Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Mục lục Danh mục Bảng và Hình vẽ Bảng 1. Đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 17 Bảng 2. Tiêu chí năng lực cạnh tranh quốc gia của WEF 33 Bảng 3. Xếp hạng của các khối tiêu chí của Việt Nam năm 2000 theo WEF 35 Bảng 4. Năng lực cạnh tranh hiện tại của Việt Nam năm 2001 (CCI) theo WEF 35 Bảng 5. Các yếu tố do doanh nghiệp chi phối 36 Bảng 6. Phân nhóm khả năng cạnh tranh của sản phẩm 38 Bảng 7. Tỷ lệ tham gia của các DNVVN vào các ngành năm 2000 39 Bảng 8. Nhân tố cơ bản để củn

doc113 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1231 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cố năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 86 Hình 1. Phân bố của các DNNVV Việt Nam theo vị trí địa lý 11 Hình 2. Tỷ trọng phân theo ngành của các DNNVV Việt Nam 12 Hình 3. Thuế nhập khẩu trong APEC 22 Hình 4. Thuế nhập khẩu trong ASEAN, AFTA 25 Lời nói đầu Lý do lựa chọn đề tài và tính cấp thiết của đề tài Hệ thống DNNVV trong nền kinh tế quốc dân ngày càng giữ vị trí quan trọng cả trên phương diện kinh tế và chính trị xã hội ở Việt Nam. Đây là bộ phận không chỉ góp phần huy động các nguồn lực tài chính trong dân cư, tích cực giải quyết các vấn đề việc làm và xã hội mà còn là một lực lượng đáng kể tham gia tích cực trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Trong những năm qua, Việt Nam đã triển khai những nỗ lực quan trọng để hội nhập vào kinh tế quốc tế như: gia nhập ASEAN và tham gia vào khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1995; năm 1996, tham gia tiến trình á - Âu (ASEM) và trở thành thành viên chính thức của APEC (1998); Ký kết hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (2000) và đang đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Quá trình hội nhập này không chỉ đem lại cơ hội cho DNNVV Việt Nam mà còn đặt họ trước một vị thế bất lợi trong quá trình mở cửa. Bởi các DNNVV còn thiếu rất nhiều yếu tố cơ bản như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý, nhân lực,... để trở thành doanh nghiệp mạnh ngang tầm với các DNNVV trong khu vực và thế giới. Hơn nữa, trong quá trình tiếp cận thị trường thế giới, chúng ta buộc phải mở cửa thị trường trong nước và do đó chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng của những bất ổn định từ bên ngoài khi nền kinh tế thị trường Việt Nam còn chưa hình thành đầy đủ hệ thống chính sách, nhân lực, sức cạnh tranh, tính hiệu quả của nền kinh tế,... Do vậy, bên cạnh việc chủ động hội nhập, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh trở thành một yêu cầu bức thiết đối với sự tồn tại và phát triển của các DNNVV Việt Nam trong môi trường kinh tế mở. Với đề tài “Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, em muốn đưa ra những đánh giá khách quan về năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp này trong quá trình hội nhập và trên cơ sở đó nêu ra những giải pháp thích hợp cả về phía Nhà nước, bản thân doanh nghiệp và các đoàn thể xã hội để DNNVV khẳng định hơn nữa vị trí cũng như vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài đi sâu phân tích về năng lực cạnh tranh hiện tại và đề ra các giải pháp thích hợp để tăng hiệu quả kinh doanh của các DNNVV Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp so sánh, đánh giá để thấy được những cơ hội và thách thức đối với các DNNVV trong quá trình hội nhập. Các phương pháp biện chứng, phân tích tổng hợp để làm rõ các vấn đề liên quan tới khả năng cạnh tranh của các DNNVV Việt Nam trong quá trình hội nhập. Phương pháp nghiên cứu tài liệu tổng hợp để đưa ra các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh cho các DNNVV Việt Nam. Nội dung nghiên cứu Chương I: Xu thế tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế đối với các DNNVV Việt Nam. Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của các DNNVV Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNNVV Việt Nam trong quá trình hội nhập. Kết quả nghiên cứu dự kiến Tài liệu tham khảo cho các DNNVV Việt Nam, sinh viên chuyên ngành quản trị kinh doanh và những ai quan tâm đến việc phát triển các DNNVV ở Việt Nam. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế đối với các DNNVV Việt Nam Khái quát chung về DNNVV Việt Nam Khái niệm Nói đến DNNVV là nói đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay qui mô của các doanh nghiệp. Việc phân loại DNNVV phụ thuộc vào loại tiêu thức sử dụng qui định giới hạn các tiêu thức phân loại qui mô doanh nghiệp. Điểm khác biệt cơ bản trong khái niệm DNNVV giữa các nước chính là việc lựa chọn các tiêu thức đánh giá qui mô doanh nghiệp và lượng hoá các tiêu thức ấy thông qua những tiêu chuẩn cụ thể. Mặc dù có những khác biệt nhất định giữa các nước về qui định các tiêu thức phân loại DNNVV, song khái niệm chung nhất về DNNVV có nội dung như sau: DNNVV là những cơ sở sản xuất - kinh doanh có tư cách pháp nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có qui mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo qui định của từng quốc gia.[11, tr8] Qua nghiên cứu tiêu thức phân loại ở các nước có thể nhận thấy một số tiêu thức chung, phổ biến nhất thường được sử dụng trên thế giới là: Số lao động thường xuyên Vốn sản xuất Doanh thu Lợi nhuận Giá trị gia tăng Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh qui mô sử dụng các yếu tố đầu vào, còn tiêu thức về doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh giá qui mô theo kết quả đầu ra. Mỗi tiêu thức có những mặt tích cực và hạn chế riêng. Như vậy, để phân loại DNNVV có thể dùng các yếu tố đầu vào hoặc các yếu tố đầu ra của doanh nghiệp, hoặc là sự kết hợp của cả hai yếu tố đó. Dựa trên khái niệm chung về DNNVV và xem xét các tiêu thức và giới hạn tiêu chuẩn được sử dụng trong phân loại DNNVV trên thế giới kết hợp với điều kiện cụ thể, những đặc điểm riêng biệt về quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần và các chính sách, qui định phát triển kinh tế của nước ta. Chúng ta có thể nêu ra khái niệm như sau: DNNVV Việt Nam là những cơ sở sản xuất - kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động thoả mãn các qui định của chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.[11, tr.10] Theo khái niệm này các DNNVV gồm các loại hình cơ sở sản xuất - kinh doanh nằm trong những tiêu thức và giới hạn tiêu chuẩn quy định của chính phủ như: Các doanh nghiệp Nhà nước đăng ký theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước Các công ty cổ phần, công ty TNHH và các doanh nghiệp tư nhân đăng ký hoạt động theo Luật công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Các hợp tác xã đăng ký hoạt động theo Luật hợp tác xã (Luật mới) Các cá nhân và nhóm sản xuất - kinh doanh đăng ký theo Nghị định 66 - HĐBT. Theo Nghị định 90/2001/CP-NĐ ngày 23/11/2001, sự phát triển DNNVV là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Nhà nước khuyến khích và tạo thuận lợi cho DNNVV phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động. Định nghĩa DNNVV theo Nghị định 90/2001/CP-NĐ ngày 23/11/2001 như sau: DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.[25, tr2] Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên. Như vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh và thoã mãn hai tiêu thức trên đều được coi là DNNVV. Theo cách phân loại này, ở Việt Nam hiện nay số DNNVV chiếm khoảng 93% tổng số doanh nghiệp hiện có. Trên đây là quy ước hành chính của chính phủ để các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính thức của Nhà nước dùng làm cơ sở để xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ DNNVV. Cũng cần lưu ý rằng khái niệm và giới hạn phân loại trên chỉ mang ý nghĩa tương đối, không thể hiểu một cách cứng nhắc, bất di bất dịch mà cần phải thường xuyên đánh giá, cân nhắc, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội, khả năng hỗ trợ của Nhà nước trong từng thời kỳ. Đặc điểm hình thành, phát triển khu vực DNNVV ở Việt Nam Đặc trưng hình thành Có thể nói rằng cả các điểm mạnh lẫn các điểm yếu của các DNNVV Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào quá trình hình thành, phát triển khu vực này. So với các nước trong khu vực và hầu hết các nước trên thế giới quá trình này ở Việt Nam có một số nét đặc trưng sau đây: Các DNNVV hình thành, phát triển với tư cách là một khu vực kinh tế chỉ từ khi tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế (1986), từ bỏ mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường. Từ năm 1954 ở miền Bắc và 1975 ở miền Nam, Việt Nam đã chọn mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung xã hội chủ nghĩa, giống như mô hình của các nước xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu và Liên Xô. Trong thời kỳ này chỉ có hai khu vực: Kinh tế Nhà nước và hợp tác xã được phép hoạt động nhưng bị hạn chế ở qui mô và mức độ không đáng kể. Hầu hết xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung đều có qui mô nhỏ nhưng không thể coi chúng là các “DNNVV” vì chúng chưa phải là chủ thể thực sự của nền kinh tế. Thuật ngữ “DNNVV” hầu như không được ai đề cập đến trong thời kỳ này. Vào cuối những năm 1980, nền kinh tế Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn và mức sống của nhân dân giảm mạnh. Vì thế công cuộc đổi mới mà trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế đã được chính thức khởi xướng