Nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Đầu tư xây dựng và phát triển công nghệ

Mở đầu Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay nước ta với đường lối chính sách rộng mở của Đảng và Nhà nước đã và đang hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới với nền kinh tế không ngừng tăng trưởng qua các năm qua. Qua sự hội nhập và phát triển trên đã tạo ra những cơ hội và thách thức mới cho các doanh nghiệp Việt nam từ đó tạo ra sự cạnh tranh gay gắt hơn. Trước tình hình đó các doanh nghiệp Việt Nam phải có tầm nhìn xa hơn và rộng hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Bất cứ một doa

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1391 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Đầu tư xây dựng và phát triển công nghệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh nghiệp nào đã tồn tại trong nền kinh tế thị trường đều chịu ảnh hưởng của sự cạnh tranh. Cạnh tranh giúp cho các doanh nghiệp không ngừng hoàn thiện mình và đào thải những doanh nghiệp yếu kém làm ăn không hiệu quả từ đó đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của thị trường của người tiêu dùng. Công ty Đầu tư xây dựng và phát triển công nghệ là một công ty chuyên về xây dựng thành lập từ năm 1993, đã hoạt động được nhiều năm và thu được kết quả đáng kể trong những năm qua. Hiện nay với sự phát triển nhanh của ngành xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế thì Công ty đang phải đối mặt với những thách thức và cơ hội rất lớn do thị trường đem lại. Những năm gần đây thị trường của Công ty có những bước phát triển đáng kể và không ngừng được mở rộng, sản phẩm của Công ty được thị trường biết đến. Bên cạnh những mặt tích cực trên, Công ty vẫn còn những tồn tại hạn chế trong cạnh tranh và gặp nhiều sự cạnh tranh không lành mạnh, sự thiếu trung thực trong kinh doanh…chính điều đó ảnh hưởng bất lợi đến Công ty. Vì vậy việc đưa ra một số giải pháp để giúp Công ty nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường là hết sức cần thiết. Xuất phát từ tầm quan trọng và thực trạng vấn đề khả năng cạnh tranh của Công ty em đã mạnh dạn chọn đề tài “nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty đầu tư xây dựng và phát triển công nghệ” để thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình nhằm góp phần cả về lý luận và thực tiễn để nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty. Tuy nhiên do giới hạn về năng lực nên em chỉ xin trình bày về nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường trong nước. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. - Đánh giá thực trạng khả năng cạnh tranh của Công ty đầu tưu xây dựng và phát triển công nghệ, phân tích điểm mạnh điểm yếu của Công ty - Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty giúp Cộng ty duy trì và phát triên thế mạnh của mạnh. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và của Công ty ICD nói riêng, tập trung phân tích trong ba năm 2003 – 2005. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê khảo sát thực tế, phương pháp tổng hợp , phương pháp phân tích định tính, so sánh phân tích hệ thống. Kết cấu của đề tài bao gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận cơ bản về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Chương 2 : Thực trạng khả năng cạnh tranh của công ty Đầu tư xây dựng và phát triển công nghệ Chương 3 : Một số biện pháp năng cao khả năng cạnh tranh của công ty Đầu tư xây dựng và phát triển công nghệ Chương1 Cơ sở lý luận cơ bản về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 1.1 Cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Khái niệm về cạnh tranh Các học thuyết kinh tế thị trường, dù trường phái nào đều thừa nhận rằng: cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường nơi mà cung – cầu và giá cả hàng hoá là nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường, cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường. Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế – xã hội phức tạp, do có nhiều cách tiếp cận khác nhau nên có các quan niệm khác nhau về cạnh tranh. đặc biệt là phạm vi của thuật ngữ này có nhiều cách định nghĩa khác nhau: Theo Mác “ cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữ các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu ngạch” Cuốn từ điển rút gọn về kinh doanh đã định nghĩa “ cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch của các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoăc cùng một loại khách hàng về phía mình.” Theo Từ điển Bách khoa của Việt Nam thì : “ cạnh tranh (trong kinh doanh) là sự ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa những thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền cơ chế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất , tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.” Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cho rằng : cạnh tranh là khái niệm của doanh nghiệp, quốc gia, vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế. Theo cuốn kinh tế học của P.Samuelson thì : Cạnh tranh là sự kình địch của các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng và thị trường . Từ các quan điểm trên, có thể rút ra khái niệm cạnh tranh như sau: “Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất”. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi. Các loại hình cạnh tranh Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà người ta phân chia canh tranh theo các hình thức khác nhau. Căn cứ mức độ cạnh tranh trên thị trường Cạnh tranh hoàn hảo Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó số người tham gia vào thị trường tương đối lớn và không ai có thể cung ứng hay mua một số lượng sản phẩm đủ để ảnh hưởng tới giá cả. Người mua và người bán không ai quyết định giá cả mà và chỉ chấp nhận giá cả mà thôi. Các sản phẩm tham gia vào thị trường này là đông nhất và tiêu chuẩn hoá. Điều kiện tham gia vào thị trường và rút khỏi thị trường dễ dàng. Những người bán tham gia vào thị trường chỉ có thích ứng với giá cả. Họ chỉ còn cách tìm biện pháp hạ thấp chi phí sản xuất và sản xuất lượng sản phẩm giới hạn mà chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên. Các doanh nghiệp hoặc người bán có thể di chuyển tự do từ ngành này sang ngành khác để tìm kiếm con đường làm ăn có lợi nhất. Tóm lại, thị trường cạnh tranh hoàn hảo khó tìm thấy trong điều kiện hiện nay. Cạnh tranh không hoàn hảo: Nếu trong thị trường có một hoặc một số doanh nghiệp có thể có tác động đáng kể đến sản lượng đến giá cả thị trường thì đó được coi là thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Trên thị trường này, mỗi loại sản phẩm có nhiều nhãn hiệu khác nhau, giá cả khác nhau mặc dù sự khác nhau giữa các sản phẩm này là không đáng kể. Mỗi loại nhãn hiệu lại có uy tín và hình ảnh khác nhau, các điều kiện mua bán khác nhau. Người bán có được uy tín, sự độc đáo khác nhau đối với người mua do nhiều lý do khác nhau như: khách hàng quen, gây được lòng tin từ trước, sản phẩm có tên tuổi lâu trên thị trường. Trong sự cạnh tranh này, người bán lôi kéo khách hàng về phía mình bằng nhiều cách thức như: quảng cáo, khuyến mại, dịch vụ trước- trong - sau khi bán hàng. đây là hình thức cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay. Cạnh tranh độc quyền: có các hình thức độc quyền tập đoàn, độc quyền bán, độc quyền mua. Độc quyền tập đoàn : Trong thị trường độc quyền tập đoàn, sản phẩm có thể giống nhau hoặc khác nhau và chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hoặc hầu hết tổng sản lượng. Trong một số thị trường độc quyền tập đoàn, một số hoặc tất cả các doanh nghiệp đều thu được lợi nhuận đáng kể trong dài hạn vì có các rào cản gia nhập làm cho các doanh nghiệp mới không thể hoặc khó có thể tham gia vào thị trường. Tính phụ thuộc giữa các doanh nghiệp lớn, nếu một doanh nghiệp giảm giá sẽ dẫn đến tình trạng phá giá, do đó các doanh nghiệp liên kết với nhau để chiếm lĩnh thị trường. Độc quyền bán: thị trường độc quyền bán có nghĩa là chỉ có một người bán một loại sản phẩm hay dịch vụ đặc thù mà người khác không thể có hoặc không thể làm được. Tình trạng độc quyền chỉ có thể xảy ra nếu không có sản phẩm nào thay thế sản phẩm độc quyền hoặc do vốn đầu tư lớn hoặc do độc quyền bí quyết, kỹ thuật công nghệ...Thị trường này không có sự cạnh tranh về giá mà do người bán hoàn toàn quyết định. Độc quyền mua: Độc quyền mua tức là thị trường chỉ có một người mua, tập đoàn độc quyền mua là một thị trường trong đó chỉ có một người mua. Khi thị trường chỉ có một người mua thì người mua có sức mạnh độc quyền mua, đó là khả năng thay đổi hàng hoá. Nó cho phép người mua có thể mua nhiều hàng hoá ở mức thấp hơn giá trong thị trường cạnh tranh. Căn cứ vào phạm vi cạnh tranh Cạnh tranh quốc gia : Đó là một hình thức cạnh tranh diễn ra trên quy mô rộng lớn nhất , giữa quốc gia này với quốc gia khác nhằm tìm kiếm thị trường đầu tư, xất khẩu thu lợi nhuận nhiều hơn. Mỗi quốc gia lại có những lợi thế cạnh tranh riêng, có khả năng về một lĩnh vực một ngành nghề nào đó và được coi là lợi thế quốc gia. Lợi thế đó có thể là do tự nhiên ban tặng hoặc do định hướng phát triển của mỗi quốc gia. Cạnh tranh giữa các ngành : Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc đấu tranh giữa các nhà sản xuất kinh doanh trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình cạnh tranh giữa các ngành, dòng vốn tự phát chuyển từ ngành có lợi nhuận thấp sang ngành có lợi nhuận cao, bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận. Kết quả là cùng với một dòng vốn khi đầu tư vào các ngành khác nhau sẽ thu được lợi nhuận khác nhau. Mặc dù cạnh tranh biểu hiện dưới ba hình thức nhưng trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, em chỉ tập trung nghiên cứu cạnh tranh trong nội bộ ngành: nghĩa là giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp khác cùng kinh doanh trong một lĩnh vực. Cạnh tranh trong nội bộ ngành : Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một hay một số hàng hoá, dịch vụ nhằm thoả mãn cùng một nhu cầu nào đó của người tiêu dùng. Sự cạnh tranh giữa những nhà hoạt động sản xuất kinh doanh trong cùng một ngành làm cho giá cả hàng hóa hình thành phù hợp với giá trị xã hội hoặc giá thị trường của hàng hoá. