Nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn lưu động tại Công ty lắp máy & thí nghiệm cơ điện

Mở đầu Những năm qua, Nhà nước ta đã thực hiện trao quyền chủ động rộng rãi trong hoạt động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước, nhằm giúp cho các doanh nghiệp từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, thích ứng được với xu thế hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ trong khu vực và trên thế giới. Tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp, cũng chính là góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, cùng với vi

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1124 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn lưu động tại Công ty lắp máy & thí nghiệm cơ điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệc tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp Nhà nước phải đối mặt với nhiều vấn đề thực sự khó khăn như: giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, quản lý và sử dụng vốn kinh doanh... Ngày nay, quản lý vốn là một trong những vấn đề được các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu. Vốn không chỉ là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại, dành thắng lợi trong cạnh tranh, mà còn là phương tiện giúp chủ sở hữu tăng trưởng về giá trị, là điều kiện tiên quyết cho các doanh nghiệp khẳng định được mình trong cơ chế mới. Đốvới hầu hết các doanh nghiệp hiện nay, sử dụng vốn một cách hiệu quả là một trong những bài toán khó đang cần tìm lời giải. Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện thuộc Tổng công ty Lắp máy Việt nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó. Công ty là một doanh nghiệp Nhà nước, hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Tuy nhiên, do đặc thù của công việc nên phần lớn vốn của Công ty là vốn lưu động. Hiện tại, Công ty đang có kế hoạch mở rộng hơn nữa hoạt động sản xuất kinh doanh, khuếch trương thị trường cả trong và ngoài nước. Vì vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động đang được ban lãnh đạo Công ty quan tâm hàng đầu. Xuất phát từ những suy nghĩ trên, sau một thời gian thực tập tại Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện, em quyết định chọn “ Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện" làm đề tài tốt nghiệp. Chuyên đề tập trung vào việc phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2002. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sư dụng vốn lưu động của Công ty trong thời gian tới. Chuyên đề gồm ba chương sau: Chương I : Công ty lắp máy& thí nghiệm cơ điện và những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty. Chương II: Thực trạng quản lý và sử dụng vốn lưu động của Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện trong thời gian qua. Phần III: Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở công ty Lắp máy và thí nghiệm cơ điện. Do trình độ còn hạn chế, thời gian thực hiện có hạn nên chuyên đề không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Vì vậy, em rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị trong công ty và tất cả các bạn để em hoàn thành chuyên đề đạt chất lượng tốt hơn. Chương 1 Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện và những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty. 1.1 Tổng quan về Công ty. Quá trình hình thành Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện là một Doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam. Công ty được thành lập theo quyết định / giấy phép số: 014A/BXD-TCLĐ ngày 27/01/1993 của Bộ xây dựng. Trụ sở chính của Công ty: 124 Minh Khai, quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội. Công ty hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng cơ bản theo chế độ quản lý kinh tế hiện hành. (Giấy phép hành nghề số 16/BX-DSXD do Bộ xây dựng cấp ngày 06/05/1993, giấy phép kinh doanh số 108853 do trọng tài kinh tế Hà Nội cấp ngày 17/06/1993.) Tiền thân của Công ty là Trung tâm nghiên cứu kỹ thuật và lắp máy, được thành lập ngày 19/01/1980. Nhiệm vụ chính của Trung tâm tập trung vào các hoạt động nghiên cứu kỹ thuật, thí nghiệm phục vụ cho hoạt động của các đơn vị làm nhiệm vụ lắp ráp, xây dựng thuộc Tổng công ty lắp máy. Năm 1993, theo xu hướng đổi mới và nhu cầu phát triển nền kinh tế đất nước, Trung tâm nghiên cứu kỹ thuật và lắp máy đã được đổi tên thành Xí nghiệp lắp máy và thí nghiệm cơ điện thuộc liên hiệp lắp máy Việt Nam (LILAMA). Nhiệm vụ của Xí nghiệp không chỉ nghiên cứu kỹ thuật mà còn mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác như: lắp máy điện nước và các thiết bị công nghệ; nhận thầu thi công các công trình công nghiệp, dân dụng; sản xuất kinh doanh vật tư, vật liệu và thiết bị phục vụ nhu cầu của các đơn vị xây dựng trong Tổng công ty và của thị trường. Đầu năm 1996, theo Nghị định 338/HĐBT của Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là Chính Phủ) về tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, Xí nghiệp được đổi tên thành Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện trực thuộc Tổng công ty lắp máy Việt Nam. Lĩnh vực kinh doanh Cùng với sự thay đổi tên doanh nghiệp là việc mở rộng, đa dạng hóa chức năng, nhiệm vụ của Công ty. Hiện nay, nhiệm vụ chính của Công ty bao gồm: + Các công việc xây lắp: Đào đắp đất đá. Thi công các loại móng thông thường. Xây lắp các kết cấu công trình. Lắp đặt thiết bị cơ, điện nước; thiết bị phòng cháy, chữa cháy; đường dây và trạm biến áp điện. Hoàn thiện xây dựng và trang trí nội thất công trình. Thi công lắp đặt thiết bị và kết cấu công trình công nghiệp và dân dụng có quy mô vừa và nhỏ. Xây lắp đường dây và trạm biến áp điện tới 35KV Gia công chế tạo, lắp đặt kết cấu, phụ kiện phi tiêu chuẩn bằng kim loại, các loại đường ống áp lực, các loại bồn bể chịu áp lực thuộc các loại công trình.... + Thí nghiệm kiểm tra chất lượng: Nhận thầu kiểm tra, hiệu chỉnh và thí nghiệm các thiết bị và hệ thống thiết bị được lắp đặt và các chỉ tiêu cơ - nhiệt - điện - áp lực - liên kết - khả năng chịu tải. Thí nghiệm, kiểm tra hiệu chỉnh hệ thống thiết bị điện, điều khiển, hệ thống truyền dẫn điện từ 35KV đến 500KV. Kiểm tra chất lượng mối hàn bằng phương pháp không phá hủy (X quang, tia gama, siêu âm, thử từ tính). + Liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước phù hợp với luật pháp và chính sách của Nhà Nước và sự phân cấp, ủy quyền của Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam... Có thể thấy rằng Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện là doanh nghiệp kinh doanh đa ngành, đầu tư vào nhiều lĩnh vực với nhiều phương thức khác nhau. Nhiệm vụ chủ yếu và cơ cấu tổ chức. Nhiệm vụ chủ yếu. Để góp phần vào quá trình CNH, HĐH, đưa đất nước bước qua giai đoạn quá độ tiến thẳng lên CNXH như Nghị quyết Trung ương (khoá VII) của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra, Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện đã xác định rõ hiệm vụ của mình như sau: Đi sâu nghiên cứu thị trường, ổn định và duy trì cũ, mở rộng thị trường mới, nhất là thị trường ở các tỉnh phía Bắc. Đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động trong Công ty, thực hiện phân phối theo lao động, tạo công ăn việc làm và chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ công nhân viên. Tăng cường đầu tư theo chiều sâu với mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động. Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nhằm mở rộng thị trường và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngoài lĩnh vực truyền thống của công ty là lắp đặt thiết bị cơ khí, điện, đo lường, điều khiển công ty sẽ chú trọng hơn tới việc phát triển lĩnh vực chế tạo các kết cấu thép và thiết bị phi tiêu chuẩn, thi công xây dựng các công trình. Đặc biệt chú trọng và mở rộng công tác thí nghiệm điện và kiểm tra mối hàn bằng phương pháp không phá huỷ. Cơ cấu tổ chức. Cơ cấu tổ chức của Công ty được khái quát theo sơ đồ sau: Giám đốc Phó giám đốc Kế toán trưởng Phòng kinh tế kỹ thuật Phòng thiết bị vật tư Phòng kế toán tài chính Các đội thi công lắp máy Các đội thi công ndt Các đội thi công thí nghiêm điện Phòng tổ chức hành chính Tổ thi công Tổ thi công Tổ thi công Tổ thi công Tổ thi công Tổ thi công Tổ thi công Tổ thi công Tổ thi công Bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức theo kiểu trực tuyến - chức năng có đặc trưng cơ bản là: vừa duy trì hệ thống trực tuyến giữa Giám đốc, các Phó giám đốc với các phòng ban; giữa Giám đốc với các đội trưởng, đồng thời kết hợp việc tổ chức giữa các bộ phận chức năng (các phòng ban). Kết quả sản xuất kinh doanh Bảng1: Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng doanh thu Mức tăng doanh thu Tốc độ tăng (%) 10646.42 8360.085 8699.32 -2286.335 339.235 -21.475 4.058 Lợi nhuận sau thuế Mức tăng Tốc độ tăng (%) 443.713 266.592 292.708 -177.121 26.116 -39.918 9.796 Tổng vốn Mức tăng Tốc độ tăng (%) 11227.813 10893.141 11249.338 -334.672 356.197 -2.980 3.269 Tổngthuế nộp NSNN Mức tăng Tốc độ tăng (%) 685.711 531.862 325.798 -153.849 -206.064 -22.436 -38.743 Số lđ bình quân(người) Mức tăng Tốc độ tăng (%) 300 230 296 -70 66 23.334 28.695 Thu nhập bình quân Mức tăng Tốc độ tăng (%) 14.788 15.168 14.754 0.38 -0.414 2.569 -2.729 Nguồn: Báo cáo tài chính các năm từ 2000 đến 2002 Qua các số liệu Bảng 1 cho thấy: Về doanh thu Doanh thu của Công ty biến động rất lớn qua các năm, so với năm 2000 năm 2001 giảm 2286.335 triệu đồng (21.475%). Năm 2002 so với năm 2001 tăng 339.235 triệu đồng (4.058%). Nguyên nhân giảm là do: năm 2001 là ảnh hưởng nhiều bởi những biến động trên thị trường xây dựng nên Công ty gặp không ít khó khăn trong giai đoạn này. Điển hình là những biến động của thị trường vật liệu xây dựng. Thực tế thị trường vật liệu xây dựng trong nước đã phát triển, nhưng do sự phát triển quá sôi động của thị trường xây dựng nên đã đẩy giá nguyên vật liệu lên cao, có nhiều loại nguyên vật liệu giá đã tăng tới 20% so với năm 2000 (*)(*) 1 Giá xi măng tăng 9,4%, cát xây dựng tăng 23%, đá đổ bê tông tăng 17%, gạch xây dựng loại A tăng 7,1%: Tác giả Nguyên Quân “ Lệch pha trong huy động đầu tư xây dựng cơ bản” Báo Đầu tư, số 127, ngày 28 tháng 10 năm 2001, trang 10. . Về lợi nhuận. Lợi nhuận sau thuế của Công ty biến động rất lớn cùng với sự biến động của doanh số. So với năm 2000 thì lợi nhuận sau thuế năm 2001 giảm 177.121 triệu đồng (39.918%). Nhưng sang năm 2002, nhờ có sự nỗ lực không ngừng của tập thể cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty mà lợi nhuận sau thuế của Công ty đã tăng lên. Năm 2002 so với năm 2001, số tiền tăng lên là 26.116 triệu đồng (9.796%). Về quản lý vốn. Tổng vốn tương đối ổn định qua các năm, năm 2000 là 11227.813 triệu đồng sang năm 2001 tổng vốn là 10893.141 triệu đồng. Tuy có giảm chút ít nhưng không đáng kể, lượng giảm tuyệt đối là 334.672 triệu đồng (2.980%). Năm 2002 tăng so năm 2001 là 356.197 triệu đồng (3.69%). Nguyên nhân vốn giảm chủ yếu là do trong quá trình hoạt động Công ty đã tiến hành thanh toán dần nợ dài hạn cho ngân hàng, thay vào đó là huy động nguồn tín dụng ngắn hạn nhưng số lượng chưa được là bao. Tổng vốn giảm do chủ yếu là vốn cố định giảm mạnh, trong khi đó thì vốn lưu động tăng chậm, mặc dù vốn lưu động chiếm đa phần trong tổng nguồn vốn Về số nhân sự Tổng số lao động hàng năm của Công ty giao động trên dưới 300 người, trong đó chiếm hơn một nửa là lao động thuê ngoài theo mùa vụ. Cụ thể, tổng số lao động năm 2000 là 300 người, năm 2001 là 230 người và năm 2002 là 296 người. Năm 2001 so với năm 2000 là 70 người (23,334%), nguyên nhân của việc giảm đột xuất này là do tình hình khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty: việc làm ít, hợp đồng ký nhưng chưa thực hiện... Điều này bắt buộc Công ty phải giảm một số lao động thời vụ ở những đơn vị, bộ phận không cần thiết nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty có hiệu quả. Sang năm 2002 tình hình bình ổn trở lại, Công ty lại thuê thêm lao động, lượng lao động của Công ty lại tăng lên 66 người (28.695%) so với năm 2001. Về thu nhập cán bộ công nhân viên Công ty. Về thu nhập bình quân, qua các năm 2000, 2001 và 2002 biến động không đáng kể, thu nhập bình quân đầu người duy trì ở mức tương đối cao (1-1.2 triệu đồng/ người /tháng). Cụ thể, năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là 380000 đồng/ người/ năm (2.569 %), nhưng đến năm 2002 lại giảm so với năm 2001 là 414000 đồng/ người/năm (2.729%), thêm vào đó, Công ty luôn thực hiện trả lương đúng hạn cho người lao động. Mức thu nhập bình quân đầu người như trên là tương đối cao nhưng để đảm bảo cho người lao động dồn hết tâm huyết của họ vào công việc thì Công ty nên có những chính sách thoả đáng làm đòn bẩy thúc đẩy người lao động. Một khi người lao động tâm huyết với nghề thì sự đi lên của của Công ty là điều tất yếu. Về thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Do gặp những khó khăn chung trên nên cùng với sự giảm sút của doanh số thì số thuế mà Công ty đóng góp vào ngân sách nhà nước cũng bị giảm đáng kể. Tổng số thuế nộp ngân sách năm 2000 là 685.711 triệu đồng, các năm 2001 và 2001 con số này giảm xuống chỉ còn tương ứng là 531.862 và 325.798 triệu đồng. Như vậy, từ năm 2000 đến 2002 tổng số thuế nộp ngân sách của Công ty giảm tổng cộng gần 360 triệu đồng. Với quy mô như hiện nay, tuy chỉ là doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng với lực lượng lao động bình quân khoảng 300 người mỗi năm công ty tạo ra giá trị trên dưới 10 tỷ đồng. Thu nhập của cán bộ công nhân viên trong công ty ổn định ( 1- 1,2 triệu đồng/ tháng ) và có xu hướng ngày càng tăng, đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty ngày càng được cải thiện, luôn hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước. Đảm bảo hoàn thành kế hoạch của công ty và kế hoạch của Tổng Công ty giao cho. Tóm lại, tất cả những gì được trình bày trên đây phần nào cho thấy: Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện đã có sự lớn mạnh lớn mạnh không ngừng trong những năm qua. Hiện nay, công ty đang là một đơn vị làm ăn tương đối hiệu quả, có uy tín với khách hàng và đầy triển vọng phát triển trong tương lai về lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. 1.2 Một số nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty 1.2.1 Lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm Là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp, do đó cơ cấu vốn và tài sản của Công ty mang đặc trưng chung của ngành xây dựng. Thông thường, đối với một doanh nghiệp xây dựng vốn chủ yếu là vốn lưu động (vốn vật tư, tiền trả lương, trả lãi vay...). Giá trị vốn lưu động của Công ty phụ thuộc vào quy mô công trình mà Công ty thi công và do đó nhu cầu của vốn lưu động thay đổi theo giá trị công trình. Mặt khác, như chúng ta đã biết, một công trình xây dựng thường có thời gian thi công kéo dài trên một năm, Công ty phải huy động vốn ngắn hạn nhiều đợt làm tăng chi phí vốn và tăng giá thành công trình. Trong ngành xây dựng, việc tiêu thụ sản phẩm theo giá dự toán hoặc thoả thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu) nên tính chất không được thể hiện rõ (vì đã quy định giá cả, người mua, người bán tham gia hợp đồng xây dựng). Thêm vào đó, trong đấu thầu công ty phải chịu sức ép lớn từ nhiều đối thủ cạnh tranh trong ngành về giá thầu, tiến độ, công nghệ điều này lại gián tiếp tác động đến dự toán vốn của công ty. Sản phẩm xây lắp là các công trình xây dựng, vật kiến trúc... có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, có thời gian thi công kéo dài, đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán vốn lưu động cũng nhất thiết phải lập dự toán, trong quá trình xây lắp phải thường xuyên so sánh với dự toán thiết kế và thi công, lấy đó làm thước đo. Mặt khác sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất do đó phương tiện đi lại, thiết bị thi công, người lao động phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm, đặc điểm này làm cho các đối tác quản lý, sử dụng vốn vật tư và khấu hao rất phức tạp lại còn chịu ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết dễ mất mát hư hỏng. 1.2.2 Nguyên vật liệu Trong xây dựng cơ bản, nguyên vật liệu thường chiếm 70-80% giá trị công trình, do đó lượng vốn nói chung, vốn lưu động nói riêng phần lớn nằm trong giá trị nguyên vật liệu. Vì vậy, sử dụng và dự trữ nguyên vật liệu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Đặc điểm của nguyên vật liệu được sử dụng thường xuyên là khối lượng lớn, đa dạng về chủng loại nên khó dự trữ. Thông thường công ty chọn một số nhà cung cấp cố định nhằm đảm bảo nguồn cung ứng nguyên vật liệu ổn định đáp ứng tiến độ thi công, đồng thời có được nguồn tín dụng đáng kể trong kinh doanh. Hiện nay, Nhà nước đã ban hành các quy chế kiểm định chất lượng công trình đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng nguyên vật liệu theo đúng tiêu chuẩn quy định. Việc mua sắm nguyên vật liệu cho từng công trình được khoán gọn cho từng tổ đội, Công ty chỉ đưa ra các tiêu chuẩn chất lượng. Việc làm này tương đối hợp lý và linh hoạt vì nó gắn trách nhiệm của các đội thi công với chất lượng công trình vừa giảm thiểu chi phí phát sinh. Tuy nhiên, nếu không có sự quản lý tích cực của Công ty có thể dẫn đến những tiêu cực. 1.2.3 Khách hàng Khách hàng của Công ty tương đối đa dạng bao gồm các doanh nghiệp, các chủ đầu tư là doanh nghiệp xây dựng nhà nước và tư nhân. Mỗi khách hàng có khả năng tài chính khác nhau và yêu cầu về tiến độ cũng khác nhau do đó, các điều kiện thanh toán cũng khác nhau. Có khách hàng sẵn sàng ứng trước một phần giá trị công trình, có khách hàng chỉ chấp nhận thanh toán khi bàn giao công trình... Đối với từng loại khách hàng như thế công ty phải có những kế hoạch huy động và sử dụng vốn phù hợp. 1.2.4 Nguồn cung cấp tín dụng Công ty có hai nguồn cung cấp tín dụng chính là: Ngân hàng, nhà cung cấp vật tư. Đối với ngân hàng, Công ty phải chịu sức ép lớn về chi phí vốn và thời điểm đến hạn. Tuy nhiên, với chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất của Nhà nước hiện nay, các thủ tục vay vốn đã được giảm thiểu đáng kể do đó Công ty có nhiều điều kiện huy động vốn từ nguồn này. Cũng như các doanh nghiệp xây dựng khác, tín dụng nhà cung cấp có vai trò quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn đến sử dụng vốn trong Công ty. Tín dụng nhà cung cấp có thời hạn ngắn ( thường là dưới một năm ) nhưng lại có tính chất thường xuyên, liên tục như là một nguồn cung dài hạn. Qua loại tín dụng này, Công ty vừa đảm bảo nguồn cung ứng nguyên vật liệu ổn định, vừa lợi dụng nguồn vốn của người khác để kinh doanh. Có thể nói, trong cơ chế thị trường doanh nghiệp nào càng lợi dụng tốt nguồn vốn của người khác thì hiệu quả kinh doanh càng cao. Nói cách khác, doanh nghiệp nào thực hiện tốt chính sách chiếm dụng vốn thì doanh nghiệp đó có hiệu quả kinh doanh cao hơn. 1.2.5 Các chủ trương, chính sách của Nhà nước Các chính sách vĩ mô của Nhà nước có tác dụng rất lớn đến sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. Về chính sách thuế: Hiện nay Nhà nước ta đã áp dụng phổ biến tính thuế VAT tránh cho các doanh nghiệp phải chịu các khoản thuế chồng chéo, tuy nhiên đối với một doanh nghiệp xây dựng thì việc Nhà nước khống chế thời gian thu thuế trong khi không khống chế thời gian thanh toán của chủ đầu tư với nhà thầu sẽ gây bất lợi cho các doanh nghiệp xây dựng nói chung và Công ty nói riêng. Về chính sách trong ngành xây dựng: Nhà nước bắt buộc các nhà thầu xây dựng sau khi hoàn thành công trình bàn giao phải để lại 5% giá trị công trình bảo hành trong một năm mà giá trị này lại không được tính lãi, điều này gây thiệt hại cho Công ty, vì một lượng vốn khá lớn bị ứ đọng tại các công trình làm giảm vòng quay vốn lưu động, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động. chương 2 thực trạng quản lý và sử dụng vốn lưu động của Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện trong thời gian qua. Công tác quản lý vốn lưu động của Công ty Trước khi xem xét các nội dung quản lý vốn lưu động, ta cần chú ý tới kết cấu tài sản, nguồn vốn của Công ty trong thời gian vừa qua để thấy được khái quát tình hình tài sản, nguồn vốn trong Công ty. Kết cấu tài sản nguồn vốn của Công ty được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2: Kết cấu tài sản, nguồn vốn của Công ty. Đơn vị: triệu đồng Năm 2000 2001 2002 Chỉ tiêu Số tiền Tỷ trọng(%) Số tiền Tỷ trọng(%) Số tiền Tỷ trọng(%) I. Tổng tài sản 11227.813 100% 10893.191 100% 11249.338 100% 1.TSLĐ 9251.302 82.4 9439.772 86.7 10362.391 92.1 Tiền mặt 18.299 0.2 159.513 1.7 190.544 1.9 Phải thu 6910.867 74.8 6130.083 64.9 8201.917 79.1 Tồn kho 1676.441 18.1 1905.064 20.2 1503.856 14.5 Tài sản lưu động khác 645.695 6.9 1245.112 13.2 466.074 4.5 2.TSCĐ 1976.511 17.6 1453.419 13.3 886.947 7.9 II. Tổng nguồn vốn 11227.813 100 10893.191 100 11249.338 100 1. Nợ phải trả 7238.41 64.5 7032.097 64.6 7151.455 63.6 Nợ ngắn hạn 6817.139 94.2 6931.133 98.6 7151.455 100 Nợ dài hạn 421.271 5.8 100.964 1.4 0 0 Nợ khác 2.Nguồn vốn chủ sở hữu 3989.403 35.5 3861.094 35.4 4097.883 36.4 Nguồn: Bảng cân đối kế toán các năm từ 2000 đến 2002 Như vậy, qua xem xét kết cấu nguồn vốn, tài sản của Công ty chúng ta thấy có những đặc điểm: Các chỉ tiêu đều có sự tăng trưởng, có sự tích luỹ mở rộng vốn và tài sản sau mỗi năm. Công ty đã thực hiện tốt mục tiêu tăng trưởng, phát triển vốn và tài sản. Vốn lưu động chiếm một tỷ trọng lớn và ngày càng có xu hướng tăng cao: năm 2000 tỷ lệ này là 82%, tăng lên 87% vào năm 2001 và đến năm 2002 đã lên tới 92%. Điều này có thể giải thích là do đặc trưng chung của ngành xây dựng có giá trị tài tài sản lưu động luân chuyển chiếm tỷ trọng lớn, hơn nữa công ty chỉ mới đi vào hoạt động nên trong những năm đầu mức độ tích luỹ tài sản cố định thấp là đương nhiên. Qua phân tích trên chúng ta nhận thấy: cơ cấu vốn của Công ty là hợp lý, Công ty đã đầu tư vào đúng lĩnh vực kinh doanh của mình bằng cách đầu tư chủ yếu vào vốn lưu động và giảm tỷ lệ đầu tư vào vốn cố định. Tuy nhiên, trong khuôn khổ đề tài này hiệu quả sử dụng vốn lưu động mới là vấn đề chúng ta quan tâm hơn cả. Để có cơ sở cho việc quản lý vốn lưu động một cách hiệu quả chúng ta lần lượt xem xét các nội dung dưới đây: Nguồn vốn lưu động Việc xem xét nguồn hình thành vốn lưu động của Công ty đóng một vai trò quan trọng trong công tác quản lý vốn lưu động nói riêng và quản lý vốn nói chung. Tuỳ thuộc vào khả năng tài chính của doanh nghiệp, đặc điểm ngành nghề kinh doanh...mà mỗi doanh nghiệp có nhiều kênh huy động vốn khác nhau. Tuy nhiên, trên góc độ nguồn hình thành thì vốn lưu động nói riêng và vốn doanh nghiệp nói chung của mỗi doanh nghiệp thường được hình thành từ hai nguồn chính là: vốn đi vay và vốn chủ sở hữu. Kết cấu nguồn vốn lưu động của Công ty được thể hiện qua bảng sau: Bảng 3: Nguồn vốn lưu động của Công ty. Đơn vị: triệu đồng Thứ tự Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số tiền Tỷ trọng(%) Số tiền Tỷ trọng(%) Số tiền Tỷ trọng(%) 1 Nguồn vốn chủ sở hữu 2590.4 28 2454.3 26 3336.702 32.2 Vốn Tổng Công ty cấp 1304.4 14.1 1208.3 12.8 1409.3 13.6 Vốn tự bổ sung 601.33 6.5 594.7 6.3 704.64 6.8 Vốn – quỹ khác 684.6 7.4 461.52 6.9 461.52 11.8 2 Nguồn vốn vay 6660.9 72 6966.5 73.8 6994.602 67.5 Vay ngắn hạn 5097.5 55.1 5342.9 56.6 5616.4 54.2 Vốn chiếm dụng 1563.5 16.9 1623.6 17.2 1378.2 13.3 3 Vốn vay trung - dài hạn 