Nâng cao hoạt đông cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn chi nhánh Hà Nội

Tài liệu Nâng cao hoạt đông cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn chi nhánh Hà Nội: MỞ ĐẦU Ngày nay hoạt động ngân hàng đang không ngừng phát triển. Sự phát triển đó co thể nhận thấy trên tất cả các phương diện, từ sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ mới cho tới sự xuất hiện của các tập đoàn ngân hàng có quy mô toàn cầu được tạo ra từ làn song sáp nhập, hợp nhất. Tất cả nhưng diễn biến đó xảy ra nhanh hơn nhưng gì mà chúng ta biết. Mà nguồn lực tài chính từ các ngân hàng là một trong những yếu tố quan trọng nhất đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đặc biệt đối với... Ebook Nâng cao hoạt đông cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn chi nhánh Hà Nội

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1847 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hoạt đông cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Nguồn tài chính giúp các DNVVN nắm bắt được các cơ hội đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh. Nhưng việc tiếp cận các nguồn tài chính là một trở ngại lớn cho các DNVVN hiện nay bởi các DNVVN có quy mô nhỏ, vốn chủ sở hữu thấp, năng lực tài chính chưa cao, thiếu tài sản thế chấp, khả năng xây dựng các dự án có tính khả thi còn yếu, số liệu thông tin kế toán chưa đáng tin cậy…nên dưới con mắt của các nhà Ngân hàng, các DNVVN là những khách hàng có độ rủi ro cao. Tuy nhiên, các DNVVN lại được đánh giá là đối tượng khách hàng có tiềm năng lớn, trong những năm gần đây nhiều Ngân hàng thương mại (NHTM) đã không ngừng hoàn thiện và cung ứng nhiều sản phẩm dịch vụ dành riêng cho đối tượng khách hàng này. Việc hướng các sản phẩm dịch vụ vào DNVVN đặc biệt là các sản phẩm cho vay Doanh nghiệp đã đem lại cho các NHTM doanh số hoạt động không nhỏ, góp phần nâng cao vị thế cạnh tranh của hệ thống NHTM trên thị trường tài chính. . Do vậy: “Nâng cao hoạt đông cho vay đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Sài gòn chi nhánh Hà nội ”đã được em chọn làm đề tài nghiên cứu .Với kiến thức và nghiên cứu có hạn nên không thể tránh khỏi thiếu sót, em mong muốn nhận được những ý kiến phê bình, đóng góp quý báu của các thầy cô nhằm giúp em nâng cao trình độ hiểu biết về lý luận cũng như thực tiễn tốt hơn. Kết cấu của đề tài: Chương I: Phương pháp đánh giá hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Chương II. Thực trạng hiệu quả cho vay đối với các DNVVN tại SCB Hà nội. Chương III. Các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SCB Hà Nội Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình, chu đáo của Ths. Lê Hương Lan –là người trực tiếp hướng dẫn em , cũng như các cán bộ tín dụng tại Ngân hàng TMCP Sài gòn chi nhánh Hà nội đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Chương I: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM 1.1 NHTM và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Khái niệm NHTM Có nhiều quan điểm về ngân hàng thương mại Theo quan điểm của K. Marx, ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì quy định rằng: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ở Mỹ, ngân hàng thương mại được coi là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Ở Pháp, ngân hàng thương mại được quan niệm là xí nghiệp thường xuyên nhận tiền gửi của công chúng và sử dụng số tiền đó vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Ở Ấn Độ, thì ngân hàng thương mại được định nghĩa là: cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư. Tóm lại có thể nói rằng: Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng- đặc biệt là tiết kiệm, tín dụng, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. 1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM 1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn- hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại- đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn nợ: a) Vốn chủ sở hữu Để bắt đầu hoạt động ngân hàng chủ ngân hàng phải có một khối lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Nguồn vốn hình thành ban đầu Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, ngân sách nhà nước cấp vốn( vốn của nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, việc phát hành cổ phiếu cũng là một hoạt động huy động vốn, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể. Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do ngân hàng nhà nước quy định…Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết. Các quĩ Ngân hàng có nhiều quĩ. Mỗi quĩ có mục đích riêng. Trước tiên là quĩ dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp những tổn thất có thể xảy ra. Quĩ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát... Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu của ngân hàng( vốn bổ sung). b) Vốn nợ Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Nguồn tiền gửi bao gồm có tiền gửi thanh toán; tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội; tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các ngân hàng khác. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. Tiền vay Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm. Vay ngân hàng nhà nước Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ( Thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng nhà nước. Hình thức cho vay của NHNN là tái chiết khấu( hoặc tái cấp vốn). Vay các tổ chức tín dụng khác Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tím kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung và thay thế cho nguồn vay từ NHNN. Vay trên thị trường vốn Giống như các doanh nghiệp khác, các doanh nghiệp cũng vay mượn bằng các phát hành các giấy nợ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung dài hạn. vốn nợ khác loại này bao gồm nguồn vốn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác. 1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn Là tổ chức kinh doanh tiền tệ nên NHTM không chỉ huy động vốn mà còn phải sử dụng nguồn vốn đó sao cho có mức sinh lời lớn nhất. Sử dụng vốn như thế nào không chỉ có ý nghĩa với ngân hàng mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Các hoạt động sử dụng vốn của NHTM chủ yếu bao gồm: dự trữ, cho vay, đầu tư. Dự trữ Dự trữ hay còn gọi là ngân quỹ. Dự trữ của NHTM là những tài khoản có tính thanh khoản cao, được thiết lập nhằm duy trì khả năng chi trả và các yêu cầu khác của NHTM; bao gồm tiền mặt trong két, tiền gửi tại NHTW và tiền gửi tại các tổ chức tài chính khác. Dự trữ của NHTM là tài sản không sinh lời, song lại có tính thanh khoản cao, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên của NHTM, đồng thời giúp cho nền kinh tế ổn định, tránh cho nền kinh tế không bị rối loạn khi mà các NHTM không đáp ứng được yêu cầu chi trả. Cho vay Cho vay là việc mà ngân hàng sẽ đưa cho khách hàng một khoản tiền với cam kết hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là một hoạt động rất quan trọng của tín dụng. Ngân hàng không thể huy động vốn rồi để yên đó mà phải làm cho số vốn đó sinh lãi. NHTM có nhiều hoạt động để tạo ra lợi nhuận nhưng cho vay vẫn là hoạt động chủ yếu nhất. Trong hoạt động cho vay bao gồm nhiều phương thức cho vay: Thấu chi Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảnh thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi* Thời gian thấu chi*Số tiền thấu chi Cho vay trực tiếp từng lần Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Cho vay theo hạn mức Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Cho vay luân chuyển Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay trả góp Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn. Cho vay gián tiếp Ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức trung gian, như qua các nhóm sản xuất, hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ… Đầu tư Là một đơn vị kinh doanh tiền tệ cho nên NHTM là người nắm vững những thông tin cũng như tình hình kinh tế rõ nhất nên có thể nói các NHTM là người đầu tư có hiệu quả nhất. Các NHTM thường dùng vốn sở hữu của ngân hàng và các vốn dài hạn để đầu tư vào các công ty liên doanh, các dự án…; trở thành cổ đông của công ty cổ phần. Ở Việt Nam thì các NHTM chỉ được nắm giữ dưới 10% cổ phiếu của công ty. 1.1.2.3 Hoạt động trung gian Ngoài hoạt động cho vay các NHTM còn thực hiện một số nghiệp vụ trung gian nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho ngân hàng. Các nghiệp vụ trung gian như chuyển tiền, tư vấn đầu tư, môi giới đầu tư, uỷ thác, giải ngân… 1.2.3 Vai trò của NHTM Hoạt động của ngân hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. 1.2.3.1 Tích tụ, tập trung vốn và phân phối vốn hiệu quả Các ngân hàng thương mại thông qua chức năng trung gian tài chính của mình tích tụ, tập trung vốn, phân phối vốn có hiệu quả cho nền kinh tế, nâng cao đời sống xã hội, góp phần làm cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và ổn định. Đặc biệt đối với các nước mà thị trường chứng khoán chưa phát triển thì vai trò này của ngân hàng thương mại là rất quan trọng. Ngân hàng tham gia vào sự ổn định và phát triển của thị trường tài chính. Ngay cả những nước có thị trường chứng khoán phát triển, thì của ngân hàng cũng góp phần vào sự phát triển của thị trường tài chính thông qua các dịch vụ tư vấn đầu tư, cung cấp thông tin. 1.2.3.2 Chuyển thời hạn vốn NHTM có vai trò chuyển thời hạn vốn. Ngân hàng huy động vốn trong nền kinh tế, bao gồm nhiều loại vốn có thời hạn khác nhau như vốn ngắn hạn, trung và dài hạn. Sau đó khi cho vay trong nền kinh tế ngân hàng sẽ có những điều chỉnh linh hoạt về thời hạn để cho vay theo nhu cầu của nền kinh tế. Đây là một vai trò quan trọng của ngân hàng trong việc giải quyết sự lệch pha về các nguồn vốn trong nền kinh tế. 1.2.3.3. Cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng. Các dịch vụ tài chính mà NHTM thực hiện bao gồm dịch vụ uỷ thác và tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý. Đó là những dịch vụ đem lại rất nhiều lợi ích và giúp cho nền kinh tế năng động hơn. 1.2.3.4. Nâng cao hiệu quả sản xuất và lưu thông hàng hóa NHTM nâng cao hiệu quả sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thông qua các hoạt động của mình như nhận gửi, cho vay, thanh toán ... ngân hàng cung cấp toàn bộ thông tin cho nền kinh tế. Thông tin từ phía ngân hàng là những thông tin chính xác nhất. Do đó, ngân hàng đã tham gia vào việc kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế. Từ đó làm cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá đươc nâng cao. 1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò DNVVN trong nền kinh tế quốc dân 1.2.1 Khái niệm DNVVN - Khái niệm doanh nghiệp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (Theo Luật Doanh Nghiệp 2005) - Khái niệm DNVVN: Có thể nói, DNVVN là bộ phận doanh nghiệp rất quan trọng trong nền kinh tế Việt nam, đóng góp một phần đáng kể vào Ngân sách Nhà nước, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, tạo tốc độ tăng trưởng kinh tế…Các DNVVN là một bộ phận doanh nghiệp phong phú với đủ mọi loại hình doanh nghiệp từ Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác xã đến các Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ở nước ta DNVVN chiếm tỷ trọng tương đối cao, chiếm hơn 90% tổng số Doanh nghiệp của cả nước. Mặc dù chiếm tỷ trọng ưu thế nhưng hầu hết các DNVVN đều có quy mô nhỏ cả về vốn và lao động. Việc xác định quy mô DNVVN chỉ mang tính chất tương đối vì nó chịu tác động của các yếu tố như trình độ phát triển của một nước, tính chất ngành nghề và điều kiện phát triển của một vùng lãnh thổ nhất định hay mục đích phân loại doanh nghiệp trong từng thời kì nhát định. Tuy nhiên, DNVVN được định nghĩa một cách chung nhất là: DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ quy định của từng quốc gia. Ví dụ như Đài Loan, các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo có từ 1 tới 200 lao động được coi là DNVVN, trong khi các doanh nghiệp trong ngành thương mại- dich vụ có từ 1-50 lao động. Ở Nhật Bản, các DNVVN trong ngành sản xuất chế tạo có từ 1- 300 lao động và số vốn kinh doanh không vượt quá 300 triệu Yên, còn các DNVVN trong ngành thương mại - dịch vụ có số lao động không quá 100 người với số vốn kinh doanh không quá 100 triệu Yên. Ngược lại ở Mỹ chỉ có một tiêu chí xác định chung cho các DNVVN là số lao động không quá 500 người DNVVN ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động tuỳ theo quy định của Chính Phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 23/11/2001: DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. 