 380 người là công nhân ( chiếm 64,75% trong tổng số). Thực trạng trên cho thấy trình độ đội ngũ lao động của Xí nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất của ngành này 2.3.3. Nguyên vật liệu Do đặc tính riêng có của ngành nghề sản xuất kinh doanh nên số lượng, chủng loại, chất lượng vật tư, nguyên liệu là yếu tố được xí nghiệp quan tâm hàng đầu nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra thường xuyên liên tục. Để sản xuất ra hơn 150 mặt hàng xí nghiệp cần rất nhiều các loại hoá chất và tá dược khác nhau, phần lớn các loại nguyên liệu là đắt đỏ, quý hiếm và phải nhập khẩu từ một số nước Châu âu và Châu á như: Pháp, Thuỵ sỹ, áo, ấn Độ… ý thức được rằng việc lựa chọn người cung ứng cũng rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh, qua hơn 50 năm tồn tại và phát triển, Xí nghiệp luôn thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với những nhà cung ứng của mình . Đó là các doanh nghiệp trong và ngoài nước như Công ty Dược TWI, TWII, Traphaco… Đây là những bạn hàng luôn đảm bảo khả năng cung ứng nguyên vật liệu đầy đủ, kịp thời và đạt chất lượng tốt với giá cả hợp lý. 3. Vị thế của xí nghiệp trên thị trường Xí nhiệp Dược phẩm TWI là một trong những xí nghiệp lớn nhất của ngành dược Việt Nam có tổng doanh thu năm 2001 là 163,23 tỷ đồng chiếm 5% thị phần của ngành ( Chỉ đứng sau Xí nghiệp Dược Hậu Giang có mức doanh thu 180 tỷ và Xí nghiệp Dược TW 24 có mức doanh thu 170 tỷ ). Lợi thế của xí nghiệp Dược phẩm Trung Ương I là một trong những xí nghiệp có lịch sử phát triển lâu đời, sản phẩm có uy tín, có truyền thống và được người dân cả nước biết đến, được Nhà nước ưu đãi. Hiện nay xí nghiệp là một trong những doanh nghiệp có công nghệ hiện đại nhất trong ngành dược Việt Nam và có đội ngũ lao động chuyên môn, có trình độ và kinh nghiệm. Đây là những điểm mạnh của xí nghiệp so với một số đối thủ của mình. Nhưng điểm yếu của xí nghiệp là: hệ thống phân phối không đều và kém hiệu quả, thị trường đầu ra còn nhỏ bé, thị trường xuất khẩu hầu như chưa có . Vì vậy, để củng cố vị thế của mình trên thị trường thì xí nghiệp cần có các biện pháp thúc đẩy nhanh việc tiêu thụ sản phẩm bằng nhiều cách khác nhau ví dụ như chính sách giá cả để cạnh tranh, hoặc có các hình thức như giảm giá , chia nhỏ sản phẩm , chính sách tín dụng ưu đãi… Ngoài việc cạnh tranh với các đối thủ lớn thì việc hợp tác cũng không kém phần quan trọng để nâng cao vị thế cạnh tranh của thị trường hai bên bằng cách phân chia thị trường , hợp tác trong việc cung ứng nguyên vật liệu, để từ đó hạ giá thành sản phẩm, tăng lượng hàng bán ra trên thị trường II. hoạt động sản xuất kinh doanh và hiệu quả của xí nghiệp trong thời gian (1998 -2002) 1.Tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp thời kỳ (1998 - 2002) 1.1. Động thái về nhân lực và vốn Vốn và nhân lực là hai yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, muốn tối đa hoá lợi nhuận thì xí nghiệp phải sử dụng yếu tố đầu vào này một cách hiệu quả. Trước hết ta phân tích tình hình lao động của xí nghiệp. Động thái về nhân lực. Trong nền kinh tế thị trường, số lượng người lao động được sử dụng trong một doanh nghiệp phụ thuộc vào mức sản lượng của doanh nghiệp, mà mức sản lượng phụ thuộc khá nhiều vào cầu của thị trường về sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Tình hình sử dụng lao động của xí nghiệp được trình bày ở bảng dưới đây. Bảng 1: Tình hình lao động làm việc ở xí nghiệp thời kỳ (1998 - 2002) Đơn vị : người Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng số lao động 537 550 558 570 585 Tăng so với năm trước 2,42% 1,45% 2,15% 2,63% Hợp đồng dài hạn 497 506 510 514 523 Tỷ lệ trong tổng số 92,55% 92% 91,4% 90,2% 89,4% Hợp đồng ngắn hạn 40 44 48 56 62 Tỷ lệ trong tổng số 7,45% 8% 8,6% 9,8% 10,6% Qua bảng trên ta thấy lực lượng lao động của xí nghiệp trong những năm qua luôn có sự gia tăng. Mặc dù lượng lao động gia tăng hàng năm gồm cả người làm theo hợp đồng dài hạn và người làm theo hợp đồng ngắn hạn nhưng tỷ trọng lao động hợp đồng ngắn hạn trong tổng số lao động có xu hướng ngày càng gia tăng và ngược lại hợp đồng dài hạn của xí nghiệp ngày càng có xu hướng giảm tỷ trọng trong tổng số. Đây cũng là một xu hướng tiến bộ trong sử dụng nguồn nhân lực của xí nghiệp vì lao động trong ngành dược là lao động theo mùa vụ nên xí nghiệp sử dụng hợp đồng ngắn hạn sẽ tiết kiệm được tiền lương, đồng thời hạ giá thành sản phẩm. Bảng 2: Cơ cấu lao động dựa theo trình độ đào tạo của xí nghiệp năm (1998 - 2002) Đơn vị: người Trình độ 1998 1999 2000 2001 2002 Đại học 81 86 88 95 100 Tỷ lệ trong tổng số 15,07% 15,63% 15,84% 16,68% 17,1% Trung cấp 87 92 95 102 105 Tỷ lệ trong tổng số 16,18% 16,73% 17% 17,9% 18,15% Công nhân 369 372 375 373 380 Tỷ lệ trong tổng số 68,75% 67,64% 67,16 65,42% 64,75% Bảng cơ cấu lao động trên cho ta thấy bắt đầu có xu hướng gia tăng số lao động có trình độ. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên tính đến năm 2002 là 100 người chiếm 18,15% trong tổng số lao động. Nhưng tỷ lệ này còn thấp so với nhu cầu của xí nghiệp. Đặc biệt tỷ trọng lao động chưa qua đào tạo cơ bản tuy có xu hướng giảm nhưng vẫn chiếm hơn 64,75% (tính đến năm 2002), trong đó chỉ có 50% là được đào tạo qua các lớp sơ cấp dược và trung cấp ngắn hạn, còn cơ bản là chưa được qua đào tạo. Đây là một trong những nguyên nhân cản trở việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm của xí nghiệp. Vì vậy trong thời gian tới xí nghiệp nên chú trọng trong công tác đào tạo đội ngũ lao động này để ngày càng hoàn thiện đội ngũ lao động này trong xí nghiệp. Trong công tác sử dụng lao động, xí nghiệp đã bố trí sắp xếp lao động hợp lý cho từng công đoạn sản xuất, áp dụng chế độ trả lương theo sản phẩm để khuyến khích người lao động nâng cao năng suất và tinh thần trách nhiệm đối với công việc. Hàng năm, xí nghiệp tổ chức những khoá học đào tạo, bồi dưỡng cho công nhân viên và tổ chức thi nâng cao tay nghề. Những cán bộ quản lý và những người làm công tác kỹ thuật thì hàng năm được gửi vào các trường đào tạo về chuyên môn và quản lý ở trong nước và ngoài nước. Động thái về vốn của xí nghiệp. Vốn là nguồn lực không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bảng sau đây cho biết tình hình biến động vốn của Xí nhiệp Dược phẩm TWI trong thời gian qua. Bảng 3: Động thái về vốn của xí nghiệp Đơn vị: VNĐ Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm2002 Vốn cố định 15.845.759.332 18.432.165.792 18.564.328.791 18.672.159.837 18.886.435.172 Tăng so với năm trước 16,32% 0,72% 0,58% 1,04% Tỷ trọng trong tổng vốn 30,31% 32,27% 32,37% 32,4% 32,53% Vốn lưu động 36.427.891.742 38.691.152.741 38.719.442.854 38.952.147.654 39.124.563.414 Tăng so với năm trước 6,22% 0,25% 0,41% 0,44% Tỷ trọng trong tổng vốn 69,69% 67,73% 67,63% 67,6% 67,47% Tổng vốn kinh doanh 52.273.651.074 57.126.318.533 57.355.771.645 57.624.307.491 57.990.998.591 Tăng so với năm trước 9,28% 0,4% 0,47% 0,64% Qua bảng ta thấy tổng vốn kinh doanh của xí