Nâng cao khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam

Mục lục Mục Tiêu đề Trang Lời nói đầu 2 Chương I Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của các NHTM 3 I/ Cạnh tranh 3 1 Quan điểm về cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng 3 2 Bản chất của cạnh tranh 3 3 Đặc điểm của cạnh tranh 3 4 Vai trò của cạnh tranh 4 5 Tác động của cạnh tranh đối với các NHTM 5 6 Lợi thế cạnh tranh của các NHTM 6 II/ Khả năng cạnh tranh của các NHTM 7 1 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM 7 2 Các nhân tố ảnh hưởng tới

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam , để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khả năng cạnh tranh của các NHTM 7 3 Hệ thống các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của các NHTM 8 ChươngII Thực trạng khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam 12 I/ Giới thiệu về các NHTM Việt Nam 12 II/ Năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam 13 1 Đánh giá năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam 13 2 Những thành tựu các NHTM Việt Nam đã đạt được 14 3 Một số tồn tại 16 4 Nguyên nhân của những tồn tại 17 Chương III Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam 21 I/ Đối với Chính phủ và các cơ quan quản lý 21 II/ Đối với NHNN Việt Nam 22 III/ Đối với các NHTM Việt Nam 23 IV/ Một số giải pháp khác 25 Kết luận 26 Tài liệu tham khảo 27 LờI NóI ĐầU Hoạt động ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt trong số các loại hình kinh doanh của nền kinh tế thị trường: đó là hoạt động kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính có liên quan. Vấn đề cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng và đó là một trong những động lực để phát triển kinh tế. Chúng ta đều biết trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế vừa là quy luật tất yếu vừa là động lực của sự phát triển, bất cứ một sự dộc quyền nào cũng đều tác động xấu đến nền kinh tế đặc biệt là trong hoạt động ngân hàng hiện nay. Hoạt động của các ngân hàng thương mại(NHTM) cũng không nằm ngoài quy luật trên, nghĩa là phải chấp nhận cạnh tranh quyết liệt để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam hiện nay bên cạnh những thành tựu đạt được cũng đang bộc lộ một số tồn tại đáng lo ngại vì vậy chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập và phát triển. Do đó nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam là một yêu cầu bức thiết đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và toàn bộ hệ thống ngân hàng nói riêng. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam nhằm tạo ra những chuyển biến mới trong hoạt động của các ngân hàng, làm cho chúng hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn và thích ứng hơn với yêu cầu của sự phát triển. Đề tài này tập trung vào ba vấn đề chính: Chương I: Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của các NHTM. Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. Chương III: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam hiện nay. Phạm vi của đề tài này chưa thực sự đi sâu phân tích, khai thác các khía cạnh của vấn đề một cách sâu sắc và toàn diện. Đề tài này mới chỉ đề cập đến một số điểm nổi bật, đáng lưu ý. Bài viết này chắc chắn còn nhiều sai sót, em hi vọng sẽ nhận được sự chỉ bảo tận tình của cô để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô! CHƯƠNG I cạNH TRANH Và KHả NĂNG CạNH TRANH CủA CáC NGÂN HàNG THƯƠNG MạI i.CạNH TRANH. 1. QUAN ĐIểM Về CạNH TRANH TRONG HOạT Động ngân hàng. Cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng được hiểu là chủ thể ngân hàng với nghệ thuật sử dụng tổng hợp các phương thức, yếu tố nhằm giành được phần thắng trên thị trường, với lợi nhuận cao nhất, nâng cao vai trò và vị thế của mình trên thị trường. 