tại Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam (1986). Cùng với việc xoá bỏ chế độ bao cấp, các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã đã ngày càng trở thành các pháp nhân kinh tế thực sự. Kinh tế tư nhân được thừa nhận và khuyến khích phát triển thông qua hàng loạt văn bản pháp lý do Quốc hội và Chính phủ ban hành đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần cũng như các hộ kinh doanh dưới vốn pháp định ra đời và phát triển ngày càng mạnh mẽ. Cho đến đầu những năm 90, các DNNVV ở Việt Nam đã trở thành một khu vực kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh các doanh nghiệp khu vực tư nhân, khu vực tập thể, các doanh nghiệp Nhà nước cũng là một bộ phận quan trọng của khu vực DNNVV. Đây là một nét đặc thù riêng của khu vực DNNVV ở Việt Nam. Đối với nhiều nước khi nói đến DNNVV, người ta thường quan niệm đó là các doanh nghiệp khu vực tư nhân, còn đối với Việt Nam khi nói đến các DNNVV Việt Nam thì tiêu thức xác định không phải là sở hữu mà là giới hạn qui mô về vốn và lao động. Hiện nay, có khoảng 6000 doanh nghiệp Nhà nước và hơn 80% trong số đó là các DNNVV (có vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng và lao động thường xuyên dưới 300 người)[24]. Nhà nước Việt Nam có chủ trương tạo một sân chơi bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế, ví dụ luật doanh nghiệp được thông qua tại kỳ họp thứ năm Quốc hội khoá X đã được áp dụng cho một bộ phận đáng kể các doanh nghiệp Nhà nước. Các DNNVV ở Việt Nam, đặc biệt là khu vực tư nhân, gần đây mới nhận được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Vấn đề phát triển khu vực DNNVV ở Việt Nam từ năm 2001 trở về trước chưa được quan tâm đúng mức. Cho đến Nghị định 90/2001/CP-NĐ ngày 23/11/2001 Chính phủ Việt Nam mới ban hành một chính sách khuyến khích rõ ràng, dài hạn đối với các DNNVV như sau: Chương trình trợ giúp Chương trình trợ giúp DNNVV của Nhà nước là chương trình mục tiêu dành cho DNNVV, căn cứ vào định hướng ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội, phát triển các ngành và các địa bàn cần khuyến khích. Chương trình trợ giúp này được bố trí trong kế hoạch hàng năm và kế hoạch 5 năm do Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định. Chương trình trợ giúp bao gồm: mục tiêu, đối tượng DNNVV cụ thể theo ngành nghề, lĩnh vực và địa bàn hoạt động, nội dung trợ giúp, nguồn lực, kế hoạch và biện pháp về cơ chế chính sách, tổ chức thực hiện. Chú trọng ưu tiên chương trình trợ giúp các DNNVV do doanh nhân nữ quản lý. Khuyến khích đầu tư Chính phủ trợ giúp đầu tư thông qua biện pháp về tài chính, tín dụng, áp dụng trong một thời gian nhất định đối với các DNNVV đầu tư vào một số ngành nghề, bao gồm ngành nghề truyền thống và tại các địa bàn cần khuyến khích. Chính phủ khuyến khích các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp và thể nhân góp vốn đầu tư vào các DNNVV. Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV để bảo lãnh cho các DNNVV khi không đủ tài sản thế chấp, cầm cố, vay vốn của các tổ chức tín dụng. Mặt bằng sản xuất DNNVV được hưởng các chinh sách ưu đãi trong việc thuê đất, chuyển nhượng, thế chấp và các quyền khác về sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật. Thị trường và tăng khả năng cạnh tranh Các Bộ, ngành, uỷ ban nhân dân, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo, tạo điều kiện để DNNVV tiếp cận các thông tin về thị trường, giá cả hàng hoá, trợ giúp DNNVV mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm. Các địa phương trợ giúp việc trình bày, giới thiệu, quảng cáo, tiếp thị các sản phẩm có tiềm năng của các DNNVV, để tạo điều kiện mở rộng thị trường. Chính phủ tạo điều kiện để các DNNVV tham gia cung ứng hàng hoá và dịch vụ theo kế hoạch mua sắm bằng nguồn ngân sách Nhà nước; các Bộ, ngành địa phương có kế hoạch ưu tiên đặt hàng và các đơn hàng theo hạn ngạch phân bổ cho các DNNVV sản xuất hàng hoá và dịch vụ bảo đảm chất lượng theo yêu cầu. Chính phủ khuyến khích phát triển hình thức thầu phụ công nghiệp, tăng cường sự liên kết giữa các DNNVV với doanh nghiệp khác về hợp tác sản xuất, sản phẩm linh kiện, phụ kiện, phụ tùng, nhận thầu xây dựng,... nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNVV. Thông qua các chương trình trợ giúp, Chính phủ tạo điều kiện cho các DNNVV đổi mới công nghệ, trang thiết bị, máy móc, phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Về thị trường xuất khẩu Nhà nước khuyến khích DNNVV tăng cường xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV liên kết hợp tac với nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ. Thông qua chương trình trợ giúp xúc tiến xuất khẩu, trợ giúp một phần chi phí cho DNNVV khảo sát, học tập, trao đổi hợp tác và tham dự hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm, tìm hiểu thị trường ở nước ngoài. Chi phí trợ giúp được bố trí trong Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Các Bộ, ngành tạo điều kiện thuận lợi để các DNNVV tham gia các chương trình xuất khẩu của Nhà nước. Về thông tin, tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực Chính phủ, các Bộ, ngành và uỷ ban nhân dân địa phương cung cấp các thông tin cần thiết qua các ấn phẩm và qua mạng Internet cho các DNNVV, thông qua Bộ kế hoạch và Đầu tư (Cục Phát triển DNNVV) phối hợp với các cơ quan liên quan và các tổ chức xã hội nghề nghiệp trợ giúp DNNVV. Chính phủ trợ giúp kinh phí để tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực cho DNNVV thông qua chương trình trợ giúp đào tạo. Kinh phí trợ giúp về đào tạo được bố trí từ Ngân sách Nhà nước cho giáo dục và đào tạo. Chính phủ khuyến khích các tổ chức trong và ngoài nước trợ giúp các DNNVV trong việc cung cấp thông tin, tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực. Chính phủ khuyến khích việc thành lập các “vườn ươm DNNVV” để hướng dẫn, đào tạo doanh nhân trong bước đầu thành lập doanh nghiệp. [24] Đặc điểm của các DNNVV hiện nay Công nghệ, DNNVV Việt Nam thường gắn với công nghệ lạc hậu, thủ công. Công nghệ lạc hậu chiếm tỷ trọng rất lớn là đặc điểm khác biệt của các DNNVV ở các nước công nghiệp phát triển. Mặt khác, tốc độ đổi mới công nghệ rất chậm. Ngay đến thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm công nghiệp lớn của cả nước nhưng tốc độ đổi mới cũng chỉ đạt khoảng 10% trong khi ở các nước công nghiệp phát triển bình quân là 15% [11]. So với DNNVV nước ngoài các DNNVV Việt Nam phân tán hơn, khả năng liên kết với nhau và với doanh nghiệp lớn yếu hơn. Doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh, DNNVV Việt Nam trước tiên và chủ yếu là nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do tính lịch sử của quá trình hình thành và phát triển các thành phần kinh tế ở nước ta, đại bộ phận các DNNVV, theo qui định hiện hành của Thủ tướng Chính phủ, đều thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Bởi vậy, đặc điểm và tính chất của doanh nghiệp thuộc khu vực này mang tính đại diện cho DNNVV ở Việt Nam. Chẳng hạn, các con số thống kê về tỷ trọng GDP đóng góp trong cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm, số lao động, vốn, đặc điểm về công nghệ, máy móc sử dụng, trình độ quản lý, khả năng về vốn cho đến nay chủ yếu tổng kết cho khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chứ chưa có số liệu điều tra chính thức riêng biệt cho toàn bộ các DNNVV ở Việt Nam. Lĩnh vực hoạt động chủ yếu phần lớn các DNNVV Việt Nam hoạt động chủ yếu trong 3 lĩnh vực: thương mại và dịch vụ đời sống; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ và vận chuyển hàng hoá, hành khách. Riêng trong lĩnh vực công nghiệp, có 37,3% số DNNVV trong công nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, 11% DNNVV trong công nghiệp hoạt động trong các ngành dệt, may, da. Ngành cơ khí, sản xuất thiết bị, máy móc, dụng cụ chính xác, lắp ráp xe máy và các phương tiện giao thông chiếm 12,3% tổng số lượng DNNVV của toàn ngành công nghiệp [20]. Thực trạng phân bố Các vùng đô thị tập trung đông dân cư, các vùng gần thị trường tiêu thụ và các trung tâm công nghiệp được hình thành từ trước thời kỳ đổi mới là những nơi thuận lợi cho việc ra đời của các doanh nghiệp mới. ở các vùng nông thôn, nơi các làng nghề bị mai một trong những năm bao cấp, nay được chính sách đổi mới tác động nên nhiều doanh nghiệp với các loại hình khác nhau đã ra đời góp phần duy trì và phát triển các nghề truyền thống, tạo công ăn việc làm cho số lao động sẵn có tại địa phương. Riêng miền Nam đã chiếm 66,03% tổng số DNNVV của cả nước. Hai vùng có số lượng DNNVV lớn tiếp theo là miền Bắc (24,29%) và miền Trung (9,68%). Hình 124.29% 9.68% 66.03% Miền Bắc Miền Trung Miền Nam . Phân bố của các DNNVV Việt Nam theo vị trí địa lý Nguồn: Tổng cục thống kê, 2001[10] Thiếu vốn, DNNVV hiện nay gặp phải khó khăn thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, tình trạng thiếu vốn ở các doanh nghiệp không giống nhau. Nhiều doanh nghiệp phản ánh là thiếu vốn nhưng thực tế nếu có vốn cũng không biết sử dụng vào mục đích gì. Việc cung ứng vốn cho các DNNVV hiện nay chủ yếu được thực hiện qua thị trường tài chính phi chính thức, không tiếp cận được với nguồn tín dụng chính thức, tức tín dụng của hệ thống ngân hàng. Nguồn nhân lực, lao động chủ yếu trong các DNNVV chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Nhìn chung tỷ lệ lao động trong khu vực ngoài quốc doanh có