0 0 18.879 0.2 31.087 0.3 4 Tổng nguồn vốn lưu động 9251.302 100 9439.772 100 10362.391 100 Nguồn: Bảng cân đối kế toán các năm từ 2000 đến 2002 Vốn lưu động của Công ty được hình thành từ hai nguồn chủ yếu là vốn vay và vốn chủ sở hữu. Trong đó nguồn vốn vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn và có xu hướng gia tăng. Năm 2000, vốn lưu động của Công ty là 9251,302 triệu đồng trong đó vốn chủ sở hữu là 2560,402 triệu đồng tương ứng 28% trong tổng vốn lưu động, số vốn vay là 6660,900 triệu đồng tương ứng 72%. Đến năm 2001, vốn chủ giảm chỉ còn 26% tương ứng với 2454,3 triệu đồng trong khi đó vốn vay tăng lên chiếm 73,8% tương ứng với số tiền là 6966,5 triệu đồng. Năm 2001 nhu cầu vốn lưu động của Công ty tăng cao trong khi quy mô, cơ cấu, hình thức huy động vốn ngắn hạn của Công ty không được mở rộng nhiều. Chính vì vậy, mà Công ty đã bị thiếu hụt trong nguồn tài trợ vốn ngắn hạn, buộc Công ty phải chủ trương tăng vốn chủ sở hữu để có thể đáp ứng được vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Mặc dù vốn lưu động của Công ty năm 2002 tăng khá cao nhưng tỷ lệ vốn vay lại có phần giảm sút trong tổng vốn lưu động. Năm 2002, vốn chủ sở hữu chiếm tới 32,2% tương ứng với số tiền là 3336,7 triệu đồng trong khi đó vốn vay chỉ chiếm 67,5% tương ứng với số tiền là 6994,6 triệu đồng. Thêm vào đó, kể từ năm 2001 Công ty đã sử dụng một phần nhỏ vốn vay trung và dài hạn để tài trợ cho vốn lưu động. Tuy lượng sử dụng không lớn, nhưng nếu Công ty không có biện pháp cân đối điều hoà thì sẽ gây lãng phí nguồn vốn này, vì thông thường chi phí cho việc huy động vốn vay trung và dài hạn là cao hơn nhiều so với vốn vay ngắn hạn. Những vấn đề cần quan tâm trong việc huy động vốn của Công ty: Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, không một doanh nghiệp nào có đủ vốn để tự kinh doanh, mà đều phải đi huy động từ nhiều nguồn khác nhau, có như vậy mới nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường. Với nguồn tài trợ cho vốn lưu động của Công ty chủ yếu là đi vay và chiếm dụng như hiện nay cũng là một dấu hiệu tốt, vì nguồn vốn này thủ tục đơn giản, dễ huy động, chi phí thấp. Tuy nhiên, Công ty cần hết sức quan tâm đến việc quản lý và sử dụng nguồn vốn này, vì ngoài việc mang lại một lợi ích to lớn thì nguồn vốn này cũng chứa đựng những rủi ro rất lớn, do vậy nếu Công ty không quản lý tốt rất dễ dẫn tới mất khả năng thanh toán, tăng hệ số nợ, giảm lợi nhuận dẫn đến giảm hiệu quả trong kinh doanh. Cơ cấu vốn lưu động Xem xét cơ cấu vốn lưu động trong Công ty sẽ giúp chúng ta thấy được khái quát hơn về vốn lưu động và có định hướng chính xác cho công tác quản lý từng yếu tố của vốn lưu động. Cơ cấu vốn lưu động của Công ty thể hiện qua bảng sau: Năm 2000, vốn lưu động từ các khoản phải thu chiếm tỷ trọng cao nhất là 74,701% tương ứng với số tiền là 6910,867 triệu đồng, tiếp theo là các vốn lưu động dưới dạng hàng hoá tồn kho chiếm 18,121% tương ứng với số tiền là 1676,441 triệu đồng, tài sản lưu động khác chiếm 6,98% tương ứng với số tiền là 645, 695 triệu đồng, lượng tiền mặt không đáng kể. Sang năm 2001, vốn lưu động từ các khoản phải thu tuy có phần giảm sút nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất là 64,938% tương ứng với số tiền là 6130,083 triệu đồng, vốn lưu động dưới dạng vật tư hàng hoá tồn kho tăng lên 20,181% tương ứng với số tiền 1905,064 triệu đồng, tăng đáng kể nhất là các loại tài sản lưu động khác 13,190 % tương ứng với số tiền là 1245,112 triệu đồng, cũng trong năm này lượng vốn lưu động bằng tiền mặt cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể là 1,689% tương ứng với số tiền là 159,513 triệu đồng. Năm 2002, vốn lưu động dưới dạng các khoản phải thu và tiền mặt có xu hướng tăng trở lại trong khi đó vốn lưu động dưới dạng vật tư hàng hoá tồn kho và tài sản lưu động khác có xu hướng giảm. Tỷ trọng vốn lưu động dưới dạng các khoản phải thu chiếm tới 79,150% tương ứng với số tiền là 8201,907 triệu đồng, vốn lưu động dưới dạng vật tư hàng hoá tồn kho chiếm 14,512% tương ứng với số tiền là 1503,856 triệu đồng, tài sản lưu động khác chiếm 4,497% tương ứng với số tiền là 466,074 triệu đồng, các khoản vốn lưu động bằng tiền mặt chiếm 1,838% tương ứng với số tiền là 190,544 triệu đồng. Để có thể thấy rõ hơn cơ cấu vốn lưu động chúng ta có thể xem xét qua biểu đồ cơ cấu vốn lưu động của Công ty dưới đây: Qua các số liệu trên đây cho ta thấy: mặc dù vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn nhưng đa phần lại nằm ở vật tư hàng tồn kho và các khoản phải thu của khách hàng. Điều này sẽ có tác động đến hiệu quả sử dụng vốn của công ty trên các mặt sau: - Tỷ trọng phải thu lớn điều này chứng tỏ Công ty đã bị giảm một lượng vốn đưa vào kinh doanh do bị khách hàng chiếm dụng. Trong điều kiện vốn chủ sở hữu bị hạn chế, vốn đi vay là chủ yếu chắc chắn Công ty sẽ gặp bất lợi. Vì vậy, Công ty cần có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác thu hồi công nợ tránh tình trạng nợ dây dưa, khó đòi của khách hàng để từ đó tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty. - Lượng tồn kho lớn chứng tỏ Công ty bị ứ động một lượng vốn lớn làm chậm vòng quay vốn lưu động. - Vốn bằng tiền tuy chiếm tỷ trọng rất nhỏ (1,6-1,8% ) nhưng lại có xu hướng tăng lên. Vốn bằng tiền tăng sẽ làm tăng khả năng thanh toán tức thời của Công ty. Tuy nhiên, xét về mặt hiệu quả thì đây là một dấu hiệu không tốt bởi vì tỷ lệ sinh lời trực tiếp của vốn lưu động bằng tiền sẽ trở nên thấp. Do vậy, Công ty không nên để tỷ trọng vốn bằng tiền tăng nhiều quá, vì điều này đồng nghĩa với tình trạng ứ đọng vốn, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong kinh doanh. - Nguồn vốn lưu động khác chủ yếu được dùng để tài trợ cho các khoản tạm ứng, văn phòng phẩm, công cụ dụng cụ, phục vụ quản lý và lại có xu hướng giảm dần. Đây là một dấu hiệu tốt, vì trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp chỉ thành công khi tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, mà một yếu tố quan trọng để hạ giá thành chính là tiết kiệm chi phí ngoài sản xuất như các khoản chi văn phòng, tiếp khách, quản lý. Do đó, trong những năm tới Công ty cần tiếp tục giảm các khoản chi phí này, tránh lãng phí vốn trong kinh doanh, sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty. Tóm lại, tỷ trọng vốn lưu động dưới dạng các khoản phải thu và hàng tồn kho lớn (trên 80%). Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty. Vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì Công ty cần phải tập trung vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng chính các khoản phải thu và vật tư hàng hoá tồn kho. Trong những năm tới, việc đầu tiên là Công ty phải cải thiện cơ cấu nguồn vốn lưu động theo hướng hợp lý hơn. Quy mô vốn lưu động Xem xét quy mô vốn lưu động trong Công ty sẽ giúp chúng ta thấy được tổng quan về vốn lưu động và là cơ sở cho việc định hướng chính xác cho công tác quản lý vốn lưu động. Quy mô vốn lưu động của Công ty được thể hiện qua bảng sau: Bảng 5: Quy mô vốn lưu động của Công ty. Đơn vị: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Vốn lưu động 9251.302 9439.722 10362.391 Mức tăng 188.42 922.669 Tốc độ tăng (%) 2.037 9.774 Nguồn: Báo cáo tài chính các năm từ 2000 đến 2002 Qua bảng 5 cho chúng ta thấy, quy mô vốn lưu động của Công ty trong những năm qua không ngừng tăng lên. Năm 2000 quy mô của vốn lưu động là 9251,302 triệu đồng. Sang năm 2001 do mặc dù gặp rất nhiều khó khăn chung trên thị trường xây dựng nhưng quy mô vốn lưu động vẫn không ngừng tăng cao so với năm 2000, lượng tăng tuyệt đối là 188,420 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ 2,037%. Nhân tố chính làm tăng vốn lưu động trong năm 2001 là do tăng tiền mặt, các khoản tồn kho và các khoản tài sản lưu động khác. Việc tăng vốn lưu động dưới các hình thức này cũng phần nào phản ánh một năm tài chính khó khăn của Công ty. Năm 2002, Công ty có những biệ._.n pháp điều chỉnh thích hợp, những khó khăn phần nào đã được khắc phục nên vốn lưu động của Công ty có xu hướng sáng sủa hơn so với năm 2001. Năm 2002 so với năm 2001 lượng tăng tuyệt đối là 922,669 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng là 9,74%, quan trọng hơn lượng tăng này lại tập trung chủ yếu vào tiền mặt và các khoản phải thu, trong khi đó các khoản tồn kho và tài sản lao động khác giảm một cách đáng kể. Để có thể thấy rõ hơn quy mô vốn lưu động của Công ty trong những năm qua chúng ta quan sát biểu đồ dưới đây: Mặc dù quy mô vốn lưu động của Công ty không ngừng được mở rộng nhưng vẫn chưa đáp ứng được vốn lưu động cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty. Số liệu dưới đây cho ta thấy mức độ đáp ứng nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh và thực tế đáp ứng nhu cầu vốn lưu động thường xuyên tại Công ty trong những năm qua: Bảng 6: Vốn lưu động thường xuyên của Công ty. Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 1. Nguồn vốn dài hạn 421.271 100.964 0 2. Tài sản cố định 1976.511 1453.419 886.947 3. VLĐ thường xuyên (3)=(1)-(2) -1555.24 -1352.455 -886.947 Nguồn: Báo cáo tài chính các năm từ 2000 đến 2002 Chúng ta thấy, vốn lưu động thường xuyên của Công ty luôn trong tình trạng âm, tức là Công ty có nguy cơ mất cân bằng thanh toán. Nói cách khác, nguồn vốn dài hạn không đủ để đáp ứng nhu cầu cho đầu tư dài hạn do đó Công ty phải sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư vào TSCĐ. Như vậy, nguồn vốn dài hạn thiếu để tài trợ cho tài sản cố định, phản ánh khả năng tài chính của công ty là không được tốt, Công ty luôn thiếu một lượng vốn lưu động thường xuyên để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của mình diễn ra ổn định và an toàn. Tuy nhiên, nếu xét trên góc độ đầu tư ta thấy nhu cầu và quy mô đầu tư vào tài sản cố định của công ty rất cao không tương xứng với quy mô và sự tăng trưởng của nguồn vốn dài hạn, điều này thể hiện rất rõ trên biểu là cột TSCĐ luôn ở mức rất cao. Lượng vốn lưu động thường xuyên quá thấp (luôn ở mức âm) chứng tỏ công ty đã có quá ít các nguồn dài hạn để trang trải cho các sử dụng dài hạn, thay vào đó Công ty phải sử dụng các khoản ngắn hạn dẫn đến khó khăn về vốn lưu động. Để rõ hơn chúng ta phân tích thêm nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của công ty thông qua bảng nhu cầu vốn lưu động dưới đây. Bảng 8: Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của Công ty. Đơn vị: triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 1. Nợ ngắn hạn 6817.139 6931.133 7151.455 2. Hàng tồn kho 1676.441 1905.064 1503.856 3. Các khoản phải thu 6910.867 6130.083 8201.917 4. Nhu cầu vlđ thường xuyên(4)=(2)+(3)-(1) 1770.169 1104.014 2554.318 Nguồn: Báo cáo tài chính các năm từ 2000 đến 2002 Ta thấy rằng, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của Công ty từ năm 2000 đến năm 2002 đều ở mức dương hay tồn kho và các khoản phải thu vượt quá nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, mức chênh lệch này không cao lắm năm, năm 2000 là 1770,169 triệu, đến năm 2002 là trên 2554,318 triệu đồng. Điều này chứng tỏ chỉ một phần rất nhỏ tài sản lưu động của Công ty đã được trang trải bằng các nguồn tài trợ dài hạn, dù có bất hợp lý nhưng vẫn đảm bảo nhiệm vụ kinh doanh của Công ty. Mặc dù vậy, Công ty vẫn cần có biện pháp giảm hàng tồn kho thu hồi các khoản nợ của khách hàng để bổ sung vào vốn kinh doanh hoặc đầu tư vào tài sản cố định. Bảo toàn và phát triển vốn lưu động Bảo toàn vốn lưu động mang tính sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp bảo toàn vốn lưu động là đảm bảo cho vốn cuối kỳ mua đủ một lượng vật tư hàng hoá tương đương với đầu kỳ ngay cả khi giá cả tăng lên. Là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, vấn đề bảo toàn vốn lại càng có ý nghĩa đối với hoạt động của Công ty. Chính vì vậy, Công ty luôn xác định rõ và thực hiện triệt để các biện pháp bảo toàn vốn nhằm đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty và đối phó được những biến động của thị trường, các biện pháp bảo toàn vốn lưu động mà Công ty thường áp dụng là: - Định kỳ 3 tháng tiến hành kiểm kê đánh giá lại toàn bộ vật tư, hàng hoá. - Những vật tư, hàng hóa tồn đọng không thể sử dụng được chủ động giải quyết nhanh để thu hồi lượng vốn lưu động bị mất. - Tìm biện pháp để loại trừ thua lỗ trong kinh doanh như: áp dụng công nghệ mới, tăng vòng quay của vốn lưu động. Nhờ áp dụng triệt để các biện pháp bảo toàn vốn và bảo toàn vốn lưu động mà Công ty đã thực hiện tốt mục tiêu tăng trưởng, có sự tích luỹ mở rộng tổng nguồn vốn và vốn lưu động sau mỗi năm. Cho nên, trong những năm qua tình trạng thiếu vốn kéo dài không xảy ra, lượng vốn lưu động cuối kỳ luôn đủ để có thể trang bị đầy đủ các loại nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, nhân công... cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Không những thế, Công ty còn thực hiện tốt công tác phát triển vốn lưu động, quy mô vốn lưu động không ngừng được mở rộng cùng với mở rộng tổng vốn kinh doanh. Cụ thể: năm 2001 do mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trên thị trường xây dựng nhưng quy mô vốn lưu động vẫn không ngừng tăng cao so với năm 2000, lượng tăng tuyệt đối là 188,420 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ 2,037%. Sang năm 2002 con số này còn cao hơn nhiều, năm 2002 so với năm 2001, lượng tăng tuyệt đối là 922,669 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng là 9,74% Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động Hiệu quả sử dụng vốn lưu động phản ánh mối quan hệ giữa kết quả thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh với số vốn lưu động đầu tư cho hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ. Với việc cụ thể hoá kết quả kinh doanh và sử dụng vốn lưu động bằng các chỉ tiêu sát thực, doanh nghiệp sẽ đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn lưu động một cách đúng đắn và khách quan. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động luôn gắn liền với lợi ích và hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc quản lý và sử dụng vốn lưu động kém hiệu quả sẽ làm tốc độ luân chuyển vốn chậm, hiệu quả sử dụng vốn thấp, nghiêm trọng hơn là dẫn đến thất thoát vốn, ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất, quy mô vốn giảm, làm chu kỳ sản xuất sau thu hẹp hơn so với chu kỳ trước, tình trạng trên nếu kéo dài liên tục thì chắc chắn doanh nghiệp không thể đứng vững được trên thị trường. Để tìm hiểu xem hiện nay Công ty đã sử dụng vốn lưu động có hiệu quả hay chưa chúng ta tiến hành xem xét một số khía cạnh sau: Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động Hiệu quả vốn lưu động được biểu hiện trước hết ở tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm, việc nâng cao tốc độ luân chuyển vốn lưu động có ý nghĩa to lớn. Nó chính là điều kiện cơ bản để tăng thu nhập, lợi nhuận, tiết kiệm vốn lưu động và cũng là nhiệm vụ cơ bản của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động được thể hiện bằng hai chỉ tiêu cơ bản là số vòng luân chuyển và thời gian trung bình một vòng luân chuyển. Số vòng luân chuyển vốn lưu động. V = Doanh thu thuần (trong kỳ) VLĐBQ Trong đó: V là số vòng luân chuyển của vốn lưu động trong kỳ VLĐBQ là số vốn lưu động bình quân trong kỳ Số vòng luân chuyển vốn lưu động phản ánh số lần luân chuyển vốn lưu động trong một thời kỳ nhất định thường tính trong một năm. Nói cách khác, chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn lưu động được đưa vào sản xuất kinh doanh sẽ tạo được bao nhiêu đồng doanh thu. Số lần luân chuyển càng lớn thì hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Thời