2. BảN CHấT CủA CạNH TRANH. Hoạt động ngân hàng là một trong số các loại hình hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường(KTTT), mà cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của KTTT. Động cơ và nguyên nhân bên trong của cạnh tranh thị trường là ở chỗ do sự thúc đẩy của lợi ích vật chất, bản thân và sự lo lắng mất lợi ích vật chất của mình vì bị chèn ép của các chủ thể hành vi kinh tế cùng loại trên thị trường. Do vậy, đối với nền kinh tế, cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là một động lực phát triển kinh tế – xã hội. Đối với khách hàng, cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng đem lại lãi suất và phí dịch vụ ngày càng hợp lý, chất lượng sản phẩm và dịch vụ ngân hàng tốt nhất, cũng như sự lựa chọn tối ưu nhất. Cạnh tranh còn là do yêu cầu nâng cao lợi nhuận trong kinh doanh. Mục tiêu cao nhất của một NHTM là lợi nhuận, cổ tức chia cho cổ đông ngày càng tăng và ổn định. Để đạt được mục tiêu này, các ngân hàng cần phải khẳng định được vị thế trên thị trường, có uy tín đối với khách hàng. Điều đó đòi hỏi phải không ngừng vươn lên về cạnh tranh trên thương trường. Muốn vậy, ngoài việc phải đáp ứng được yêu cầu về các tiêu chuẩn chất lượng đối với khách hàng thì còn phải có các điều kiện đủ khác, đó là quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại và thực hiện có hiệu quả các khâu quản trị - điều hành khác nữa. 3. đặc điểm của cạnh tranh. Đặc điểm lớn nhất của cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là đối tượng khách hàng rất đông đảo, nhất là đối với các nước có nền KTTT phát triển. Nhìn chung, đó là những người có nhu cầu mở tài khoản, gửi tiền, vay vốn, thanh toán và thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác. Khách hàng là đối tượng cạnh tranh, phục vụ, thu hút, cung cấp dịch vụ của các ngân hàng bao gồm: khách hàng Chính phủ, quốc gia, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức phi chính phủ và bản thân ngân hàng đối tác. Đặc điểm này quy định loại hình, tính chất và cấu trúc tổ chức của mỗi ngân hàng cũng như của cả hệ thống ngân hàng. Đồng thời, cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, yêu cầu của khách hàng về cung cấp các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng diễn ra mọi lúc mọi nơi với thời gian nhanh nhất, tiện lợi nhất và chất lượng ngày càng cao. Đối với mỗi thị trường, mỗi nền kinh tế và cơ quan quản lý thì đặc điểm, tính chất và nội dung cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng của mỗi quốc gia còn tuỳ thuộc vào: thể chế chính trị, môi trường pháp lý, trình độ phát triển kinh tế, đường lối chính sách trong từng thời kỳ và phong tục tập quán. Đối với các nước có nền KTTT phát triển thì hoạt động ngân hàng cũng phát triển và cạnh tranh rất sôi động, các cơ chế quản lý phần nhiều là sử dụng công cụ gián tiếp hoặc các chế tài quy dịnh trong luật chuyên ngành. Còn đối với các nước chậm và kém phát triển thì phần nhiều sử dụng các công cụ quản lý trực tiếp và các biện pháp hành chính cũng được sử dụng nhiều hơn. Về yêu cầu quản lý và cơ chế điều chỉnh cạnh tranh hoạt động ngân hàng: Quản lý về cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng, các quốc gia đều có nội dung cụ thể quy định trong bộ luật riêng về ngân hàng, có cơ quan chuyên môn riêng quản lý về lĩnh vực này. Mục tiêu quản lý là bảo vệ quyền lợi khách hàng, chống độc quyền, đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng và hệ thống tiền tệ, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả. 4. vai trò của cạnh tranh trong nền kttt. Một trong những tiêu chí xác định khả năng cạnh tranh của một quốc gia là hệ thống tài chính tiền tệ của quốc gia đó lành mạnh và ổn định. Như vậy, khả năng cạnh tranh mạnh của một ngân hàng là một yếu tố hết sức quan trọng để củng cố, ổn định và phát triển nền kinh tế. Mặc dù các NHTM đã và đang hoạt động trong môi trường cạnh tranh, nhưng những năm gần đây cạnh tranh đã được đẩy lên chưa từng thấy. Trên thực tế, sức mạnh cạnh tranh đã và đang tạo ra những thay đổi trong phương pháp công nghệ và luật pháp, và chính nó sẽ góp phần vàp việc thay đổi trong dịch vụ ngân hàng, đồng thời cũng làm giảm vai trò của các NHTM trong hệ thống tài chính, và làm biến đổi cơ cấu của các NHTM. Như vậy, cạnh tranh trong nền KTTT có vai trò rất lớn đối với hoạt động của các NHTM, trong việc tồn tại và phát triển của cả hệ thống ngân hàng trước xu thế hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. 