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là nhân tố tự phát thúc đẩy kỹ thuật, công nghệ phát triển và nâng cao năng suất lao động cá biệt đến mức cao hơn năng suất lao động xã hội, từ đó giảm chi phí lao động cá biệt. Kết quả tất yếu của cạnh tranh nội bộ ngành là kỹ thuật sản xuất trong ngành ngày càng phát triển, tỷ suất lợi nhuận trong ngành giảm xuống, từ đó thúc đẩy quá trình di chuyển vốn đầu tư sang những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Căn cứ vào chủ thể tham gia vào thị trường Cạnh tranh giữa người mua và người bán : Canh tranh giữa người mua và người bán diễn ra theo quy luật mua rẻ, bán đắt trên thị trường. Người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất, người mua lại muốn mua với giá thấp nhất. Giá cuối cùng được chấp nhận là giá thống nhất giữa người mua và người bán sau một quá trình mặc cả. Cạnh tranh giữa người mua với nhau: Là cạnh tranh xảy ra khi cung nhỏ hơn cầu. Do hàng hoá trên thị trường khan hiếm nên người mua chấp nhận giá cao để mua được hàng hoá họ cần. Do cung nhỏ hơn cầu nên người bán luôn muốn nâng giá và người mua cũng phải chấp nhận giá. Kết quả cuối cùng là người bán thu được nhiều lợi nhuận. Cạnh tranh giữa người bán với nhau: Với các doanh nghiệp thì đây là cuộc cạnh tranh gay gắt nhất nhằm giành giật lợi ích kinh tế về phía mình, nhằm chiếm lĩnh thị trường của đối thủ cạnh tranh, tăng thị phần cùng với doanh thu tiêu thụ tăng. Trên cơ sở đó doanh nghiệp có điều kiện đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên. Căn cứ vào tính chất của phương thức cạnh tranh Cạnh tranh lành mạnh ( cạnh tranh hợp pháp) : Cạnh tranh lành mạnh là canh tranh giữa các doanh nghiệp bằng chính nỗ lực của mình, phù hợp pháp luật, tập quán, đạo đức kinh doanh, không lợi dụng kẽ hở của pháp luật để đạt được mục tiêu cạnh tranh. Cạnh tranh không lành mạnh (cạnh tranh bất hợp pháp): Các doanh nghiệp cạnh tranh nhau bằng cách dùng những âm mưu, thủ đoạn để giành chiến thắng trong cạnh tranh chứ không xuất phát từ nỗ lực của chính mình. Các công cụ cạnh tranh Doanh nghiệp để tồn tại và phát triển thì cần có lợi thế cạnh tranh nào đó so với đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh là bất cứ điều gì làm cho doanh nghiệp tốt hơn đối thủ cạnh tranh để cung cấp giá trị cho khách hàng. Chẳng hạn, một doanh nghiệp có lợi thế về tài chính, chất lượng sản phẩm, tiêt kiệm được chi phí... thì có thể đánh bại được đối thủ bằng cách định giá thấp hơn nhưng chất lượng lại đảm bảo hay lợi thế về khoa học công nghệ, giúp doanh nghiệp tạo ra những sản phẩm có giá trị cao hơn, tính năng, công dụng tốt hơn từ đó cho pho phép doanh nghiệp bán được giá cao hơn. Để thích ứng thị trường và vượt lên trên đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải khai thác lợi thế của mình thông qua việc sử dụng các công cụ cạnh tranh. Công cụ cạnh tranh có thể hiểu là tập hợp các yếu tố, các kế hoạch, các chiến lược, các hành động mà doanh nghiệp sử dụng để thích ứng với thị trường vượt lên đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp thường xuyên sử dụng các công cụ sau: Cạnh tranh bằng giá cả Giá cả là biểu hiện bằng tiền giá trị của hàng hoá. Giá cả của một sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ cung cầu. Người bán và người mua thoả thuận, mặc cả với nhau để đi đến mức giá cuối cùng đảm bảo hai bên cùng có lợi. Giá cả trong điều kiện cạnh tranh là nhân tố giới hạn lợi nhuận của công ty, quyết định thị phần và khả năng sinh lời của công ty. Trong kinh doanh, các quyết định về giá là một quyết định khó khăn nhất của công ty. Công ty phải xác định mức giá không những bù đắp chi phí sản xuất kinh doanh mà còn thu được lợi nhuận cao và mức giá đó phải là công cụ cạnh tranh hữu hiệu. Giá cả được biểu hiện như một vũ khí để cạnh tranh thông qua việc định giá cho sản phẩm. Định giá là việc ổn định , hệ thống giá phải phù hợp với hàng hoá hay dịch vụ bán cho khách hàng. Giá cả là một yếu tố linh hoạt có thể dễ dàng thay đổi tuy theo các giai đoạn phát triển của doanh nghiệp mà qua đó đưa ra các mức giá khác nhau. Với việc sử dụng kéo léo, linh hoạt nhiều chiến thuật giá hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp thành công trong cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Doanh nghiệp có thể áp dụng một số chính sách giá sau: Chính sách giá cao : Doanh nghiêp định giá cao hơn giá của đối thủ cạnh tranh nhằm nhấn mạnh đến những mặt chất lượng nổi trội của sản phẩm. Thông thường chính sách này áp dụng đối với những mặt hàng xa xỉ có khối lượng thấp phục vụ cho những người tiêu dùng có thu nhập cao, người ta mua sắm hàng này vì muốn có danh tiếng, muốn thể hiện đẳng cấp trong xã hội. ở khía cạnh khác người tiêu dùng thường đánh giá chất lượng qua giá cả, người ta cho rằng trong cạnh tranh, sản phẩm có giá cao hơn sẽ có chất lượng tốt hơn. Chính sách giá thấp : Doanh nghiệp định giá thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh nhằm tăng cường lượng hàng hoá bán ra, nhanh chóng chiếm được thị phần và tận dụng được lợi ích kinh tế theo quy mô. Khi áp dụng chính sách này, cần tính toán độ co giãn của cầu theo giá. Chính sách giá thị trường : là cách thức tốt vì tạo ra yếu tố tâm lý đối với người tiêu dùng cho rằng giá đó là chuẩn, không rẻ không đắt. Đồng thời cũng tránh được cuộc chiến tranh về giá đối với đối thủ cạnh tranh mà kết cục của nó có thể hai bên đều thiệt hại. Ngày nay các doanh nghiệp thường thu hút khách hàng trong cạnh tranh bằng việc nâng cao chất lượng, tạo ra những sản phẩm dịch vụ có đặc điểm riêng mới nổi trội hơn. Chính sách giá phân biệt: Chính sách này được áp dụng phân biệt với đối tượng khách hàng khác nhau, đó là cách định giá một loại hàng thành các mức khác nhau tuỳ theo sự chấp nhận đối với từng đối tượng khách hàng qua đó có thể tối ưu hoá doanh thu và thu được lợi nhuận cao hơn. Về thực chất việc thực hiện chính sách giá kiểu này sẽ gia tăng tính hiệu quả của chiến lược thâm nhập sâu hơn vào thị trường mục tiêu bằng việc khích lệ người mua thông qua hình thức giá ưu đãi và các lợi ích khác. Có thể nói rằng, giá cả là công cụ cạnh tranh rất linh hoạt, được dùng phổ biến trong cạnh tranh nhưng không phải lúc nào cũng là công cụ hữu hiệu để giành chiến thắng. Do đó, doanh nghiệp cần phải căn cứ vào tập khách hàng mục tiêu của mình cũng như điều kiện thực tế trên thị trường để xây dựng chính sách giá hợp lý, trên cơ sở đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 1.1.3.2 Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm là tổng thể những thuộc tính của nó quy định tính thích dụng của sản phẩm để thoả mãn những nhu cầu phù hợp với công dụng của nó. Ngày nay chất lượng sản phẩm đã trở thành một nhân tố chủ yếu trong chính sách phát triển của nhiều doanh nghiệp. Chất lượng là một trong những nhân tố quan trọng hình thành khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Sản phẩm dịch vụ muốn có tính cạnh tranh cao thì chúng phải đạt được những mục tiêu thoả mãn nhu cầu của người tiều dùng, của xã hội về mọi mặt một cách kinh tế nhất ( sản phẩm có chất lượng cao, giá rẻ). Quan tâm đến chất lượng chính là một trong những phương thức tiếp cận và tìm cách đạt được những thắng lợi trong sự cạnh tranh gay gắt trên thương trường nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp, làm giảm tỷ lệ sản phẩm hư hỏng, giảm các chi phí phục vụ dịch vụ sau bán. Tuy nhiên, để tăng chất lượng kết cấu của bất kỳ một sản phẩm nào cũng đòi hỏi phải tăng chi phí (C1). Điều đó khiến cho không ít doanh nghiệp ngại ngùng trước quyết định đầu tư vào chất lượng. Thực tế đã chứng minh rằng khi tăng chất lượng một sản phẩm cụ thể sẽ làm giảm đi những chi phí sản xuất tàng ẩn dưới các dạng: Giảm số khuyết tật, tăng tỷ lệ sản phẩm chấp nhận được (C2); Giảm tỷ lệ phế phẩm ở mức cao nhất (C3); Giảm chi phí kiểm tra (C4)… Khi đó với một hệ thống quản lý chất lượng tốt ta sẽ có: C1 < ( C2 + C3 + C4 + Cn ). Rõ ràng nâng cao chất lượng sản phẩm làm tối thiểu hoá các chi phí vô ích trong sản xuất điều này mang lại lợi thế cạnh tranh rất lớn cho doanh nghiệp. Do đó, chất lượng sản phẩm là công cụ giúp cho doanh nghiệp có thể giành được thắng lợi trong sự cạnh tranh gay gắt trên thương trường nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển. Cạnh tranh bằng hệ thống kênh phân phối Hệ thống kênh phân phối là cách thức mà doanh nghiệp cung ứng sản phẩm của mình cho khách hàng. Việc thiết lập kênh phân phối một mặt ảnh hưởng đến chi phí của doanh nghiệp, một mặt ảnh hưởng đến độ bao phủ thị trường hay sự có mặt của sản phẩm trên các thị trường khác nhau. Những doanh nghiệp sử dụng những kênh thành viên độc lập thường giảm được chi phí trên mỗi đơn vị phân phối. Việc phân phối các sản phẩm dịch vụ công nghiệp được thực hiện thông qua các kênh phân phối sau: Kênh cấp 0 Người tiêu dùng cuối cùng Người sản xuất Người bán lẻ Kênh cấp 1 Người bán buôn Kênh cấp 2 Người môi giới Kênh cấp 3 Sơ đồ 1: Mô hình kênh phân phối của doanh nghiệp. Phân phối độc quyền : độc quyền phân phối đòi hỏi hạn chế nghiêm ngặt số lượng trung gian kinh doanh hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp, đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa người bán và người bán lại. Thường nó đòi hỏi độc quyền kinh doanh và có xu hướng đề cao nhãn hiệu của nhà sản xuất. Phân phối chọn lọc: doanh nghiệp xây dựng mối quan hệ làm ăn với những trung gian đã được chọn, cho phép người sản xuất bao quát được thị trường một cách thích đáng mà vẫn kinh tế, kiểm soát được nhiều hơn chi phí ít hơn so với phương thức phân phối ồ ạt. Phương thức phân phối ồ ạt : doanh nghiệp dùng cách này để đưa hàng hoá vào thị trường càng nhiều càng tốt. Khi người tiêu dùng đòi hỏi địa điểm phải hết sức thuận tiện thì điều quan trọng là phải đảm bảo phân phối với cường độ lớn hơn. Các công cụ cạnh tranh khác Dịch vụ sau bán là một công cụ khá hiệu quả giúp doanh nghiệp cạnh tranh được với đối thủ và nó có ý nghĩa quan trọng trên cả hai góc độ: nâng cao uy tín cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp giữ được khách hàng, nâng cao doanh số. Các dịch vụ sau bán rất đa dạng tuỳ thuộc vào các ngành nghề khác nhau có các loại dịch vụ sau bán sau : Bảo hành : là dịch vụ mà nhà sản xuất cung cấp cho khách hàng thông qua người bán hàng. Nhờ có dịch vụ này mà khách hàng yên tâm hơn về chất lượng của hàng hoá mà mình đã mua. Thời gian bảo hành càng dài thì độ tin cậy càng cao, khách hàng càng tin tưởng vào chất lượng, độ bền của sản phẩm. Bảo dưỡng, bảo trì, sửa chữa : Dịch vụ này thường không miễn phí mà nhà sản xuất có đội ngũ các thợ có chuyên môn cao, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trong việc thay thế sửa chữa các phụ tùng chính hãng. Từ đó tạo lòng tin cho khách hàng giúp nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Vận chuyển, lắp đặt, chạy thử, hướng dẫn sử dụng : dịch vụ này thường cung cấp miễn phí cho người tiêu dùng tuy nhiên cũng tuỳ thuộc từng doanh nghiệp và từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Những dịch vụ này là hết sức cần thiết nhất là đối với những sản phẩm có quy trình vận hành phức tạp và việc lắp đặt, chạy thử đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn cao. Nhìn chung các dịch vụ sau bán hàng luôn góp phần làm cho chi phí tiêu dùng giảm xuống, điều này có lợi cho khách hàng. Chính vì vậy các dịch vụ này có khả năng giúp cho doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu giữ khách hàng, biến khách hàng tiềm năng thành khách hàng hiện thực. 1.1.4 Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường Cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Từ khi nền kinh tế nước ta vận động theo cơ chế thị trường thì cạnh tranh và quy luật cạnh tranh được thể hiện và thừa nhận, nó đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của mình không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với người tiêu dùng và cả nền kinh tế. a. Đối với nền kinh tế Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Nhờ có cạnh tranh mà hàng hoá trên thị trường phong phú hơn, đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của xã hội. Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của các thành phần kinh tế góp phần xoá bỏ sự độc quyền, xoá bỏ nhhững bất bình đẳng trong kinh doanh. Các nhà kinh tế, các doanh nghiệp đều nỗ lực hơn, năng động hơn sáng tạo hơn trong điều kiện cạnh tranh gay gắt. Cạnh tranh đã sinh ra những nhà kinh tế tài năng để làm giàu cho xã hội. Bên cạnh đó cạnh tranh thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đảm bảo sự phân bổ tối ưu các nguồn lực để đem lại năng xuất lao động cao hơn. Cạnh tranh thúc đẩy nguồn lực di chuyển tới nơi nào có hiệu quả nhất bởi người sản xuất muốn sử dụng chúng đem lại hiệu quả càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng còn một số tồn tại cố hữu của nó, một mặt nó thúc đẩy sản xuất phát triển mặt khác nó cũng dẫn tới tình trạng phân hoá giàu nghèo sâu sắc, kẻ thắng người thua, dễ dàng đưa tới tình trạng cạnh tranh không lành mạnh hay độc quyền trên thị trường. Vì lợi nhuận các doanh nghiệp đã bất chấp thủ đoạn, cạnh tranh không lành mạnh dẫn tới hiệu quả tiêu cực như hàng giả hàng nhập lậu... gây rối loạn thị trường, ảnh hưởng tới những người kinh doanh chân chính, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Bên canh đó cạnh tranh cũng có thể dẫn đến độc quyền các tổ chức liên minh với nhau nhằm lũng đoạn thị trường. Vì vậy cần phải có sự quản lý của Nhà nước để ngăn chặn tình trạng này và tạo điều kiện cho cạnh tranh phát huy tốt vai trò tích cực của mình. b. Đối với doanh nghiệp Cạnh tranh là điều kiện tất yếu trong nền kinh tế thị trường, là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường vì thế đã là doanh nghiệp phải chấp nhận điều này. Cạnh tranh có thể coi là cuộc chạy đua khốc liệt mà các doanh nghiệp là những người tham gia, không thể tránh khỏi quy luật đó. Cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp do khả năng tác động trực tiếp kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà điều này quyết định doanh nghiệp có nên tiếp tục kinh doanh nữa hay không? Trong nền kinh tế thị trường “ khách hàng bỏ phiếu cho doanh nghiệp bằng Đôla”, vì vậy muốn có được khách hàng, doanh nghiệp phải cạnh tranh, bắt đầu từ Marketing tốt hơn, chất lượng tốt hơn, giá cả hợp lý hơn, phân bổ các nguồn lực hiệu quả hơn, kết quả nó sẽ làm tăng doanh thu, tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay, xu thế cạnh tranh về chất lượng sản phẩm ngày càng tăng vì thế doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến việc áp dụng khoa học công nghệ kỹ thuật vào sản xuất cải tiến quản lý và phương thức sản xuất kinh doanh. Như vậy cạnh tranh đã khuyến khích các doanh nghiệp luôn quan tâm đến chất lượng sản phẩm và cải tiến chất lượng sản phẩm ngày càng tốt lên và hiện đại hơn đem lại lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Nói chung, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, là động lực cho sự phát triển và thúc đẩy doanh nghiệp phải tìm ra những biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Cạnh tranh quyết định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường thông qua thị phần của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. c. Đối với người tiêu dùng Trong kinh tế thị trường người tiêu dùng là người cuối cùng quyết định chủng loại, số lượng, chất lượng của các sản phẩm và dịch vụ được sản xuất. Chỉ các sản phẩm và dịch vụ được người tiêu dùng chấp nhận mới được bán và sản xuất một cách lâu dài. Nhờ có cạnh tranh mà người tiêu dùng được đưa lên làm thượng đế, được tôn trọng hơn, được đảm bảo hơn. Người tiêu dùng cũng chính là tác nhân gây ra động lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Nhu cầu của khách hàng càng tăng lên bao nhiêu thì cạnh tranh càng gay gắt bấy nhiêu. Các doanh nghiệp đua tranh quyết liệt để giành giật khách hàng, do đó mà khách hàng có quyền so sánh và lựa chọn sản phẩm tối ưu nhất cho mình. Các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau, không ngừng đầu tư thiết bị, công nghệ hiện đại, cải tiến mẫu mã, chủng loại nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ trước trong và sau bán hàng để tối đa hoá độ thoả dụng của người tiêu dùng. 1.2. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Khái niệm khả năng cạnh tranh Trong cạnh tranh nảy sinh ra kẻ có khả năng cạnh tranh mạnh, người có khả năng cạnh tranh yếu hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản phẩm có khả năng cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó gọi là năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh. Có rất nhiều quan điểm, khái niệm khác nhau về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Quan điểm tổng hợp của Vardwer, E.Martin và R.Westgren: Năng lực cạnh tranh của một ngành, một Công ty là khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của ngành hay Công ty trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước. Trong từ điển thuật ngữ chính sách thương mại: “ khả năng cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp hoặc một ngành, một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành khác đánh bại về năng lực kinh tế” (Dictionary of Trade Policy, University of Adelaied, 1997). Theo quan điểm quản trị chiến lược của M.Potter thì: “khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được hiểu là khả năng chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm cùng loại ( hay sản phẩm thay thế) của công ty đó”. Từ các quan điểm trên, có thể rút ra khái niệm về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp: “ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng ganh đua của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh khác nhằm tạo ra, duy trì và phát triển thị phần, thu lợi nhuận” Tăng khả năng cạnh trạnh là điều kiện cần có cho mỗi doanh nghiệp để tồn tại và phát triển được trên thị trường. Muốn tăng khả năng cạnh tranh thì đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm ngặt một chu trình chất lượng và đảm bảo các yếu tố của chất lượng tổng hợp, thoả mãn các tiêu chuẩn chất lượng đã quy định. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như đặc điểm của ngành kinh doanh, thị trường sản phẩm, và những yếu tố bên trong doanh nghiệp. Vì vậy mà doanh nghiệp cần thận trọng khi xác định năng lực của mình từ đó thì mới có thể xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp nhất. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh 1.2.2.1 Thị phần : Đây là chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, là tỷ lệ thị trường mà doanh nghiệp chiễm lĩnh, nói lên sức mạnh của doanh nghiệp trên thị trường. Thị phần càng lớn thể hiện sức cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh. Thông thường có các loại thị phần sau : * Phần chiếm lĩnh thị trường tuyệt đối: Là phần trăm kết quả tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp so với kết quả tiêu thụ sản phẩm cùng loại của tất cả các doanh nghiệp khác bán trên cùng một thị trường. Thị phần của doanh nghiệp = x 100% Trong đó: QDN : Khối lượng hàng hoá doanh nghiệp tiêu thụ được. Q :Tổng khối lượng hàng hoá cùng loại tiêu thụ trên cùng một thị trường. Hoặc: Thị phần của doanh nghiệp = x 100% Trong đó: MDN : Doanh thu của doanh nghiệp đạt được. M : Tổng doanh thu của toàn ngành trên cùng một thị trường. *Phần chiếm lĩnh thị trường tương đối: là tỷ lệ giữa phần chiếm lĩnh thị trường tuyệt đối của doanh nghiệp so với phần chiếm lĩnh thị trường tuyệt đối của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trong ngành. Thị phần tương đối = x 100 % Trong đó: MDN : Doanh thu của doanh nghiệp trên thị trường. MĐT : Doanh thu của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trên cùng thị trường. Như vậy ta thấy, với thị phần tuyệt đối ta có thể so sánh trực tiếp thị phần của doanh nghiệp với tất cả các doanh nghiệp khác hoạt động trong cùng một ngành còn thị phần tương đối chỉ cho phép ta đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trong ngành. Thị phần được coi là công cụ để đo lường vị thế của doanh nghiệp trong thị trường. Bởi vậy doanh nghiệp phải duy trì và phát triển thị phần. Nều doanh nghiệp có thị phần nhỏ hẹp điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đang bị chèn ép, thị phần bị thu hẹp do đối thủ cạnh tranh. 1.2.2.2 Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận Đây là những chỉ tiêu giúp đánh giá sức sống của doanh nghiệp, khả năng tồn tại của nó trên thị trường. Nếu doanh nghiệp hoạt động có thu được lợi nhuận thì doanh nghiệp đó hoạt động kinh doanh tốt, tuy nhiên lợi nhuận phải tăng qua hàng năm thì mới chứng tỏ sự phát triển của doanh nghiệp. Mặt khác, nếu doanh nghiệp hoạt động không có lãi, và thường xuyê._.n thua lỗ thì có thể dẫn tới phá sản không tồn tại được trên thị trường. Như vậy lợi nhuận sẽ giúp thúc đẩy quá trình tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. Lợi nhuận là chỉ tiêu tuyệt đối còn tỷ suất lợi nhuận là chỉ tiêu tương đối dùng để đánh giá chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp. Qua đó cũng đánh giá được trình độ quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận được xác định như sau: Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu: là chỉ tiêu phản ánh mối qua hệ giữa lợi nhuận sau thuế so với doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp và được xác định bằng công thức: Lợi nhuận sau thuế Doanh thu tiêu thụ Tỷ suất lợi nhuận * 100 theo doanh thu Hệ số này thể hiện trong 100 đồng doanh thu thuần mà doanh nghiệp thực hiện trong kì có bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao thì càng tốt, nếu chỉ tiêu này thấp hơn chỉ tiêu chung của toàn ngành chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động chưa tốt, chưa thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác trong ngành. Tỷ suất lợi nhuận theo vốn kinh doanh : là chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của đồng vốn kinh doanh, không tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc của vốn kinh doanh. Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận * 100 theo vốn kinh doanh Tổng vốn kinh doanh bình quân trong kì Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100 đồng vốn kinh doanh bình quân được sử dụng trong kì sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động càng hiệu quả. Chi phí và tỷ suất chi phí Chi phí là chỉ tiêu phản ánh số tiền doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh và là một trong những chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh. Với lợi thế chi phí thấp, doanh nghiệp có thể định giá bán sản phẩm thấp hơn đối thủ cạnh tranh để nhằm thu hút khách hàng. Với chi phí thấp, doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao hơn. Tỷ suất chi phí kinh doanh là chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ lệ phần trăm(%) của chi phí trên doanh thu bán hàng. Tỷ suất chi phí nói lên trình độ tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh, chất lượng quản lý và sử dụng chi phí của doanh nghiệp. Tỷ suất chi phí được xác định bằng công thức sau: Trong đó: F’: tỷ suất chi phí kinh doanh. F : tổng mức chi phí kinh doanh M : tổng doanh thu của doanh nghiệp trong kì Chỉ tiêu này phản ánh trong 100 đồng doanh thu thì phải bỏ ra một lượng chi phí là bao nhiêu, chỉ tiêu này càng nhỏ thì càng tốt chúng tỏ doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Bởi vì tỷ suất chi phí thấp sẽ đưa tỷ suất lợi nhuận lên cao, từ đó tạo điều kiện tăng lợi nhuận. Do đó các doanh nghiệp luôn đưa ra những biện pháp để giảm tỷ suất chi phí giúp doanh nghiệp hoạt động tốt hơn. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và sự cần thiết nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 1.3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường thì phải chịu sự tác động của nhiều yếu tố thuộc môi trường vĩ mô, môi trường ngành và cả môi trường bên trong doanh nghiệp. Những tác động này có thể là tích cực hoặc tiêu cực đối với doanh nghiệp, tác động tích cực tạo ra cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp, tác đông tiêu cực gây ra những rủi ro cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần nhận biết hai yếu tố khác khi phân tích các ảnh hưởng của môi trường. Thứ nhất là, tính phức tạp của môi trường được đặc trưng bởi một loạt các yếu tố có ảnh hưởng đến các nỗ lực của doanh nghiệp. Môi trường càng phức tạp càng khó đưa ra các quyết định hữu hiệu. Thứ hai là, tính biến động của môi trường, bao hàm tính năng động hoặc mức độ biến đổi trong điều kiện môi trường liên quan. Trong một số môi trường ổn định, mức độ biến đổi có thể tương đối thấp và có thể dự đoán được. Môi trường biến động được đặc trưng bởi những thay đổi diễn ra nhanh chóng và khó mà dự đoán trước. Tính phức tạp và tính biến động của môi trường đặc biệt hệ trọng khi tiến hành phân tích các điều kiện môi trường vĩ mô và môi trường ngành vì cả hai yếu tố này là yếu tố ngoại cảnh đối với doanh nghiệp. Có thể tóm lược các nhân tố tác động đến doanh nghiệp trong sơ đồ sau : Môi trường vĩ mô Môi trường kinh tế Môi trường chính trị - pháp luật Môi trường văn hoá - xã hội Môi trường khoa học – công nghệ Môi trường ngành Khách hàng Các đối thủ cạnh tranh Nhà cung ứng Các nhân tố khác Nhân tố chủ quan 1.Nguồn nhân lực, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý 2. Nguồn lực tài chính 3. Chất lượng và giá cả sản phẩm 4. Trang thiết bị kỹ thuật – công nghệ Sơ đồ 2: Sơ đồ mối quan hệ giữa doanh nghiệp và môi trường bên ngoài 1.3.1.1. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô Môi trường vĩ mô ảnh hưởng đến tất cả các ngành kinh doanh, nhưng không nhất thiết phải theo một cách nhất định. Việc phân tích môi trường vĩ mô giúp doanh nghiệp trả lời phần nào câu hỏi : doanh nghiệp đang phải đối diện những gì? có nhiều vấn đề trong môi trường vĩ mô ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh nhưng có bốn yếu tố tác động chủ yếu sau: Doanh nghiệp Khoa học công nghệ Kinh tế Văn hoá, xã hội Chính trị, pháp luật Chiến lược Khả năng cạnh tranh Sơ đồ 3: Sự ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô Môi trường vĩ mô bao gồm những yếu tố chủ yếu sau: Môi trường kinh tế Các nhân tố kinh tế có ảnh hưởng vô cùng lớn đến doanh nghiệp. Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế có tác động trực tiếp đến kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mức độ ổn định về kinh tế trước hết và chủ yếu là ổn định nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát. Khi một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao thì thu nhập của người dân cũng tăng lên, khả năng thanh toán của người dân cũng tăng lên từ đó khuyến khích người dân tiêu dùng nhiều hơn. Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển cao thì khả năng tích tụ và tập trung tư bản lớn nhờ đó tốc độ đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Chính vì vậy đây sẽ là một cơ hội tốt cho doanh nghiệp phát triển. Nếu nắm bắt đúng thời cơ thì doanh nghiệp sẽ phát triển và ngày càng lớn mạnh. Bên cạnh đó do sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ kéo theo sự tăng lên nhanh chóng số lượng các doanh nghiệp tham gia thị trường và như vậy mức độ cạnh tranh sẽ trở lên gay gắt. Ngược lại, khi nền kinh tế trong giai đoạn suy thoái, tỷ lệ lạm phát tăng, sức mua giảm sút, các doanh nghiệp tìm mọi cách để giữ khách hàng vì vậy mà cạnh tranh trên thị trường khốc liệt hơn. Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng là yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi lãi suất cao, thì chi phí kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên do phải chi trả lãi vay lớn hơn, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp giảm đi nhất là đối với những doanh nghiệp mà nguồn vốn hạn hẹp phải đi vay nhiều sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Môi trường chính trị – pháp luật Các yếu tố về chính trị – pháp luật có ảnh hưởng ngày càng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định về thuế, cho vay, thuê mướn, quảng cáo, nơi đặt nhà máy và bảo vệ môi trường…Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi trường thuận lợi đảm bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả, ổn định về chính trị đem lại sự lành mạnh hoá cho xã hội, tạo hành lang thông thoáng cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Việc Nhà nước đưa ra các quy định mang tính pháp lý có thể tạo ra có hội và nguy cơ. Thí dụ, một số quy định của nhà nước (như biểu thuế hàng ngoại nhập cạnh tranh, chính sách miễn giảm thuế ) tạo ra cho doanh nghiệp cơ hội tăng trưởng hoặc cơ hội tồn tại. Ngược lại, việc tăng thuế trong các ngành công nghiệp nhất định (như trò chơi điện tử) có thể đe doạ đến lợi nhuận của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến khả ngang cạnh tranh của doanh nghiệp. Hệ thống pháp luật đầy đủ đồng bộ và rõ ràng sẽ giúp cho doanh nghiệp có môi trường cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh bằng chính khả năng vốn có của doanh nghiệp và ngược lại khi hệ thống pháp luật không rõ ràng minh bạch, yếu kém thì sẽ tạo điều kiện cho sự bất bình đẳng gia tăng, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Môi trường tự nhiên văn hoá - xã hội Tất cả các doanh nghiệp cần phân tích rộng rãi các yếu tố xã hội nhằm nhận biết các cơ hội và nguy cơ có thể xảy đến. Khi một hay nhiều yếu tố thay đổi chúng có thể tác động đến doanh nghiệp như xu hướng nhân chủng học, sở thích thị hiếu, chuẩn mực đạo đức, quan điểm về mức sống, cộng đồng kinh doanh và lao động nữ…các nhân tố trên tác động gián tiếp đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua khách hàng và cơ cấu nhu cầu của thị trường. Tập quán, thị hiếu còn ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu vì mặc dù hàng hoá có chất lượng tốt nhưng không phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng thì cũng không được chấp nhân. Môi trường khoa học – công nghệ ít có ngành hay doanh nghiệp nào mà lại không phụ thuộc vào điều kiện khoa học công nghệ trên thế giới và trong nước, việc phát triển khoa học công nghệ với nhiều công nghệ mới ra đời tạo ra các cơ hội cũng như nguy cơ đối với tất cả các ngành và các doanh nghiệp. Công nghệ sản xuất sẽ quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường đó là chất lượng và giá bán. Công nghệ tác động đến chất lượng sản phẩm cũng như tác động đến chi phí cá biệt của từng doanh nghiệp từ đó tạo ra khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Xu hướng trên thế giới hiện nay là chuyển từ cạnh tranh bằng giá sang cạnh tranh bằng chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao. Ngoài ra, khoa học công nghệ có tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến qua trình thu thập, lưu trữ và truyền đạt thông tin. Doanh nghiệp nào nắm bất thông tin một cách nhanh nhậy thì có thể đi trước trong việc tiếp cận được cơ hội kinh doanh. Việc nắm bắt thông tin thị trường kịp thời giúp doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh và tránh được những nguy cơ tiềm ẩn. Các nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh ngành Doanh nghiệp chịu sự tác động của các yếu tố thuộc môi trường ngành. Các yếu tố này thường tác động trực tiếp đến tất cả các doanh nghiệp, vì thế nên chìa khoá để đi đến sự thành công là phải phân tích từng yếu tố chủ yếu đó. Sự am hiểu các nguồn sức ép cạnh tranh giúp doanh nghiệp nhận ra các mặt mạnh và mặt yếu của mình liên quan đến các cơ hội và nguy cơ mà ngành kinh doanh đó gặp phải. Các nhân tố đó được biểu diễn dưới sơ đồ sau : Các sản phẩm thay thế Chính phủ Khách hàng Doanh nghiệp/ các đối thủ Các đối thủ mới tiềm ẩn Mối đe doạ Quyền lực của của đối thủ mới Nhà cung ứng người bán Đe doạ của sản Quyền lực phẩm thay thế của người mua Sơ đồ 4: Mô hình năm lực lượng cạnh tranh Khách hàng Vấn đề khách hàng là một bộ phận không tách rời trong môi trường cạnh tranh. Sự tín nhiệm của khách hàng có thể là tài sản có giá trị nhất của doanh nghiệp. sự tín nhiệm đó đạt được do biết thoả mãn tốt hơn nhu cầu và thị hiếu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh. Một vấn đề khác liên quan đến khách hàng là khả năng trả giá của họ, Họ có ưu thế là làm cho lợi nhuận của ngành giảm bằng cách ép giá xuống hoặc đòi hỏi chất lượng cao hơn và phải làm nhiều công tác dịch vụ hơn. Khách hàng có tương đối nhiều sức mạnh hơn khi họ có các điều kiện sau đây: Khối lượng hàng hoá mua chiếm tỷ lệ lớn trong khối lượng hàng hóa bán ra của doanh nghiệp. Việc chuyển sang mua của người khác không gây nhiều tốn kém. Sản phẩm của doanh nghiệp ít ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của người mua Khách hàng là nhân vật trung tâm, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều hướng tới khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của họ một cách tốt nhất. Khách hàng là người tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp, có vai trò quan trọng trong việc hình thành các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Các đối thủ cạnh tranh Sự hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là, các đối thủ cạnh tranh nhau quyết định tính chất và mức độ tranh đua hoặc thủ thuật giành lợi thế trong ngành phụ thuộc vào các đối thủ cạnh tranh. Mức độ cạnh tranh dữ dội phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố như số lượng hàng tham gia vào cạnh tranh, mức độ tăng trưởng của ngành, cơ cấu chi phí cố định, và mức độ đa dạng hoá của sản phẩm. Sự hiện hữu của các yếu tố này có xu hướng làm tăng nhu cầu và nguyện vọng của doanh nghiệp muốn đạt được và bảo vệ thị phần của mình. Vì vậy chúng làm cho cạnh tranh thêm gay gắt, các doanh nghiệp đều thấy rằng quá trình cạnh tranh không ổn định, ví dụ : trong các ngành công nghiệp phát triển chín muồi thường sự cạnh tranh mang tính chất gay gắt khi muốn tăng trưởng và lợi nhuận bị suy giảm. Ngoài ra các đối thủ cạnh tranh mới và các giải pháp công nghệ mới thường làm thay đổi mức độ và tính chất cạnh tranh. Doanh nghiệp cần xác định được đối thủ cạnh tranh hiện tại của mình là ai cũng như năng lực cạnh tranh và vị thế hiện tại của họ trên thị trường thông qua nghiên cứu, tìm hiểu và phân tích điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ. Khi thị phần của các đối thủ cạnh tranh lớn hơn của doanh nghiệp, điều đó chứng tỏ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là chưa cao. Hơn thế nữa sự tranh giành khách hàng giữa các đối thủ cạnh tranh cũng buộc doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh để cải thiện vị thế của mình trên thị trường. Như vậy, các đối thủ cạnh tranh buộc doanh nghiệp hoặc phải tìm cách để tồn tại, hoặc sẽ phải nhường lại thị trường. Do đó, doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải có những chiến lược phù hợp để không những giữ được thị phần hiện tại mà còn thu hút thêm được nhiều khách hàng mới đến với mình. Nhà cung ứng Các doanh nghiệp kinh doanh cần phải quan hệ với các tổ chức cung cấp các nguồn hàng khác nhau, như vật tư thiết bị, lao động, tài chính. Không doanh nghiệp nào có thể tồn tại một mình, do vậy mối quan hệ giữa các doanh nghiệp là điều tất yếu phải có. Và khi họ thiết lập quan hệ với nhau thì nguyên tắc chung được áp dụng là nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi trên cơ sở thoả thuận. Với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, bất kỳ một sự biến đổi nào từ phía các nhà cung cấp, các đại lý sớm hay muộn cũng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu số lượng người cung cấp ít, không có mặt hàng nào thay thế khác, thì có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn hàng có thể đẩy giá thành lên cao và ngược lại. Việc lựa chọn nhà cung cấp dựa trên những số liệu phân tích về thành tích của người cung ứng trong quá khứ, uy tín của nhà cung ứng, khả năng tài chính của nhà cung ứng. Ngoài ra doanh nghiệp cần quan tâm đến các tổ chức tài chính, cơ quan nhà nước có liên quan, cơ sở lao động đào tạo nghề…Việc quan tâm tốt đến các mối quan hệ này sẽ giúp doanh nghiệp thuận