gian trung bình một vòng luân chuyển. T = 360 = 360*VLĐBQ (ngày) V Doanh thu thuần (trong kỳ) Trong đó: T thời gian trung bình một vòng luân chuyển vốn lưu động. Số ngày trung bình của một vòng luân chuyển vốn lưu động phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay vốn lưu động, thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động càng ngắn thì càng tốt và ngược lại. Tại Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện tốc độ luân chuyển vốn lưu động được thể hiện qua bảng sau: Bảng 9: Tốc độ luân chuyển vốn lưu động của Công ty Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Vốn LĐBQ (triệu đồng) 9251.302 9439.722 10362.391 Doanh thu thuần (triệu đồng) 10646.420 8360.085 8699.32 Số vòng luân chuyển VLĐ (vòng) 1,150 0,886 0,839 Số vòng luân chuyển so với năm trước 0,264 0,047 Độ dài vòng luân chuyển (ngày) 313 407 429 Độ dài vòng luân chuyển so với năm trước 94 22 Nguồn: Báo cáo tài chính các năm từ 2000 đến 2002 Qua số liệu ở bảng 9 cho thấy, năm 2000 số vòng chu chuyển vốn lưu động của Công ty là 1,150 vòng tương đương với độ dài một vòng luân chuyển là 313 ngày. Năm 2001, vốn lưu động của Công ty quay được 0,886 vòng tương ứng với độ dài một vòng luân chuyển là 407 ngày. Tức là năm 2001 so với năm 2000 số vòng luân chuyển giảm 0,264 vòng tương đương với việc tăng độ dài một vòng luân chuyển là 94 ngày. Năm 2002, số vòng luân chuyển của vốn lưu động là 0,839 vòng tương ứng với độ dài một vòng luân chuyển là 429 ngày. Như vậy, năm 2002 so với năm 2001 số vòng luân chuyển giảm 0,47 vòng tương đương với việc độ dài một vòng luân chuyển tăng 22 ngày. Trong ba năm số vòng luân chuyển vốn lưu động không cao và có xu hướng giảm, mức cao nhất chỉ đạt 1,15 vòng trên một năm, cùng với đó là độ dài một vòng luân chuyển tăng, mức thấp nhất là 313 ngày (10,4 tháng). Hơn nữa, Công ty sử dụng một lượng lớn vốn lưu động là vốn đi vay vì vậy, chi phí vốn trong trường hợp này sẽ rất lớn và chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Việc tốc độ luân chuyển vốn lưu động của Công ty có chiều hướng xấu đi trong giai đoạn này là do tốc độ tăng của vốn lưu động cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của doanh thu. Bởi vì, mặc dù năm 2001 Công ty đã mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư thêm vốn lưu động, song tốc độ đầu tư vào vốn lưu động tăng nhanh hơn giá vốn hàng bán, việc tăng nhanh hơn này đã làm cho doanh thu tăng chậm hơn tốc độ tăng của vốn lưu động, điều này đồng nghĩa với số ngày của một vòng quay vốn lưu động trở nên dài hơn cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, việc số vòng luân chuyển như trên xét về góc độ khách quan có thể chấp nhận được. Bởi lẽ, năm 2001 là năm mà thị trường xây dựng phát triển mạnh mẽ, giá nguyên vật liệu trên thị trường biến động mạnh, có những loại nguyên vật liệu giá tăng tới 20%, trong khi những hợp đồng của Công ty được ký kết khi giá nguyên vật liệu còn thấp hoặc chưa tăng cao, bên cạnh đó trong năm 2001 Công ty ký kết được nhiều hợp đồng hơn, nên tại thời điểm cuối niên độ vẫn còn nhiều công trình và hạng mục công trình chưa được hoàn thành và bàn giao vì lẽ đó mà tài khoản lưu kho còn cao. Ngoài ra, để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty một cách toàn diện hơn ta cần kết hợp với kết quả phân tích nhóm chỉ tiêu sức sinh lời của vốn lưu động. Từ đó có những biện pháp tốt hơn trong quản lý và sử dụng vốn lưu động, tránh lãng phí, giảm chi phí, tăng lợi nhuận và hiệu quả sử dụng vốn lưu động, hiệu quả kinh doanh, đảm bảo tăng trưởng và phát triển của vốn trên cơ sở có hệ số sinh lời cao. Sức sinh lời của vốn lưu động Đây là nhóm chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng, là kết quả tổng hợp của một loạt các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của các bộ phận cấu thành vốn lưu động. Sức sinh lời được phản ánh qua hai chỉ tiêu: hệ số sinh lời và hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động. HSL = Lợi nhuận VLĐbq Hệ số sinh lời của vốn lưu động Trong đó: HSL : Hệ số sinh lời vốn lưu động VLĐbq : Vốn lưu động bình quân trong kỳ Hệ số sinh lời của vốn lưu động hay còn gọi là mức doanh lợi vốn lưu động phản ánh một đồng vốn lưu động đưa vào sản xuất kinh doanh có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số sinh lời vốn lưu động càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng có hiệu quả và ngược lại. HĐN = VLĐBQ Doanh thu thuần Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động: Trong đó: HĐN là hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động Chỉ tiêu này phản ánh số vốn lưu động cần có để đạt được một đồng doanh thu. Hệ số này tỷ lệ nghịch với chỉ tiêu sức sản xuất của vốn lưu động nên càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại. Tại Công ty lắp máy và thí nghiệm cơ điện, thực tế sức sinh lời của vốn lưu động trong những năm qua được thể hiện qua bảng sau đây: Bảng10 : Sức sinh lời của vốn lưu động của Công ty Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Vốn LĐBQ (triệu đồng) 9251.302 9439.722 10362.391 Doanh thu thuần (triệu đồng) 10646.42 8360.085 8699.32 LN ròng (triệu đồng) 951.383 809.691 633.368 Hệ số sinh lời của VLĐ 0.103 0.086 0.061 Hệ số đảm nhiệm của VLĐ 0.869 1.129 1.191 Nguồn: Báo cáo tài chính các năm từ 2000 đến 2002 Từ kết quả phân tích hai chỉ tiêu trên ta thấy, cả hệ số sinh lời và hệ số đảm nhiệm vốn lưu động đều không lấy gì làm khả quan: hệ số sinh lời thì liên tục giảm, trong khi đó hệ số đảm nhiệm lại liên tục tăng. Nói cách khác, càng ngày vốn lưu động của Công ty sử dụng càng kém hiệu quả. Vì vậy, trong thời gian tới Công ty cần quan tâm hơn tới công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động của mình, tránh tình trạng lãng phí vốn lưu động. Các chỉ số hoạt động Ngoài hai chỉ tiêu phản ánh tốc độ chu chuyển và sức sinh lời của vốn lưu động, để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động một cách toàn diện hơn chúng ta cần phải xem xét một số chỉ tiêu hoạt động sau đây: Các chỉ số về khả năng thanh toán Khả năng thanh toán của Công ty tốt hay xấu ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của Công ty. Bởi vậy, để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động không thể không đánh giá tình hình và khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán của Công ty được thể hiện qua một số chỉ tiêu như khả năng thanh toán chung, khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán tức thời. Hệ số thanh toán chung: CR = TSLĐBQ Tổng nợ ngắn hạn Trong đó: CR là hệ số thanh toán chung TSLĐBQ là tài sản lưu động bình quân Hệ số thanh toán chung phản ánh mối quan hệ giữa tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số này cho biết một đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được đảm bảo thanh toán bằng bao nhiêu đồng tài sản lưu động. Hệ số thanh toán chung cao sẽ phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp là tốt. Tuy nhiên, không phải hệ số này càng cao là càng tốt, vì khi đó có một lượng tài sản lưu động lớn bị tồn trữ, làm việc sử dụng tài sản lưu động không hiệu quả, vì bộ phận này không sinh lời. Do đó, tính hợp lý của hệ số thanh toán chung còn phụ thuộc vào từng ngành nghề, góc độ của người phân tích cụ thể. Thông thường tỷ số này chấp nhận được nếu lớn hơn hoặc bằng 2. Hệ số thanh toán nhanh: = TSLĐBQ - Hàng lưu kho Tổng nợ ngắn hạn QR Trong đó: QR là hệ số thanh toán nhanh Hệ số thanh toán nhanh đo lường mức độ đáp ứng nhanh của vốn lưu động trước các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số phản ánh khả năng thanh toán bằng tiền và các phương tiện có thể chuyển hoá nhanh thành tiền của doanh nghiệp. Cũng như hệ số thanh toán chung, độ lớn hay nhỏ của hệ số này còn tuỳ thuộc vào từng ngành nghề kinh doanh cụ thể thì mới có thể kết luận là tích cực hay không tích cực. Tuy nhiên nếu hệ số này quá nhỏ thì doanh nghiệp sẽ gặp phải khó khăn trong việc thanh toán công nợ. Thông thường nếu hệ số này lớn hơn hoặc bằng 1 là rất tốt, điều đó chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh và ngược lại. Hệ số thanh toán tức thời: Hệ số thanh toán tức thời = Tiền mặt Tổng nợ ngắn hạn Hệ số này phản ánh khả năng chi trả tức thời của doanh nghiệp đối với các khoản nợ khẩn cấp đòi hỏi phải thanh toán ngay. Nếu hệ số này cao thì doanh nghiệp có khả năng thanh toán rất nhanh và ngược lại. Nhưng nếu hệ số này quá lớn chứng tỏ doanh nghiệp có quá nhiều vốn nhàn rỗi, lãng phí dẫn đến không hiệu quả, nhưng nếu chỉ tiêu này mà quá thấp thì khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp là chưa tốt. Tuy nhiên, khó có thể nói cao hay thấp ở mức nào là tốt và không tốt. Vì nó còn phụ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh hoặc góc độ của người phân tích. Thông thường, nếu hệ số này lớn hơn hoặc bằng 1 tức là doanh nghiệp có khả năng thanh toán tức thời tốt. Thực tế khả năng thanh toán ở Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện những năm qua được mô tả ở bảng sau đây: Bảng 11: Khả năng thanh toán của Công ty. Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 TSLĐ 9251.302 9439.772 10362.391 Tiền mặt 18.299 159.513 190.544 Phải thu 6910.867 6130.083 8201.917 Tồn kho 1676.441 1905.064 1503.856 TSLĐ khác 645.695 1245.112 466.074 Nợ ngắn hạn 6817.139 6931.133 7151.455 Hệ số thanh toán chung 1.357 1.362 1.449 Hệ số thanh toán nhanh 1.111 1.087 1.239 Hệ số thanh toán tức thời 0.003 0.023 0.027 Nguồn: Báo cáo tài chính các năm từ 2000 đến 2002 Các số liệu bảng 11cho ta thấy: khả năng thanh toán của công ty là tốt. Chỉ tiêu khả năng thanh toán chung các năm đều lớn hơn 1 và có xu hướng tăng. Cụ thể, hệ số thanh toán chung các năm 2000, năm 2001, năm 2002 lần lượt là 1,357; 1,362 và 1,449. Có nghĩa là trong các năm này, một đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo lần lượt là 1,357; 1,362 và 1,449 đồng tài sản lưu động. Các con số này chứng tỏ tức các khoản nợ của Công ty hoàn toàn có thể được thanh toán bằng tài sản của Công ty, nếu tình trạng xấu xảy công ty không phải sử dụng tài sản cố định để thanh toán nợ. Trong ngắn hạn, Công ty có khả năng thanh toán các khoản nợ bằng chính tài sản lưu động mà không phải thanh lý tài sản cố định. Hệ số khả năng thanh toán nhanh cũng ở mức cao, hệ số khả năng thanh toán nhanh các năm 2000, 2001, 2002 lần lượt là 1,111; 1,087 và 1,239 điều này có nghĩa là trong các năm này, một đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo lần lượt là 1,111; 1,087 và 1,239 đồng tài sản lưu động dưới dạng tiền và các phương tiện có thể chuyển hoá nhanh thành tiền của doanh nghiệp. Các hệ số này đều lớn hơn 1 vì vậy, đối với các khoản nợ khẩn cấp đòi hỏi phải thanh toán ngay thì công ty vẫn có khả năng đảm bảo. Mặc dù chỉ số thanh toán nhanh năm 2001 có phần thấp hơn năm 2000 và năm 2002 những vẫn đảm bảo đều lớn hơn 1. Khả năng thanh toán nhanh của năm 2001 giảm so với năm 2000 là do lượng tồn kho tăng lên, đồng thời do giá trị sản lượng của công ty tăng cao trong năm 2001 nên nhu cầu về vốn lưu động cho công trình đòi hỏi công ty phải đẩy mạnh vay nợ. Hệ số khả năng thanh toán tức thời các năm 2000, 2001, 2002 lần lượt là 0,003; 0,023 và 0,027 điều này có nghĩa là trong các năm này, một đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo lần lượt là 0,003; 0,023 và 0,027 đồng tài sản lưu động dưới dạng tiền mặt. Các hệ số này đều rất nhỏ, điều đó có nghĩa là khả năng chi trả nợ ngắn hạn bằng tiền mặt của Công ty là rất kém, nó cũng chứng tỏ phần vốn bằng tiền chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng tài sản lưu động của Công ty. Vì vậy, khi phát sinh nhu cầu về tiền mặt với số lượng lớn Công ty sẽ không còn cách nào khác là phải đi vay ngắn hạn với lãi suất cao, dẫn tới tăng chi phí về vốn. Thực tế này đang xảy ra với hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Bởi vì, đối với một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng đòi hỏi thời gian thi công kéo dài, lượng dự trữ nguyên vật liệu sẽ lớn do đó vốn kinh doanh tập trung vào nguyên vật liệu dự trữ và giá trị công trình dở dang, vốn tiền mặt chiếm tỷ trọng nhỏ. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả các bộ phận cấu thành vốn lưu động. Việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động một cách khái quát trên tổng vốn lưu động mới chỉ cho ta biết được sự tăng, giảm và vấn đề quản lý sử dụng của tổng thể, chứ chưa cho ta biết được cơ cấu phân bổ, sử dụng của từng thành phần cấu thành nên vốn lưu động, chưa thấy việc sử dụng là hợp lý hay bất hợp lý của từng thành phần này. Để làm được điều đó ta cần đánh giá một cách chi tiết từng thành phần cấu thành lên vốn lưu động. Hơn nữa, việc xem xét từng thành phần kết cấu nên vốn lưu động sẽ giúp tìm ra nguyên nhân chính cho những tồn tại xảy ra trong công tác quản lý vốn lưu động. Việc đánh giá hiệu quả từng thành phần kết cấu nên vốn lưu động được thực hiện thông qua xem xét, đánh giá hai chỉ tiêu cơ bản là: Số vòng quay và thời gian của một vòng quay. = Doanh thu thuần Vốn bằng tiền + Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn Vòng quay tiền mặt Thời gian một vòng quay tiền = 360 (ngày) Vòng quay tiền Hiệu quả vốn tiền mặt Vòng quay tiền mặt là khoảng thời gian bắt đầu từ khi trả tiền mặt cho nguyên vật liệu và kết thúc khi thu được tiền mặt từ các khoản phải thu. Vòng quay tiền mặt phản ánh tốc độ chu chuyển của tiền mặt. Vòng quay tiền mặt càng lớn thể hiện rằng vốn của doanh nghiệp được sử dụng hiệu quả và ngược lại. Thời gian một vòng quay tiền càng ngắn thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt. Các doanh nghiệp luôn mong muốn có số ngày một vòng quay tiền mặt ngắn vì khi đó số vốn mà doanh nghiệp đưa vào sản xuất kinh doanh sẽ cho hiệu quả cao hơn từ đó sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để làm được điều đó buộc các doanh nghiệp phải có chính sách quản lý tín dụng cấp cho khách hàng chặt, đồng thời tăng khả năng chiếm dụng vốn của khách hàng. Thực tế vòng quay và thời gian vòng quay tiền mặt tại Công ty Lắp máy và Thí nghiệm cơ điện được mô tả ở bảng dưới đây: Bảng 12: Hiệu quả sử dụng vốn bằng tiền của Công ty TT Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1 Doanh thu thuần Triệu đồng 10646.420 8360.085 8699.320 2 Giá vốn hàng bán Triệu đồng 8328.431 6553.687 6679.841 3 Vốn bằng tiền Triệu đồng 18.299 159.513 190.544 Số vòng quay tiền Vòng 581.8 52.4 45.6 Thời gian một vòng quay tiền Ngày 0.618 6.869 7.885 Nguồn: Báo cáo tài chính các năm từ 2000 đến 2002 Vốn bằng tiền: Năm 2000 vốn bằng tiền là 18.299 triệu đồng (0,198%). Sang các năm sau đó giá trị vốn bằng tiền có tăng lên nhưnng vẫn vẫn chiếm một tỷ lệ rất thấp trong vốn lưu động. Năm 2001 vốn bằng tiền là 159,513 triệu đồng (1.689%), năm 2002 vốn bằng tiền là 190,544 triệu đồng (1,838%). Vốn bằng tiền tăng sẽ làm tăng khả năng thanh toán tức thời của Công ty. Tuy nhiên, xét về mặt hiệu quả tiền mặt thì đây là một dấu hiệu không tốt bởi vì tỷ lệ sinh lời trực tiếp của vốn lưu động bằng tiền là rất thấp. Do vậy, Công ty không nên để tỷ trọng vốn bằng tiền tăng quá nhiều, vì điều này sẽ gây nên tình trạng ứ đọng vốn, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong kinh doanh. Năm 2000, vòng quay tiền mặt của Công ty đạt 581.8 vòng, tức là trong năm này tiền mặt bỏ vào sản xuất kinh doanh và thu về được tổng cộng là 581,8 lần. Đây là một con số rất cao nhưng nó không phản ánh đúng lượng tiền thực của Công ty. Sang năm 2001 và 20002, số vòng quay của Công ty giảm mạnh xuống lần lượt là 52,4 và 45,6 vòng. Mặc dù có giảm nhưng số vòng quay tiền của Công ty là rất cao, hơn nữa con số này mới phản ánh đúng tình hình tiền mặt của Công ty. Thời gian một vòng quay tiền đo độ dài của một vòng quay tiền mặt nên khi số vòng quay tiền mặt giảm thì đồng nghĩa với việc thời gian của một vòng quay tiền mặt sẽ tăng. Năm 2000, số ngày bình quân một vòng quay tiền rất ngắn (0.618 ngày). Sang năm 2001 và năm 2002 số ngày bình quân một vòng quay tiền tăng lên lần lượt là 6.869 và 7.885 ngày. Mặc dù thời gian một vòng quay tiền có tăng nhưng nhìn chung thời gian một vòng quay tiền của Công ty là ngắn, chính điều này góp phần tăng hệ số phục vụ của vốn bằng tiền vào việc tăng doanh thu và lợi nhuận cho Công ty. Hiệu quả vốn phải thu. Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu thuần (vòng) Số dư bình quân các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = 360 (ngày) Vòng quay các khoản phải thu Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu của doanh nghiệp thành tiền mặt. Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thể hiện rằng doanh nghiệp thu hồi càng nhanh các khoản nợ và ngược lại. Kỳ thu tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để thu hồi các khoản phải thu. Kỳ thu tiền bình quân càng ngắn thể hiện chính sách thu hồi công nợ của doanh nghiệp có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu kỳ thu tiền bình quân mà quá ngắn nghĩa là phương thức tín dụng quá hạn chế, có thể sẽ làm ảnh hưởng không tốt đến quá trình tiêu thụ sản phẩm, bởi lẽ trong cơ chế thị trường hiện nay việc mua bán chịu là một tất yếu khách quan và khách hàng luôn mong muốn thời hạn trả tiền được kéo dài thêm. Thực tế vòng quay và thời gian vòng quay các khoản phải thu tại Công ty trong những năm gần đây được mô tả ở bảng dưới đây: Bảng 13: Hiệu quả sử dụng các khoản phải thu của Công ty TT Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1 Doanh thu thuần Triệu đồng 10646.420 8360.085 8699.320 2 Giá vốn hàng bán Triệu đồng 8328.431 6553.687 6679.841 3 Phải thu Triệu đồng 6910.867 6130.083 8201.917  4 Số vòng quay khoản phải thu Vòng 1.540 1.364 1.060  5 Kỳ thu tiền bình quân Ngày 234 264 340 Nguồn: Báo cáo tài chính các năm từ 2000 đến 2002 Các số liệu bảng 13 cho thấy: Số dư các khoản công nợ phải thu ở thời điểm cuối niên độ của Công ty các năm từ 2000 đến 2002 vẫn còn rất cao. Năm 2000 là 6910.867 triệu đồng chiếm 74,7% trên tổng vốn lưu động. So với năm 2000, các khoản phải thu năm 2001 của Công ty có giảm chút ít nhưng vẫn chiếm tỷ trọng rất cao trong vốn lưu động ( 64,9%) tương ứng với số tuyệt đối là 6130,083 triệu đồng, năm 2002 lại tăng lên thành 8201.917 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ 79.15% trên tổng vốn lưu động. Có thể thấy rằng, các khoản phải thu của Công ty chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng vốn lưu động. Điều đó chứng tỏ Công ty đã bị khách hàng chiếm dụng một lượng rất lớn vốn lưu động, Công ty sẽ bị giảm một lượng lớn vốn để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Cũng từ các số liệu của bảng 13 cho thấy, số vòng quay các khoản phải thu của Công ty có xu hướng giảm dần. Cụ thể, 2000 số vòng quay các khoản phải thu là 1.540 vòng có nghĩa là năm 2000 các khoản phải thu bỏ vào sản xuất kinh doanh và thu về chưa đến 2 lần. Sang các năm 2001 và 2002 con số này lại còn thấp hơn, năm 2001 và 2002 các khoản phải thu quay được lần lượt là 1.364 và 1.060 vòng. Số vòng quay các khoản phải thu thấp chứng tỏ hiệu quả công tác thu hồi các khoản nợ của Công ty là chưa tốt. Thời gian một vòng quay khoản phải thu (kỳ thu tiền bình quân) là chỉ tiêu đo độ dài của vòng quay các khoản phải thu, nên khi vòng quay các khoản phải thu giảm thì số ngày bình quân một vòng quay sẽ tăng. Năm 2002 kỳ thu tiền bình quân của Công ty tăng 106 ngày so với năm 2000 và tăng 76 ngày so với năm 2001, đưa số ngày cần thiết cho một lần thu hồi công nợ bình quân từ 234 ngày năm 2000 lên 264 ngày năm 2001 và 340 ngày năm 2002, việc kéo dài kỳ thu tiền bình quân sẽ làm số vốn lưu động bị khách hàng chiếm dụng tăng. Hiện nay ở Công ty để thu hồi được khoản phải thu, trung bình Công ty phải mất trên dưới 10 tháng, đây là một khoản thời gian rất dài, đành rằng Công ty là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản có thời gian thi công và thu hồi vốn dài hơn các loại hình doanh nghiệp sản xuất khác nhưng thời gian thu hồi công nợ lớn hơn nhiều so với quy chuẩn chung của ngành (*).*1 Quy chuẩn xây dựng Việt Nam, Ban hành theo quyết định số 682/BXD – CSXD ngày 14/12/1996 và quyết định số 439/BXD – CSXD ngày 25/9/1997 của Bộ trưởng Bộ xây dựng thì số ngày cần thiết để thu hồi các khoản thanh toán sau bàn giao công trình là từ 45 ngày đến 60 ngày, trong các trường hợp đặc biệt không vượt quá 90 ngày sau bàn giao công trình”. Là một dấu hiệu không tốt, trong thời gian tới Công ty cần nghiên cứu, áp dụng các biện pháp để đẩy nhanh tốc độ thu hồi công nợ. Số vòng quay các khoản phải thu giảm, số ngày bình quân trên một vòng quay tăng. Cả hai điều này chứng tỏ số vốn bị khách hàng chiếm dụng tăng. Như vậy trong thời gian tới Công ty cần phải chú trọng hơn nữa tới việc thu hồi các khoản phải thu, có biện pháp để thu hồi các khoản phải thu, tránh tình trạng vốn bị chiếm dụng lớn, ứ đọng vốn trong thanh toán làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán (vòng) Hàng lưu kho trung bình Số ngày bình quân của = 360 (ngày) một vòng quay hàng tồn kho Vòng quay hàng tồn kho Hiệu quả vốn vật tư hàng hoá tồn kho. Vòng quay hàng tồn kho phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản hàng tồn kho. Vòng quay hàng tồn kho càng lớn thể hiện các khoản tồn kho của doanh nghiệp ít. Thời gian quay vòng hàng tồn kho phản ánh số ngày trung bình của một vòng quay hàng tồn kho. Số ngày một vòng quay hàng tồn kho càng ngắn thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt bởi lẽ doanh nghiệp có giá trị hàng tồn kho thấp nhưng vẫn đạt được doanh số cao. Tuy nhiên, nếu hệ số vòng quay hàng tồn kho cao quá hoặc mức tồn kho thấp quá thì số ngày một vòng quay hàng tồn kho thấp nhưng cũng phản ánh lượng tiêu thụ hàng hoá sẽ bị hạn chế. Thực tế vòng quay và thời gian vòng quay vật tư hàng hoá tồn kho tại Công ty trong những năm gần đây được mô tả ở bảng dưới đây: Bảng 14: Hiệu quả sử dụng vốn vật tư hàng hoá tồn kho của Công ty. TT Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1 Doanh thu thuần Triệu đồng 10646.420 8360.085 8699.320 2 Giá vốn hàng bán Triệu đồng 8328.431 6553.687 6679.841 3 Vốn vật tư hàng hoá tồn kho Triệu đồng 1676.441 1905.064 1503.856  4 Số vòng quay Vòng 6.350 4.388 5.784  5 Thời gian bình quân vòng quay Ngày 57 82 62 Nguồn: Báo cáo tài chính các năm từ 2000 đến 2002 Qua các số liệu bảng 14 cho thấy: Cùng với sự mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thì quy mô vốn vật tư hàng hoá của Công ty cũng tăng theo. Năm 2000, vốn lưu động từ các khoản vật hàng hoá tồn kho chiếm 18,121% tương ứng với số tiền là 1676,441 triệu đồng. Sang năm 2001, tỷ lệ này tăng lên thành 20,181% tương ứng với số tiền 1905,064 triệu đồng. Năm 2002, vốn lưu động vật tư hàng hoá tồn kho có xu hướng giảm. Tỷ trọng vốn lưu động dưới dạng vật tư hàng hoá tồn kho chiếm 14,512% tương ứng với số tiền là 1503,856 triệu đồng. Điều này được đánh giá là tốt, vì khả năng phục vụ của vốn vật tư hàng hoá trong năm 2002 sẽ cao hơn năm 2000 đồng thời tỷ trọng vốn vật tư hàng hoá trên tổng vốn lưu động cũng giảm, làm lượng vốn của Công ty được đưa vào lưu thông tăng cao hơn, giảm lượng vốn bị ứ đọng trong khâu dự trữ. Qua các số liệu của bảng 14 cũng cho thấy: số vòng quay của vật tư hàng hoá có xu hướng giảm, năm 2000 vật tư hàng hoá quay được 6,350 vòng, con số này trong các năm 2001 và 2002 giảm xuống lần lượt là 4,388 và 5,784 vòng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0013.doc
Tài liệu liên quan