5. tác động của cạnh tranh đối với các nhtm. Cạnh tranh có tác động rất lớn đối với các NHTM trên nhiều phương diện hoạt động nhưng chủ yếu tác động trên hai mặt, đó là các tác động tích cực và các tác động tiêu cực. 5.1. TáC Động tích cực. Cạnh tranh có tác động tích cực tới hoạt động ngân hàng ở một số điểm sau: Một mặt, cạnh tranh giúp các NHTM tự đổi mới và cải tổ lại hệ thống ngân hàng nói chung và bản thân các NHTM nói riêng cũng như cơ cấu lại tổ chức, cơ chế điều hành, quản lý…làm cho hoạt động của ngân hàng ngày càng có hiệu quả hơn. Hiện đại hoá trang thiết bị máy móc, nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, mở rộng các hình thức thu hút khách hàng. Trình độ và chất lượng cán bộ công nhân viên ngân hàng ngày càng cao, làm việc với tác phong công nghiệp, phản ứng nhanh nhạy với xu thế mở của thị trường… Đa dạng hoá các danh mục đầu tư, mở rộng mạng lưới chi nhánh, tích cực liên doanh liên kết với các ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế … Mở rộng quy mô, giúp đi sâu chuyên môn hoá vào một số nghiệp vụ chính. Cạnh tranh có thể dẫn tới sự sáp nhập của hai hay nhiều ngân hàng vừa và nhỏ với nhau hoặc với các ngân hàng lớn từ đó làm tăng sức cạnh tranh. Mặt khác cạnh tranh cũng đem lại nhiều lợi ích về phía khách hàng_ những người sử dụng dịch vụ ngân hàng: họ có cơ hội chọn lựa những ngân hàng tốt nhất, phù hợp nhất với yêu cầu cũng như điều kiện của mình về chất lượng dịch vụ, uy tín, lãi suất, sự tiện lợi… Như vậy, cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển ngày càng lớn mạnh của toàn bộ hệ thống NHTM. 5.2. tác động tiêu cực Bên cạnh những tác động tích cực, cạnh tranh cũng có một số tác động tiêu cực đến hoạt động và sự phát triển của các NHTM. Cạnh tranh trên thị trường tín dụng có thể làm tăng rủi ro tín dụng tiềm ẩn. Cạnh tranh giữa các NHTM có xu hướng làm giảm lãi xuất cho vay; vốn rẻ sẽ khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng đầu tư, đầu tư tràn lan bất chấp cả dự án chứa nhiều rủi ro, mặt hàng sản xuất kinh doanh chịu sự cạnh tranh lớn, tỉ lệ lợi tức đầu tư thấp. Do vậy, mức độ an toàn của nguồn vốn đầu tư không cao. Nhằm giành được khách hàng, tăng nhanh dư nợ tín dụng, các ngân hàng đã nới lỏng hơn các điều kiện vay vốn, do đó rủi ro tiềm ẩn có thể tăng lên. Thu nhập ròng có thể bị ảnh hưởng mạnh bởi cạnh tranh quá gay gắt giữa các NHTM. Sự cạnh tranh bằng lãi suất có thể làm tổn hại tới hệ thống ngân hàng hơn là mang lại nhiều tiện ích cho các ngân hàng. Mặt khác cạnh tranh còn làm cho các ngân hàng nói chung và các NHTM nói riêng có quy mô vừa và nhỏ hoạt động khó khăn hơn trong cơ chế thị trường. Đó là một số tác động tiêu cực của cạnh tranh có ảnh hưởng lớn tới hoạt động của các NHTM. Do đó các NHTM cũng cần thấy rõ được các tác động tiêu cực này để đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế, phòng ngừa hữu hiệu. 6. lợi thế cạnh tranh của các nhtm. Theo lý thuyết về lợi thế cạnh tranh, thì lợi thế cạnh tranh được dựa trên những nguồn lực rêng biệt, những nguồn lực mà đối thủ cạnh tranh khó có thể có được, không dễ bị thay thế, những nguồn lực đóng góp tích cực cho việc khai thác vị thế sẵn có của công ty, những nguồn lực khó mô phỏng. Lợi thế cạnh tranh của các chủ thể kinh tế nói chung và của các NHTM nói riêng được cấu thành bởi hai nhóm vấn đề lớn, đó là: Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế chính trị xã hội, các nguồn lực tự nhiên và nguồn nhân lực. Sự năng động, khả năng tiếp nhận sự đổi mới, khả năng nhận thức và các phương pháp đuợc thực hiện trong từng giai đoạn cụ thể để thực hiện sự đổi mới đó. Trên thực tế khó có quốc gia nào nói chung và những NHTM cũng như các