lợi trong quá trình hoạt động kinh doanh, nâng cao khả năng kinh doanh của doanh nghiệp mình. 1.3.1.3 Các nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp Các nhân tố này mang tính chất chủ quan bao gồm các yếu tố và hệ thống bên trong của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần cố gắng phân tích một cách cặn kẽ các yếu tố nội tại đó nhằm xác định rõ các ưu điểm và nhược điểm của mình, trên cơ sở đó đưa ra những biện pháp nhằm giảm bớt nhược điểm và phát huy ưu điểm để đạt được lợi thế tối đa. Nguồn nhân lực Nguồn nhân lực có vai trò hết sức quan trọng đối với sự thành công của doanh nghiệp. Kinh doanh là hoạt động của con người, kết quả kinh doanh lại phục vụ những lợi ích của con người. Con người là công cụ vừa là mục đích của hoạt động kinh doanh. Việc sử dụng nguồn nhân lực như thế nào để đạt hiệu quả cao từ lâu đã trở thành những bài toán khó giải đối với các nhà quản trị bởi con người không có con người chung chung, con người trừu tượng mà mỗi con người cụ thể có cá tính khác nhau, có nhu cầu, ước muốn tình cảm khác nhau. Các nhà quản trị phải hiểu điều đó thì mới khai thác tối đa được các năng lực của người lao động. Từ đó mỗi doanh nghiệp phải luôn xác định được thế mạnh và điểm yếu trong nguồn nhân lực của mình để có được những điều chỉnh cần thiết. Con người cung cấp các dữ liệu đầu vào để hoạch định mục tiêu; phân tích bối cảnh môi trường; lựa chọn và thực hiện kiểm tra các chiến lược của doanh nghiệp. Cho dù kế hoạch hoàn hảo đến đâu đi nữa, nó cũng không mang lại hiệu quả nếu không có những con người làm việc có hiệu quả. b. Nguồn lực tài chính Đây là yếu tố quan trọng quyết định khả năng sản xuất và là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. Bất cứ một hoạt động đầu tư mua sắm trang thiết bị, nguyên vật liệu, quảng cáo…đều phải tính toán dựa trên thực lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ có khả năng trang bị các dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại, đảm bảo chất lượng hạ giá thành…Ngoài ra với khả năng tài chính mạnh doanh nghiệp có thể chấp nhận lỗ trong ngắn hạn, hạ giá thành sản phẩm nhằm giữ vững và mở rộng thị phần của doanh nghiệp đánh bại được đối thủ cạnh tranh. Một doanh nghiệp muốn thực hiện được chức năng và nhiệm vụ của mình cần phải có lượng tài sản nhất định đó là đất đai, nhà cửa, kho hàng, máy móc thiết bị, phương tiện….Vốn là biểu hiện bằng tiền các tài sản của doanh nghiệp. Vốn là cở sở vật chất cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cổ nhân có câu “buôn tài không bằng dài vốn”, không có vốn không thể hoạt động kinh doanh được. Nguồn vốn lớn thì sẽ giúp doanh nghiệp tự chủ được về tài chính giảm bớt được các khoản nợ vay giảm bớt được các rủi ro xảy ra. Nguồn lực tài chính mà lớn thì giúp cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao hơn, có cơ hội kinh doanh nhiều hơn. Ví dụ một doanh nghiệp kinh doanh trong ngành xây dựng cần lượng vốn rất lớn để đầu tư đấu thầu các dự án và có thể chấp nhận cho bên đầu tư thanh toán theo từng đợt và theo tiến độ công trình. c. Chất lượng và giá cả sản phẩm Chất lượng là yếu tố hàng đầu trong việc lựa chọn của những người tiêu dùng hiện nay. Chất lượng tốt giá cả phù hợp sẽ thu hút được khách hàng và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cao hơn. Chất lượng là một vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp hiện nay bởi họ phải đương đầu với vô vàn những đối thủ trên thị trường khi mà người mua thì ít mà người bán thì nhiều. Một khi chất lượng không đảm bảo thì doanh nghiệp sẽ bị mất khách hàng, mất thị trường, nhanh chóng đi đến chỗ suy yếu và bị phá sản. Chất lượng sản phẩm biểu hiện khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở chỗ (i) nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kì sống của sản phẩm; (ii) Sản phẩm có chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp,kích thích khách hàng mua hàng và mở rộng được thị phần; (iii) chất lượng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Giá cả của sản phẩm đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua hay không mua của khách hàng đặc biệt đối với những sản phẩm có độ co giãn cầu theo giá cao. Khách hàng có quyền lựa chọn những hàng hoá nào mà họ cho là tốt nhất và phù hợp với họ. Giá cả được coi như một vũ khí cạnh tranh thông qua việc định giá của sản phẩm: định giá thấp, định giá cao, định giá ngang bằng giá trên thị trường. Với những mức giá khác nhau thể hiện mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp trong hiện tại và trong tương lai, để chiếm lĩnh được thị trường thì doanh nghiệp cần phải linh hoạt trong việc định giá sao cho phù hợp và đem lại được hiệu quả cao nhất. d. Trang thiết bị kỹ thuật công nghệ Một doanh nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu thì sẽ không bao giờ cho ra được những sản phẩm có chất lượng cao được và càng không thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp có trình độ máy móc thiết bị hiện đại được. Một hệ thống có sở vật chất kỹ thuật hiện đại cộng với một công nghệ tiên tiến phù hợp với quy mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp lên rất nhiều. Với một cơ sở vật chất kỹ thuật như vậy chất lượng sản phẩm được nâng cao, tiết kiệm nguyên vật liệu, lao động, cùng với nó, giá thành sản phẩm được hạ thấp, khả năng chiến thắng của doanh nghiệp trên thị trường là rất lớn. Các thiết bị, công nghệ đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, nó có mặt từ đầu chu kỳ sản xuất kinh doanh đến khi kết thúc chu kỳ. Các thiết bị công nghệ dùng để thu thập và sử lý thông tin, đây là những thiết bị có thể giúp doanh nghiệp nhanh nhậy hơn trong việc nắm bắt những thông tin đang diễn biến phức tạp trên thị trừơng và xử lý chúng một cách hợp lý và nhanh chóng. Và đến cả những thiết bị dùng để đo lường kiểm tra kiểm soát chất lượng sản phẩm, những thiết bị này càng hiện đại thì độ chính xác càng cao, càng chiếm được lòng tin của khách hàng. Sự cần thiết nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất nhanh chóng, hiện tại dường như chưa bắt đầu, tương lai đã sẵn sàng đối đầu và thách thức chúng ta. Trước áp lực đó, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần tìm cho mình một hướng đi đúng đắn và thích hợp trong dài hạn, đó là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên nhiều phương diện: chất lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống kênh phân phối… Nâng cao khả năng cạnh tranh thực chất là nỗ lực của doanh nghiệp nhằm củng cố và phát huy các lợi thế trên từ đó giúp doanh nghiệp có thể cạnh tranh được với các đối thủ và dần dần chiếm lĩnh thị trường. Trong điều kiện của kinh tế thị trường lợi nhuận là động lực thúc đẩy, là mục đích, là phương tiện tồn tại của các doanh nghiệp. Mục đích tối đa hoá lợi nhuận đã tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của chính mình như : vốn, lao động… Cũng chính vì mục đích này đã khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh bằng việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ mới để giảm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm từ đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng, để có thể tối đa hoá lợi ích của mình, các doanh nghiệp phải nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu từ đó đổi mới thường xuyên và liên tục từ sản phẩm, dịch vụ cung ứng, đến phương thức quản lý và giao tiếp khách hàng, hay nói cách khác doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh để vượt lên các đối thủ khác. Khả năng cạnh tranh là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp có thể đối đầu được với các đối thủ trên thương trường, vì vậy cần không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh bằng cách tận dụng những điểm mạnh những cơ hội trong kinh doanh và hạn chế thấp nhất những hạn chế những rủi ro có thể xảy ra cho doanh nghiệp. Ngày nay khi nền kinh tế thị trường ở nước ta ngày càng phát triển thì sự cạnh tranh càng trở lên gay gắt hơn. Để tồn tại trong môi trường đó nhất thiết đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoàn thiện mình để có thể cạnh tranh được với doanh nghiệp khác.Việc nâng cao khả năng cạnh tranh trở thành một điều kiện và tất yếu của các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường. Do đó doanh nghiệp phải xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường tiềm năng như thế nào để có những chiến lược phù hợp nhất cho chính bản thân doanh nghiệp mình. Để nâng cao khả năng cạnh tranh thì doanh nghiệp phải cần thiết nghiên cứu và phân tích khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp để phát huy những thế mạnh, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, tìm ra những hướng đi mới giúp doanh nghiệp ngày càng nâng cao vị thế của mình trên thương trường, giành thắng lợi trong cạnh tranh. Tóm lại, nâng cao khả năng cạnh tranh là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Chương 2 Thực trạng khả năng cạnh tranh của công ty Đầu tư xây dựng và phát triển công nghệ Khái quát về công ty Đầu tư xây dựng và phát triển công nghệ 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Ngày 11/06/1993 với quyết định thành lập Doanh nghiệp Nhà nước số: 125/GD&ĐT Xí nghiệp liên hợp xây dựng – Bộ giáo dục và Đào tạo được ra đời theo giấy phép kinh doanh số 108870 do trọng tài kinh tế thành phố Hà nội cấp. Xí nghiệp có nhiệm vụ thiết kế xây dựng trường học; thi công xây lắp nhà ở công trình công cộng, công nghiệp và xây dựng khác; sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng...để phục vụ cho việc phát triển cơ sở hạ tầng của đất nước. Từ khi được thành lập Công ty đã thu được một số thành tích đáng kể: hai lần được Bộ xây dựng và Công đoàn xây dựng Việt Nam tặng huy chương vàng chất lượng cao công trình, sản phẩm xây dựng Việt nam. Công ty còn được trao tặng bằng chứng nhận công trình chất lượng tiêu biểu của thập kỷ 90 do Bộ xây dựng, hội xây dựng Việt Nam tặng. Căn cứ Quyết định số 68/1998/QĐ-TTg ngày 27/03/1998 của Thủ tướng chính phủ về việc cho phép thí điểm thành lập doanh nghiệp nhà nước trong các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu và căn cứ Quyết định số 946/QĐ-BGD&ĐT-TCCB ngày 27/02/2004 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo về việc chuyển Xí nghiệp liên hợp xây dựng thuộc Bộ Giáo dục về trực thuộc Trường Đại học Bách khoa Hà Nội và nay đổi tên Xí nghiệp liên hợp xây dựng thành Công ty Đầu tư - Xây dựng và phát triển công nghệ có giấy chúng nhận Đăng ký kinh doanh Doanh nghiệp nhà nước số : 0106000348. Tên doanh nghiệp : công ty đầu tư - xây dựng và phát triển công nghệ. Tên giao dịch: investment- construction and technology development company (I.C.D) Trụ sở giao dịch: Số 9 đường Giải phóng, phường Đồng Tâm, Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội Điện thoại: 8696387 – 8691623 – 8694917 Fax: 84 – 4 – 8696387 2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Công ty 2.1.2.1 Chức năng và nhiệm vụ của Công ty Chức năng: Công ty Đầu tư - Xây dựng và phát triển công nghệ là một doanh nghiệp Nhà nước thực hiện chế độ hạch toán độc lập có chức năng chính là xây dựng và phát triển công nghệ . Nhiệm vụ : Theo giấy đăng ký kinh doanh doanh nghiệp Nhà nước số 0106000348 được phép kinh doanh ngành nghề sau: Thiết kế, xây dựng trường học Thi công xây lắp nhà ở, công trình dân dụng, công nghiệp và xây dựng khác Tư vấn khảo sát thiết kế, trang trí nội thất Sản xuất kinh doanh vật tư, thiết bị, vật liệu phục vụ xây dựng Tư vấn xây dựng : Lập dự án, khảo sát thiết kế công trình, thiết kế quy hoạch, giám sát công trình xây