nghiệp luôn có sự gia tăng cùng với sự gia tăng của sản lượng và doanh thu, điều này chứng tỏ xí nghiệp ngày càng mở rộng quy mô sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tốc độ gia tăng hàng năm của vốn cố định cao hơn tốc độ gia tăng của vốn lưu động vì thời gian qua xí nghiệp mua sắm máy móc thiết bị để ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm. Đặc biệt năm 1999 lượng vốn cố định tăng 16,32% do năm 1999 xí nghiệp đã mua một số lượng lớn máy móc thiết bị hiện đại của Pháp để thay thế một số máy móc đã quá cũ và lạc hậu. Lượng vốn lưu động của xí nghiệp chiếm một tỷ trọng tương đối lớn ( hơn 60 %) trong tổng vốn kinh doanh của xí nghiệp. Do quy mô sản xuất ngày càng mở rộng nên lượng vốn lưu động của xí nghiệp luôn có sự gia tăng, năm 1998 là 36,43 tỷ thì đến năm 2002 là 39,12 tỷ. Tuy vậy, tỷ trọng vốn lưu động trong tổng số vốn thì có xu hướng giảm do lượng vốn cố định tăng nhanh. 1.2. Tình hình thực hiện kế hoạch sản lượng và cơ cấu sản phẩm Bảng 4:Tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất về mặt giá trị Đơn vị: VNĐ Năm Giá trị sản lượng kế hoạch Giá trị sản lượng thực hiện Tăng (giảm) so với kế hoạch Tăng (giảm) về thực hiện so với năm trước 1998 95.000.000.000 98.762.159.844 3,96% 1999 110.000.000.000 117.854.429.763 7,14% 19,33% 2000 120.000.000.000 125.783.267.498 4,82% 6,73% 2001 140.000.000.000 145.978.624.352 4,27% 16,06% 2002 145.000.000.000 154.323.469.785 6,43% 5,72% (Theo thời giá năm 1998) Trong vòng 5 năm qua sản lượng sản xuất của xí nghiệp luôn vượt mức kế hoạch. Đặc biệt năm 1999 sản xuất vượt mức kế hoạch là 7,14% do xí nghiệp đã đổi mới một số máy móc thiết bị nên mức sản lượng thực hiện tăng so với năm 1998 là 19,33%. Sản lượng sản phẩm sản xuất của xí nghiệp qua các năm không ngừng tăng lên và tăng nhanh vào năm 2001 do trong năm này xí nghiệp áp dụng hình thức giao khoán theo sản phẩm và xí nghiệp đã đưa vào sử dụng một số máy móc thiết bị mới, hiện đại đạt tiêu chuẩn GMP ASEAN do đó đã góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho xí nghiệp. Hiện nay, xí nghiệp sản xuất trên 150 mặt hàng thuốc các loại gồm các loại sau: VitaminB1 các loại bao gồm ( 10mg, 25mg, 50mg…), Vitamin C các loại, VitaminB6 các loại, VitaminB12 các loại, Theophylin các loại , Cloxit các loại, Penicilincác loại, Ambicilin các loại….Dưới đây là một số sản phẩm chủ yếu của xí nghiệp có tỷ trọng doanh thu lớn. Bảng 5: Một số sản phẩm sản xuất chủ yếu của xí nghiệp Đơn vị: Nghìn đồng Mặt hàng Năm 2001 Năm 2002 Doanh thu Tỷ trọng Doanh thu Tỷ trọng Thuốc ống VitaminB1 10.872.159.643 7,12% 12.152.469.321 7,44% VitaminB6 9.421.164.397 6,17% 10.341.152.346 6,34% VitaminB12 7.124.356.469 4,67% 9.467.821.342 5,80% Novocain 5.982.154.330 3,92% 7.693.715.217 4,71% Penicilin 6.425.644.100 4,21% 6.427.321.102 3,94% Thuốc viên Vitamin B1 10.154.236.421 6,65% 11.123.465.784 6,81% Vitamin B6 8.172.224.567 5,35% 10.072.143.554 6,17% Penicilin 9.072.156.330 5,94% 9.854.761.536 6,04% Ampicilin 8.763.254.164 5,74% 9.648.321.902 5,91% Cloroxit 8.513.462.159 5,58% 8.637.549.327 5,29% Tổng 84.500.812.580 55,36% 95.418.721.431 58,45% Nhìn chung qua bảng cơ cấu sản phẩm sản xuất của xí nghiệp ta thấy tỷ trọng trong tổng doanh thu của các mặt hàng này về mặt giá trị thì vẫn tăng cùng chiều so với doanh thu. Điều này chứng tỏ trong những năm vừa qua xí nghiệp đã tập trung vào một số mặt hàng có doanh thu lớn của xí nghiệp._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9483.doc