doanh nghiệp nói riêng hội tụ đủ các nhân tố kể trên. Vì thế, cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTM trên cơ sở phân tích kỹ lưỡng và thận trọng sự hình thành cũng như sự kết hợp tối ưu giữa các nhân tố đó. II. KHả NĂNG CạNH TRANH CủA CáC NHTM. 1. Sự CầN THIếT PHảI NÂNG CAO NĂNG LựC CạNH TRANH CủA CáC NHTM. Để hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động của các NHTM nói riêng tiếp tục đóng vai trò quan trọng là đầu tàu, là khâu đột phá khẩu, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển thì nhất thiết phải tạo ra môi trường, điều kiện cạnh tranh sôi động và đặc biệt là phải nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTM vì sự sống còn và phát triển của các chủ thể kinh doanh. Như chúng ta đã biét, sức mạnh cạnh tranh của các NHTM được kiến tạo bởi tổng hợp các nguồn lực của chính các NHTM, đó là 8 nguồn lực chủ yếu: năng lực điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng; quy mô vốn và tình hình tài chính; công nghệ cung ứng dịch vụ; chất lượng nguồn nhân lực; cơ cấu tổ chức; công tác quản trị chiến lược và kiểm soát; hệ thống thông tin; danh tiếng và uy tín của ngân hàng. Vì vậy, để phát triển tổng hợp cũng như phát huy được tiềm lực sẵn có của các nguồn lực đó trong sự nghiệp phát triển đất nước thì các NHTM phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh đáp ứng yêu cầu của hội nhập và phát triển. 2. các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của các nhtm Một ngân hàng có khả năng cạnh tranh cao hay thấp, điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhìn chung, có thể chia các yếu tố này thành hai nhóm sau: Nhóm các yếu tố nội tại, bao gồm: Vốn tự có và vốn điều lệ; năng lực tài chính; các khoản nợ khó đòi; cơ cấu tổ chức bộ máy; khả năng đổi mới và cơ cấu lại hoạt động; trình độ cán bộ nhân viên; công nghệ ngân hàng; uy tín ngân hàng; năng lực quản trị, điều hành; chất lượng tín dụng; chiến lược khách hàng; khả năng phản ứng với thị trường; khả năng nắm bắt thời cơ; khả năng phân tích, dự báo xu hướng phát triển của ngành; các loại hình dịch vụ; khả năng đa dạng hoá các công cụ cạnh tranh và sử dụng linh hoạt chúng v.v… Nhóm các yếu tố bên ngoài, đó là: Hệ thống văn bản pháp lý nói chung và các văn bản tạo hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng nói riêng đặc biệt là các văn bản liên quan đến cạnh tranh, chống độc quyền trong hoạt động ngân hàng; các điều kiện kinh tế xã hội; các định hướng, chiến lược phát triển của Nhà nước đối với ngành ngân hàng; thực trạng nền kinh tế; mức tăng trưởng kinh tế; khoảng cách về quy chế quản lý và hoạt động giữa các ngân hàng trong và ngoài nước; sự tham gia ngày càng lớn của các định chế tài chính, các tổ chức tín dụng; mức độ hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế; sự điều hành, quản lý của NHNN v.v… Như vậy, tất cả các chỉ tiêu, nhóm chỉ tiêu trên đều có thể ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của mỗi NHTM. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố có thể khác nhau. 3. hệ thống các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của các NHTM. Trong lĩnh vực ngân hàng, chi phí và năng suất lao động không mang nhiều ý nghĩa để có thể so sánh với nhau. Hiện nay, xu hướng cạnh tranh liên quan đến những yếu tố phi giá như: sự khác biệt của sản phẩm, về chất lượng sản phẩm cũng như những điều kiện về tài chính, mạng lưới phân phối bán hàng… đang trở lên phổ biến hơn. Trong nhiều trường hợp, các chỉ tiêu về lợi nhuận và thị phần chỉ có thể phản ánh sức cạnh tranh của một ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định, nó không phản ánh được tính ổn định lâu dài sức cạnh tranh của một ngân hàng NHTM. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, cần thiết phải sử dụng một hệ thống chỉ tiêu mang tính tổng hợp, toàn diện hơn theo 4 nhóm chỉ tiêu sau: Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh; Nhóm chỉ tiêu phản ánh chất lượngdịch vụ; Nhóm chỉ tiêu phản ánh tính đổi mới trong hoạt động kinh doanh và nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ thoả mãn của khách hàng. 3.1. nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Trong lĩnh vực ngân hàng, hiệu quả kinh doanh thường được đánh giá thông qua 3 chỉ số phân tích cơ bản: Chỉ số thứ 1: Lợi nhuận ròng ROA = x 100 Tổng tài sản có Chỉ số ROA(Return on asset) cho nhà phân tích thấy được khả năng bao quát của ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập từ tài sản có. Nói cách khác, ROA giúp nhà phân tích xác định hiệu quả kinh doanh tính trên một đồng tài sản có. ROA lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của ngân hàng tốt, ngân hàng có cơ cấu tài sản hợp lý, ngân hàng có sự điều động linh hoạt giữa các hạng mục trên tài sản có trước những biến động của nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu ROA quá lớn nhà phân tích sẽ lo lắng vì rủi ro luôn song hành với lợi nhuận. Chỉ số thứ 2: Lợi nhuận ròng ROE = x 100 Vốn tự có ROE là chỉ số đo lường hiệu quả sử dụng của một đồng vốn tự có. Nó cho biết số lợi nhuận ròng mà các cổ đông có thể nhận được từ việc đầu tư vốn của mình. Nếu ROE quá lớn so với ROA chứng tỏ vốn tự có của ngân hàng chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ so với tổng nguồn vốn; vốn kinh doanh vì vậy sẽ chủ yếu lấy từ nguồn huy động và như vậy có thể ảnh hưởng tới mức độ lành mạnh trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chỉ số thứ 3: Tổng chi phí Tổng thu nhập Chỉ số này tính toán khả năng bù đắp chi phí từ nguồn thu nhập của ngân hàng. Đây cũng là chỉ số đo lường hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Thông thường chỉ số này nhỏ hơn 1. Nếu lớn hơn 1 chứng tỏ ngân hàng hoạt động kém hiệu quả và đang có nguy cơ phá sản trong tương lai. Thông qua các Bảng cân đói kế toán và Báo cáo thu nhập, chi phí được các ngân hàng công bố trong các bản báo cáo thường niên được phát hành rộng rãi, các nhà phân tích sẽ dễ dàng có được các chỉ số trên. 3.2. nhóm chỉ tiêu phản ánh chất lượng dịch vụ ngân hàng. Chất lượng dịch vụ luôn là vấn đề quan tâm của mọi NHTM vì chất lượng dịch vụ ngày nay đang trở thành một lợi thế cạnh tranh quan trọng đối với mỗi NHTM. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng dịch vụ trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm: Chất lượng nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ. Độ an toàn và chính xác. Thủ tục giao dịch. Tốc độ xử lý giao dịch. Để có thể đo lường được các yếu tố hầu hết mang tính chất vô hình nêu trên, các NHTM có thể sử dụng các công cụ nghiên cứu Marketing như lập bảng hỏi khách hàng, phỏng vấn trực tiếp khách hàng, tổ chức toạ đàm theo chuyên đề hoặc sử dụng hộp thư góp ý của khách hàng. 3.3. nhóm chỉ tiêu phản ánh tính đổi mới trong hoạt động ngân hàng. Qúa trình cạnh tranh thực chất là quá trình đổi mới hoạt động của ngân hàng sao cho phù hợp nhất với thị trường. Do thị trường luôn thay đổi vì vậy khả năng đổi mới linh hoạt trở thành chỉ tiêu phản ánh sức cạnh tranh của các NHTM. Nói cách khác, chỉ tiêu đổi mới là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh sức cạnh tranh của một NHTM trong cơ chế thị trường. Các chỉ tiêu cụ thể phản ánh sự đổi mới trong hoạt động kinh doanh của các NHTM bao gồm: Số lượng dịch vụ mới. Số lượng địa điểm phân phối mới. Những thay đổi mới khác trong quá trình cung ứng dịch vụ, cơ cấu tổ chức, chiến lược kinh doanh. 