trình độ đại học rất thấp khoảng 6%, trong đó chủ yếu tập trung vào các công ty TNHH và công ty cổ phần (hơn 80%)[20]. Ngoài ra, phần lớn các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh - các doanh nghiệp mới thành lập trong những năm gần đây - chưa được đào tạo về quản trị kinh doanh, kỹ năng quản lý kinh doanh còn non kém và thiếu kinh nghiệm. Sự phát triển của các DNNVV Việt Nam trong xu thế hội nhập Về mặt số lượng, các DNNVV chiếm tỷ lệ lớn trong tất cả các doanh nghiệp ở Việt Nam. Theo số liệu thống kê của năm 1998, trong tổng số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 25.517, thì 17.535 là các doanh nghiệp tư nhân, 6.900 là các công ty TNHH, 153 là các công ty cổ phần và 2.900 là các hợp tác xã. Như vậy, hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã đăng ký là các DNNVV. Sau 2 năm thi hành Luật doanh nghiệp, tính đến 31/12/2001, cả nước đã có thêm 32.000 doanh nghiệp, thu hút 4 tỷ USD vốn, giải quyết việc làm cho 700.000 lao động. Nâng tổng số doanh nghiệp trong cả nước lên 42.000 doanh nghiệp, trong đó chiếm đến 98% là các DNNVV. Như vậy, tính đến thời điểm tháng 12/2001, ở Việt Nam hiện có hơn 2 triệu DNNVV [20]. Hoạt động chủ yếu của các DNNVV Việt Nam là buôn bán, sửa chữa và sản xuất chế biến. Trong số hơn 2 triệu DNNVV Việt Nam có gần 78% các DNNVV tham gia vào các ngành thương nghiệp, sửa chữa và công nghiệp chế biến, trong đó các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, sửa chữa chiếm 42,2% và các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến chiếm 35,4%. Tiếp đó, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng chiếm gần 10%; các doanh nghiệp hoạt động trong ngành khách sạn và nhà hàng chiếm 4,4%; các doanh nghiệp hoạt động trong ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc chiếm 3,3%; các doanh nghiệp hoạt động trong ngành kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn chiếm 2,1%; các doanh nghiệp hoạt động trong 7 ngành khác chỉ chiếm 1,4%. [20] Hình 242.20% 35.40% 2.10% 1.20% 3.30% 10% 4.40% 1.40% . Tỷ trọng phân theo ngành của các DNNVV Việt Nam Nguồn: Tổng cục thống kê 2001[10] Tỷ lệ các DNNVV Việt Nam trong các ngành được sắp xếp theo thứ tự tăng dần như sau: Sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước chiếm 61,5%; Hoạt động văn hoá và thể thao chiếm 67,4%; Tài chính tín dụng chiếm 72,3%; Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc chiếm 78%; Hoạt động phục vụ cá nhân và công cộng chiếm 83,1%; Hoạt động kinh doanh tài sản, dịch vụ tư vấn chiếm 83,5%; Công nghiệp khai thác mỏ chiếm 83,6%; Khách sạn, nhà hàng chiếm 84,4%; Xây dựng chiếm 85,7%; Công nghiệp chế biến chiếm 86%; Giáo dục và đào tạo chiếm 87,5%; Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội chiếm 85,7%; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng chiếm 93%; Hoạt động khoa học và công nghệ chiếm 94,1%. [10] Tạo việc làm Các số liệu được thống kê cho thấy các DNNVV Việt Nam là nguồn chủ yếu tạo ra công ăn việc làm trong tất cả các lĩnh vực. Các DNNVV Việt Nam tuyển dụng gần 1 triệu lao động, chiếm 49% lao động trong tất cả các loại hình doanh nghiệp. Trong các lĩnh vực cơ bản của ngành công nghiệp chế biến, các DNNVV Việt Nam tuyển dụng 355.000 lao động, chiếm 36% tổng số lao động ngành. Trong ngành xây dựng, các DNNVV đã tạo ra chỗ làm việc cho 155.000 lao động, chiếm 51% tổng số lao động trong toàn ngành; trong ngành thương nghiệp và dịch vụ sửa chữa: 111.000 lao động, chiếm 56% tổng số lao động trong ngành này; lĩnh vực khách sạn và nhà hàng: 51.000 lao động, chiếm 89% tổng số lao động trong ngành; hoạt động kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn: 27.000 lao động chiếm 72% tổng số lao động trong ngành; lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nước: 26.000 lao động chiếm 52% tổng số lao động trong ngành và ngành công nghiệp khai thác mỏ 24.000 lao động, chiếm 25% tổng số lao động toàn ngành. [10] Mặt khác các DNNVV Việt Nam đã thu hút một tỷ lệ lao động chủ yếu trên phạm vi toàn quốc; ở vùng duyên hải miền Trung, số lao động làm việc tại các DNNVV so với tổng số lao động làm việc ở tất cả các doanh nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất là 67%; khu vực Đông Nam Bộ có tỷ lệ thấp nhất là 44% và như đã nêu, trên toàn quốc tỷ lệ này là 49%. Ngoài ra, tỷ lệ lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước đã có chiếu hướng giảm: giảm từ 9,7% trong năm 1988 xuống còn 5,2% vào năm 1996 và năm 2001 xuống còn 4,3%. Trong khi đó, tỷ lệ lao động làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp đã giảm từ 5,2% năm 1988 xuống còn 3,2% năm 1996 và năm 2001 còn hơn 2,1% [25, tr 47]. Do vậy, khu vực DNNVV đang có vai trò hết sức quan trọng, khu vực này có khả năng tạo ra việc làm để đáp ứng nhu cầu lao động cho số người phải rời bỏ chỗ làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước và cho số lượng lớn những người lao động mới tham gia vào lực lượng lao động hàng năm. Vai trò trong nền sản xuất ở Việt Nam: Trong ngành công nghiệp chế biến, số lượng và tỷ lệ các DNNVV tham gia vào sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau có sự biến động khá mạnh, tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực. Nhưng hầu như không có DNNVV nào tham gia hoạt động trong các phân ngành sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ hoặc nguyên liệu hạt nhân. Trong ngành sản xuất thuốc lá và thuốc lào, về số lượng các DNNVV chiếm 29% tổng số các doanh nghiệp nhưng về sản lượng chỉ chiếm một tỷ lệ không đáng kể - khoảng 0,11% giá trị sản lượng toàn ngành. Về số lượng, các DNNVV Việt Nam tập trung chủ yếu vào 7 phân ngành, dao động trong khoảng từ 73-93%. Giá trị sản lượng của 7 phân ngành này chiếm 81% tổng giá trị sản lượng của toàn ngành công nghiệp chế biến. Tỷ lệ đóng góp của các DNNVV trong giá trị sản lượng của 7 phân ngành được sắp xếp theo thứ tự giảm dần như sau: Sản xuất thực phẩm và đồ uống: 40,24%; Sản xuất sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại khác:14,49%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa, rơm rạ: 8,03%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại (trừ máy móc thiết bị): 4,06%; dệt:4,1%; sản xuất trang phục, thuộc và nhuộm da lông thú: 4,06%. [10] Các DNNVV đã huy động được 47.739 tỷ đồng vốn đầu tư cho các đơn vị kinh doanh của mình và đã tạo ra 3 triệu chỗ làm việc. Doanh thu của các DNNVV vào khoảng 137.000 tỷ VND và các DNNVV đã nộp 5.000 tỷ VND tiền thuế. Các DNNVV đã tạo ra khoảng 2% GDP và những đóng góp chung của các DNNVV Việt Nam trong tổng vốn đầu tư quốc gia và trong GDP của nền kinh tế vẫn còn nhỏ [10]. Những số liệu này cũng phản ánh rõ một điều là tiềm năng kinh tế của khu vực này vẫn chưa được phát huy đầy đủ. Vị trí và vai trò của DNNVV trong việc phát triển kinh tế, xã hội ở Việt Nam DNNVV có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế mỗi nước, kể cả các nước có trình độ phát triển cao. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt như hiện nay, các nước đều chú ý hỗ trợ các DNNVV nhằm huy động tối đa các nguồn lực và hỗ trợ cho công nghiệp lớn, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Vị trí, vai trò của các DNNVV đã được khẳng định thể hiện qua các điểm chủ yếu sau: Về số lượng các DNNVV chiếm ưu thế tuyệt đối DNNVV có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế mỗi nước. Nó là một bộ phận hữu cơ gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn, có tác dụng hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy các doanh nghiệp lớn phát triển Sự phát triển của các DNNVV góp phần quan trọng trong việc giải quyết những mục tiêu kinh tế xã hội. Vì vậy, các doanh nghiệp này ở Việt Nam từ trước đến nay và cả trong tương lai vẫn có vị trí, vai trò rất quan trọng trong công cuộc phát triển đất nước, cụ thể là: Việc phát triển DNNVV đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, giá trị gia tăng hoặc GDP do các DNNVV tạo ra hàng năm chiếm tỷ trọng khá lớn đảm bảo thực hiện những chỉ tiêu tăng trưởng của nền kinh tế. Cung cấp cho xã hội khối lượng hàng hoá đáng kể phục vụ nhu cầu trong nước như máy móc trang thiết bị, công cụ và các linh kiện cần thiết đối với các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp. Thu hút lao động, tạo ra nhiều việc làm với chi phí đầu tư thấp, giảm thất nghiệp tại các khu vực đô thị hoặc những người ở các vùng nông thôn đang kiếm việc làm. Tạo nguồn thu nhập ổn định thường xuyên cho dân cư, góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập các bộ phận dân cư, tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều giữa các vùng của đất nước và cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Các DNNVV có thể góp phần vào quá trình phân bổ các ngành công nghiệp, nhờ đó tạo diều kiện để giảm khoảng cách phát triển và khuyến khích sự phát triển cân đối giữa các vùng khác nhau trên toàn quốc. Khai thác, phát huy các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của các địa phương, các nguồn tài chính của dân cư trong vùng. Các DNNVV có thể phát triển và sử dụng 1 cách có hiệu quả các nguồn tài chính huy động trong nước và các nguồn viện trợ của nước ngoài. Hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động, lực lượng cần thiết góp phần thúc đẩy sản xuất - kinh doanh ở Việt Nam phát triển. Trong những năm đổi mới đã xuất hiện nhiều gương mặt trẻ, điển