dựng và thẩm định thiết kế các công trình công nghiệp và dân dụng. Lập dự án : Nghiên cứu, thiết kế chế tạo, đo lường và kiểm định các thiết bị công nghiệp và dân dụng. Thi công xây dựng công trình hạ tầng: Cầu, hầm, đường giao thông, thuỷ lợi, mở luồng cảng sông biển. Xây dựng và lắp đặt thiết bị biến áp, đường dây tải điện đến 35 KV, đường cáp điện ngầm đến 110KV, thiết bị điện công nghiệp, dân dụng và điện lạnh. Xây lắp các trạm, hầm chứa, đường ống và thiết bị gas, xăng dầu. Đầu tư kinh doanh phát triển nhà. Tổ chức đào tạo nghề, triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học, thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, chuyển giao công nghệ. Cơ cấu tổ chức của Công ty Mô hình quản lý tổ chức của Công ty là mô hình trực tuyến – chức năng, theo cơ cấu tổ chức này, giám đốc có quyền quyết định tất cả các hoạt động sản xuất và phụ trách, các phòng ban có chức năng giúp việc cho giám đốc về các mảng khác nhau. Phó giám đốc quan hệ với các phòng ban và đơn vị sản xuất chỉ là quan hệ gián tiếp, giúp đỡ về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ. Tổng giám đốc P.tổng giám đốc tư vấn thiét kế P.tổng giám đốc công nghệ & đào tạo P.tổng giám đốc kỹ thuật – thi công Phòng tổ chức hành chính Phòng tài chính kế toán Phòng dự án chuyển giao cn Phòng kh kỹ thuật an toàn Xn xây lắp 1 Xn xây lắp 2 Xn xây lắp 3 Xn xây lắp 4 Xn xây lắp 5 Xn xây lắp 6 Xn cơ khí điện đ.lạnh Xn tư vấn thiết kế Xn Sx & dịch vụ Các đội công trình Các đội công trình Các đội công trình Các đội công trình Các đội công trình Các đội công trình Các tổ chuyên ngành Xưởng k.sát thiết kế Xưởng sx &dv vlxd A B Sơ dồ 5 : Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty ICD A: khối quản lý B: khối sản xuất kinh doanh Thuyết minh sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty Vai trò của các phòng ban chức năng của công ty Tổng giám đốc Công ty là pháp nhân chịu trách nhiệm toàn bộ về công trình đối với Chủ đầu tư và đối với các cơ quan chức năng của nhà nước có liên quan. Tổng giám đốc Công ty giao trách nhiệm cho các phó tổng giám đốc Công ty chỉ đạo thường xuyên tới các giám đốc xí nghiệp thành viên, chủ nhiệm công trình. Phòng Kế hoạch Kỹ thuật có trách nhiệm lập kế hoạch, phương án điều hành các bộ phận hỗ trợ công trình về nhân lực, thiết bị, vật tư... thường xuyên đôn đốc theo dõi tiến độ thi công, thống kê khối lượng hoàn thành, giám sát các công tác KCS, an toàn lao động và vệ sinh môi trường trong quá trình thi công công trình. Phòng Tài chính Kế toán có trách nhiệm đảm bảo vốn thi công cho công trình, giám sát việc các xí nghiệp thành viên sử dụng tài chính theo đúng tiến độ thi công, đúng mục đích, đúng nguyên tắc và có hiệu quả, đôn đốc việc thanh toán và thu hồi vốn. Phòng Tổ chức hành chính chịu trách nhiệm về nhân sự, điều hành các bộ phận hỗ trợ công trình về nhân lực, các chế độ nhà nước quy định về an toàn lao động, vệ sinh môi trường trong quá trình thi công công trình. Mối quan hệ trụ sở chính và quản lý ngoài hiện trường Công ty gồm 9 xí nghiệp thành viên, Công ty giao nhiệm vụ cho các xí nghiệp thành viên điều hành thực hiện hợp đồng. Giám đốc các xí nghiệp thành viên chịu trách nhiệm điều hành, kiểm tra, đôn đốc và điều phối các phương tiện phục vụ tiến độ hiện trường và cùng với chủ nhiệm công trình bàn các phương pháp để thực hiện hợp đồng có hiệu quả. Giám đốc xí nghiệp thành viên thường xuyên theo dõi quá trình triển khai và tổ chức thi công của công trình. Tổ chức kiểm tra định kỳ và bất thường công tác thi công công trình, có ý kiến chỉ đạo với chủ nhiệm công trình. Tạo điều kiện cho công trình có vốn thi công công trình. Hướng dẫn và phối hợp với chủ nhiệm công trình làm tốt công tác hạch toán theo đúng các quy định của Nhà nước và quy chế của Công ty Thuyết minh sơ đồ tổ chức hiện trường Quản lý chung tại hiện trường do chủ nhiệm công trình chịu trách nhiệm điều hành toàn bộ hoạt động để đảm bảo thực hiện tất cả nội dung công việc của hợp đồng và những phần việc phát._. công để đảm bảo hiệu quả cao Công ty phải luôn chú ý giám các khoản chi phí này, nó bao gồm: Giảm chi phí hành chính: được thực hiện thông qua việc tinh giảm bộ máy quản lý, bảo đảm khoa học , gọn nhẹ hiệu quả cao. Đây là biện pháp nhằm giảm chi phí tiền lương đồng thời làm tăng hiệu quả công tác quản lý. Giảm chi phí bảo hộ lao động và an toàn kỹ thuật: thông qua việc tổ chức lao động khoa học, áp dụng các phát minh sáng kiến, sử dụng các máy móc thiết bị trong công đoạn nặng nhọc, nguy hiểm. Giảm thiểu hợp lý các chi phí phục vụ thi công : như lều láng, công cụ dụng cụ nhỏ bằng cách nâng cao thức trách nhiệm của người lao động. 3.2.2 Nâng cao chất lượng và tiến độ công trình, đảm bảo an toàn, vệ sinh môi trường 3.2.2.1 Nâng cao chất lượng và tiến độ công trình Chất lượng công trình là vấn đề hết sức quan trọng nó sẽ đánh giá khả năng hoạt động của Công ty bởi vì đây chính là sản phẩm của cả một hệ thống từ bộ máy quản lý đến khâu thi công sản xuất. Và đặc biệt hơn nữa đây là loại sản phẩm có giá trị rất cao và thông thường có giá trị sử dụng rất lâu nên vấn đề chất lượng được khách hàng, chủ đầu tư quan tâm cũng là điều dễ hiểu. Vì vậy nâng cao chất lượng các công trình sẽ góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty. Chất lượng của các công trình được hình thành từ khi xây dựng phương án sản phẩm, khi thiết kế, lập kế hoạch trong quá trình sản xuất. Chất lượng công trình được đảm bảo suốt từ khi chuẩn bị sản xuất, thi công và thi công theo các tiêu chuẩn đã đặt ra khi thiết kế. Khâu thiết kế cũng là một khâu quan trọng quyết định chất lượng công trình. Bởi khi thiết kế công trình thì các kiến trúc sư đã khảo sát vị trí và địa hình để đưa ra các thống số về kỹ thuật để đảm bảo chất lượng công trình. Ví dụ như các thông số về độ sụt lún nếu tính toán các thông số này đúng và hợp lý sẽ giúp cho chất lượng công trình được nâng cao còn ngược lại thì ảnh hưởng đến chất lượng và tiến độ thi công. Thông thường phần thiết kế do chủ đầu tư thuê các đơn vị khác thiết kế nên khi mà thiết kế không tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của bên thi công bởi bên thi công trực tiếp tham gia vào quá trình thi công. Vì vậy cần thống nhất giữa bên thiết kế và bên thi công để làm sao cho công trình được đảm bảo và có chất lượng. Nếu phát hiện sai sót trong thiết kế cần báo ngaycho chủ đầu tư. Ngoài các yếu tố về thiết kế như trên thì còn lại chất lượng công trình phụ thuộc hoàn toàn vào bên thi công. Chất lượng công trình là thước đo về trình độ quản lý và năng lực hoạt động của Công ty nên Công đã và đang không ngừng tìm các biện pháp nâng cao chất lượng công trình. Một trong những phương pháp nâng cao chất lượng là nguyên tắc làm đúng ngay từ đầu để ngăn chặn sai sót, tránh sự lãng phí và đảm bảo nâng cao chất lượng của công trình. Có một số biện pháp nâng cao chất lượng công trình như sau: Sử dụng nguyên vật liệu đảm bảo chất lượng và các thông số kỹ thuật: hiện nay bên chủ đầu tư cho bên thi công tự chọn nguyên liệu để tiến hành thi công trình một số thường hợp bắt buộc phải dùng nguyên liệu như trong bản thiết kế thì Công ty được toàn quyền chủ động trong khâu chọn nguyên vật liệu miễn sao đảm bảo chất lượng yêu cầu của bên chủ đầu tư và bên giám sát chấp nhận. Sử dụng nguyên vật liệu đảm bảo và đầy đủ sẽ góp phần làm cho chất lượng công trình được nâng cao. Ví dụ khi chọn nguyên liệu trộn bê tông : hiện nay có nhiều loại bê tông trộn sẵn trên thị trường rất tiện lợi, đảm bảo chất lượng tốt nhưng lại đắt hơn tự trộn. Tuy nhiên nếu muốn trộn bê tông cần phải cân đo cẩn thận, tuỳ theo mục đích sử dụng mà trộn bê tông với các tỷ lệ ximăng – cát - đá khác nhau, phối liệu làm bê tông phải thật sạch, xi măng tốt phải tơi mịn như bột, nếu có lẫn cục (dù to hay nhỏ) là xi măng đã để lâu, kém chất lượng . Khi trộn xi măng để làm hồ hoặc bê tông cần chọn loại cát thô, sắc cạnh chứ không dùng cát nhuyễn, chú ý không dùng cát biển để trộn, trừ khi cát đó đã được rửa sạch bằng nước ngọt. Cát liệu bê tông thường có kĩch cỡ hạt từ 0,6 – 3,8 mm. Trộn bê tông phải thật đều, vừa nước để bê tông mượt dẻo và dính, không được tơi rời hoặc chảy, chỉ nên dùng trong phạm vi nửa giờ sau khi trộn và tuyệt đối không được thêm nước để trộn khi hồ đã cứng lại. Trộn bê tông cũng chú ý thời tiết khô lạnh dễ làm bê tông đông cứng trước khi dùng. Nếu trộn bê tông màu thì dùng bột màu trộn đều với xi măng trước sau đó mới trộn cát hay với các vật liệu khác. – Nâng cao chất lượng công trình bằng việc áp dụng nhiều công nghệ mới: Hiện nay trên thị trường có nhiều loại công nghệ mới mà khi áp dụng vào thi công sẽ rút ngắn được thời gian thi công cũng như cải thiện chất lượng công trình. Đưa vào quá trình sản xuất các loại thiết bị như thang máy trong xây dựng, thiết bị nâng, máy trộn bê tông hiện đại, cầu trục tháp, cầu trục leo, các loại bê tông nhẹ sẽ góp phần làm giảm lao động thủ công đồng thời rút ngắn thời gian thi công, chất lượng công trình đảm bảo hơn. áp dụng phương pháp xây dựng mới như kết cấu sàn Speedy deck , Speedy deck thực chất là tấm khung sàn nhà được chế tạo tự động trong xưởng, có cấu trúc là một tấm tôn mạ kẽm tạo sóng được hàn bên trên với một dầm rỗng bằng thép tròn tiết diện hình tam giác. Mỗi tấm rộng 60 cm, dài 4 – 6 m, có 2 dầm, nặng khoảng 30 - 40 kg, phù hợp cho việc vận chuyển, lắp ráp. Khi thi công người ta sẽ móc các tấm này với nhau tạo thành một bề mặt rộng, gối lên hai đầu tường nhà, ở giữa mỗi hai dầm là hộp nhựa rỗng tái sinh (nhằm tạo khoảng trống bên trong bê tông, giảm tiêu thụ bê tông, từ đó giảm khối lượng sàn, giảm 20 – 30 % trọng lượng bê tông). Sau cùng bê tông được phủ bên trên toàn bộ bề mặt. Khi dùng kết cấu sàn Speedy deck thì không dùng đến cốt pha, gỗ chống như cách đổ mái truyền thống đồng thời khả năng chịu lực của kết cấu này là rất lớn gấp 11 lần so với khả năng chịu lực thông thường của sàn nhà cao tầng. Bên cạnh đó kết cấu sàn Speedy deck là giảm thời gian thi công, một ngày với lượng công nhân trung bình có thể sản xuất để phục vụ cho 3 tầng nhà (diện tích khoảng 1000m2) trong khi đó với phương pháp thi công truyền thống cần 15 ngày mới hoàn tất được 1 tầng như vậy. Nhờ những tiện lợi trên mà mỗi mét vuông kiểu sàn mới rẻ hơn khoảng 300.000 đồng/m2 so với cách thông thường. Hiện nay phương pháp này đã được áp dụng khá phổ biến trong các công trình xây dụng lớn do có nhiều tiện ích lại giảm được thời gian và giá thành công trình tuy nhiên Công ty ICD vẫn chưa tiến hành áp dụng phương pháp thi công này nên còn nhiều hạn chế trong thi công xây lắp. 3.2.2.2 Đảm bảo an toàn và vệ sinh môi trường Đảm bảo an toàn và vệ sinh môi trường là một yêu cầu không thể thiếu được của bất cứ một công trình xây dựng nào, đây cũng là một trong những biện pháp nâng cao chất lượng công trình. Đảm bảo an toàn về con người và phương tiện thi công, đảm bảo về phương tiện và nguyên vật liệu thi công tránh tình trạng hỏng hóc và trộm cắp nguyên vật liệu. Tuy nhiên phải đặc biệt bảo đảm an toàn về mặt con người, khi mà hiện nay trong hoạt động xây lắp còn nhiều công đoạn sản xuất theo phương pháp thủ công tức là hoàn toàn bằng lao động tay chân thì rủi ro về mặt lao động là rất lớn trong khi đó cần có những biện pháp bảo đảm an toàn cho người lao động tham gia và sản xuất thi công nhất là khi thi công ở những vị trí nguy hiểm cần có các thiết bị bảo về như mũ, quần áo bảo hộ, dây tời dùng cho thi công ở trên cao vì vậy Công ty cần mua sắm đầy đủ các thiết bị bảo hộ lao động, tổ chức các khoá học tập về an toàn lao động, chấp hành các nội quy, quy