3.4. nhóm chỉ tiêu phản ánh sự hài lòng của khách hàng. Đây là nhóm chỉ tiêu mang tính tổng hợp nhất và có thể nói là quan trọng nhất theo quan điểm Marketing. Vì suy cho cùng, các ngân hàng cạnh tranh nhau để thu hút được nhiều khách hàng thông qua việc thoả mãn tốt nhất nhu cầu của họ. Nhóm chỉ tiêu này chủ yếu được đánh giá theo khía cạnh kết cấu của vấn đề, cụ thể như sau: Tốc độ tăng trưởng / suy giảm số lượng khách hàng Tốc độ tăng trưởng /suy giảm thị phần. Phương pháp tính toán hai chỉ tiêu trên chủ yếu dựa vào phương pháp thống kê thông tin từ trong nội bộ ngân hàng và thông tin từ bên ngoài ngân hàng. Do mức sinh lợi của các nhóm khách hàng / dịch vụ khác nhau sẽ khác nhau vì vậy chỉ tiêu trên cần thiết được thống nhất theo từng loại hình dịch vụ cụ thể. 3.5.sơ đồ hệ thống các chỉ tiêu phản ánh sức cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng. Liên tục đổi mới - Dịch vụ mới - Địa điểm cung ứng mới - Đổi mới khác Kết quả kinh doanh - ROA - ROE - Chi phí / thu nhập T/m khách hàng - Tăng /giảm khách hàng - Tăng / giảm thị phần Chất lượng cao - Chất lượng nhân viên - Thủ tục giao dịch - Độ an toàn chính xác Sức cạnh tranh MHTM Chương ii Thực trạng khả năng cạnh tranh của các nhtm việt nam i. giới thiệu về các NHTM Việt Nam. Như đã biết, NHTM là một tổ chức trung gian tài chính, hoạt động bằng vốn tự có và vốn huy động trên thị trường. ở Việt Nam, vốn tự có của các ngân hàng do Ngân sách Nhà nước cấp đối với các NHTM quốc doanh; và vốn do các cổ đông đóng góp đối với các NHTM cổ phần. Số vốn tự có này chỉ chiếm không quá 5% tổng số vốn hoạt động của một NHTM. Như vậy, hầu hết nguồn vốn hoạt động phải huy động trong xã hội và các nguồn vốn khác nhau. Ví dụ như NHNN & PTNT Việt Nam, vốn điều lệ được cấp là 2200 tỷ đồng, chỉ chiếm 3% trong tổng số vốn hoạt động 66000 tỷ đồng. Các NHTM Việt Nam chủ yếu huy động vốn trên thị trường từ hai đối tượng là: các tổ chức kinh tế và dân cư. Đến nay, hệ thống NHTM Việt Nam bao gồm: 6 NHTM Nhà nước với 116 chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, chưa kể đến các chi nhánh cấp huyện thị trấn, các chi nhánh cấp II và phòng giao dịch; 23 NHTM cổ phần đô thị với 105 chi nhánh cấp I, chưa kể đến các chi nhánh cấp II và các phòng giao dịch; 14 NHTM cổ phần nông thôn với 27 chi nhánh, chưa kể các phòng giao dịch; 4 ngân hàng liên doanh với 7 chi nhánh; 26 chi nhánh ngân hàng nước ngoài(CNNHNN); hơn 900 ngân hàng hợp tác. Ngoài ra còn có các công ty tài chính và các công ty cho thuê tài chính được thành lập và tham gia vào thị trường tiền tệ và hệ thống tiết kiệm bưu điện trải rộng khắp nơi(số liệu năm 2003). Nhìn tổng thể, ở Việt Nam có một hệ thống ngân hàng với đầy đủ các thành phần kinh tế tham gia, có mạng lưới rộng lớn, phân bổ ở các tỉnh và thành phố, đủ năng lực để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Tuy vậy, so với các nước trên thế giới và trong khu vực thì các NHTM Việt Nam chưa thể là các ngân hàng mạnh. Hiên nay, 5 trong số 6 NHTM quốc doanh được xem là các ngân hàng hàng đầu ở Việt Nam có vốn điều lệ Nhà nước cấp sau đợt bổ xung năm 2002 đạt 11000 tỷ đồng. Tổng vốn diều lệ của các NHTM cổ phần xấp xỉ 2,8 ngàn tỷ. Mạng lưới ngân hàng nước ta tuy rộng nhưng phân bố chưa thật hợp lý. Các NHTM Nhà nước hầu hết xây dựng mạng lưới của mình theo lãnh thổ. ở nhiều vùng, nhiều thị trấn, huyện kinh tế chưa phát trển thế nhưng các ngân hàng đều có mặt đầy đủ dưới hình thức chi nhánh. Có quan điểm cho rằng, xây dựng mạng lưới như vậy để đảm bảo sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, tránh tình trạng độc quyền. Điều này có thể đúng với những nơi có cầu về dịch vụ ngân hàng ở mức thấp, việc bố trí như vậy có thể không hiệu quả, dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh, thiếu đàng hoàng. Trong khi đó, nhiều NHTM cổ phần đô thị hệ thống còn hẹp, một số ngân hàng chỉ có trụ sở chính và ít phòng giao dịch hoạt động trên địa bàn với hội sở chính nên không có khả năng tiếp cận thị trường ngoài địa bàn đóng trụ sở. Hoạt động của các NHTM cổ phần nông thôn, tuy có số vốn điều lệ nhỏ, nhưng đã có một phần đóng góp vào thị trường tài chính tiền tệ ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, hiện nay cũng có nhiều vấn đề cần đề cập về loại hình ngân hàng này. Hiện nay, tính chuyên nghiệp của các NHTM Việt Nam đã không còn như trước đây. Các NHTM đều hoạt động đa năng, đều tìm cách vươn tới những thị trường không thuộc “ngành” mình để hoạt động. Từ đó làm tăng mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng. Nhìn chung, về cơ cấu tổ chức cũng như hoạt động của các NHTM Việt Nam còn nhiều bất cập. Tất cả những điều đó làm giảm khả năng cạnh tranh của mỗi NHTM trong nước với nhau cũng như với các CHNHNN tại Việt Nam. ii. năng lực cạnh tranh của các NHTM VIệt Nam. 1. đánh giá về năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. Đánh giá năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong địng huớng phát triển của các NHTM trước xu thế hội nhập và phát triển. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam sẽ giúp cho các ngân hàng trong hoạt động Marketing hướng tới nâng cao vị thế để chiếm lĩnh thị trường, làm cho sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng thích ứng với nhu cầu của thị trường, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Ngành ngân hàng là một trong những ngành giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Theo đánh giá chung, tiến trình đổi mới hoạt động ngân hàng đã có nhiều kết quả đáng ghi nhận, song vẫn bị coi là chậm so với yêu cầu đổi mới của nền kinh tế. Điều đó được thể hiện qua năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính ngân hàng nước ta còn quá thấp so với thế giới cũng như khu vực( đánh giá năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính – ngân hàng của Việt Nam năm 2000, trong 59 nước được xếp hạng thì Việt Nam chỉ hơn có Inđônêxia). Đây có thể là một thách thức lớn trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế của hệ thống NHTM nước ta. Trong tiến trình cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam, bên cạnh việc nhìn nhận năng lực cạnh tranh của toàn hệ thống tài chính – ngân hàng đối với thế giới, việc nhìn nhận, đánh giá năng lực cạnh tranh trong nội bộ ngành ngân hàng cũng rất cần thiết để đảm bảo sự thành công trong quá trình phát triển và hội nhập. Năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM nước ta theo đánh giá chung của nhiều chuyên gia kinh tế, hiện nay vẫn còn hết sức khiêm tốn. Với tiềm lực dồi dào về tài chính, với công nghệ hiện đại, với đội ngũ nhân viên tinh thông nghiệp vụ và nhiều lợi thế cạnh tranh khác của các ngân hàng nước ngoài thì liệu sức cạnh tranh của các NHTM Việt Nam có được cải thiện? Đối chiếu với hoạt động cạnh tranh của các NHTM hiện nay, một điều dễ nhận thấy là hầu như không có hoặc rất ít tình trạng cạnh tranh bất hợp pháp. Đó là một biểu hiện rất đáng mừng. Tuy nhiên, thời gian vừa qua các NTHM Việt Nam chủ yếu cạnh tranh với nhau bằng lãi suất. Sự cạnh tranh lãi suất giữa các NHTM làm cho các ngân hàng luôn “thủ thế” với nhau, thường xuyên nghe ngóng thông tin của ngân hàng bạn về việc hạ lãi suất. Kết quả cuối cùng là hiệu quả hinh doanh ngày càng giảm. Xu thế của các NHTM là cho vay thấp hơn lãi suất cơ bản đã cho thấy giữa các ngân hàng đã có sự cạnh tranh mạnh mẽ. Điều này làm cho một số ngân hàng có ưu thế cạnh tranh chiếm được thị phần lớn hơn và một số ngân hàng khác sẽ bị giảm thị phần tín dụng và lâm vào cảnh khó khăn, suy yếu. Tóm lại, với năng lực cạnh tranh yếu kếm như hiện nay, các NHTM Việt Nam còn nhiều việc phải làm trong thời gian tới để cải thiện sức cạnh tranh của toàn bộ hệ thống cũng như để có đủ sức cạnh tranh với nhau và với các ngân hàng nước ngoài. 2. những thành tựu các NHTM Việt Nam đã đạt được. Trong hoạt động ngân hàng, cạnh tranh là động lực phát triển của bản thân ngành ngân hàng cũng như của nền kinh tế, đó là động lực của sự đổi mới theo hướng không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động. Trong cạnh tranh, thời gian qua hệ thống NHTM nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần cho hoạt động cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn. Cạnh tranh đã có sự chọn lọc và đào thải, nó cho phép chọn lọc và đào thải các tổ chức tín dụng(TCTD). Những TCTD nói chung và các NHTM nói riêng đáp ứng được các yêu cầu pháp luật quy định, nâng cao được năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động thì mới có thể đứng vững trên thị trường, tồn tại và phát