hình, năng động trong quản lý các DNNVV. Tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phát triển có hiệu quả hơn do số lượng và chủng loại sản phẩm sản xuất tăng lên rất nhanh, tăng tính chất cạnh tranh trên thị trường, tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới. Những yếu tố đó có tác động lớn làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn. Bảng 1. Đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Thực hiện (tỷ đồng) Tháng 10/2002 so với tháng 10/2001 10 tháng đầu năm so với cùng kỳ 2001 (%) 9 tháng đầu năm 2002 ước tính tháng 10/2002 Cộng dồn 10 tháng đầu năm 2002 Tổng số 195.729 22.661 218.390 114,2 114,3 Phân theo khu vực và thành phần kinh tế Khu vực DN Nhà nước 78.467 9.027 87.503 109,6 111,6 Trung ương 52.147 5.929 58.076 109,4 112,5 Địa phương 26 329 3 098 29 427 110,0 109,8 Khu vực ngoài quốc doanh 47.020 5.831 52.851 121,5 119,0 Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 70.233 7.803 78.036 114,5 114,4 Dầu mỏ và khí đốt 20.053 2.301 22.354 101,1 99,8 Các ngành khác 50.180 5.502 55.682 121,2 121,6 Nguồn: Tổng cục thống kê 2002 Với những lợi ích to lớn đó, việc khuyến khích, hỗ trợ phát triển các DNNVV là một giải pháp quan trọng để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, đặc biệt là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Đây cũng là một trong các giải pháp bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế nước ta. Hội nhập kinh tế quốc tế và sự cần thiết phải tăng khả năng cạnh tranh của DNNVV Việt Nam Thế giới đang đứng trước một xu thế có tính quy luật là các nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào nhau, hiệp tác chặt chẽ hơn với nhau ở phạm vi khu vực cũng như toàn cầu. Từ cuối những năm 80, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành vấn đề thời sự mà các khu vực, các nền kinh tế và các Doanh nghiệp đang đặt sự quan tâm lên hàng đầu. Cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ la tinh đầu những năm 90 và cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á không chỉ là dẫn chứng cho thấy một lôgic hình thức của sự ảnh hưởng mang tính toàn cầu về kinh tế mà còn cho thấy cả tính chất, tốc độ và sự lan toả thậm chí vượt ra khỏi lĩnh vực kinh tế. Bởi trong xu thế toàn cầu hoá, việc liên kết giữa các quốc gia, các khu vực ngày càng trở nên cần thiết và có tính tất yếu. Các DNNVV Việt Nam cũng không nằm ngoài “vùng phủ sóng” này và v._.ì vậy cần phải có nhận thức để đón nhận nó một cách có lợi nhất cũng như hạn chế tới mức tối thiểu những tiêu cực có thể ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và sự phát triển của doanh nghiệp. Hội nhập kinh tế quốc tế và sự phân chia lại các nền kinh tế Hội nhập kinh tế quốc tế tức là quá trình tham gia vào nền kinh tế thế giới từ cấp độ khu vực đến toàn cầu với sự thể hiện rõ nét của xu thế phát triển nhanh chóng hơn của hoạt động thương mại so với công nghiệp và sự lan toả nhanh chóng của các dòng tài chính - tiền tệ. Vấn đề đặt ra là hội nhập kinh tế quốc tế có mang lại lợi ích như nhau cho các nền kinh tế có điều kiện khác nhau? Đương nhiên là các lợi ích được tạo ra lớn hơn nhưng sự phân phối lợi ích sẽ hướng tới đâu có lợi thế cạnh tranh tốt hơn. Để nắm rõ hơn về vấn đề này chúng ta cùng tìm hiểu chung về toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế đưa tới cái nhìn toàn diện về tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Khu vực hoá kinh tế Khu vực hoá kinh tế là một xu thế xuất hiện từ thập kỷ 50 và đã nhanh chóng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, ở các nước qui mô khác nhau, với các hình thức, nội dung hết sức đa dạng phong phú. Khu vực hoá kinh tế thực chất là một sự liên kết kinh tế diễn ra đối với các quốc gia trong cùng một khu vực địa lý, với các mức độ khác nhau tùy thuộc vào chính sách của từng quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Hình thức của sự liên kết kinh tế khu vực này là rất đa dạng, chẳng hạn đó là việc thành lập khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, liên minh tiền tệ, liên kết kinh tế, thị trường chung,... Trong quá trình khu vực hoá có sự đan xen, kết hợp đồng thời của các quá trình hội nhập về sản xuất, thương mại, đầu tư; kết hợp giữa liên kết kinh tế với liên kết về Nhà nước, về văn hoá, quân sự,... [9] Mục đích chung nhất của khu vực hoá kinh tế là nhằm hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, từng bước xoá bỏ những cản trở, tiến tới tự do hoá hoàn toàn trong việc di chuyển các nguồn lực (tư bản, lao động, hàng hoá, dịch vụ...) giữa các nước thành viên để cùng phát triển. Hiện nay, với sự ra đời của trên 40 tổ chức kinh tế, thương mại khu vực, trong đó đáng chú ý là sự ra đời của liên minh Châu âu - EU (1992) với 15 nước thành viên, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á - ASEAN (1967) với 10 thành viên, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương - APEC (1989) với 21 thành viên chiếm trên 60% GDP và 50% kim ngạch thế giới, Hợp tác á - Âu - ASEM (1996), Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ - NAFTA (1994),...[9] Hầu hết các quốc gia đều phải trải qua giai đoạn liên kết này mới có thể vững vàng tiến đến bước cao hơn của quá trình hội nhập, đó là toàn cầu hóa. Toàn cầu hoá kinh tế Toàn cầu hoá kinh tế là giai đoạn phát triển cao của quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế chỉ có thể được giải quyết ở quy mô toàn cầu trên cơ sở hợp tác của các quốc gia, không phân biệt trình độ phát triển, trình độ chính trị - xã hội. Toàn cầu hoá kinh tế đưa tới sự hình thành nên một thị trường thế giới thống nhất và một hệ thống tài chính tín dụng toàn cầu, là sự phát triển phân công lao động quốc tế theo chiều sâu, là sự mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học - công nghệ giữa các quốc gia trên phạm vi toàn thế giới, là việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội có tính toàn cầu (như vấn đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái,...). Phù hợp với nội dung toàn cầu hoá kinh tế là việc xác lập các định chế kinh tế - tài chính quốc tế với những qui tắc mà mọi quốc gia có thể chấp nhận được, là việc hình thành các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế, các công ty đa quốc gia,...[9] Toàn cầu hoá đang là một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác giữa các quốc gia, làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Những tiến bộ của khoa học - công nghệ; đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin, đã đưa các quốc gia gắn kết lại gần nhau, dẫn tới sự hình thành những mạng lưới sản xuất toàn cầu. Trước những biến đổi to lớn về khoa học - công nghệ này, tất cả các nước trên thế giới đều thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, làm cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật trên thế giới ngày càng thông thoáng hơn, mở đường cho kinh tế quốc tế phát triển. Đại diện cho xu thế toàn cầu hoá này là sự ra đời của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) vào năm 1947 với 23 nước thành viên sáng lập với mục đích xác lập những nguyên tắc điều chỉnh và thúc đẩy thương mại quốc tế phục vụ cho phát triển kinh tế của mỗi nước thành viên. Kể từ khi GATT được đổi thành tổ chức Thương mại thế giới (WTO) điều tiết không chỉ thương mại hàng hoá mà mở rộng sang cả thương mại dịch vụ, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ. Với 143 nước thành viên, chiếm trên 90% tổng kim ngạch thương mại thế giới, hiện nay WTO trở thành một tổ chức có quy mô toàn cầu và là nền tảng pháp lý cho quan hệ kinh tế quốc tế, là diễn đàn thường trực đàm phán thương mại và là thể chế giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. [22] Như vậy khi một quốc gia đã tham gia từ quá trình khu vực hóa đến toàn cầu hóa thì vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của họ chỉ còn là việc nhận thức những thuận lợi và thách thức để phát triển nền kinh tế một cách có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung quan trọng của xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế. Nói hội nhập là nhấn mạnh đến tính chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá hay khu vực hoá. Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm một số nội dung chủ yếu như: chủ động tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, đặc biệt là trong những lĩnh vực kinh tế mới; chủ động tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế… Với đường lối đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đúng đắn, Việt Nam đã từng bước thu được những kết quả quan trọng bước đầu về ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, từng bước xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Quan hệ kinh tế, thương mại quốc tế ngày càng phát triển, mở rộng tạo thế và lực, khả năng và cơ hội cho các DNNVV Việt Nam nói riêng phát triển trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá. 25/7/1995 Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN và từ 1/1/1996 bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên AFTA; năm 1995 Việt Nam cũng đã ký Hiệp định khung với EU. Từ tháng 3/1996 tham gia với tư cách là thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác á - Âu (ASEM). Tháng 11/1998 được công nhận là thành viên chính thức của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC). Tháng 7/2000 Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết và đã có hiệu lực từ ngày 10/12/2001. Các nỗ lực gia nhập WTO đang được đẩy mạnh, Tổng thư ký WTO Mike Moore ngày 30/11/2001 đã tuyên bố tại Hà Nội, Việt Nam có thể trở thành thành viên của WTO trong 2 năm tới. Bộ Chính trị ngày 27/11/2001 đã ban hành nghị quyết 07/-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nói đây là những thành công rất quan trọng trong tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới [9]. Cơ hội và thách thức với nền kinh tế Việt Nam Lợi ích khi Việt Nam tham gia tiến trình hội nhập Có cơ hội để tiếp cận với thị trường thế giới để phát triển. Điều này có ý nghĩa quan trọng khi chúng ta đang thực hiện mô hình kinh tế mở hướng vào xuất khẩu. Điểm then chốt có tính quyết định đối với mô hình này là phải có thị trường. Đẩy mạnh lượng giao dịch thương mại với hầu hết mọi nền kinh tế trên thế giới, đặc biệt là với các nước thành viên WTO một khi ta là thành viên của tổ chức này. Hiện tại, thương mại giữa các thành viên WTO chiếm gần 90% khối lượng thương mại thế giới. Do đó khi trở thành thành viên WTO, Việt Nam có điều kiện có thêm đối tác, tăng thêm khối lượng giao dịch thương mại. Tham gia WTO, ta có điều kiện tiếp cận với các thị trường xuất khẩu lớn trên thế giới một cách dễ dàng và an toàn hơn với việc giành được qui chế tối huệ quốc (MFN) lâu dài và không điều kiện. Giảm bớt khả năng bị chèn ép, phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại. Ta có thể tranh thủ cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO giải quyết một cách công bằng hơn các vấn đề nảy sinh trong quan hệ kinh tế thương mại với các nước, đặc biệt là các nước lớn. Hình 3. Thuế nhập khẩu trong APEC MFN 1999 2005 2010 2015 2020 Thuế suất Năm Các nước APEC phát triển Các nước APEC đang phát triển Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam [30] Tạo điều kiện tham gia vào quá trình quản lý nền kinh tế thế giới, vì lợi ích chung trong đó có lợi ích riêng của ta. Sẽ được hưởng một số ưu đãi dành cho các nước đang phát triển có thu nhập thấp. Về nguyên tắc, đối với các nước đang phát triển có thu nhập thấp được miễn trừ khỏi sự ngăn cấm trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu hàng hoá là cạnh tranh, sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong thời gian là 8 năm. Việc tham gia hội nhập sẽ tạo điều kiện xây dựng và tăng cường các chính sách và thể chế điều hành và quản lý nền kinh tế của mình phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế nhằm tăng cường sự ổn định trong môi trường kinh doanh, nâng cao hiệu quả và năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế. [31] Những thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập Tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế tức là ta chấp nhận tham dự vào một "cuộc chơi lớn" với những luật lệ được qui định chặt chẽ mà ta phải tuân thủ trong khi những điều kiện cơ bản bảo đảm cho sự thành công vẫn còn đang ở trong giai đoạn định hình. Thực lực của chúng ta còn yếu và các điều kiện bảo đảm sự thành công như hệ thống chính sách, nhân lực, tính hiệu quả của nền kinh tế, sức cạnh tranh,... lại chưa hình thành đầy đủ. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách của ta còn chưa đồng bộ, thiếu nhiều định chế và nhiều điểm chưa phù hợp với các thông lệ quốc tế về quản lý quyền sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ, mua sắm chính phủ, cạnh tranh bình đẳng. Trong quá trình tiếp cận thị trường thế giới, chúng ta cũng buộc phải mở cửa thị trường trong nước và do đó có thể dễ dàng bị ảnh hưởng bởi những bất ổn định từ bên ngoài. Quá trình mở cửa cũng có thể tác động đến một số ngành vốn được bảo hộ cao trước đây. Mặc dù khả năng tiếp cận thị trường tăng lên nhưng việc cạnh tranh giành giật thị trường sẽ vẫn quyết liệt. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác là làm thế nào có thể nắm bắt được công nghệ - kỹ thuật hiện đại trong khi trên thế giới đã có những qui định hết sức ngặt nghèo về việc bảo hộ sở hữu trí tuệ. Đây cũng là điểm sẽ gây khó khăn nhiều cho những nước nghèo như nước ta. Quản lý đầu tư nước ngoài là thách thức khác đối với chúng ta. Các nước nhận đầu tư, đa số là các nước đang phát triển muốn hướng đầu tư vào những lĩnh vực sinh lợi nhiều nhất. Bản thân WTO cũng qui định cấm sử dụng các biện pháp quản lý đầu tư có ảnh hưởng tới thương mại như các yêu cầu về tỷ lệ nội địa, cân bằng cán cân thanh toán,... Những qui định này sẽ làm hạn chế thêm khả năng khống chế đầu tư nước ngoài của các nước đang phát triển. Việc cải tổ doanh nghiệp nhà nước cũng sẽ là một thách thức lớn đối với Việt nam trong tiến trình hội nhập, đặc biệt là khi chuẩn bị và gia nhập WTO. Mặc dù WTO không có qui định riêng về thương mại nhà nước, nhưng có nhấn mạnh các doanh nghiệp nhà nước vẫn phải tiến hành mua bán dựa trên quy luật của thị trường như giá cả, cung cầu và phải tạo cơ hội cạnh tranh bình đẳng cho doanh nghiệp nước ngoài. Đối với các nền kinh tế chuyển đổi, nơi có khu vực quốc doanh phát triển mạnh và đại diện cho nền kinh tế kế hoạch hoá thì vấn đề cải tổ doanh nghiệp theo cơ chế thị trường sẽ được đặt lên hàng đầu khi những nước này xin gia nhập WTO. [31] Cơ hội, thách thức và sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh đối với các DNNVV Việt Nam Các DNNVV thường tham gia vào nhiều loại hình sản xuất khác nhau do vậy, việc mở cửa để hội nhập sẽ có tác động đến tất cả mọi ngành nghề sản xuất, dịch vụ của Việt Nam và đối với các DNNVV, do sự đa dạng về ngành nghề hoạt động của mình cũng khó có thể tránh khỏi những tác động nhiều mặt, cả tích cực lẫn tiêu cực của tiến trình hội nhập. Cơ hội đối với các DNNVV Giảm giá thành đầu vào cho sản xuất: kinh nghiệm các nước cho thấy, trong tiến trình hội nhập, khi thực hiện mở cửa thị trường, hàng hoá nhập khẩu sẽ có cơ hội thâm nhập sâu hơn nhiều hơn vào thị trường trong nước. Các DNNVV nếu tham gia vào các ngành sản xuất, với tư cách là người tiêu dùng, sẽ có những cơ hội để lựa chọn đầu vào với giá cả được hạ thấp, chất lượng cao và nhiều sự lựa chọn hơn cho vật liệu sơ chế và các đầu vào trực tiếp khác (máy móc và các công nghệ tiên tiến khác...) do hạ thấp hàng rào thuế quan) (xem hình 4). 2002 2003 2005 2010 2015 2020 Thuế suất 1999 MFN CEPT 5 0 Năm Việt Nam ASEAN 10 ASEAN 6 Hình 4. Thuế nhập khẩu trong ASEAN, AFTA Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam [30] Việc thúc đẩy tự do hoá thương mại sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thêm cơ hội để sản xuất phục vụ xuất khẩu và tiếp cận thị trường trao đổi ngoại hối. Các DNNVV Việt Nam hoạt động và phát triển trong một môi trường pháp lý, cơ chế đang được tích cực hoàn thiện theo hướng thông thoáng, gia tăng nhiều ưu đãi, điều kiện thuận lợi. Do vậy, những điều kiện khắt khe như giấy phép xuất khẩu, giới hạn được tiếp xúc với thị trường ngoại hối vốn thường được ưu tiên cho các công ty lớn sẽ dần phải dỡ bỏ và vì vậy các DNNVV sẽ được đối xử bình đẳng hơn và có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc sản xuất phục vụ xuất khẩu. Như vậy, các DNNVV Việt Nam phần nào đã khắc phục được tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng được thế và lực trong kinh doanh trong nước và quốc tế. Hơn thế nữa các DNNVV còn được hưởng những ưu đãi trong kinh doanh quốc tế như các doanh nghiệp lớn của Nhà nước, tạo dựng được môi trường phát triển kinh tế. Mở cửa thương mại gắn liền với tiến trình toàn cầu hoá bởi nó tạo ra sự gắn kết giữa nền kinh tế trong nước với thị trường toàn cầu cả ở phần đầu vào lẫn đầu ra. Cùng với việc phát triển của cách mạng thông tin và công nghệ cao, việc giảm bớt các rào cản thương mại và sự tăng trưởng lưu chuyển vốn trên phạm vi toàn cầu, các xí nghiệp vừa và nhỏ sẽ có những cơ hội mà trước đây họ không thể có, đặc biệt là trong việc tiếp xúc với các xu hướng tiêu thụ mới và phân công lao động trên diện rộng với chi phí sản xuất thấp và kỹ thuật tiên tiến. Cùng với việc thi hành các thoả thuận đàm phán Uruguay trong khoảng thời gian từ 1995 -2005, các xí nghiệp vừa và nhỏ sẽ càng có thêm cơ hội tiếp cận thị trường ngoài nước đặc biệt là thị trường của các nước phát triển. Thuế quan sẽ là hình thức bảo hộ duy nhất và đặc biệt đối với các nước phát triển thì thuế quan đối với các loại sản phẩm (kể cả thành phẩm lẫn bán thành phẩm) đã qua chế biến về cơ bản sẽ bằng không. Đối với những nền kinh tế như Việt Nam hiện đang còn tập trung sản xuất các loại hàng có hàm lượng lao động cao thì khả năng thâm nhập của loại hàng hoá này vào các nước phát triển tuy sẽ có cạnh tranh gay gắt nhưng ngày càng trở nên nhiều hơn khi các nguồn lực được huy động do thuế quan hạ và bản thân các nước phát triển đang ngày càng tập trung vào sản xuất và cung cấp dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao. [32] Những thách thức đối với các DNNVV Chính sách vĩ mô như chính sách tiền tệ, tài khoá, bảo đảm một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định (bao gồm cả giá cả hàng hoá dịch vụ, lãi suất và tỷ giá hối đoái linh hoạt, phản ánh đúng cung cầu thị trường,...) là những điều kiện quan trọng giúp các doanh nghiệp phát triển ổn định. Những ràng buộc bên ngoài hiện vẫn hạn chế hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp (môi trường cạnh tranh kinh tế kém, các yếu tố kích thích bị méo mó do chính sách bảo hộ, tín dụng và thuế). Những