1.2.2 Đặc điểm của DNVVN ở Viêt Nam Các DNNVV là các DN có quy mô vốn nhỏ và hầu hết hoạt động trong các ngành thương mại, dịch vụ sử dụng nhiều lao động. Cũng như các loại hình DN khác, DNNVV có những đặc điểm nhất định trong quá trình hình thành và phát triển. Có thể nhận thấy DNNVV có một số đặc điểm cơ bản sau: * Về các điểm mạnh: - DNNVV dễ khởi sự. Các DNNVV thường chỉ cần một lượng vốn ít, số lao động không nhiều, diện tích mặt bằng nhỏ với các điều kiện làm việc giản đơn đã có thể bắt đầu kinh doanh ngay sau khi có ý tưởng kinh doanh. DNVVN gần như không đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn ngay trong giai đoạn đầu. Khó khăn lớn đối với các DN là làm sao tạo được nguồn vốn kinh doanh, nhưng do tốc độ quay vòng vốn nhanh nên DNNVV có thể huy động vốn từ nhiều nguồn không chính thức khác nhau như bạn bè, người thân để đáp ưng cho nhu cầu vốn của mình. - Tính linh hoạt cao. Do hoạt động với quy mô nhỏ cho nên hầu hết các DNNVV đều rất năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường. Trong một số trường hợp các DNNVV còn năng động trong việc đón đầu những biến động đột ngột của thể chế, chính sách quản lý kinh tế xã hội cũng như các biến động trên thị trường. Nhờ tính năng động này mà các DNNVV dễ dàng tìm kiếm và gia nhập thị trừơng khi nhận thấy việc kinh doanh có thể thu nhiều lợi nhuận hoặc rút khỏi các thị trường khi công việc kinh doanh trở nên khó khăn và kém hiệu quả. Điều này đặc biệt quan trong đối với các nền kinh tế đang chuyển đổi hoặc các nền kinh tế đang phát triển như nước ta. - Có lợi thế trong việc duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống. So sánh hai loại hình doanh nghiệp lớn và DNVVN thì DNNVV có lợi thế hơn trong việc khai thác, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống. khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả những nguồn lực đầu vào như lao động, tài nguyên hay vốn tại chỗ của từng địa phương. Từ đó DNVVN từng bước trưởng thành và lớn mạnh. Mặt khác các DNVVN còn có nhiều lợi thế hơn các DN lớn trong việc nắm bắt kịp thời nhu cầu và thị hiếu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng, kết hợp với phương châm đa dạng hóa sản phẩm đã tạo ra nhiều loại hàng hóa và dịch vụ mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. - DNVVN có lợi thế về sử dụng lao động. Quan hệ lao động trong các DNVVN thường có tính chất thân thiện, gần gũi hơn so với các doanh nghiệp lớn. Do đó người lao động thường dễ dàng được quan tâm, động viên, khuyến khích hơn trong công việc. Đặc biệt là mối quan hệ gần gũi, thân thiện đó rất phù hợp với văn hóa của người Việt Nam. Với lợi thế trong việc khai thác các nguồn lực sẵn có của địa phương, DNVVN có những tác động tích cực trong việc tạo ra việc làm cũng như nâng cao đời sống vật chất và tình thần cho dân cư tại địa phương hoặc duy trì và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống. Bên cạnh đó, việc phát triển các DNVVN còn có lợi ích như giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, giảm sự các biệt giữa thành thị và nông thôn, qua đó cũng góp phần làm giảm tệ nạn trong xã hội. * Về các điểm yếu: _ Các DNVVN ở Việt Nam thường có công nghệ lạc hậu, thủ công. Hầu hểt các DNVVN ở Việt Nam đều sử dụng công nghệ lạc hậu từ 15-20 năm nên sản phẩm làm ra thường có giá trị công nghệ thấp, hàm lượng chất xám ít, giá trị thương mại và sức cạnh tranh kém so với sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tình trạng máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu đã và đang là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng nguyên nhiên vật liệu và ô nhiễm môi trường… Do chủ yếu tận dụng nguồn lao động tại địa phương với trình độ kỹ thuật tay nghề thấp nên khả năng tiếp cận với những công nghệ máy móc hiện đại là rất khó. Hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô vốn nhỏ, khả năng huy động vốn lại ít nên thường gặp khó khăn trong việc đầu tư đổi mới công nghệ và cũng hiếm có các chương trình đào tạo giúp nâng cao tay nghề cho lao động của doanh nghiệp. _Trình độ quản lý của chủ DNVVN bị hạn chế, thiếu thông tin trong khi đó lại khó có khả năng thu hút các nhà quản lý và lao động giỏi. Do khả năng tài chính có hạn, DNVVN thường gặp thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý tiên tiến cũng như ít có khả năng mua sắm những thiết bị hiện đại. Mặt khác phần lớn các DNVVN được thành lập do sự góp vốn của những người có vốn, khả năng quản lý của họ có hạn nên thường gặp lúng túng khi có biến động lớn trên thị trường. Các nhà quản lý doanh nghiệp chưa được đào tạo, thiếu sự hiểu biết đầy đủ về quản lý doanh nghiệp trong khi điều kiện hội nhập và cạnh tranh. Hơn nữa do quy mô sản xuất nhỏ, sản phẩm tiêu thụ không nhiều, các DNVVN khó có thể trả lương cao cho người lao động nên khó có khả năng thu hút được những người lao động có trình độ cao trong sản xuất kinh doanh và quản lý điều hành doanh nghiệp. _ Các DNVVN có năng lực tài chính thấp Vốn luôn là khó khăn lớn nhất đối với sự tăng trưởng của DNVVN. Khi mới thành lập, phần lớn các DNVVN thường gặp phải vấn đề về vốn. Các nhà đầu tư, các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ cho các doanh nghiệp này bởi các DNVVN chưa có uy tín trên thị trường cạnh tranh, chưa tạo lập được khả năng trả nợ. Vốn chủ sở hữu thấp, năng lực tài chính chưa cao, nếu chưa tạo dựng được uy tín bằng năng lực kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn thì doanh nghiệp rất khó tìm được người bảo lãnh cho mình trong quan hệ tín dụng. Vì thế DNVVN khó tiếp cận được vốn tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Muốn vay vốn được từ nguồn tín dụng của các ngân hàng thương mại thì các DNVVN phải tạo lập được dự án đầu tư có tính khả thi nhưng do trình độ, khả năng quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp thấp, khả năng dự báo trước những biến động của ngành, của nền kinh tế kém nên việc xây dựng các kế hoạch tài chính, phương án sản xuất kinh doanh khả thi của không ít DNVVN còn yếu trong khi dịch vụ tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp lại chưa phát triển. Mặt khác không ít các DNVVN lập báo cáo tài chính chưa rõ ràng, không minh bạch do yếu kém về quản trị doanh nghiệp nên các báo cáo tài chính không đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó vẫn còn những doanh nghiệp lập báo cáo chỉ để đối phó với cơ quan Thuế nên đã cố tình làm giảm khấu hao tài sản, tăng nợ…Một số doanh nghiệp còn làm trái chức năng, trái pháp luật, sử dụng giấy tờ giả để lừa cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xin hoàn thuế hoặc góp vốn liên doanh, liên kết…Do nguồn tài chính hạn hẹp, quá trình tích tụ và tập trung vốn thấp, khả năng xây dựng các dự án khả thi yếu, nhiều doanh nghiệp còn hoạt động kinh doanh theo thương vụ, không có chiến lược phát triển cụ thể nên mức độ rủi ro cao, trong khi các báo cáo tài chính không đủ sức thuyết phục do chưa chấp hành tốt công tác kế toán thống kê, một số doanh nghiệp chưa nhận thức đúng, đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý trong việc đăng ký kinh doanh nên việc tiếp cận vốn tín dụng từ các kênh thương mại cũng như ưu đãi đều rất hạn chế. Như vậy với quy mô vốn nhỏ, khả năng tiếp cận với các nguồn tài chính lại khó khăn nên tiềm lực tài chính của các DNVVN đã thấp lại càng thấp hơn, do đó khả năng cạnh tranh của các DNVVN trên thị trường rất thấp. Với những đặc điểm nổi bật của các DNVVN ở Việt Nam như trên, cộng với môi trường canh tranh gay gắt như hiện nay thì việc hỗ trợ phát triển DNVVN là nhiệm vụ hết sức cần thiết đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của nền kinh tế. 1.2.3 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân Các DNVVN đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế và có vai trò quan trọng trong mạng sản xuất toàn cầu và chuỗi cung ứng hàng hóa và dịch vụ. Các DNVVN có khả năng tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp; cung cấp cho xã hội khối lượng đáng kể hàng hóa và dịch vụ và làm tăng GDP cho nền kinh tế; tăng cường kỹ năng quản lý và đổi mới công nghệ; góp phần giảm bớt chênh lẹch về thu nhập trong xã hội, xóa đói nghèo; tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn, cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Mức độ đóng gớp vào sự phát triển kinh tế quốc gia của DNVVN được thể hiện ở mức độ thu hút lao động, vốn đầu tư, tạo ra giá trị gia tăng trong nền kinh tế. theo số liệu thống kê của các nước, tỷ trọng thu hút lao động tạo ra giá trị gia tăng của các DNVVN rất đáng kể. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các nước đặc biệt là các nước đang phát triển cần có các chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN, có như vậy mới huy động được tối đa nguồn lực xã hội, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp lớn phát triển, tăng sức cạnh tranh trên thị trường… Vai trò đó của DNVVN thể hiện cụ thể như sau: Thu hút vốn và khai thác nguồn lực sẵn có trong dân cư: DNVVN có vai trò quan trọng trong việc khai thác nguồn tài chính của dân cư trong vùng và sử dụng tối ưu nguồn lực tại chỗ của các địa phương. Với việc thành lập một doanh nghiệp loại này chỉ cần một số vốn nhỏ do đó đã tạo điều kiện cho dân cư tham gia đầu tư góp vốn vào DNVVN. Như vậy thông qua các DNVVN, những nguồn vốn nhỏ, tạm thời nhàn rỗi đã có khả năng được sinh lời. Hơn nữa việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các DNVVN rất hạn chế, nguồn vốn hoạt động chủ yếu được huy động từ những người thân quen vì thế DNVVN được tiếp xúc trực tiếp với người cho vay, người cho vay có khi là chủ sở hữu doanh nghiệp, trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp nên việc sử dụng vốn sẽ hiệu quả hơn. Bên cạnh đó các DNVVN có thể tận dụng được nguồn lao động và nguyên vật liệu với giá rẻ do đó làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm. Như vậy sự phát triển của các DNVVN đã tận dụng được tối đa các nguồn lực của xã hội, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động có trình độ, tay nghề thấp góp phần làm ổn định và phát triển xã hội. Về tiềm lực vốn: vốn đầu tư là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Vốn là yếu tố cơ bản để khai thác và phối hợp các yếu tố sản xuất khác như lao động, đất đai, công nghệ và quản lý để tạo ra lợi nhuận cho các chủ doanh nghiệp. Vốn có vai trò to lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân cũng như trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên một nghịch lý hiện nay là trong khi có nhiều doanh nghiệp đang thiếu vốn trầm trọng thì nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư còn nhiều nhưng không huy động được. Khi chính sách tài chính tín dụng của Chính phủ và các Ngân hàng chưa thực sự gây được niềm tin đối với những người có vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư thì nhờ sự đa dạng hoá trong các loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khởi sự bằng nguồn vốn hạn hẹp DNVVN thu hút được đông đảo người dân tham gia. Do đó, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư được đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh, hạn chế tiêu dùng không sinh lợi, nhiều DNVVN đã tiếp xúc trực tiếp với người dân và huy động được vốn để kinh doanh, thành lập doanh nghiệp. Dưới khía cạnh đó, DNVVN có vai trò to lớn trong việc huy động vốn để phát triển kinh tế. Về lao động: đặc điểm chung của các DNVVN là ít vốn và hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động. Do đó, DNVVN ở tất cả các nước có thể tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động. Ở nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển, DNVVN là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất. Hiện nay, DNVVN chiếm 90-99% trong tổng số lượng các doanh nghiệp các nước, ở Việt Nam con số này là 90%. Mặc dù số lượng lao động trong các doanh nghiệp không nhiều nhưng tổng số lao động làm việc trong các DNVVN chiếm tỷ lệ đáng kể từ 50-80%, khi các DNVVN phát triển sẽ tạo nhiều cơ hội tăng việc làm, thu hút lao động và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế. DNVVN thường nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, sử dụng nhiều lao động, vốn ít với chi phí thấp nên phần lớn lao động trong khu vực này không đòi hỏi trình độ cao, mất nhiều thời gian đào tạo và chi phí tốn kém mà chỉ cần bồi dưỡng hoặc là người lao động có thể tham gia sản xuất trong doanh nghiệp. Khi những doanh nghiệp lớn ứng dụng công nghệ tự động hóa, lao động phổ thông dư thừa, cầu lao động phổ thông đối với doanh nghiệp lớn giảm mạnh. DNVVN là nơi thu hút tiếp nhận và đảm bảo thu nhập cho họ. Như vậy có thể thấy rằng DNVVN có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra và tăng thêm việc làm cho nền kinh tế, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp và ổn định xã hội bằng cách thu hút nhiều lao động với chi phí thấp và chủ yếu bằng vốn của dân. Trong tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay, một bộ phận lao động không nhỏ dư thừa, với những kinh nghiệm tích luỹ được trong lao động họ có thể tự thành lập hay tìm kiếm công việc tại các DNVVN góp phần quan trọng vào việc đẩy mạnh sự phát triển của các DNVVN. Về khoa học kỹ thuật: với quy mô hoạt động nhỏ, DNVVN thường lựa chọn kỹ thuật phù hợp với trình độ lao động và khả năng về vốn. Họ kết hợp kỹ thuật thủ công với kỹ thuật mà người lao động có thể nhanh chóng tiếp thu và làm chủ trong sản xuất. Đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) & thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Sự phát triển nhanh các DNVVN về cả số lượng và chất lượng đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng thu nhập cho các nước. Cũng như DNVVN ở tất cả các nước, DNVVN ở Việt Nam cung cấp ra thị trường nhiềt loại hàng hóa khác nhau đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước như trang thiết bị và linh kiện cần thiết cho các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp cũng như các hàng hóa tiêu dùng khác. Theo số liệu thống kê trong những năm vừa qua DNVVN đã đóng góp 25-28% GDP của cả nước, vốn kinh doanh của khu vực DNVVN chiếm 2% so với vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Ngoài ra, DNVVN Việt Nam còn cung cấp ._.hầu hết sản phẩm trong nhiều ngành công nghiệp truyền thống thu hút nhiều lao động như giầy dép, chiếu cói… việc mở rộng và phát triển các DNVVN sẽ góp phần không nhỏ trong việc làm tăng GDP, đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước. Phát triển DNVVN làm số lượng các doanh nghiệp tăng lên rất lớn, tăng tính cạnh tranh giảm bớt mức độ rủi ro. Các DNVVN cung cấp nguyên liệu, sản xuất và tiêu thụ hàng hoá thâm nhập vào ngõ ngách thị trường những nơi doanh nghiệp lớn không làm được. Các DNVVN tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu, số lượng DNVVN tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu chiếm 80,6%, nhập khẩu chiếm 84,2% tổng số doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu trên cả nước. DNVVN thường không có tình trạng cạnh tranh độc quyền, họ dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để phát huy mọi tiềm lực. sự phát triển của DNVVN trong giai đoạn đầu là phương thức tốt nhất để sản xuất thay thế nhập khẩu với mức chi phí đầu tư thấp, kỹ thuật không phức tạp, sản phẩm phù hợp với sức mua của dân, từ đó tăng năng lực sản xuất và sức mua của thị trường. Quá trình phát triển của DNVVN cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. từ đó đổi mới công nghệ, làm quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá diễn ra ở cả chiều rộng và chiều sâu. với những ưu thế về ngành nghề, tính nhạy cảm của thị trường cao, các DNVVN có nhiều ưu thế trong việc sản xuất và cung ứng các sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. ở một số nước DNVVN tham gia xuất khẩu chiếm tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu từ 30-50%. Tạo sự phát triển giữa các vùng, ngành góp phần phát triển quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Trong quá trình kinh doanh, nhiều DNVVN có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn kinh doanh một cách hiệu quả hơn như làm đại lý và vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, cung cấp những bán thành phẩm hay nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp lớn hoặc thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn khó có thể với tới để phân phối các sản phẩm của doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng. mục tiêu hoạt động của DNVVN là phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân là chủ yếu, sử dụng nhiều lao động do đó giải quyết được tình trạng thất nghiệp ở các địa phương. Bên cạnh đó, khi số DNVVN tăng lên sẽ kéo theo sự gia tăng nnhanh chóng số lượng các sản phẩm và dịch vụ mới trong nền kinh tế. Nhờ hoạt động với quy mô nhỏ và vừa, các DNVVN có ưu thế là chuyển hướng kinh doanh nhanh từ những ngành nghề kém hiệu quả sang các ngành khác hiệu quả hơn, thoả mãn nhu cầu linh hoạt của dân cư. Chính sự phát triển đó của các DNVVN đã làm tăng tính cạnh tranh, tính linh hoạt và giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế. việc phát triển các DNVVN sẽ dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo tất cả các khía cạnh vùng kinh tế, ngành kinh tế và thành phần kinh tế. trước tiên, đó là sự thay đổi cơ cấu kinh tế vùng nhờ sự phát triển của các khu vực nông thôn qua phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xóa dần tình trạng thuần nông và độc canh. Các doanh nghiệp được phân bổ đều hơn về lãnh thổ ở cả vùng nông thôn, đô thị, miền núi, đồng bằng. Ngoài ra, sự phát triển manh các DNVVN còn có tác dụng làm cho cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi nhờ sự tăng mạnh của các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh và việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước. sự phát triển các DNVVN cũng kéo theo sự thay đổi của cơ cấu ngành kinh tế thông qua sự đa dạng hóa các ngành nghề và lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. việc phát triển các DNVVN còn có tác dụng duy trì và thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề truyền thống và sản xuất ra các sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc, khai thác thế mạnh của đất nước. xuất phát từ một nước kinh tế nông nghiệp, Việt Nam có nhiều làng nghề thủ công truyền thống nổi tiếng. Các ngành nghề này ngày càng thu hút được sự đầu tư phát triển của các DNVVN, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo, tạo sự phát triển đồng đều, bền vững giữa các vùng. Hình thành nên các vùng sản xuất lớn, nhiều làng nghề xuất hiện góp phần gia tăng sản phẩm hàng hoá tinh chế, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, thúc đẩy các ngành nghề phát triển các DNVVN hình thành và phát triển trong những ngành nghề khác nhau luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối liên kết với các doanh nghiệp lớn. nhiều doanh nghiệp nhỏ khi mới ra đời chỉ nhằm mục đích làm vệ tinh cung cấp các sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn. mối quan hệ giữa các DNVVN và các doanh nghiệp lớn cũng chính là nguyên nhân thành công của nền kinh tế Nhật Bản trong nhiều thập kỷ qua. Do đó, khi các DNVVN Việt Nam phát triển sẽ góp phần tăng cường các mối quan hệ liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các DNVVN và các DNVVN với các doanh nghiệp lớn, nhờ đó các rủi ro kinh doanh dược phân tán làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội. Đông thời, các DNVVN chính là nguồn tích luỹ ban đầu và là “lồng ấp” cho các doanh nghiệp lớn. các cơ sở doanh nhân thường xuất phát từ một DNVVN do chưa có nhiều kinh nghiệm và chưa thật hiểu rõ về thị trường sau một thời gian hoạt động đã tích luỹ kinh nghiệm và khẳng định vị thế của mình và mở rộng hoạt động kinh doanh và phát triển với quy mô lớn. từ DNVVN phát triển và mở rộng thành doanh nghiệp lớn còn tiết kiệm chi phí đào tạo khi tuyển được các nhân viên có tay nghề từ các DNVVN chuyển sang có thể nói, DNVVN là tiền đề cho các doanh nghiệp lớn. 1.3 Hoạt động cho vay đối với DNVVN của NHTM 1.3.1 Khái niệm và phân loại cho vay đối với DNVVN của NHTM - Khái niệm: Cho vay là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng thương mại để tài trợ chi tiêu cho các doanh nghiệp, cá nhân và chính phủ. Đây cũng là chức năng lâu đời nhất của ngân hàng. Cho vay là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng nhưng cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro. Trong quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng ban hanh kèm theo quyết định số 284/2000/QĐ/NHNN ngày 25/8/2000 của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam, cho vay được định nghĩa như sau: “ cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích nhất định trong thời gian nhất định theo sự thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi”. - Phân loại: Ngân hàng thương mại cho vay đối với các DNVVN thông qua nhiều phương thức khác nhau. Trong quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng, Ngân hàng nhà nước quy định các phương thức cho vay mà các ngân hàng thương mại được phép áp dụng như sau: Cho vay trực tiếp Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên. Các DNVVN thường có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất kinh doanh đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn vay ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay, mỗi món vay được tách biệt ra thành các hồ sơ khác nhau. Cho vay theo hạn mức tín dụng: áp dụng đối với những khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín trong quan hệ tín dụng với ngân hàng. Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời gian nhất định hoặc chu kỳ sản xuất kinh doanh. Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống. Cho vay trả góp: khi vay vốn, khách hàng và tổ chức tín dụng cố định và thỏa thuận số lãi phải trả cộng thêm phần gốc vay rồi chia ra để trả nợ thành nhiều kỳ hạn theo thời hạn cho vay. Tài sản hình thành từ vốn vay chỉ thuộc quyền sở hữu của người vay khi mà người vay trả hết phần gốc và lãi. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Trong thời gian hiệu lực của hợp đồng, nếu khách hàng không hoặc không sử dụng hết hạn mức tín dụng dự phòng, khách hàng vẫn phải trả phí cam kết. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Cho vay theo hạn mức thấu chi: là hình thức cho vay mà tổ chức tín dụng thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng. Cho vay gián tiếp Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội Nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ… Qua đó ngân hàng có thể lựa chọn các phương thức cho vay phù hợp với từng đối tượng khách hàng mà mình phục vụ để đạt hiệu quả cao nhất. Về phía khách hàng, họ có nhiều cơ hội tiếp cận hơn với nhiều hình thức vay vốn, tạo thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện nay thì đối với đối tượng là DNVVN thì phương thức cho vay của ngân hàng là cho vay từng lần. 1.3.2. Vai trò của cho vay đối với DNVVN của NHTM Có thể nói thiếu vốn là khó khăn chủ yếu của các DNVVN Việt Nam và vì vậy vốn vay dịch chuyển được từ ngân hàng tới doanh nghiệp thông qua hoạt động cho vay có một vai trò rất quan trọng. Cụ thể như sau: 1.3.2.1. Đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp một cách kịp thời Nguồn vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp thường lấy từ các nguồn sau: nguồn vốn chủ sở hữu, vay từ các nguồn vốn phi chính thức, vay ngân hàng, vay vốn qua thị trường vốn hay thuê mua. Tăng nguồn vốn chủ sở hữu là biện pháp đơn giản nhất đối với bất cứ doanh nghiệp nào bởi đây là nguồn vốn do cổ đông đóng góp hoặc vốn của người chủ. Tuy nhiên giải pháp này thường không thực tế đối với DNVVN vì thực tế người chủ doanh nghiệp hay cổ đông có nguồn tài chính hạn chế, họ không có khả năng bỏ ra nhiều hơn số vốn mà họ góp vào doanh nghiệp. Vay từ các nguồn vốn phi chính thức như vay từ các đối tác kinh doanh, từ bạn bè… thường có lãi suất cao, số lượng ít, rủi ro lớn không ổn định đối với DNVVN. Vay trên thị trường vốn, thị trường vốn của Việt Nam đươc thể hiện thông qua hoạt động trên thị trường chứng khoán. Mặc dù, thị trường chứng khoán đang ngày càng chuyển biến tích cực nhưng đối với các DNVVN để có thể vay vốn tại đó thì gặp nhiều khó khăn vì để vay vốn tại đó cần có rất nhiều điều kiện như chế độ tài chính minh bạch, làm ăn có lãi trong 2 năm liên tục… đây là điều mà rất ít DNVVN Việt Nam đáp ứng được. Thuê mua là phương thức có thể tài trợ một số thiết bị máy móc nào đó cho doanh nghiệp. Tại các nước phát triển, thuê mua là một biện pháp phổ biến, thuận lợi thay thế cho tín dụng trung và dài hạn, đặc biệt đối với các DNVVN khi gặp khó khăn trong vay vốn trung dài hạn tại các ngân hàng. Tại Việt Nam đã có một số công ty thuê mua tài chính chuyên về thực hiện hình thức này, tuy vậy thì đây cũng là hình thức mới nên nó chưa thực sự phát triển. Vì vậy, vay vốn tại ngân hàng đối với các DNVVN vẫn là biện pháp lâu dài. Ngân hàng đóng vai trò là người cung cấp vốn cho doanh nghiệp để mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ,… 1.3.2.2 Nâng cao việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp Vốn vay ngân hàng là nguồn vốn tài trợ có hiệu quả hơn cả đối với doanh nghiệp bởi nó thỏa mãn nhu cầu vốn về số lượng và thời hạn đặc biệt là chi phí vốn vay từ ngân hàng thấp hơn chi phí vốn vay từ các nguồn không chính thức khác. Hơn nữa, các DNVVN muốn có uy tín đối với ngân hàng để được vay vốn , họ cần có phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Khi đã nhận được vốn vay thì quá trình hoạt động của doanh nghiệp sẽ chịu sự giám sát của ngân hàng, điều đó giúp cho doanh nghiệp phát hiện ra những nhược điểm, sai sót từ đó có những điều chỉnh kịp thời nhằm hạn chế những rủi ro đối vơi doanh nghiệp và kinh doanh có hiệu quả hơn. Các nguồn vay khác sẽ không có được điều này. Như vậy, vốn vay đã ràng buộc các DNVVN với ngân hàng từ đó giúp nâng cao năng lực quản lý vốn và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất. 1.3.2.3. Thúc đẩy các DNVVN tăng cường thực hiện chế độ hạch toán Kinh doanh Để tiếp cận được nguồn vốn từ ngân hàng, các DNVVN bắt buộc phải thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh bởi các ngân hàng chỉ có thể cho vay nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi, điều đó thể hiện thông qua các báo cáo tài chính của doanh nghiệp như bảng cân đối kế toán, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Như vậy, ngân hàng thông qua tài trợ vốn đã giúp các DNVVN tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh, quản lý mọi hoạt động của các DNVVN cho các cơ quan nhà nước. 1.4 Hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM 1.4.1 Khái niệm hiệu quả cho vay Hiệu quả cho vay là thuật ngữ phản ánh hiệu quả của hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại, nó được cấu thành bởi hai yếu tố là mức độ an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động cho vay mang lại. Mức sinh lời và độ an toàn của ngân hàng trong công tác cho vay đối với DNVVN được đánh giá qua hiệu quả hoạt động cho vay. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ cho vay, để quyết định bỏ vốn tài trợ vào một dự án nào đó, các ngân hàng phải đứng trước hai sự lựa chọn là lợi nhuận và rủi ro. Mức rủi ro càng cao thì khả năng sinh lời càng lớn. Vì thế trong một quyết định cho vay, ngân hàng có thể theo đuổi mục tiêu lợi nhuận cao hay thấp, song phải xác định được mối liên hệ giữa rủi ro và sinh lời để đảm bảo hoạt động cho vay đem lại lợi nhuận cao nhất với độ rủi ro thấp nhất. Cho vay được coi là hoạt động chủ yếu đối với bất kỳ một ngân hàng nào, mang lại lợi nhuận cao nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đe dọa hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó việc nâng cao hiệu quả cho vay trong hoạt động của kinh doanh tại các ngân hàng thương mại luôn là điều kiện tiên quyết quyết định sự tồn tại và phát triển không chỉ riêng cho bản thân mỗi ngân hàng mà còn cho cả hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế. 1.4.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay 1.4.2.1. Chỉ tiêu tổng dư nợ Tổng dư nợ là chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng bao gồm cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn, cho vay uỷ thác. Chỉ tiêu này được đo bằng số tuyệt đối, nó phản ánh doanh số cho vay của ngân hàng trong một kỳ (một năm) là bao nhiêu. Tổng dư nợ thấp phản ánh chất lượng tín dụng thấp vì chỉ ra rằng ngân hàng không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay, khả năng tiếp thị khách hàng kém, trình độ của đội ngũ nhân viên không cao…Tuy nhiên không phải bất kỳ thời điểm nào chỉ tiêu này cao cũng là tốt và ngược lại, do vậy khi xét chỉ tiêu này chúng ta cũng không nên xem xét chúng theo từng thời kỳ riêng rẽ mà phải xem xét chúng trong cả một quá trình trên cơ sở phân tích các yếu tố tác động bên ngoài để chỉ số này phản ánh một cách tốt nhất có thể thực tế hoạt động tín dụng cuả ngân hàng trong nền kinh tế. 1.4.2.2. Các chỉ tiêu về nợ quá hạn Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa thuận ghi trong hợp đồng tín dụng. Các chỉ tiêu về nợ quá hạn phản ánh mức độ an toàn của hoạt động cho vay của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay là tỷ lệ giữa khoản nợ gốc quá hạn (hoặc bao gồm cả lãi quá hạn) trên tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. Phần lớn các khoản nợ quá hạn là những khoản nợ có vấn đề, nợ khó đòi hoặc có khả năng mất vốn. Ngân hàng càng có nhiều khoản nợ quá hạn thì hiệu quả cho vay càng thấp, nguy cơ rủi ro càng cao. Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay DNVVN = Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh độ an toàn cho vay nói riêng và hiệu quả cho vay nói chung của NHTM. Nếu tỷ lệ này ở mức quá cao chứng tỏ chất lượng cho vay của ngân hàng là thấp kém. Có thể ngân hàng đã vi phạm một số nguyên tắc cơ bản khi cấp tín dụng là cho vay không phân tích kỹ khả năng trả nợ của khách hàng, tài sản thế chấp không đúng quy định, cho vay tùy tiện, thiếu kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ…và nhất là vi phạm các nguyên tắc về phân tán rủi ro tín dụng, tập trung vốn quá quy định vào một nhóm khách hàng hoặc một ngành kinh tế. Nếu tỷ lệ này ở mức quá thấp, thể hiện quan điểm của ngân hàng khi cho vay là nếu không đủ tin tưởng thì không cho vay, cho vay đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc tín dụng, nguyên tắc phân tán rủi ro, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của khách hàng. Nếu tỷ lệ này ở mức vừa phải, thể hiện chiến lược kinh doanh táo bạo của ngân hàng là chấp nhận rủi ro trong một chừng mực nhất định để có thể đạt được lợi nhuận cao. Ngân hàng thực hiện chiến lược này đã thể hiện khả năng quản lý cao trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng của mình. Như vậy để hoạt động cho vay đem lại lợi nhuận cao đồng thời hạn chế được rủi ro cho ngân hàng thì các NHTM cần khống chế tỷ lệ này ở mức nào đó có thể chấp nhận được. Tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh rủi ro đối với các khoản cho vay và hậu quả có thể xảy ra cho ngân hàng từ các khoản nợ quá hạn, nó cho biết tỷ lệ dư nợ cho vay có nguy cơ gây mất vốn một phần hoặc toàn bộ cho ngân hàng trên tổng dư nợ cho vay các doanh nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn chỉ xem xét đến việc hoàn trả khi đã quá hạn chứ không xét đến tổng dư nợ có nguy cơ quá hạn. Nếu khoản vay tăng nhanh thì việc sử dụng tỷ lệ nợ quá hạn có thể phản ánh mức độ rủi ro từ hoạt động cho vay không chính xác cho các NHTM. Số dư nợ cho vay ra tăng, cùng với số tiền cho vay được giải ngân trong khi đó số dư nợ đến hạn chỉ tăng khi các khoản nợ đến kỳ hạn phải trả. Tốc độ tăng nhanh của các khoản cho vay có thể che dấu đi phần nợ quá hạn, nó không tính đến chỉ số đánh giá an toàn hoạt động cho vay. Do vậy các NHTM khi cho vay phải thận trọng khi xem xét độ an toàn của hoạt động cho vay bằng việc xác định kỳ hạn nợ hợp lý. Tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ quá của các DNVVN Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã quá một kỳ gia hạn nợ. Khi đến hạn mà khách hàng không có khả năng hoàn trả do gặp phải khó khăn nào đó trong sản xuất kinh doanh, ngân hàng thường gia hạn nợ cho khách hàng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thời gian thu xếp để trả nợ ngân hàng. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng, việc thu nợ trở nên mong manh hơn, ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để đảm bảo thu hồi được vốn, tránh tổn thất cho ngân hàng. Ngoài tỷ lệ nợ quá hạn, các ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ quá hạn hoặc tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi trên tổng dư nợ cho vay quá hạn để qua đó đánh giá xem có khả năng thu hồi được vốn hay không và thu hồi được bao nhiêu, bao nhiêu % không có khả năng thu hồi. Như vậy sử dụng thêm các chỉ tiêu này giúp ngân hàng đánh giá được chi tiết hơn về độ an toàn trong cho vay. Tuy nhiên chỉ tiêu này cũng chưa cho phép ngân hàng đánh giá được chính xác khoản nợ nào có khả năng thu hồi được, khoản nợ nào không có khả năng thu hồi. Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi ro khác nhau do vậy khi đánh giá mức độ an toàn của các khoản cho vay các ngân hàng cần kết hợp nhiều chỉ tiêu để có cái nhìn cụ thể đối với từng khoản vay. Mặt khác khi đánh giá các chỉ tiêu này cần chú ý đến các yếu tố có thể làm cho các chỉ tiêu này bị biến dạng như định kỳ hạn trả nợ không đúng, không phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khiến các doanh nghiệp không thể trả được nợ, hoặc do khi đảo nợ, giãn nợ không xem xét thận trọng các khoản vay làm cho các chỉ tiêu nợ quá hạn, nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ rủi ro cho vay. 14.2.3. Tỷ lệ mất vốn Tỷ lệ mất vốn là tỷ số giữa số vốn bị mất do xóa nợ cho kì báo cáo trên tổng dư nợ bình quân của kỳ báo cáo. Các khoản nợ quá hạn loại 5 (Nợ có khả năng mất vốn) sau khi được xóa nợ, đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán để tiếp tục theo dõi thì được xem như nợ không có khả năng thu hồi. Nếu số vốn cho vay của các ngân hàng thương mại được xóa nợ nhiều tức là tỷ lệ mất vốn cao chứng tỏ hiệu quả cho vay của NHTM bị đe dọa cả về mức độ an toàn và khả năng sinh lời. Tỷ lệ này có thể cung cấp cho các NHTM thấy được những khoản vay có khả năng bị mất và các khoản vay bị mất thực sự, cung cấp một cái nhìn về mối tương quan giữa số vốn cho vay bị mất trong tổng số vốn cho vay bình quân. Do vậy chỉ tiêu này được sử dụng để phân tích cùng với các chỉ tiêu nợ quá hạn để phản ánh mức độ an toàn nói riêng và hiệu quả hoạt động cho vay nói chung của các ngân hàng thương mại. 1.4.2.4. Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động cho vay DNVVN trên tổng thu nhập Là tỷ số giữa thu nhập từ hoạt động cho vay DNVVN với tổng thu nhập của ngân hàng. Hoạt động cho vay đặc biệt là cho vay Doanh nghiệp là hoạt động cơ bản mạng lại thu nhập cao cho ngân hàng. Vì thế để đánh giá hiệu quả cho vay DNVVN phải xem xét đến tỷ trọng thu nhập của hoạt động cho vay DNVVN trong tổng thu nhập của ngân hàng. Hiệu quả hoạt động cho vay cao phải thể hiện ở tỷ lệ thu nhập từ hoạt động cho vay trên tổng thu nhập cao. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động cho vay cao không chỉ được quyết định bởi tỷ lệ thu nhập từ hoạt động cho vay cao của ngân hàng. Vì thế khi sử dụng chỉ tiêu này cần kết hợp thêm với chỉ tiêu tỷ lệ lãi thực thu từ cho vay DNVVN so với tổng số lãi phải thu từ cho vay và các chỉ tiêu về mức sinh lời, các chỉ tiêu nợ quá hạn… để đánh giá đúng hiệu quả cho vay DNVVN của NHTM. Như vậy để đánh giá đúng hiệu quả cho vay DNVVN của NHTM cần kết hợp phân tích nhiều chỉ tiêu với nhau, mỗi chỉ tiêu sẽ cho thấy được những khía cạnh khác nhau trong hoạt động cho vay của NHTM, giúp NHTM đánh giá được những kết quả đạt được cũng như những khó khăn mà ngân hàng gặp phải trong hoạt động cho vay. 1.4.3 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM DNVVN có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Ở Việt Nam, với hơn 90% doanh nghiệp hiện có là DNVVN, trong đó DNVVN chiếm 33,6% trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 94,6% công ty trách nhiệm hữu hạn, 99% doanh nghiệp tư nhân và 75,9% doanh nghiệp Nhà nước, gần 100% doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực ở nông thôn là DNVVN. Với khoảng 230.00 DN, trong đó khoản 95% là DNNVV đóng góp khoảng 30% vào GDP mỗi năm cung cấp khoảng trên 30% tổng sản lượng công nghiệp và tạo ra khoảng 40% lao động việc làm…chưa kể các HTX, các hộ kinh doanh có thể chuyển lên được thành doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay các DNVVN gặp phải nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường, sự tiếp cận các nguồn tài chính và tín dụng của các DNVVN gặp nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do các DNVVN thành lập với số vốn nhỏ, hoạt động chưa ổn định, một số DNVVN sau một thời gian kinh doanh đã rút lui, thay tên đổi chủ gây nên tâm lý lo ngại cho các NHTM khi tiếp cận với DNVVN. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNVVN bị hạn chế, khả năng sinh lời thấp, hoàn trả vốn khó khăn tạo cho NHTM tâm lý ngại tiếp cận. Một bộ phận nhỏ DNVVN hoạt động mang tính lừa đảo, các dự án phát triển sản xuất kinh doanh thiếu tính khả thi, thiếu chiến lược kinh doanh, chưa tạo lập được uy tín và có độ rủi ro quá cao đối với các ngân hàng. Hơn nữa rất nhiều NHTM hiện nay đặc biệt là các NHTM Nhà nước còn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN tiếp cận với nguồn tín dụng của ngân hàng. Các NHTM thiếu thông tin về DNVVN, mặt khác năng lực thẩm định dự án còn có nhiều hạn chế. Do đó, việc nâng cao hiệu quả cho vay DNVVN là một sự cần thiết khách quan, bởi các DNVVN là bộ phận khách hàng có tiềm năng rất lớn. Băng cách đưa ra chính sách hỗ trợ tài chính phát triển phù hợp cho các DNVVN thì chắc chắn nó sẽ mang lại cho các ngân hàng nguồn thu nhập đáng kể, tránh được rủi ro đồng thời tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận được nguồn vốn lớn phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Khi hoạt động sản xuất của các DNVVN có hiệu quả thì hoạt động cho vay của NHTM cũng sẽ có hiệu quả hơn. 1.4.3.1. Đối với Ngân hàng thương mại - Nâng cao hiệu quả cho vay DNVVN giúp ngân hàng khảo sát được rủi ro từ việc phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay. Qua đó đánh giá được mức độ rủi ro và khả năng sinh lời của các khoản cho vay DNVVN. Rút ra được các vấn đề cần tập trung giải quyết giúp các NHTM tránh được những rủi ro do hoạt động cho vay DNVVN đem lại. - Nâng cao hiệu quả cho vay DNVVN làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho ngân hàng. Đồng thời giúp các NHTM thu thập được nhiều thông tin về khach hàng, đánh giá, phân loại được từng đối tượng khách hàng để có các chính sách khác nhau cho từng loại khách hàng, giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro và chính điều đó cũng làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Trong quá trình đánh giá hiệu quả cho vay đối với DNVVN, bằng cách phân đoạn thị trường các NHTM sẽ xác định được thị trường mục tiêu đem lại nguồn lợi nhuận. Kết hợp với các chính sách ưu đãi về lãi suất và điều kiện vay vốn phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng các sản phẩm dịch vụ của mình từ đó làm tăng thu nhập và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường tài chính. - Nâng cao hiệu quả cho vay DNVVN giúp các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng thuận lợi hơn. Để nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay DNVVN buộc các ngân hàng phải đưa ra được các biện pháp phòng tránh những rủi ro có thể xảy ra nhưng vẫn đem đến cho ngân hàng mức lợi nhuận có thể chấp nhận được. Trong quá trình hoạt động sản xuất của mình, vốn là một trong những yếu tố quan trọng nhất của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ làm ăn hiệu quả hơn nếu có một cơ cấu vốn tối ưu. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp bao gồm hai nguồn cơ bản là vốn chủ sở hữu và vốn vay. Nhưng đặc điểm nổi bật của các DNVVN ở Việt Nam là vốn chủ sở hữu rất thấp vì thế vốn vay là nguồn vốn cực kỳ quan trọng. Vốn vay của DNVVN thường có được thông qua tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại hoặc phát hành trái phiếu hoặc thông qua các quỹ hỗ trợ. Nhưng hầu hết các DNVVN không đủ điều kiện để phát hành trái phiếu, các quỹ hỗ trợ chưa được quan tâm và phát triển. Khi các doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn của các NHTM thì quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trở nên thuận lợi hơn. Các doanh nghiệp buộc phải đưa ra được phương án sử dụng vốn có tính khả thi cao, mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp từ đó hoạt động cho vay của NHTM cũng có được nâng cao hơn, ngân hàng không những không gặp phải rủi ro do khách hàng không trả nợ được đúng hạn mà còn thu được phần lợi nhuận cho mình, vị trí của ngân hàng dưới cái nhìn của các nhà doanh nghiệp cũng được nâng cao lên một bước. Tuy nhiên cả ngân hàng và doanh nghiệp cần phải cân nhắc kỹ trước khi quyết định vay và cho vay, cần xác định tỷ lệ vốn vay hợp lý để tránh được rủi ro cho ngân hàng nhưng đồng thời cũng không bỏ qua cơ hội kinh doanh tốt của doanh nghiệp. 1.4.3.2 Đối với doanh nghiệp - Nâng cao hiệu quả cho vay DNVVN giúp các doanh nghiệp này nâng cao được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Một trong những nguyên tắc cho vay là phải trả lãi và gốc đúng hạn. Do đó doanh nghiệp khi đi vay phải tính toán chính xác các chi phí sản xuất kinh doanh, tốc độ quay vòng của vốn, giá thành sản phẩm…sao cho sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ thu được không chỉ đủ để trả nợ ngân hàng mà còn có lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp. Chính vì vậy, thực hiện đúng nguyên tắc này không chỉ đảm bảo an toàn hoạt động cho ngân hàng mà còn buộc các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng hạch toán kinh doanh, tổ chức sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn một cách có hiệu quả. - Nâng cao hiệu quả cho vay DNVVN buộc công tác hạch toán kế toán của các doanh nghiệp phải rõ ràng minh bạch hơn. Bản báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bảng cân đối kế toán… là những tài liệu quan trọng không thể thiếu trong hồ sơ vay vốn để ngân hàng phân tích và thẩm định năng lực tài chính và khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Những tài liệu này nếu không được trình bày rõ ràng, minh bạch, không chứng minh được khả năng tài chính lành mạnh của doanh nghiệp thì sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc vay vốn. Việc phân tích các bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp giúp các ngân hàng đưa ra được những quyết định tín dụng đúng đắn về hạn mức tín dụng, lãi suất, thời hạn vay vốn, phương thức trả gốc và lãi…Vì thế doanh nghiệp khi đi vay phải chuẩn bị đầy đủ và chính xác các thủ tục cần thiết này để tạo điều kiện cho việc vay vốn được thuận lợi, tiết kiệm được thời gian nhằm đảm bảo được nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra đúng chu kỳ. - Nâng cao hiệu quả cho vay của NHTM làm tăng khả năng cạnh tranh và uy tín cho DNVVN. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay DNVVN giúp các doanh nghiệp tiếp cận đẽ dàng hơn với nguồn vốn tín dụng của ngân hàng từ đó nâng cao năng lực tài chính cho các doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ đó cũng được nâng lên. Các DNVVN có khả năng tiếp cận được với công nghệ sản xuất hiện đại, mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, có điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác trong nước và nước ngoài từ đó giúp các doanh nghiệp có được một chỗ đứng trên thị trường. 1.4.3.3 Đối với nền kinh tế Việc nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay DNVVN tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời giúp cho hoạt động cho vay của các NHTM cũng hiệu quả hơn, đem lại lợi nhuận cao với mức rủi ro thấp. Vì vậy mà thúc đẩy được nền kinh tế phát triển. Mặt khác việc nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay buộc ngân hàng phải có một cơ cấu vốn, một chính sách tín dụng hợp lý từ đó giải quyết được mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Đồng thời cũng tạo điều kiện để mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, giảm thiểu được lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội. Nâng cao hiệu quả cho vay doanh nghiệp tạo đà cho việc._.ng như hiệu quả cho vay của các NHTM. Tỷ lệ nợ quá hạn cao hay thấp sẽ cho biết quá trình cho vay có tăng trưởng lành mạnh hay không. Một ngân hàng nếu có doanh số cho vay cao, tổng dư nợ cho vay lớn nhưng khả năng thu hồi vốn thấp (tức tỷ lệ nợ quá hạn cao) thì hoạt động cho vay vẫn chưa thể coi là hiệu quả hơn việc doanh số cho vay có giảm, tổng dư nơ cho vay thấp nhưng khả năng thu hồi vốn cao (tỷ lệ nợ quá hạn thấp). Vì vậy để xác định hiệu quả cho vay của một ngân hàng trước hết cần xem xét đến tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ cho vay. Bảng 6: Nợ quá hạn DNVVN Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tổng dư nợ DNVVN 105,993.49 354,052 651,176 Nợ quá hạn 0.00 17,348.55 1,758 Tỷ lệ (%) 0.00 4.9% 0.27% Nợ khó đòi 0.00 0.00 1,107 Tỷ lệ(%) 0.00 0.00 0.17% Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ DNVVN năm 2007 giảm mạnh so với năm 2006. Tỷ lên nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay DNVVN là 0.17%. Đây là một tỷ lệ rất tốt so với hệ thống NHTM ở Việt Nam. Đạt được kết quả này là do trong năm 2007, ngân hàng đã đề ra kế hoạch cụ thể cho hoạt động cho vay doanh nghiệp là tiếp tục mở rộng doanh số hoạt động cho vay nhưng phải tập trung vào giải quyết các khoản nợ quá hạn, tích cực kiểm tra, giám sát các khách hàng để đảm bảo thu hồi được nợ. Về nợ khó đòi, thực hiện chỉ đạo của Giám đốc SCB Hà nội, ban lãnh đạo chi nhánh đã quan tâm và đề ra các biện pháp tích cực, cụ thể nhằm đẩy mạnh thu nợ xấu, nợ quá hạn như giao chỉ tiêu thu nợ cho từng phòng, từng cán bộ tín dụng thường xuyên báo cáo hàng tháng tình hình thực hiện đề ra các giải pháp tiếp theo, quan tâm chú trọng tới tiền lương, thi đua khen thưởng đối với cá nhân và tập thể đạt thành tích trong công tác thu hồi nợ quá hạn nên đã có tác động tốt tới kết quả thu nợ. _ Phân chia nợ quá hạn theo thời hạn tín dụng: Bảng 7: Nợ quá hạn cho vay DNVVN theo thời hạn tín dụng Chỉ tiêu 2005 Tỷ lệ % 2006 Tỷ lệ % 2007 Tỷ lệ % Tổng nợ quá hạn DNVVN 0.00 0.00 17,348.55 100% 2,865 100% Ngắn hạn 0.00 0.00 3,330.92 19.2% 1,761.97 61.5% Trung và dài hạn 0.00 0.00 14,017.63 80.8% 1,103.03 38.5% Nhìn vào bảng trên, ta thấy tỷ trọng nợ quá hạn theo thời hạn tín dụng trong 3 năm qua có sự thay đổi rõ rệt. Tỷ trọng nợ quá hạn của các khoản vay ngắn hạn tăng, tỷ trọng của các khoản vay trung và dài hạn lại giảm mạnh từ 80.8% (năm 2006) còn 38.5% (năm 2007). Nguyên nhân là do từ năm 2007 Chi nhánh bắt đầu thực hiện việc xử lý các khoản nợ phân nhóm 3 ,nhóm 4 đồng thời đề ra những giải pháp tích cực, cụ thể nhằm thu hồi nợ xấu, nợ đã xử lý. Đối với hoạt động của ngân hàng thì việc chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn là điều đương nhiên, ngân hàng có chấp nhận rủi ro thì mới thu được lợi nhuận, mà rủi ro tín dụng là điều tất yếu xảy ra ở bất kỳ một ngân hàng nào. Các ngân hàng không thể loại trừ nó ra khỏi hoạt động của mình, tuy nhiên phải tìm mọi cách để khống chế nó ở mức thấp nhất có thể chấp nhận được. 2.4.3 Thu nhập từ cho vay DNVVN Từ năm 2007 Chi nhánh thực hiện việc xử lý các khoản nợ phân nhóm 3,nhóm 4, do đó chi phí do trích lập dự phòng tăng lên. Trong năm 2007 Chi nhánh có lãi 44,427 triệu đồng. 2.5 Đánh giá về hiệu quả cho vay DNVVN tại SCB Hà Nội 2.5.1 Những thành quả đạt được Trong năm 2007, việc cho vay DNVVN đã đạt được những thành công đáng kể. Tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm xuống 0.17%, đây là một chỉ tiêu quan trọng chứng minh rằng chất lượng cho vay DNVVN tại SCB Hà nội đã tăng lên trong những năm qua. Ngân hàng đã tập trung vào việc phân loại các khoản nợ để có những biện pháp cụ thể đối với từng loại nợ và từng đối tượng khách hàng. Cùng với quá trình phân loại nợ, Ngân hàng đã thực hiện đầy đủ về trích lập dự phòng rủi ro theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và của SCB Hà nội nên tổn thất từ cho vay DNVVN được kiểm soát. Thị trường DNVVN là thị trường mà ngân hàng TMCP Sài Gòn lựa chọn để đầu tư phát triển trong thời gian tới. Tuy xâm nhập vào thị trường này chưa lâu, nhưng hoạt động tín dụng của Ngân hàng đã phần nào góp phần vào việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh của DNVVN. 2.5.2 Những hạn chế và nguyên nhân 2.5.2.1 Những hạn chế còn tồn tại Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động cho vay DNVVN tại SCB Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế, chất lượng hoạt động cho vay đối với DNVVN chưa cao. Đây là những khó khăn mà ngân hàng cần phải đối mặt và cần phải có biện pháp khắc phục. - Dư nợ tín dụng đối với DNVVN còn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng. Trong khi DNVVN đang ngày càng phát triển, thị trường hoạt động tín dụng đối với các DNVVN là rất lớn và có nhiều tiềm năng phát triển. Các DNVVN hoạt động chủ yếu ở các lĩnh vực thương mại, dịch vụ do đó nhu cầu về nguồn vốn tín dụng của ngân hàng là rất lớn nhưng vấn đề là vẫn chưa tiếp cận được. - Về chất lượng tín dụng, Ngân hàng đã từng bước xây dựng và hoàn thiện quy chế hoạt động của quản lý tín dụng nhưng tỷ lệ nợ quá hạn đối với các DNVVN cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế vẫn tồn tại, phản ánh chất lượng tín dụng của Ngân hàng chưa thật đảm bảo. Cho vay đối với các DNVVN vẫn chứa đựng nhiều rủi ro vì họ có vốn chủ sở hữu nhỏ bé, kinh nghiệm và trình độ quản lý chưa cao. - Thủ tục cho vay đối với DNVVN còn nhiều ràng buộc như: phụ thuộc vào tài sản thế chấp, vào báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Về tài sản thế chấp, thực tế phần lớn tài sản đảm bảo của doanh nghiệp là đất đai, nhà xưởng lại chưa có giấy tờ hợp lệ để hoàn thiện thủ tục thế chấp ở ngân hàng. Thông tin hai chiều giữa Ngân hàng và khách hàng còn chưa đầy đủ. Phía Ngân hàng, việc thu thập, khai thác, tìm hiểu thông tin về khách hàng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là thông tin về tình hình tài chính của khách hàng, tình hình tiêu thụ sản phẩm… do đó Ngân hàng còn dè dặt trong việc mở rộng cho vay đối với DNVVN. Phía khách hàng, họ chưa sẵn sàng cung cấp những thông tin cần thiết cho Ngân hàng để ngân hàng có thể đưa ra quyết định cho vay, thậm chí còn che đậy thông tin không tốt về mình. - Khả năng thẩm định dự án của Ngân hàng chưa cao, trình độ xây dựng dự án của doanh nghiệp cũng không tốt. Nhiều doanh nghiệp không có khả năng lập dự án mà phải đi thuê, nên tính khả thi không cao, dẫn đến khoản vay không có khả năng thu hội, từ đó làm tăng tỷ lệ nợ quá hạn. 2.5.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế - Chính sách tín dụng chưa linh hoạt: Cũng giống như các ngân hàng thương mại nói chung, trước đây thường tập trung vào các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp Nhà nước vì vậy khi chuyển sang các DNVVN ngân hàng có những chính sách tín dụng chưa hợp lý. Mặc dù hiện nay đã có những thay đổi trong cách nhìn nhận về DNVVN nhưng Ngân hàng vẫn có tâm lý thận trọng trong vấn đề cho vay đối với các doanh nghiệp này. Quan điểm tín dụng của SCB Hà Nội là mở rộng tín dụng trên cơ sở chất lượng tín dụng được đảm bảo. Tài sản đảm bảo là vấn đề được đặc biệt quan tâm trong quá trình xét duyệt cho vay. Các quy định về tài sản đảm bảo là những trở ngại lớn nhất mà các DNVVN khó vượt qua được. Đối với DNVVN phần lớn phải có tài sản thế chấp, hoặc cầm cố tương đối an toàn, có giá trị, có tính thị trường thuộc sở hữu của doanh nghiệp hay ban lãnh đạo doanh nghiệp. Có những DNVVN có khả năng thế chấp tài sản nhưng cũng không được vay vốn ngân hàng vì giá trị khoản vay tính trên giá trị tài sản đảm bảo tuỳ thuộc vào loại tài sản đảm bảo khoảng 60% đến 80%. Đây là quy định gây khó khăn cho các DNVVN khi có nhu cầu về vốn lớn hơn giá trị tài sản thế chấp. Trong quá trình phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như phương án, dự án đầu tư, Ngân hàng mới chỉ tiến hành đơn giản sử dụng biện pháp so sánh, phân tích các chỉ số đơn giản. Ngoài ra Ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình làm hợp đồng cầm cố, thế chấp với khách hàng, nhất là vấn đề liên quan đến định giá tài sản đảm bảo đặc biệt là những tài sản là bất động sản. - Chất lượng cán bộ tín dụng chưa cao: Cán bộ tín dụng chính là người chịu trách nhiệm trong việc ra quyết định có cho vay hay không, do đó chất lượng cán bộ tín dụng ảnh hưởng lớn đến chất lượng của khoản vay. Số lượng cán bộ tín dụng của Ngân hàng còn ít, chưa đáp ứng kịp với quá trình phát triển. Công tác thẩm định khách hàng còn gặp nhiều khó khăn, sự phân tách chức năng bộ phận trong mô hình tín dụng chưa rõ ràng. Khối lượng công việc đối với một cán bộ tín dụng quá nhiều, trong khi yêu cầu thời gian giải quyết hồ sơ nhanh, dẫn đến chất lượng làm việc không đảm bảo. Đối với lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp, đôi khi cán bộ tín dụng không hiểu biết cặn kẽ về cách thức hoạt động, hệ thống thiết bị cần thiết nhất là những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng đặc thù của ngành. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình kiểm tra, kiểm soát trong quá trình vay vốn cũng như chất lượng tín dụng của Ngân hàng. SCB Hà nội chưa xây dựng được chiến lược marketing rõ ràng để tiếp thị, thu hút khách hàng. Hình thức tiếp thị khách hàng chủ yếu là tìm đến các doanh nghiệp trực tiếp để giới thiệu sản phẩm, dịch vụ của mình do đó tốn nhiều thời gian và chi phí. Còn các DNVVN chưa tìm thấy được lợi ích gia tăng khi đến với dịch vụ của ngân hàng ngoài thái độ phục vụ nhiệt tình của cán bộ. Sản phẩm dịch vụ chưa có sự khác biệt so với các ngân hàng khác, lãi suất chưa hấp dẫn. Hệ thống công nghệ thông tin và mạng lưới chi nhánh chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng như hệ thống Smart Bank với đường truyền quá chậm để tạo lập được một báo cáo cán bôn tín dụng thường phải mất rất nhiều thời gian. Vấn đề công nghệ cũng bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa là nguồn vốn tự có của ngân hàng còn thấp, chưa đáp ứng được nguồn vốn cần thiếp đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ hiện đại hoá của ngân hàng. - Nguyên nhân từ phía nhà nước: Hiện nay nhà nước đang có chủ trương khuyến khích các DNVVN phát triển, nhưng công tác quản lý đối với loại hình doanh nghiệp này còn nhiều hạn chế. Tình trạng DNVVN phát triển tràn lan với số lượng ngày càng nhiều nhưng không hiệu quả. Hệ thống doanh nghiệp chưa cung cấp được thông tin đầy đủ, các thông tin chỉ mang tính chất chung chung, không cụ thể và không được cập nhật thường xuyên do đó cơ quan quản lý không nắm được số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động và lý do ngừng hoạt động. Chính sự phát triển nhanh quá về số lượng trong khi bộ máy quản lý không kiểm soát được tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, dẫn đến nhiều DNVVN làm vỏ bọc cho các hoạt động phi pháp, lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng… Hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng như hoạt động của các DNVVN chưa đồng bộ, thiếu các văn bản hướng dẫn cụ thể. Các văn bản liên quan đến hoạt tín dụng ngân hàng còn nhiều hạn chế, chưa phù hợp với tình hình thực tế. Theo quy định hiện hành thì khi các doanh nghiệp sử dụng các tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh rất khó khăn trong việc xử lý các thủ tục như: đăng ký quyền sở hữu quyền tài sản, đăng ký giao dịch đảm bảo, xác định giá trị tài sản thế chấp nhất là bất động sản… Vấn đề trích lập và phân loại rủi ro chưa đảm bảo được tính an toàn cho ngân hàng, trích lập dự phòng mới chỉ dựa vào thời hạn tín dụng. Mặt khác trong giai đoạn hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với khối các ngân hàng thương mại. Do đó các ngân hàng gần như không cho vay ra. Doanh nghiệp cũng khó khăn hơn khi tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng do lãi suất cho vay tăng cao. Chương III. Các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với các DNVVN tại SCB Hà Nội 3.1 Định hướng hoạt động của SCB Hà Nội trong thời gian tới Định hướng chung - Trong giai đoạn mới, bắt đầu từ năm 2007, khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, quá trình hội nhập của đất nước với thị trường thế giới sẽ càng diễn ra sâu rộng hơn; áp lực cạnh tranh đối với hoạt động của ngành ngân hàng nói chung và của SCB Hà Nội nói riêng, vì thế ngày càng gay gắt hơn. - Tình hình đó đặt ra yêu cầu chi nhánh phải luôn nổ lực trong mọi mặt hoạt động, tích cực phát huy những thành quả đạt được; thường xuyên tiếp cận kinh nghiệm của các ngân hàng đại lý – bạn hàng trong và ngoài nước; tạo bước đột phá mới trong ổn định – tăng trưởng huy động vốn từ thị trường I đồng thời với việc nâng cao tính hiệu quả trong quản trị điều hành sử dụng vốn theo tiêu thức ngân hàng hiện đại, đi đôi với việc phát triển đa dạng, đa tiện ích các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống và hiện đại, phấn đấu đến năm 2010 hệ thống công nghệ dịch vụ ngân hàng SCB ngang tầm các ngân hàng lớn tại Việt Nam và khu vực ASEAN. Trong khi kiên trì thực hiện phương châm: “SCB luôn hướng đến sự hoàn thiện vì khách hàng”, phải đưa mọi hoạt động của ngân hàng bám sát hiệu quả theo định hướng hành động của toàn ngành ngân hàng. Việt Nam là “An toàn – Hiệu quả - Phát triển bền vững – Hội nhập quốc tế”… Mục tiêu chung - Là không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức kinh doanh, lấy hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại đa năng, bán lẻ làm trọng tâm; đồng thời với việc đẩy mạnh các hoạt động đầu tư tài chính – thương mại liên doanh góp vốn đảm bảo tối đa hóa nguồn thu lợi nhuận; cùng với việc từng bước tạo dựng vững chắc các tổ chức, công ty kinh doanh độc lập, trực thuộc theo phương thức đa sở hữu trong mối quan hệ hợp tác liên kết chiến lược thị trường với các cổ đông và khách hàng chiến lược là tổ chức kinh tế có tiềm lực mạnh cả trong nước và nước ngoài. - Với định hướng, mục tiêu chiến lược trên đây, bước vào giai đoạn kế tiếp sau năm 2010, hệ thống tổ chức SCB sẽ dần hình thành một cách khách quan đáp ứng với yêu cầu thực tiễn mô hình tập đoàn tài chính – ngân hàng cỡ trung tại Việt Nam và khu vực ASEAN. 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SCB Hà Nội Với vai trò quan trọng của các DNVVN đối với nền kinh tế và thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp này như hiện nay thì việc đưa ra những chính sách hỗ trợ phát triển cho bộ phận doanh nghiệp này là điều hết sức cần thiết. Phát triển tín dụng cho các DNVVN có thể đem lại lợi ích to lớn cho các ngân hàng. Đặc biệt khi cạnh tranh đang diễn ra găy gắt, các NHTM đang cạnh tranh nhau để giành lấy các khách hàng lớn thì việc phát triển thị trường DNVVN là một định hướng kinh doanh đúng đắn. Các ngân hàng nên tập trung khai thác đối tượng khách hàng này bởi đây là đối tượng khách hàng chiếm thị phần lớn trên thị trường, có tiềm năng lớn có thể đem lại cho ngân hàng nguồn thu nhập cao. Từ thực trạng hoạt động của SCB Hà Nội như hiện nay thì việc mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNVVN là một chính sách phát triển đúng đắn và cần thiết. Để phát huy được tối đa vai trò quan trọng của các DNVVN trong nền kinh tế cũng như để tiếp cận được với đối tượng khách hàng đầy tiềm năng này, trong thời gian tới Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước và SCB Hà Nội cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau: 3.2.1 Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng. Với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng, được xây dựng và hoàn thiện trong nhiều năm, đó chính là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng là những hướng dẫn chung cho cán bộ ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo ra sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng khả năng sinh lời. Nội dung tín dụng chính sách tín dụng bao gồm chính sách về lãi suất và phí suất tín dụng, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng, thời hạn tín dụng và kỳ hạn trả nợ…Vì thế để hoạt động cho vay thực sự có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thì ngân hàng phải xây dựng được một chính sách tín dụng hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận vốn của khách hàng. Bên cạnh việc đa dạng hoá các hình thức cho vay, cần đa dạng hoá các loại tài sản đảm bảo. Danh mục tài sản đảm bảo của SCB Hà Nội chủ yếu vẫn là thế chấp bằng nhà ở, quyền sử dụng đất, máy móc thiết bị…hoặc là cầm cố bằng trái phiếu, kỳ phiếu…còn các loại tài sản khác như hàng hoá, khác khoản phải thu, các hợp đồng bảo hiểm hợp đồng nhận thầu… Ngân hàng muốn thu hút được nhiều khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ thì cần phải mở rộng danh sách các tài sản đảm bảo này bởi hầu hết các DNVVN có tài sản nhỏ, không đủ điều kiện để thế chấp vay vốn. Xây dựng chính sách tín dụng, Ngân hàng còn cần phải xác định một cơ cấu nợ hợp lý. Hiện nay dư nợ cho vay của SCB Hà Nội đối với DNVVN chủ yếu tập trung vào nguồn vốn ngắn hạn mà dư nợ cho vay trung dài hạn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu nợ cho vay. Vì thế trong thời gian tới, Ngân hàng cần tập trung phát triển tín dụng trung dài hạn. Các doanh nghiệp thường có nhu cầu vốn trung dài hạn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật…và trong điều kiện phát triển nhanh chóng của Khoa học và Công nghệ thì nhu cầu vốn trung dài hạn để đầu tư ngày càng gia tăng. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi có thể giúp cho Ngân hàng mở rộng được doanh số cho vay, vì thế Ngân hàng cần tận dụng khai thác để phát triển hoạt động cho vay trung dài hạn. Trong chính sách tín dụng của NHTM thì chính sách về lãi suất và phí suất tín dụng là một trong những chính sách cực kì quan trọng. Ngân hàng cần đưa ra các mức lãi suất tín dụng khác nhau tuỳ theo kì hạn, tuỳ theo loại tiền và tuỳ theo loại khách hàng. Lãi suất có thể cố định trong suốt kì hạn tín dụng hoặc biến đổi tuỳ theo thay đổi của lãi suất thị trường. Ngân hàng đưa ra mức lãi suất định trước nhưng có thể cho phép các cán bộ tín dụng đưa ra mức lãi suất thoả thuận trong giới hạn cho phép đối với những khách hàng truyền thống, khách hàng vay lớn. Khi xây dựng chính sách tín dụng tín dụng, Ngân hàng phải tính đến rủi ro lãi suất, lãi suất hoà vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị trường vì thế cần đưa ra các mức lãi suất linh hoạt, đa dạng trên cơ sở đảm bảo được khả năng sinh lời cũng như khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Lãi suất tín dụng phụ thuộc nhiều yếu tố khác như lãi suất huy động, chi phí khác, thuế, rủi ro… vì thế cần xây dựng một chính sách lãi suất đồng bộ, linh hoạt, có cơ cấu hợp lý…và phải được phổ biến đến mọi cán bộ tín dụng. 3.2.2 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định trước khi ra quyết định cho vay Công tác thẩm định trước khi ra quyết định cho vay là một việc làm hết sức cần thiết bởi nó có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả cho vay của ngân hàng. Thẩm định là việc thu thập, phân tích và xử lý mọi thông tin liên quan đến khách hàng như năng lực tài chính, năng lực dân sự, chu trình sản xuất kinh doanh, lợi nhuận của khách hàng, vì thế Ngân hàng cần thực hiện tốt công tác này để có thể tiến hành phân loại được khách hàng một cách chính xác, xây dựng được một danh sách khách hàng để dễ dàng hơn trong việc ra quyết định cho vay, đảm bảo hoạt động cho vay có hiệu quả hơn. Trong công tác thẩm định cần chú ý đến vấn đề về tài sản thế chấp. Các ngân hàng hiện nay thường coi tài sản thế chấp như là một chỗ dựa an toàn trong việc ra quyết định cho vay. Tài sản thế chấp là cơ sở để ngân hàng thu hồi nợ khi người vay không trả được nợ, nhưng đây chỉ là giải pháp tình thế, bắt buộc, là giải pháp cuối cùng buộc ngân hàng phải thực hiện bởi phát mại tài sản thế chấp là công việc hết sức khó khăn. nó không những ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng cũng như của doanh nghiệp. Vì vậy đối