triển vững chắc. Ngược lại, những ngân hàng nào không vươn lên được, nợ quá hạn cao, thua lỗ kéo dài, năng lực hoạt động kém sẽ bị thu hồi giấy phép, đóng cửa hoạt động, sáp nhập hay bán lại cho ngân hàng khác. Cạnh tranh tạo điều kiện hoàn thiện chính sách tiền tệ, đổi mới nghiệp vụ NHTW, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN, phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh, giảm sự can thiệp của các cấp chính quyền địa phương vào hoạt động ngân hàng. Hệ thống ngân hàng phát triển đông về số lượng, đa dạng về loại hình sở hữu và phong phú về mô hình tổ chức, bao gồm: 4 ngân hàng liên doanh, 26 CNNHNN, 4 NHTM quốc doanh và 2 ngân hàng chính sách, 37 NHTM cổ phần, 9 công ty tài chính và trên 10 công ty cho thuê tài chính, các quỹ tín dụng nhân dân. Với sự tham gia của các tổ chức phi ngân hàng đã làm giảm đi sự độc quyền của mỗi khối TCTD trong toàn quốc, cũng như độc quyền trên từng địa bàn, tạo sự lựa chọn thuận lợi hơn cho khách hàng. Đặc biệt đã có sự cạnh tranh sôi động giữa các ngân hàng nước ngoài với các NHTM trong nước; giữa các NHTM quốc doanh và các NHTM cổ phần. Đã có sự phân chia mạnh mẽ về thị phần huy động và thị phần cho vay giữa các khối ngân hàng : Thị phần huy động (%): Năm NHTM QD NHTMCP CNNHNN&NHLD 1995 81,8 11,5 6,7 1999 79,1 10,4 9,1 2000 76 18 6 2002 75,5 18 6,5 Thị phần cho vay (%): Năm NHTMQD NHTMCP CHNHNH&NHLD 1995 81 10,6 8,4 1999 74 9,7 14,3 2000 72 11 17 2002 73,5 14,5 12 NHTMQD : NHTM quốc doanh NHTMCP : NHTM cổ phần CNNHNN&NHLD : CNNHNN và ngân hàng liên doanh Cạnh tranh đã đem lại mức lãi suất, mức phí ngày càng hợp lý hơn cho khách hàng với chất lượng phục vụ ngày càng nâng cao, an toàn, bí mật và nhanh chóng. Cạnh tranh cũng thúc đẩy sự phân định rõ hoạt động tín dụng ưu đãi, tín dụng theo chính sách với hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, nó cũng đã thúc đẩy sự ra đời của thị trường vốn đặc biệt là sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam. Các NHTM Việt Nam đã không ngừng mở rộng quy mô huy động vốn và tăng trưởng tín dụng, chú ý hơn tới chất lượng tín dụng, chọn lọc khách hàng. Cạnh tranh đã tạo cho hoạt động ngân hàng nhiều bước đột phá mới trong hội nhập và phát triển. Các NHTM và các TCTD đã phát triển rộng mạng lưới, mở thêm chi nhánh, phòng giao dịch, bàn tiết kiệm, kể cả mở văn phòng đại diện ở nước ngoài hay mở ngân hàng liên doanh(NHLD) ở nước ngoài. Từ đó lại thúc đẩy các NHTM và TCTD hoàn thiện tổ chức bộ máy, chấn chỉnh công tác quản trị, nâng cao chất lượng công tác điều hành quản lý; thúc đẩy các NHTM đa dạng hoá hoạt động, các hình thức thanh toán và dịch vụ; hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nâng cao trình độ cán bộ, đổi mới phong cách làm việc, tạo được quan hệ bình đẳng hơn giữa ngân hàng và khách hàng. Để hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, các NHTM Việt Nam đã phải nỗ lực không ngừng để nâng cao năng lực cạnh tranh về các mặt: cạnh tranh về mở rộng mạng lưới, chức năng hoạt động; cạnh tranh về việc ứng dụng công nghệ thông tin; cạnh tranh về đa dạng hoá sản phẩm ,dịch vụ; cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ; và cạnh tranh về chiến lược kinh doanh. So với các CNNHNN thì các NHTM Việt Nam có rất nhiều lợi thế. Do đó, khả năng mở rộng thị phần là rất lớn. Và để làm được điều này, không gì khác là các NHTM Việt Nam phải nâng cao năng lực cạnh tranh của chính bản thân mỗi ngân hàng. 3. một số tồn tại Trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam, bên cạnh những thành tựu đã đạt được cũng còn bộc lộ một số tồn tại cần khắc phục. Đó là: Chưa thực sự có cạnh tranh sôi động, cạnh tranh bình đẳng giữa các NHTM. Những quy định khống chế, hạn chế hoạt động của CNNHNN và NHLD(Quyết định số 424/1999/QĐ - NHNN 5 ngày30/11/1999) chính là quy định hạn chế cạnh tranh bình đẳng của khối ngân hàng này: các NHLD không bị hạn chế nhận tiền g._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33656.doc
Tài liệu liên quan