trình, quy phạm kỹ thuật an tàon lao động trên mọi công trình. Bởi vì không chỉ Công ty phải quan tâm đến an toàn cho người lao động mà chính bản thân người lao động phải có ý thức chấp hành các quy trình kỹ thuật thì mới tránh được tình trạng đáng tiếc xảy ra. Đối với các công trình gần khu vực dân cư sinh sống thì vấn đề đảm bảo an toàn không chỉ cho người lao động nữa mà phải đảm bảo an toàn cho cả mọi người xung quanh. Vì vậy công ty cần phải tiến hành chăng lưới bao quanh toàn bộ khu nhà từ trên cao và rào lưới hoặc tôn xung quanh khu vực tiến hành thi công để tránh vật liệu hỏng rơi vãi gây nguy hiểm cho mọi người. Bảo đảm an toàn cho con người phải luôn là ưu tiên hàng đầu trong công tác tổ chức an toàn lao động. Vấn đề về vệ sinh môi trường cũng gắn liền với an toàn lao động bởi có làm vệ sinh môi trường sạch sẽ thì mới một phần làm giảm các tai nạn trong thi công. Vệ sinh môi trường tức là làm sạch khu vực thi công, tiến hành phân loại các vật liệu hỏng , vật liệu thừa, vật liệu không sử dụng được, vật liệu rơi vãi như : vở bao xi măng, đầu mẩu sắt, mẩu gạch vỡ, đinh vít hỏng, vữa trộn dư thừa…việc phân loại trên sẽ giúp cho việc tận dụng các nguyên vật liệu hỏng mà vẫn có thể sử dụng được còn nếu không thì tiến hành bán hoặc xử lý. Về vệ sinh cần tiến hành hàng ngày, hàng tuần để bảo vệ môi trường xung quanh đồng thời giúp cho việc có mặt bằng thi công tránh tình trạng những vật liệu không dùng được gây ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm đang thi công. 3.2.3 Mở rộng và phát triển thị trường Hiện nay thị trường của Công ty vẫn còn nhỏ hẹp chỉ trong một vài tỉnh phía Bắc nên cần phải mở rộng về quy mô và tốc độ hơn nữa thì mới có khả năng không bị các đối thủ chèn ép, bị chiếm thị trường. Muốn mở rộng thị trường thì trước hết phải nắm bắt được nhu cầu thị trường và tăng cường công tác nghiên cứu thị trường. Đối với các thị trường quen thuộc Công ty cần tiếp tục duy trì hoạt động và nâng cao hơn nữa uy tín của mình và khẳng định chất lượng sản phẩm của Công ty, giữ vững lòng tin của khách hàng. Bên cạnh đó phải mở rộng ra các thị trường mới, đối với thị trường mới cần tăng cường hoạt động giới thiệu về Công ty và đưa ra các dịch vụ hỗ trợ như bảo hành, tư vấn miễn phí, điều kiện thanh toán chất lượng, giá cả hợp lý…nhằm thu hút khách hàng đồng tham gia đấu thầu các công trình tại thi trường mới để tăng khả năng tham gia của Công ty vào thị trường này. Hoạt động nghiên cứu thị trường cũng hết sức quan trọng, nghiên cứu thị trường để phát hiện nhu cầu, phát hiện cơ hội kinh doanh để từ đó Công ty mới có khả năng nắm bắt thông tin và tham gia vào các thị trường rộng lớn. Hiện nay Công ty chưa quan tâm lắm đến công tác nghiên cứu thị trường tuy có hoạt động nghiên cứu nhưng không nắm bắt được nhiều thông tin về thị trường về đối thủ cạnh tranh mà chỉ đơn phương tính giá nên khả năng cạnh tranh còn kém. Thông tin thu được của thị trường thường chậm chạp, hiệu quả hoạt động này còn chưa cao, đôi khi bị động trước khách hàng, khách hàng chủ yếu tự tìm đến Công ty, còn Công ty chưa chủ động tìm kiếm đến khách hàng như vậy dẫn đến bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh. Để khắc phục điều đó Công ty cần tăng cường hơn nữa công tác nghiên cứu thị trường để có thể tận dụng những cơ hội kinh doanh. Vì vậy trước mắt Công ty cần thành lập thêm nhóm nghiên cứu thị trường gồm một nhóm người thường xuyên tiến hành nghiên cứu, thu thập và xử lý thông tin từ đó tiến hành chọn lọc phân tích những thông tin thích hợp cho Công ty, rút ra các nhận xét, kết luận làm cơ sở cho việc xây dựng những chiến lược, kế hoạch và phương án kinh doanh. Qua việc tìm kiếm thông tin như trên có thể giúp Công ty tìm được những hợp đồng kinh doanh mới và thị trường kinh doanh mới mà trước đây Công ty có thể đáp ứng nhưng chưa tham gia. Nâng cao chất lượng lao động Chất lượng lao động là yếu tố quyết định đến chất lượng công trình, đến năng lực của Công ty vì vậy Công ty phải thường xuyên đào tạo nâng cao chất lượng nhân sự bởi con người con người là yếu tố quan trọng quyết định đến mọi hoạt động sản xuất của Công ty. Nâng cao chất lượng lao động bằng biện pháp đào tạo nhằm mục đích khắc phục cơ bản những tồn tại trong cơ cấu lao động hiện hành, tạo lập một cơ chế mới năng động thích ứng với thị trường, nâng cao trình độ quản lý, xây dựng lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu đa dạng hoá kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm, tiến tới hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Để làm được điều đó thì Công ty phải đưa ra các chính sách đối với người lao động, tạo điều kiện cho người lao động có điều kiện làm việc, ổn định cuộc sống. Công ty phải nâng cao trình độ quản lý điều hành của bộ máy quản lý và nâng cao tay nghề cho công nhân. Cụ thể như sau: Đào tạo lại tay nghề: ngoài việc đào tạo, nâng cao tay nghề cho công nhân của Công ty trực tiếp tại Công ty thì Công ty nên cử đi học thêm ở các cơ sở đào tạo nghề. Như vậy sẽ giúp cho tay nghề của công nhân được nâng cao và hoàn thiện. Đào tạo mới các nghề : Chủ yếu việc đào tạo mới này giúp cho các cán bộ kỹ thuật có thể tiếp cận được với các công nghệ mới hiện nay trên thị trường đặc biệt là đối với những nghề liên tục có sự thay đổi công nghệ và thị hiếu. + Trang trí hoàn thiện kỹ thuật và mỹ thuật có sự đòi hỏi cao. + Lắp đặt thiết bị tự động hoá khi mà công nghệ sản xuất thay đổi. + Đào tạo nghề dùng cho xuất khẩu lao động dặc biệt là trong các loại nghề như: lắp đặt điện, điện lạnh, điều hoà, thông gió, cầu thang điện, thang máy. Yêu cầu các loại thợ qua đào tạo thực hiện được các công việc có yêu cầu kỹ thuật trong quá trình thay đổi công nghệ sản xuất. Thời gian đào tạo: + Đào tạo lại nghề bằng từ 2 – 4 tháng + Đào tạo ngắn ngày do thay đổi vị trí công tác + Đào tạo mới từ 1 – 1,5 năm cho công nhân kỹ thuật + Đào tạo nâng cao trình độ quản lý, lý luận chính trị Tuy nhiên cần chú ý các yếu tố như sau: -> Cần xác định đối tượng cần tuyển dụng và đào tạo - > Đào tạo lý thuyết kết hợp với thực hành. - > Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo và đào tạo lại với nâng cao khả năng tự bồi dưỡng. - > Nên đào tạo liên tục. - > Có chính sách thưởng phạt nghiêm minh. 3.2.5 Hoàn thiện công tác tính giá dự thầu Giá dự thầu là một trong những chỉ tiêu quan trọng để nhà thầu đánh giá hồ sơ dự thầu. Trong giai đoạn hiện nay, cạnh tranh về giá ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt. Đòi hỏi mọi công ty xây lắp đều phải đưa ra những biện pháp giảm giá dự thầu. Mối quan hệ giữa giá dự thầu và xác suất trúng thầu được biểu diễn qua sơ đồ sau: (P) P0 P0 Xác suất trúng thầu Qua sơ đồ trên chúng ta có thể thấy: giá bỏ thầu thấp thì xác suất trúng thầu cao và có một mức giá P0 giới hạn (chi phí trực tiếp tạo nên công trình). Thực tế cho thấy, việc tính giá dự thầu của Công ty cũng như một số công ty khác tương đối cứng nhắc. Công ty thường chỉ dựa vào bảng dự toán xây dựng cơ bản và những thông báo giá trong từng thời kỳ để tính giá dự thầu. Chưa biết đưa giá thực tế vào để tính giá dự thầu nên giá dự thầu thường cao. Như công trình: Dãy nhà học 3 tầng của trưởng tiểu học Thái thịnh, giá mời thầu là 2.860 triệu đồng, giá trúng thầu là 2.905 triệu đồng, trong khi đó giá bỏ thầu của Công ty là 2.930 triệu đồng. Mặt khác, nhiều khi muốn trúng thầu, Công ty cứ hạ giá mong có thể trúng được thầu, song khi bảo vệ giá dự thầu trước chủ đầu tư, Công ty đã không bảo vệ được và bị chủ đầu tư đánh trượt thầu (giá P < P0). Ví dụ như công trình Nhà ở của cán bộ công nhân viên trường đại học Thái nguyên; giá mời thầu là 3.987 triệu đồng, giá dự thầu của Công ty là 3.796 triệu đồng. Vì vậy, việc tính toán để đưa ra giá dự thầu hợp lý, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh và năng lực của công ty là một vấn đề cấp bách và cần có giải pháp hữu hiệu để giảm giá tránh thầu một cách hợp lý để tăng khả năng thắng thầu của Công ty. Để hoàn thiện công tác tình giá dự thầu tốt thì cần có đội ngũ những người cán bộ có khả năng và kinh nghiệm trong công tác xác định giá dự thầu, có hệ thống máy móc và thiết bị phù hợp với công trình cần tiến hành dự thầu bởi vì nếu máy móc thiết bị không phù hợp thì có khả năng bị loại ngay từ vòng đánh giá về mặt kỹ thuật. Bên cạnh đó phải tính toán chính xác và đầy đủ từng loại chi phí và đảm bảo sử dụng thấp nhất mà vẫn đạt được hiệu quả tuy nhiên cũng phải tính đến lợi nhuận mà Công ty mong muốn đạt được qua công trình này. Để có được giá dự thầu chính xác và có tính cạnh tranh cao thì đòi hỏi các yêu cầu sau: - Cần có đội ngũ cán bộ làm công tác bóc tách, tiên lượng giỏi và có kinh nghiệm để có thể tính toán đầy đủ chính xác công tác xây lắp và các chi phí trong đơn giá dự toán. - Nắm chắc định mức dự toán, đơn giá xây dựng cơ bản theo quy định của Nhà nước và địa phương. - Cần có hoạt động marketing mạnh để nghiên cứu thị trường, cập nhật các thông tin về chủ đầu tư, bạn hàng, đối thủ cạnh tranh, giá cả nguyên vật liệu và quy định của Nhà nước để phục vụ cho việc tính giá dự thầu sát thực tế. - Nhân sự có khả năng thống kê, phán đoán tình hình biến động giá cả trên thị trường, dự đoán mong muốn của chủ đầu tư. - Xây dựng hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật trong công ty (định mức thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp; khoảng 6 tháng một lần). - Có chính sách khuyến khích công nhân, người lao động hợp lý khi tăng năng suất cũng như tiết kiệm nguyên vật liệu, hoặc có sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Chính việc hoàn thiện công tác tính giá dự thầu đã mang lại nhiều lợi ích cho Công ty giúp Công ty nâng cao khả năng cạnh tranh. - Sử dụng giải pháp này, Công ty sẽ đưa ra được mức giá bỏ thầu có sức cạnh tranh cao, góp phần nâng cao khả năng thắng thầu và trúng thầu của Công ty. - Góp phần hoàn thiện biện pháp tổ chức thi công, nâng cao năng suất lao động, năng suất máy móc thiết bị và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. - Hạ giá thành xây lắp không chỉ nâng cao khả năng thắng thầu mà còn mang lại mức lãi cao cho công ty. Càng hạ giá thành nhiều thì lợi nhuận của công ty càng cao (giảm 1đ chi phí sẽ tăng hơn 1đ lợi nhuận), và càng có điều kiện phát triển Công ty toàn diện. - Theo thống kê thì trong 11 công trình trượt thầu của Công ty thì có đến 07 công trình trượt thầu nguyên nhân chính là có vấn đề giá dự thầu: giá cao hơn đối thủ cạnh tranh, giá cả không phù hợp với khả năng, năng lực thực tế của Công ty, không phù hợp với giá thị trường. Vì vậy cần hoàn thiện hơn nữa công tác tính giá dự thầu. 3.2.6 Các giải pháp khác 3.2.6.1 Xây dựng mối quan hệ với các tổ chức kinh tế khác Bất cứ một công ty nào hoạt động trên thị trường đều có sự tác động của yếu tố môi trường trong đó sự tác động của các tổ chức kinh tế khác đến hoạt động của Công ty là lớn vì vậy phải quan tâm và xây dựng mối quan hệ này sao cho tốt đẹp. Đối với các doanh nghiệp cùng ngành cần tiến hành liên kết hợp tác để cùng tiến hành các công trình lớn. Hiện nay đối với các công trình lớn thì ngoài bên chủ thi công chính còn có các công ty xây dựng nhỏ hơn cùng thi công các công trình này do bên thi công chính tiến hành mời đấu thầu một số hạng mục công trình thuộc phạm vi một công trình lớn. Do vậy việc liên kết hợp tác với các tổ chức kinh tế khác sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho Công ty có thể được các doanh nghiệp cùng ngành gửi văn bản trực tiếp để kêu gọi mời thầu khi năng lực của công ty này không đủ khả năng bao thầu tất cả các hạng mục. Tạo mối quan hệ tốt với nhà