với các khoản cho vay có tài sản đảm bảo, ngân hàng cần thực hiện thẩm định một cách nghiêm ngặt, chính xác, ngân hàng cần tích cực hơn trong việc kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài sản đảm bảo của doanh nghiệp, tránh những ảnh hưởng xấu tác động làm giảm giá trị của tài sản đảm bảo. Việc lựa chọn loại tài sản đảm bảo nào cũng là một vấn đề quan trọng vì nó chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố pháp lý và các yếu tố thị trường như giá cả, quyền chuyển nhượng, sử dụng…Bên cạnh việc thận trọng khi lựa chọn, sử dụng tài sản đảm bảo, Ngân hàng cần mở rộng các hình thức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản để tăng dư nợ cho vay đối với các Doanh nghiệp. Thẩm định hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là khâu rất quan trọng đối với ngân hàng nhằm đạt hiệu quả mong muốn cũng như phòng tránh được rủi ro. Trong khi vấn đề tài sản thế chấp của các DNVVN đang còn nhiều hạn chế thì việc căn cứ vào tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh để ra quyết định cuối cùng là điều hết sức cần thiết. Vì vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thực hiện phân tích, đánh giá, xem xét tính khả thi của dự án một cách nhanh chóng, chính xác và trung thực, rút ngắn thời gian thẩm định. Đồng thời sau khi kết thúc một quy trình cho vay, cán bộ tín dụng kết hợp thực hiện ngay công đoạn bán chéo sản phẩm. Điều này không chỉ tối đa hóa lợi nhuận cho ngân hàng mà còn giữ được mối quan hệ lâu bền và thân thiết đối với khách hàng thông qua các sản phẩm bảo lãnh, cho vay, tư vấn, thẻ, ủy nhiêm chi, ủy nhiệm thu… 3.2.3 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ Chi nhánh Để có thể mở rộng và phát triển một cách có hiệu quả hoạt động tín dụng thì trước hết chi nhánh phải có một cơ cấu tổ chức quản lý chặt chẽ đồng bộ, phải luôn bám sát tình hình thực tế, xây dựng được một tập thể cán bộ đoàn kết, trong đó ban lãnh đạo và cán bộ phụ trách là những người năng nổ, dám làm, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm, cùng với đọi ngũ cán bộ nghiệp vụ có trình độ cao, nhiệt tình và tháo vát trong công việc. Một số vấn đề cần giải quyết Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý điều hành của Chi nhánh. Phải thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về chế độ kế toán mới, các phương pháp và kỹ thuật thẩm định dự án, phân tích các hoạt động kinh tế, các kiến thức pháp lý như luật dân sự, các vấn đề liên quan đến sở hữu. Tuyển chọn những cán bộ thực sự có năng lực cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn trình độ văn hoá, đặc biệt là lớp cán bộ trẻ có năng lực, nhạy bén với công việc, với sự thay đổi và yêu cầu của hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. Bố trí, xắp xếp lại đội ngũ cán bộ một cách hợp lý, từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ trên cơ sở năng lực, trình độ nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, đáp ứng được nhu cầu của công tác kinh doanh trong cơ chế thị trường. Phải thường xuyên có các cuộc hội thảo khoa học, có kế hoạch đào tạo nâng cao nghiệp vụ đối với cán bộ hoạch định chính sách tín dụng để đào tạo ra người có trình độ lý luận nghiệp vụ ngân hàng vững vàng, có kiến thức kinh tế tổng hợp, có phương pháp nghiên cứu khoa học, am hiểu thị trường và giàu kinh nghiệm thực tế, có khả năng tổng hợp vấn đề, có kiến thức pháp luật vững chắc và sâu rộng. Đối với cán bộ quản lý điều hành hoạt động tín dụng, ngoài những tiêu chuẩn về kiến thức nghiệp vụ cơ bản cần có thêm các đặc điểm sau: phải nắm chắc về pháp luật, đặc biệt là luật kinh tế và luật dân sự. Phải nắm chắc các quy định, thể chế và vận dụng một cách linh hoạt, phải có khả năng tổng hợp, phân tích, xác định những điều đúng, chưa đúng, chưa phù hợp của các chế độ, thể chế để kiến nghị với cấp trên. Phải có kiến thức khoa học tâm lý, trình độ ngoại ngữ và tin học. Đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia giao tiếp với khách hàng, thẩm định dự án... phải là những người trung thực, khách quan, thẳng thắn, kiên định, có ý thức bảo vệ tài sản của ngânhàng, ngoài trình độ chuyên môn còn cần phải sâu sát với thực tế, hiểu biết nhận định về kinh tế thị trường, nắm vững pháp luật và các vấn đề có liên quan. Muốn vậy Sở Giao dịch cần phải thường xuyên tổ chức những cuộc kiểm tra kiến thức về nghiệp vụ, pháp luật, tâm lý... và cấn có khuyến khích về mặt vật chất. 3.2.4 Tăng cường thu thập, phân tích thông tin về khách hàng Thông tin luôn là vấn đề hêt sức quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Thông tin phải được cập nhật và xử lý nhanh chóng, chính xác bởi chất lượng thông tin ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược tín dụng. Nắm bắt kịp thời các thông tin, Ngân hàng sẽ phân tích, đánh giá và định hướng được những rủi ro có thể xảy ra, Ngân hàng có thể dự báo, dự đoán trước những tín hiệu biến động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như những biến động của thị trường do đó giúp Ngân hàng đưa ra được những quyết định đầu tư đúng đắn cũng như tránh được những rủi ro mà dự án sản xuất có thể gặp phải. Ngân hàng có thể thu thập các thông tin trực tiếp từ khách hàng, từ Hội sở, từ trung tâm tín dụng (CIC) hoặc từ các phương tiện thông tin đại chúng khác…Để việc thu thập và xử lý thông tin được kịp thời, chính xác, cần thành lập một nhóm tư vấn thông tin tín dụng có chức năng thu thập, phân tích các thông tin về khách hàng, về kinh tế, thị trường, thông tin về pháp luật…có ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. 3.2.5 Xây dựng chính sách khách hàng linh hoạt Ngân hàng tiến hành phân loại khách hàng truyền thống và quan trọng và các đối tượng khách hàng khác để có những chính sách khách hàng hợp lý. Cần có các chính sách ưu đãi với những doanh nghiệp truyền thống đặc biệt là những doanh nghiệp quan trọng, đồng thời có những chính sách để thu hút thêm các doanh nghiệp mới. Để thực hiện được điều này, chi nhánh cần xây dựng được hệ thống chỉ tiêu đánh giá khách hàng cụ thể, thực hiện đầy đủ phương pháp tính điểm tín dụng để nâng cao hơn nữa hiệu quả cho vay của Ngân hàng. Thực tế cho thấy, ứng dụng phương pháp tính điểm tín dụng cho phép giảm bớt chi phí và thời gian cho vay đối với DNVVN, do đó cho phép các tổ chức tín dụng mở rộng vốn vay với khách hàng, cho phép các NHTM xây dựng được quy trình thẩm định tín dụng chặt chẽ hơn qua đó kiểm soát tín dụng được chính xác hơn. Tính điểm tín dụng sẽ giúp giảm bớt sự phụ thuộc nặng nề của ngân hàng vào ký quỹ bằng việc đánh giá chủ doanh nghiệp hay nhà quản lý. Điều này đặc biệt có lợi co các doanh nghiệp trẻ trong tình trạng thiếu báo cáo thống kê về kinh doanh và các yêu cầu bảo đảm tín dụng khác. Hiện nay chi nhánh SCB Hà Nội đã xây dựng được một hệ thống chấm điểm khách hàng doanh nghiệp với nhiều chỉ tiêu như ngành, quy mô doanh nghiệp, khả năng sinh lời, quan hệ của doanh nghiệp với ngân hàng, tỷ số đòn bẩy, thương hiệu sản phẩm…Đây là việc làm hết sức quan trọng giúp cho Ngân hàng đánh giá đúng các đối tượng khách hàng. Tuy nhiên để việc chấm điểm khách hàng được thực hiện đầy đủ và chính xác, chi nhánh cần mở rộng các chỉ tiêu xếp hạng, nâng cao công tác thu thập và xử lý thông tin khách hàng. Do phần lớn các DNVVN thường có mối quan hệ chặt chẽ giữa chủ sở hữu với nhà quản lý doanh nghiệp (hầu hết các DNVVN có chủ sở hữu là người trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp) nên ngân hàng cần tập trung phân tích các thông tin của cá nhân hơn là thông tin doanh nghiệp, cần xác định những chỉ tiêu quan trọng cho việc xếp hạng. Ngoài ra chi nhánh cần tăng cường công tác tiếp thị, tìm hiểu khách hàng trên địa bàn để nghiên cứu, xây dựng mục tiêu kế hoạch đầu tư, kết hợp với tư vấn đầu tư để chủ động hơn nữa trong quan hệ tín dụng và khai thác khách hàng, lựa chọn và thu hút những khách hàng làm ăn có hiệu quả từ đó góp phần nâng cao được hiều quả cho vay tại Ngân hàng. Kết hợp với các gải pháp hỗ trợ phát triển như củng cố và mở rộng mạng lưới ngân hàng bán lẻ, giải pháp quan hệ cộng đồng tạo dấu ấn… Kết luận Ở nước ta hiện nay, DNVVN chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, bao gồm hầu hết các DNNN do địa phương quản lý và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó, nó có khả năng to lớn trong việc mở rộng sản xuất, phát triển ngành nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hàng chục triệu lao động trong các thành phần kinh tế. DNVVN đã sản xuất chế biến và lưu thông một khối lượng hàng hoá, dịch vụ lớn đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của toàn xã hội ngày càng đa dạng và phong phú. DNVVN do phân bố rộng khắp trên mọi vùng đất nước nên nó có vai trò tích cực trong việc khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của mỗi vùng, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, góp thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tuy nhiên trong quá trình phát triển của mình, DNNN còn gặp không ít khó khăn. Trong đó có khó khăn về vốn để đổi mới thiết bị công nghệ, tăng năng suất lao động tạo thế đứng trong cơ chế thị trường là khó khăn lớn nhất, cần phải có sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ giúp đỡ cho các doanh nghiệp phát triển, cho nền kinh tế phát triển mà nó cũng mang lại những lợi ích to lớn cho chính Ngân hàng phục vụ. Chất lượng tín dụng là một vấn đề phức tạp, để nâng cao chất lượng tín dụng không phải là một sớm một chiều là làm được mà cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng của lãnh đạo Ngân hàng. Trong đề tài này em xin đóng góp một cách nhìn của riêng mình, đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHCT Hai Bà Trưng. Do nội dung nghiên cứu phức tạp, thời gian thực tập có hạn cũng như kiến thức thực tế và kỹ năng phân tich của em còn chưa sâu nên đề tài nghiên cứu còn có những khiếm khuyêt không thể tránh khỏi. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô và ban lãnh đạo ngân hàng TMCP Chi nhánh Hà Nội. Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm hướng dẫn tận tình của cô: Ths. Lê Hương Lan – Giáo viên hướng dẫn thực tập và các anh chị tại SCB Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề và khóa thực tập này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Phạm Văn Hồng - Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. 2. TS.Phan Thị Thu Hà - Giáo trình NHTM. NXB ĐH KTQD-2007 3. Các văn bản pháp luật: Luật doanh nghiệp năm 2005, Luật các tổ chức tín dụng đã sửa đổi bổ sung năm 2004; Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN; Thông tư số 01/2006/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước về việc hướng dẫn một số nội dung về góp vốn thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN… 4. Các công văn, quy định và một số tài liệu khác của Ngân hàng TMCP Sài Gòn. 5. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của SCB Hà Nội các năm 2005, 2006, 2007. 6. Luận văn các khoá. 7. Tạp chí Ngân hàng 2008. MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10001.doc