cung ứng, sản xuất sẽ tạo được sự hợp tác vui vẻ cũng như sự giúp đỡ trong trường hợp mà Công ty gặp khó khăn, rủi ro…Quan hệ tốt với nhà cung ứng, thực hiện và khai thác chính sách giá bán của họ. Công ty nên tận dụng thi công nhiều công trình một lúc để mua một khối lượng lớn nguyên vật liệu để được hưởng chiết khấu hoặc có thể để tồn kho hoặc có thể tích trữ nguyên vật liệu nếu có lợi làm giảm giá nguyên vật liệu. Tạo mối quan hệ tốt với khách hàng sẽ giúp cho Công ty giữ được khách hàng, giữ được thị trường, khẳng định vị trí của Công ty. Tạo mối quan hệ tốt với các tổ chức tín dụng, ngân hàng để có thể tận dụng được khoản vốn vay ưu đãi, giúp Công ty giải quyết tình trạng thiếu vốn hoặc khi nhu cầu sử dụng vốn lên cao. 3.2.6.2 Hoàn thiện bộ máy quản lý Bộ máy quản lý chính là bộ khung xương giúp Công ty hoạt động vì vậy hoàn thiện bộ máy quản lý góp phần tăng hiệu quả hoạt động của Công ty. Bộ máy quản lý đơn giản gọn nhẹ, linh hoạt sẽ đáp ứng tốt nhu cầu thay đổi của thị trường vì vậy cần tinh giảm bộ máy quản lý để có thể đáp ứng được sự biến đổi của môi trường đồng thời tiết kiệm được chi phí. Cần phải xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của từng bộ phận trong cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty bởi hiện nay trong quy chế của Công ty còn nhiều điều khoản còn chung chung chưa cụ thể dẫn tới tình trạng công việc không rõ ràng. Là một Công ty còn non trẻ, cần nâng cao sức cạnh tranh cần từng bước xây dựng bộ máy quản lý khoa học và có trình độ chuyên môn cao từ trên xuống dưới. điều này sẽ giúp Công ty tránh được sự chồng chéo, rườm rà, đẩy nhanh hoạt động ra quyết định nắm bắt cơ hội kinh doanh, xây dựng chiến lược, thẩm định, phê duyệt…đồng thời năng động trong các hoạt động xúc tiến kinh doanh, đấu thầu công trình, ký hợp đồng và tổ chức sản xuất. 3.3 Một số kiến nghị với Nhà nước 3.3.1 Một số kiến nghị đối với Nhà nước trong việc đấu thầu Mặc dù mới có luật đấu thầu có hiệu lực thi hành vào 4/2006 nhưng vẫn chưa cải thiện được tình hình móc ngoặc trong đấu thầu hiện nay. Mỗi một dự án khi được duyệt thì được chủ đầu tư hoặc cơ quan, tổ chức có khả năng đứng ra mời thầu và các công ty xây dựng có đủ năng lực tham gia dự thầu. Nhưng tình trạng hiện nay là chủ đầu tư thường là các bộ trong khi các đơn vị tham gia dự thầu trực thuộc chính bộ đó nên gây ra tình trạng tiêu cực. Thực tế đã chứng minh rằng dự án, công trình nào “may mắn” có các chủ thể (giám sát, thiết kế, khảo sát, thẩm định) đủ trình độ, năng lực quản lý thực hiện đầy đủ các quy định hiện hành của Nhà nước, tổ chức triển khai thực hiện đầy đủ các quy định về quản lý chất lượng trong các hợp đồng kinh tế, đặc biệt trong trường hợp các tổ chức này độc lập, chuyên nghiệp, thì tại đó công tác quản lý chất lượng tốt và hiệu quả. ở các công trình có yếu tố nước ngoài, chủ đầu tư là người bỏ tiền ra “mua” công trình, dự án để phục vụ cho chính mình. Vì vậy họ luôn tìm mọi biện pháp để lựa chọn nhà thầu có uy tín, năng lực tạo ra những công trình có chất lượng cao nhất, hiệu quả nhất so với đồng vốn bỏ ra. Vậy trường hợp vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách chủ đầu tư họ là ai?. Thực chất chủ đầu tư được Nhà nước uỷ nhiệm để quản lý vốn đầu tư xây dựng, họ không phải chủ thực sự. Các chủ đầu tư này được thành lập thông qua các quyết định hành chính. Không ít chủ đầu tư không đủ năng lực, thiếu hiểu biết về xây dựng, nhiều trường hợp làm kiêm nhiệm vì vậy công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng chưa được coi trọng. Mặt khác, các quy định về trình độ, năng lực, các chế tài chịu trách nhiệm cá nhân của chủ đầu tư chưa cụ thể dẫn đến hậu quả là chất lượng kém, hiệu quả dự án đầu tư thấp. Cuối cùng Nhà nước và nhân dân cùng chịu. Do những nguyên nhân trên đã khiến cho chủ đầu tư và bên dự thầu móc ngoặc với nhau nâng giá đấu thầu lên rất cao lãng phí và thất thoát cho ngân sách Nhà nước. Thực tế đấu thầu hiện nay có nhiều biểu hiện cho thấy phương thức đấu thầu nhiều khi chỉ đưa ra về mặt hình thức và công ty nào tham gia và thắng thầu đều nằm trong dự tính của chủ đầu tư. Tính cạnh tranh khốc liệt trong ngành làm nảy sinh vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc đấu thầu (vi phạm nguyên tắc bí mật, nguyên tắc công khai); sự móc ngoặc giữa chủ đầu tư và nhà thầu gây thất thoát cho Nhà nước và tổn phí vô ích của các nhà thầu khác; ảnh hưởng xấu đến chất lượng công trình. Nhà nước cần phải có những giải pháp trực tiếp hoặc gián tiếp để quản lý quá trình đấu thầu các dự án, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng và ít nhất các biểu hiện tiêu cực. Đây là một yêu cầu rất khó khăn nhưng rất cần thiết, đã đến lúc phải đưa thị trường xây dựng đi vào nền nếp để tránh những hậu quả đáng tiếc cho xã hội. 3.3.2 Một số kiến nghị đối với Nhà nước về vấn đề giải phóng mặt bằng, đền bù, xin phép xây dựng Mặc dù Công ty chỉ có nhiệm vụ thi công các công trình xây dựng còn nhiệm vụ giải phóng mặt bằng và đền bù thuộc về trách nhiệm của bên chủ đầu tư (tuy nhiên trong một số trường họp cá biệt giải phóng mặt bằng đền bù thuộc trách nhiệm của bên thi công) nhưng với tình hình giải phóng mặt bằng và đền bù hiện nay đã ảnh hưởng rất lớn đến các công ty xây dựng nói chung và Công ty ICD nói riêng. Hiện nay cơ chế đền bù giải phóng mặt bằng còn thiếu và không phù hợp nên dẫn đến tình trạng thời gian giải phóng bằng kéo dài làm chậm tiến độ thi công của các công trình gây tình trạng đọng vốn và máy móc thiết bị phục vụ thi công cũng bị ảnh hưởng khi mà không thể tiếp tục thi công trong khi đó máy móc để không mà nếu vận chuyển đi nơi khác để sản xuất thì lại thêm chi phí trong khi công trình vẫn chưa hoàn thành. Ngoài ra còn có nhiều trường hợp người dân không đồng tình trong việc đền bù dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, nặng thì dẫn đến đánh nhau. Một phần những nguyên nhân trên do quy hoạch không đúng hoặc do đền bù không thoả đáng cho người dân và nhiều hiện tượng tiêu cực xảy ra trong công tác giải phóng mặt bằng nên dẫn đến tình trạng mất lòng tin của người dân. Vì vậy Nhà nước cần có những biện pháp mạnh hơn nữa và minh bạch hoá hệ thống chính sách để người dân có thể hiểu và chấp nhận, đối với những trường hợp không thoả đáng cần xem xét lại và sử đổi còn một số trường hợp cố tình gây khó khăn thì cần biện pháp mạnh cưỡng chế giải toả để kịp tiến độ thi công. Ngoài ra cần quy rõ trách nhiệm cụ thể đối với vấn đề giải toả thì ai chịu trách nhiệm và ai có trách nhiệm giũp đỡ tiến hành khi hoạt động giải phóng mặt bằng gặp khó khăn. Hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập trong các thủ tục hành chính ở nước ta mặc dù có tiến hành cải cách nhưng tốc độ còn chậm trong khi đó nước ta đang tiến sát hơn nữa việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) vì vậy cần phải giảm bớt các thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá thuận tiện cho nhân dân và doanh nghiệp. Cần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, đạo đức đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị như Bộ xây dựng, Sở xây dựng, Bộ kế hoạch và đầu tư… từ đó tạo ra thái độ phục vụ mới cho các tổ chức này. Cần rà soát lại các cơ chế chính sách, thủ tục hành chính hiện hành, tập trung vào các lĩnh vực như : cấp phép xây dựng, thẩm định dự án, các yêu cầu về chứng chỉ, giấy xác nhận…từ đó phát hiện các thủ tục hành chính, các loại giấy tờ cần phải loại bỏ, cải tiến , sửa đổi hoặc giảm bớt. Một số kiến nghị khác Nhà nước cần có kế hoạch cụ thể hơn nữa về phát triển các ngành và các vùng kinh tế, xem xét các ngành kinh tế mũi nhọn của cả nước để tiến hành đầu tư và khuyến khích và để có được sự phát triển cân bằng giữa các ngành, các địa phương cần phát triển thêm các ngành nào khác nữa để phục vụ cho các ngành mũi nhọn. Nhà nước cần đầu tư hơn nữa vào công tác nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới, cần có sự khuyến khích và tạo điều kiện cho các cá nhân tổ chức tiến hành hoạt động nghiên cứu và thử nghiệm sản phẩm. Bởi vì hiện nay công nghệ của nước ta so với thế giới còn kém xa về trình độ do hoạt động đầu tư phát triển công nghệ chưa được quan tâm đúng mức. Ngoài ra việc đưa vào thử nghiệm và sản xuất đối với sản phẩm và công nghệ mới còn gặp nhiều khó khăn do mất thời gian về thủ tục giấy tờ và quá trình xin cấp bằng sở hữu trí tuệ của nước ta còn nhiều khâu và tốn nhiều chi phí. Nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường, các hoạt động xúc tiến đầu tư, hỗ trợ, mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm thông tin thị trường và công nghệ một cách nhanh chóng kịp thời chính xác. Cần cải cách thủ tục hành chính nhanh hơn và triệt để hơn nữa tránh tình trạng cải cách nhưng vẫn như cũ gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong vấn đề xin phép, xin đăng ký… Kết luận Vấn đề về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là một vấn đề hết sức quan trọng và cần đưcợ quan tâm đúng mức đặc biệt khi mà Việt Nam vào cuối năm 2006 sẽ tham gia vào tổ chức Thương mại thế giới khi đó thì các doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều thách thức lớn và để tồn tại được trong môi trường cạnh tranh đó thì doanh nghiệp phải có những chiến lược và biện pháp hiệu quả. Xuất phát từ vai trò quan trọng của khả năng cạnh tranh đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường trong việc tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh hiện nay trở thành một nhu cầu tất yếu đối với doanh nghiệp. Trong quá trình thực tập tại Công ty Đầu tư xây dựng và phát triển công nghệ, em đã cố gắng tìm hiểu quá trình tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh đồng thời tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tình hình đó. Do năng lực còn hạn chế và thời gian có hạn, những vấn đề trình bày trong luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được ý kiến góp ý của thầy cô, ban lãnh đạo Công ty Đầu tư xây dựng và phát triển công nghệ và tất cả các bạn để luận văn được hoàn chỉnh hơn. Qua đây cho phép em một lần nữa được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong trường Đại học thương mại, cảm ơn các thầy cô trong khoa Quản trị doanh nghiệp và Ban lãnh đạo Công ty Đầu tư và phát triển công nghệ các cô, chú phòng Kế toán – Tài chính Công ty đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! Danh mục các tài liệu tham khảo Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty xây dựng 247 Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty Cổ phần HACINCO Báo cáo kết quả kinh doanh của Tổng Công ty xây dựng Hà nội Báo cáo kết quả kinh doanh của Tổng công ty Xây dựng VINACONEX Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty đầu tưu xây dựng và phát triển công nghệ PGS.TS Đặng Đức Dũng (2003), “Quản lý chất lượng sản phẩm” Nhà xuất bản Thống kê Th.S Vũ Thuỳ Dương (2003 ),“ Quản trị dự án” Nhà xuất bản Thống kê. PGS.TS. Phạm Công Đoàn (2004), “ Kinh tế doanh nghiệp thương mại”, Nhà xuất bản Thống kê. Garry D.S mith, Danny R. Arnold, Boddy R. Bizzell ( 2005) “ Chiến lược và sách lược kinh doanh”, NXB Thống kê PGS.PTS. Phạm Thị Gái (2000), “ Phân tích hoạt động kinh doanh” NXB Giáo dục GS.TS. Phạm Vũ Luận,(2004) “ Quản trị doanh nghiệp thương mại” Nhà xuất bản Thống kê Luật xây dựng (2005) NXB Thống kê M.Potter (1996) , “Chiến lược cạnh tranh”, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật Tạp chí xây dựng www.vietnamnet.com 16. www.moc.gov.vn ( trang thông tin của Bộ xây dựng) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28312.doc
Tài liệu liên quan