hạn chế khách quan này là những nguyên nhân rất cơ bản và lại thường là những vấn đề mà các doanh nghiệp khó có thể trực tiếp tham gia vào việc sửa đổi vì chúng thường ở tầm vĩ mô. Với thực tế Việt Nam là một nước đi sau, trình độ phát triển thấp, cơ chế thị trường đang hình thành, khuôn khổ pháp lý chưa hoàn chỉnh, chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế; cơ cấu và phương thức phân bổ các nguồn lực chưa hiệu quả và có xu hướng tạo sức ỳ từ phía các nhóm đặc quyền và khu vực được lợi nhờ bảo hộ tạo ra rất nhiều khó khăn khách quan cho các DNNVV Việt Nam. Hiệu quả hoạt động tác nghiệp của các doanh nghiệp của ta còn thấp, ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng cạnh tranh. Theo một điều tra năm 1999 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các doanh nghiệp của ta thường phàn nàn về tình trạng lạc hậu công nghệ máy móc và thiếu vốn trong khi ít quan tâm đến việc nâng cao khả năng cạnh tranh về chất như tăng cường năng lực quản lý, tổ chức kinh doanh, định hướng sản xuất. Chiến lược phát triển của doanh nghiệp là một vấn đề lớn. Hiện nay, các doanh nghiệp của ta, cũng giống như các nước đang phát triển ở trình độ thấp vẫn thường hoạt động theo cách làm ăn “sổi”, thiếu một chiến lược cả ở mức trung hạn chứ chưa nói đến dài hạn. Các DNNVV của ta thường dựa nhiều vào lợi thế về lao động (giá nhân công còn thấp, người lao động có khả năng tiếp thu nhanh). Tuy nhiên, chi phí thấp mới chỉ là sự khởi đầu của tính cạnh tranh và về lâu dài lợi thế này sẽ mất dần. Sự phát triển năng động của doanh nghiệp thường phải dựa trên cơ sở gắn kết lợi thế so sánh về chi phí cùng việc nâng cao khả năng cạnh tranh về chất được nhìn nhận trong tổng thể những biến động về môi trường kinh tế vĩ mô, thị trường, bạn hàng, đối thủ cạnh tranh và công nghệ. Trên những lĩnh vực này, các DNNVV Việt Nam thường còn có nhiều yếu kém, đặc biệt là do thiếu thông tin sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động tác nghiệp của mình. Trong bối cảnh hội nhập, nước ta đang tập trung khuyến khích các hoạt động sản xuất hướng về xuất khẩu. Tuy nhiên khả năng xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường trong nước và quốc tế của các DNNVV của Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, sức cạnh tranh vẫn còn ở mức độ rất thấp. Ngoài ra, sức cạnh tranh của các DNNVV Việt Nam trên thị trường nội địa bị suy giảm do còn phải gánh chịu những thông lệ và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng ở thị trường trong nước và quốc tế. Sự thiếu hiểu biết về kiến thức kinh tế luật pháp quốc gia và quốc tế đặc biệt là các luật chơi trong thương mại quốc tế trong bối cảnh hội nhập cùng những cơ hội và thách thức đặt ra cũng sẽ làm giảm rất nhiều khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp [32]. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh của DNNVV Việt Nam Quá trình hội nhập không cho phép ai đứng ngoài cuộc. Nếu như các nước giàu có đang cố gắng giữ gìn và cải thiện mức sống cao của họ thì các nước đang phát triển lại lao vào cuộc chạy đua rút ngắn khoảng cách bằng việc nâng cao sự năng động trong quá trình toàn cầu hoá. Chính sách mở cửa nền kinh tế được coi như một cứu cánh quan trọng, sự du nhập dòng hàng hoá và tài chính từ bên ngoài cho phép cải thiện đáng kể tình trạng sản xuất, xác lập lại cấu trúc nền kinh tế, đồng thời đặt ra đòi hỏi có những thay đổi phù hợp trong các chính sách xã hội. Hệ thống điều kiện khuôn khổ pháp lý được hoàn thiện hơn, định hướng rõ nét tới việc tạo thuận lợi cho các dòng tài chính chảy vào (chẳng hạn như giảm thuế, quyền chuyển lợi nhuận ra nước ngoài...). Quan niệm truyền thống về nỗ lực tăng trưởng GDP của nền kinh tế đang được thay thế dần bằng quan niệm đặt lên hàng đầu khả năng thay đổi linh hoạt nền kinh tế trước những điều kiện mới. Trong quá trình thực hiện các chính sách về công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập vào các nước trong khu vực và trên thế giới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đang quan tâm đáng kể đến vai trò đổi mới doanh nghiệp và tự do hoá thương mại. Đó là do việc đổi mới doanh nghiệp và tự do hoá thương mại có thể tăng thêm hiệu quả và sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Nếu sức cạnh tranh của các doanh nghiệp không được thúc đẩy bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm giá thành sản xuất thì các sản phẩm của Việt Nam không thể dễ dàng tiêu thụ ở thị trường trong nước và quốc tế. Kết quả là, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không thể tạo ra được doanh thu và không tăng thêm công ăn việc làm để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế cần thiết nhằm nâng cao mức sống của nhân dân. Tất cả những nỗ lực của các giải pháp vĩ mô đã tạo những điều kiện nhất định cho các DNNVV. Tuy nhiên vì bản thân Doanh nghiệp cũng là một hệ thống nên nó cần phải có khả năng tạo lập mới các điều kiện cho chính mình, đồng thời thực hiện sự linh hoạt cho việc đổi mới chính các hoạt động kinh doanh của mình để có thể tham gia vào quá trình hội nhập-toàn cầu hoá. Sự phân chia một cách ngẫu nhiên các lợi thế cạnh tranh đã hình thành một sự phân công mới trong hoạt động kinh doanh của các DNNVV. Tính chất sản xuất khép kín được thay thế bởi tính chất chuyên môn hoá sâu để có cơ hội tốt hơn cho quá trình phân công mới theo tính chất “mạng hoá” quá trình hiệp tác đang diễn ra giữa các DNNVV. Điều đó có nghĩa là các DNNVV đang ngày càng tham gia ít hơn vào việc hình thành giá trị sản phẩm cuối cùng. Như vậy, mỗi DNNVV trước hết phải xác định được các “địa chỉ” mà mình có thể tham gia; rồi từ các điều kiện tham gia cuộc chơi cụ thể mà linh hoạt tự điều chỉnh để có thể được chấp nhận tham dự. DNNVV Việt Nam đang ngày càng tỏ rõ năng lực và ưu thế của mình trong nền kinh tế quốc dân. Trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế mà hội nhập là con đường phát triển tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể để hoà mình vào nền kinh tế hiện đại. Đối với các DNNVV Việt Nam cũng vậy, tham gia vào tiến trình hội nhập với nền kinh tế toàn cầu đang mở ra những cơ hội phát triển, đồng thời đặt ra những thách thức không nhỏ cần phải được nhận thức rõ để từ đó đề ra những giải pháp, hướng đi đúng đắn nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Thực trạng về khả năng cạnh tranh của các DNNVV Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Năng lực cạnh tranh của các DNNVV Việt Nam hiện Nay Năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Khái niệm năng lực cạnh tranh Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, năng lực cạnh tranh là một khái niệm quan trọng để chỉ khả năng tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế hay doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Sức cạnh tranh của nền kinh tế bắt nguồn từ sự cộng hưởng sức cạnh tranh của tất cả các doanh nghiệp, cuả tất cả hàng hoá Việt Nam. Bởi vậy, nếu nâng cao được hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp thì nội lực con người và nội lực vật chất sẽ được phát huy tốt. Khi đã có đủ sức cạnh tranh với thế giới, thì việc mở cửa cho thế giới vào Việt Nam và để Việt Nam hoà nhập vào nền kinh tế thế giới sẽ thu hẹp thách thức, mở rộng thời cơ. Hiện nay, trên thế giới người ta đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh quốc gia (national competitivenesse) và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ (competitiveness of company, product and service). Năng lực cạnh tranh quốc gia được Diễn đàn Kinh tế thế giới (World Economic Forum - WEF) sử dụng dưới sự chỉ đạo khoa học của Michael Porter và J. Sachs - hai giáo sư của trường Đại học Harvard - bắt đầu từ năm 2000 - 2001 (bản báo cáo đầu tiên được công bố ngày 18/10/2001). Báo cáo hàng năm về năng lực cạnh tranh quốc gia của WEF còn phân biệt chỉ số năng lực cạnh tranh hiện tại (Current Competitiveness Index - CCI) và chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng (Growth Competitiveness Index - GCI) để đo lường năng lực tăng trưởng trong vòng 5 năm tới. [33, tr 13]. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được định nghĩa là năng lực tồn tại, duy trì hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trường cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. [33, tr15] Một mặt, tổng số năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp của một nước là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia. Không thể có năng lực cạnh tranh quốc gia cao khi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp đều thấp. Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia, thể hiện qua môi trường kinh doanh, các chính sách kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Vì vậy, trước khi đi vào phân tích năng lực cạnh tranh của các DNNVV Việt Nam, chúng ta hãy cùng xem xét năng lực cạnh tranh quốc gia trong đó có Việt Nam trong mối quan hệ với năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam nói chung và DNNVV Việt Nam nói riêng. Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam Cho đến năm 1999, WEF đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia căn cứ trên 8 nhóm tiêu chí (tổng số 100%) với 155 chỉ tiêu, vừa kết hợp điều tra theo mẫu ở từng nước, vừa thăm dò ý kiến của 1500 công ty trên thế giới. Tám nhóm tiêu chí của WEF bao gồm: 1. Độ mở cửa của nền kinh tế (17%/100%) 2. Vai trò hiệu lực của Chính phủ (17%/100%) 3. Sự phát triển của hệ thống tài chính - tiền tệ (17%/100%) 4. Trình độ phát triển công nghệ (11%/100%) 5. Trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng (11%/100%) 6. Trình độ quản lý của doanh nghiệp (6%/100%) 7. Số lượng và chất lượng của lao động (15%/100%) 8. Trình độ phát triển của thể chế (6%/100%), gồm hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Bảng 2. Tiêu chí năng lực cạnh tranh quốc gia của WEF TT Nhóm nhân tố Khung khổ phân tích Nhóm nhân tố phụ 1 Mở cửa Quy mô hội nhập của một nước vào nền kinh tế thế giới xét về mặt định hướng và mức độ tự do hoá trong thương mại quốc tế và đầu tư Thuế và hàng rào nhập khẩu Khuyến khích xuất khẩu Chính sách tỷ giá 2 Chính phủ Vai trò của Chính phủ, tác động của chính sách tài khoá (thuế và chi tiêu ngân sách), phạm vi can thiệp của Chính phủ và chất lượng các dịch vụ Chính phủ. Mức độ can thiệp của Chính phủ vào các khu vực kinh tế Năng lực của Chính phủ Gánh nặng thuế và sự trốn thuế Quy mô Chính phủ Chính sách tài khoá Mức thuế 3 Tài chính Vai trò của thị trường tài chính trong việc hỗ trợ, bố trì tiêu dùng tối ưu giữa các thời kỳ, ý thức tiết kiệm và tính hiệu quả của các hoạt động tài chính trung gian trong việc chu chuyển nguồn tiết kiệm vào đầu tư sản xuất Quy mô của các thể chế trung gian Hiệu quả và tính cạnh tranh Rủi ro tài chính Đầu tư và tiết kiệm 4 Công nghệ Sức mạnh của nghiên cứu và triển khai (R&D), trình độ công nghệ; và kho tàng vốn kiến thức tích luỹ được. Năng lực công nghệ trong nước Công nghệ qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hoặc chuyển giao từ nước ngoài. 5 Cơ sở hạ tầng Số lượng và chất lượng của hệ thống giao thông vận tải, mạng lưới viễn thông, cung cấp điện, kho tàng và phân phối hàng hoá - cơ sở hạ tầng vật chất có thể nâng cao hiệu quả đầu tư tư nhân Điện thoại. Hỗ trợ cho cơ sở hạ tầng. 6 Quản lý Chất lượng của công tác quản lý chung về kinh doanh, bao gồm chiến lược cạnh tranh, phát triển sản phẩm, kiểm soát chất lượng, hiệu quả của các tổ chức tài chính, nguồn nhân lực và khả năng tiếp thị Toàn bộ các chỉ tiêu quản lý Quản lý nguồn nhân lực. 7 Lao động Hiệu quả và tính linh hoạt của thị trường lao động Kỹ năng và năng suất. Điều chỉnh linh hoạt trong quản lý, hiệu quả của các chương trình xã hội Mối quan hệ các ngành 8 Thể chế Tính đúng đắn của các thể chế pháp luật và xã hội đang đặt nền tảng cho việc hỗ trợ một nền kinh tế thị trường hiện đại, môi trường kinh tế cạnh tranh, bao gồm quy định của luật pháp và bảo vệ quyền sở hữu. Các chỉ số về cạnh tranh Chất lượng của thể chế pháp luật Cảnh sát và tình trạng tội phạm có tổ chức Nguồn: Michale E.Port. The Competitive Advantage of Nations. Harward Business Review, 3-4. 1999.[33] Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba nhóm lớn là: sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ, tài chính, quốc tế hoá, trong đó trọng số của sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ đã tăng mạnh từ 1/9 lên 1/3. Theo cách đánh giá mới, xếp hạng của Việt Nam chỉ còn 53/59 năm 2000 và năm 2001 (theo kết quả công bố ngày 18/10/2001) xếp hạng 62 trên 75 nước. Bảng xếp hạng cụ thể của 8 khối tiêu chí lớn của Việt Nam như sau: Bảng 3. Xếp hạng của các khối tiêu chí của Việt Nam năm 2000 theo WEF Sáng tạo kinh tế, khoa học, công nghệ 50 Tài chính 47 Độ mở cửa 56 Nguồn: Viện Nghiên cứu và quản lý Kinh tế Trung Ương[34] Bảng 4. Năng lực cạnh tranh hiện tại của Việt Nam năm 2001 (CCI) theo WEF CCI Xếp hạng hoạt động doanh nghiệp và chiến lược Xếp hạng chất lượng môi trường kinh doanh quốc gia 62 64 64 Nguồn: Viện Nghiên cứu và quản lý Kinh tế Trung Ương [34] Với sự đánh giá của WEF trên đây, có thể thấy rằng Doanh nghiệp Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi để duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm và dịch vụ của mình vì nhiều yếu tố như khả năng tiếp cận thị trường vốn, công nghệ, ngoại tệ, chi phí của các dịch vụ thuộc kết cấu hạ tầng v.v.. đều bất lợi so với những nước được xếp hạng cao hơn. Yếu tố chính phủ được xếp hạng cao nhất trong khi lao động-vốn được coi là một thế mạnh của Việt Nam - được xếp hạng tương đối thấp do tỷ lệ đào tạo và chất lượng nguồn nhân lực được đánh giá thấp. Năm 2001, Việt Nam được tổ chức Tư vấn về rủi ro kinh tế và chính trị có trụ sở tại Hồng Kông xếp hạng cao nhất về an toàn ở Đông Nam á là một tín hiệu đáng khích lệ để thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng thời, cũng tổ chức đó năm 2001, xếp hạng Việt Nam thấp nhất về độ công khai, minh bạch (9,63/10) phản ánh sự quan tâm của giới kinh doanh về lĩnh vực này ở Việt Nam. Đặc biệt, yếu tố sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ trong xếp hạng năm 2000 với trọng số nâng lên càng bộc lộ những hạn chế trong môi trường kinh doanh. Các tiêu chí như mức độ sáng tạo, năng lực chuyển giao hay tiếp thu công nghệ, khả năng khởi nghiệp để thực hiện một ý tưởng sáng tạo đều được xếp hạng thấp trong khi các yếu tố về tài chính và độ mở cửa chưa có cải thiện. Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Có nhiều yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, trong đó phân biệt các yếu tố ngoài doanh nghiệp và các yếu tố do doanh nghiệp chi phối. Các yếu tố ngoài doanh nghiệp bao gồm: 1. Sự tham ._.iêm túc, các doanh nghiệp còn phải thu thập thông tin về các đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu kỹ các dự báo phát triển công nghệ trong tương lai, đánh giá nhu cầu khách hàng. Chỉ có trên cơ sở phân tích các nguồn thông tin khác nhau doanh nghiệp mới có thể đề ra được những biện pháp thích hợp. Các doanh nghiệp cần phải triệt để tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan Nhà nước, của các tổ chức phi chính phủ để có được những thông tin đáng tin cậy. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Thương Mại, Tham tán Thương mại của các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài và nhiều địa chỉ khác có thể là những địa chỉ mà các doanh nghiệp sẽ tìm được sự giúp đỡ cần thiết. Chiến lược giảm thiểu chi phí Với chiến lược này, DNNVV phải có khả năng cung ứng hàng hoá và dịch vụ với chi phí thấp hơn các đối thủ cạnh tranh. Chiến lược này sẽ tạo ra hai lợi thế cơ bản: Thứ nhất, nhờ chi phí thấp hơn nên có thể định giá bán sản phẩm và dịch vụ thấp hơn các đối thủ cạnh tranh mà vẫn có lợi nhuận cao, thậm chí cao hơn đối thủ cạnh tranh nhờ tăng được số lượng tiêu thụ. Thứ hai, khi có sự cạnh tranh về giá xảy ra thì doanh nghiệp có chi phí thấp vẫn có lợi thế hơn nhờ giới hạn dưới của sự giảm giá rộng hơn các đối thủ khác. Để thực hiện chiến lược này, người ta lưu ý việc hướng tới giảm các chi phí chung hay còn được gọi là chi phí cố định. Đây chính là thế mạnh của DNNVV vì với cơ cấu gọn nhẹ và linh hoạt, DNNVV có thể nhanh chóng giảm thiểu chi phí chung nhanh hơn các DN có quy mô lớn. Cũng ở đây, việc xác định quy mô đầu tư, chính sách mua sắm máy móc thiết bị trở nên hết sức quan trọng đối với DNNVV vì một sai lầm của họ là rất khó sửa chữa nếu không nói là không có cơ hội sửa chữa. Chiến lược khác biệt hoá sản phẩm và dịch vụ Sự khác biệt hoá đôi khi được hiểu là thành tựu cơ bản của các nỗ lực Marketing bởi lẽ sự khác biệt này thường xoáy sâu vào một đặc tính nào đó của sản phẩm dịch vụ mà đôi khi chỉ là những khác biệt rất nhỏ, rất linh hoạt mà thôi. Cần phân biệt sự khác biệt hoá ở đây với phạm trù đa dạng hoá, bởi vì nếu đa dạng hoá là thế mạnh của các doanh nghiệp lớn, có tiềm lực nghiên cứu và tài chính thì với DNNVV sự khác biệt hoá mới là thế mạnh. DNNVV có khả năng linh hoạt hơn trong các thay đổi dẫn đến sự khác biệt hoá nhờ các quyết định nhanh chóng hơn, chi phí cho sự thay đổi thấp hơn đối với doanh nghiệp lớn. Để thực hiện chiến lược nay, các DNNVV cần được trang bị những kỹ xảo nhất định trong các hoạt động Marketing cũng như những hỗ trợ cần thiết từ phía Chính phủ bởi DNNVV rất thiếu tiềm lực cho các nghiên cứu thị trường quốc tế. Kinh nghiệm cho thấy, ngay ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, Chính phủ cũng có các giải pháp hỗ trợ rất cụ thể và thích đáng để các DNNVV có thể tham gia thành công vào thị trường quốc tế. Chiến lược phát triển thị trường Về thị trường, các doanh nghiệp nhà nước hiện nay vẫn chưa năng động trong tìm kiếm và phát triển thị trường. Nói rộng ra, các doanh nghiệp phải có chiến lược phát triển thị trường, kể cả thị trường trong nước. Tham gia hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào thị trường thế giới là gia nhập nền kinh tế thị trường biến động với cung cầu luôn thay đổi, cần phải có chiến lược thích ứng nhanh. Do ta là người đi sau, cần phải tận dụng cơ hội về khoảng trống thị trường do xu thế toàn cầu hoá tạo ra để nhanh chóng chiếm lĩnh những thị trường đó. Chính vì vậy, trong thời gian trước mắt, nỗ lực sản xuất những mặt hàng ta có lợi thế so sánh quốc tế hướng về xuất khẩu sẽ là bước đi đúng đắn cho các nhà sản xuất của Việt Nam, trong đó có cả các DNNVV. DNNVV khó có thể xâm nhập thị trường quốc tế bằng con đường rộng, dàn trải mà chỉ có thể tìm kiếm và tập trung nguồn lực vào các “tiểu thị trường”, hay còn gọi là chiến lược tập trung vào thị trường ngách. Thị trường ngách được hiểu là một bộ phận nhỏ tập trung vào nhóm khách hàng nào đó, một khu vực thị trường hẹp nào đó trên thương trường quốc tế. Ví dụ các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gia vị của Thái Lan đã rất thành công khi họ đã chọn nhóm khách hàng là người Châu á sống ở các quốc gia Âu - Mỹ. Bởi thế, ngoài hương vị, nguyên liệu chế biến thì hình thức bao gói, kích cỡ, kênh bán hàng cũng như hệ thống phân phối đều nhằm tới nhóm khách hàng mục tiêu này. Để thực hiện được chiến lược này, DNNVV ngoài các nỗ lực tự thân cần phải có các hình thức phối hợp, hỗ trợ của các tổ chức đại diện trong một chính sách tổng thể và đồng bộ. Trong đó, hoạt động của các dự án hỗ trợ DNNVV chiếm một ví trị hết sức đáng quan tâm. Phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực sẽ là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định tính cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương lai xét theo hai góc độ: Giúp nhanh chóng nằm bắt trình độ quản lý và công nghệ mới khi có điều kiện tiếp cận thông qua hội nhập. Mục đích chính của hội nhập kinh tế quốc tế vẫn chỉ để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam, thực chất là tạo điều kiện chuyển nền kinh tế thuần nông sang công nghiệp chế tạo và chế biến. Các doanh nghiệp sẽ là lực lượng tiên phong trong quá trình chuyển biến này và nếu không có trình độ năng lực thì sẽ khó thực hiện. Trước hết, các giám đốc của các DNNVV phải chịu trách nhiệm tìm kiếm và học hỏi cái họ cần để thành công khi chính phủ xây dựng được một khuôn khổ phù hợp. Những người quản lý DNNVV cần phải hiểu sâu hơn về vai trò của họ trong việc xây dựng doanh nghiệp của mình và sẵn sàng đảm nhận vai trò này. Bởi vậy, giám đốc các DNNVV phải chịu trách nhiệm về việc học hỏi những điều trọng yếu của một công ty, bao gồm hiểu biết thấu đáo về nhu cầu của khách hàng trong phân đoạn thị trường mục tiêu của công ty, quản lý chi phí chặt chẽ và phân tích về đối thủ cạnh tranh một cách kỹ lưỡng. Nhiệm vụ của chính phủ và của các tỗ chức hỗ trợ thị trường là đảm bảo có sẵn các phương tiện để các công ty theo học; việc thực hiện lại là trách nhiệm các giám đốc. Nỗ lực hướng các giám đốc theo hướng này chứ không phải là chạy chọt để có các đặc quyền có vai trò rất quan trọng. Thứ hai, đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp phải liên tục được đào tạo cả về kỹ năng làm việc cũng như trau dồi ngoại ngữ để có thể đảm nhận được công việc trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Vấn đề này không chỉ bản thân nhân viên doanh nghiệp tự nhận thức mà doanh nghiệp cũng phải đứng ra chịu trách nhiệm gửi nhân viên đi đào tạo và các chi phí liên quan. Sau khi đã có các chiến lược cơ bản làm định hướng cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh trong hội nhập, các DNNVV cần nỗ lực triển khai chiến lược trên các mặt hoạt động sau: Xác định đúng đối thủ cạnh tranh trên thương trường, đây có thể coi là bước đột phá có tính quyết định. Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ giành giật thị trường mà còn gây sức ép cả ở các yếu tố đầu vào, vào vị thế canh tranh, vào hình ảnh của doanh nghiệp,... Bởi vậy đối thủ cạnh tranh của DNNVV trên thị trường quốc tế có thể bao gồm cả các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp của nước ngoài. Nếu các DNNVV cần thiết cạnh tranh để nâng cao khả năng của mình trên thị trường trong nước thì việc tìm kiếm các cơ hội để thoả hiệp giữa họ với nhau trên thị trường quốc tế lại là điều đáng quan tâm. DNNVV cần lựa chọn và xác định một cách thoả đáng việc sử dụng công cụ cạnh tranh nào trong các hoàn cảnh kinh doanh nào. Đến đây có thể cần nhắc đến ma trận về 5 công cụ cạnh tranh là: Sự khác biệt kiểu loại sản phẩm, giá cả và các dịch vụ đi kèm với từng hoàn cảnh kinh doanh - hưng thịnh, ổn định và suy thoái. Tất nhiên sự phù hợp còn được hiểu theo các cách tiếp cận khác nhưng ma trận này sẽ gợi ý DNNVV liên tưởng đến sự linh hoạt vốn có của mình trong các hoàn cảnh kinh doanh nhất định. Chúng ta hãy liên tưởng đến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á sẽ thấy tác động đầu tiên mà các doanh nghiệp của chúng ta hứng chịu là giá cả của chúng ta trở nên đắt đỏ hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Vậy các DNNVV sẽ sử dụng công cụ nào trong hoàn cảnh đó để nâng cao khả năng cạnh tranh sẽ là bài toán hóc búa cho từng doanh nghiệp và cho cả hệ thống hỗ trợ. Tham gia thương mại điện tử Các DNNVV nên chủ động tham gia vào Thương mại điện tử, một công cụ kinh doanh hữu hiệu trong nền kinh tế mạng cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Lập kế hoạch đào tạo đội ngũ nhân viên có trình độ, chuẩn bị các bước cần thiết để khi chính phủ hoàn thiện môi trường pháp lý là có thể sẵn sàng tham gia mà không bị bỡ ngỡ và lỡ mất thời cơ. Chủ động tham gia các hội thảo về Thương mại điện tử do chính phủ hoặc các tổ chức nước ngoài tổ chức đồng thời tham khảo và học hỏi kinh nghiện nước ngoài về cách thức kinh doanh trên Internet. Khi tham gia thương mại điện tử các doanh nghiệp nên lưu tâm đến việc xây dựng Website riêng hoặc đăng quảng cáo tại một Website nhiều người biết tới để cung cấp thông tin về doanh nghiệp cũng như quảng bá sản phẩm. Và một Website được coi là đạt yêu cầu phải thoả mãn các điều kiện sau: An toàn: Site của doanh nghiệp phải chắc chắn tạo được lòng tin đối với những khách hàng tiềm năng. Do vậy, đặc biệt cần chú trọng quan tâm đến việc bảo mật cho khách hàng trước hết là đảm bảo hệ thống máy chủ an toàn. Có thể tạo một đường dẫn tới trang giới thiệu về khả năng bảo mật cao của hệ thống thanh toán cuả doanh nghiệp. Thông tin đầy đủ, chính xác: Trình bày một cách rõ ràng các thông tin chi tiết liên quan đến doanh nghiệp như: số điện thoại, fax, địa chỉ trụ sở làm việc, e-mail, thông tin giới thiệu một số nhân vật chủ chốt trong doanh nghiệp,... đó là những thông tin tối thiểu mà đối tác làm ăn muốn biết. Thêm nữa, doanh nghiệp cũng đừng quên trình bày với khách hàng một cách thẳng thắn về chất lượng sản phẩm, phương thức vận chuyển hàng, vấn đề hoàn trả và bảo mật hàng hoá. Thiết kế site linh hoạt: Doanh nghiệp phải thiết kế site sao cho luôn cập nhập để phản ánh vào việc bán hàng, chiết khấu hay cung cấp thông tin về sản phẩm sẵn có. Đó là cách tốt nhất để thu hút chỉ dẫn sản phẩm một cách trực tiếp từ cơ sở dữ liệu cho việc cập nhập liên tục. Chất lượng hình ảnh và âm thanh: Hình ảnh cũng như các file dữ liệu phải thật sự gây ấn tượng cho mọi đối tượng truy nhập, luôn luôn có những sáng kiến đổi mới để tạo được trang Web với những hình ảnh sống động, âm thanh vui tươi mang bản sắc riêng và nét đặc trưng riêng của doanh nghiệp. Tốc độ truy cập nhanh: Loại bỏ các đoạn không cần thiết, giảm hình ảnh giới thiệu sản phẩm ở kích thước vừa phải. Thiết kế một hệ thống định hướng cho phép khách hàng chọn sản phẩm dễ dàng hơn và nhanh hơn. áp dụng ISO 9000 Trong giai đoạn hiện nay, việc áp dụng ISO 9000 tại các DNNVV ở Việt Nam đang ngày càng trở nên bức thiết. Chối bỏ quá trình này, các doanh nghiệp đó sẽ rơi vào vòng xoáy khắc nghiệt không lối ra: Thị trường bị thu hẹp, thu nhập giảm sút, không có kinh phí đầu tư cho nâng cấp hệ thống để được chứng nhận, thị trường lại càng bị thu hẹp,... Thực tế của tiến trình áp dụng ISO 9000 đối với các DNNVV tại Việt Nam hiện nay đang vừa là cơ hội vừa là thách thức: Là cơ hội vì chúng ta có người đi trước để học hỏi, nhưng cũng là thách thức vì phải vượt qua rất nhiều khó khăn chúng ta mới có thể lấp đầy khoảng cách với các quốc gia đã phát triển. Vì vậy, các DNNVV trước hết cần phải ý thức về việc áp dụng hệ thống chất lượng quốc tế và sau là khắc phục những khó khăn bằng cách: Đẩy mạnh việc tuyên truyền để các DNNVV hiểu đúng về quá trình cũng như lợi ích của việc áp dụng ISO 9000. Chủ yếu để các doanh nghiệp thấy rằng đó là tương lai cho sự phát triển bền vững của chính họ. Có những biện pháp khuyến khích đối với các DNNVV thực hiện việc áp dụng ISO 9000. Có thể đó là các biện pháp khuyến khích về giá, cũng có thể là sự trợ vốn để doanh nghiệp thực hiện áp dụng ISO 9000. Tăng cường giao lưu Quốc tế, học hỏi và tận dụng sự giúp đỡ của bên ngoài đi đôi với việc nhanh chóng hoàn chỉnh hệ thống các cơ quan công nhận, chứng nhận trong nước. Phát triển hệ thống chuẩn Quốc gia luôn đi trước các ngành công nghiệp một bước, đây là một trong những đảm bảo mang tính kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm và hàng hoá của Việt Nam. Thực trạng hiện nay là ở Việt Nam cũng như tại các nước đang phát triển, nhận thức của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm là chưa đầy đủ. Việc lựa chọn hàng hoá để mua thường nặng về xem xét giá cả, do đó vô hình chung đã khuyến khích các DNNVV sản xuất ra các hàng hoá rẻ tiền, kém chất lượng. Nếu làm được việc thông qua các tổ chức người tiêu dùng để hướng dẫn người tiêu dùng nhận thức đúng về vấn đề chất lượng hàng hoá là chúng ta đã tạo ra một sức ép đúng đắn để các doanh nghiệp này phải nghĩ về chất lượng. [5] Tăng cường sự hợp tác giữa các DNNVV Các DNNVV cần phải ý thức được rằng nếu đơn độc sẽ rất khó có khả năng tồn tại. Nhiều khi thì khả năng cạnh tranh không phải khi nào cũng đưa lại hiệu quả cao nếu như doanh nghiệp không có sự cộng tác với nhau. Do vậy trong thời gian tới các DNNVV rất cần có sự cộng tác, phối hợp tốt hơn thông qua các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức đại diện của các DNNVV. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp cơ hội để học tập lẫn nhau đồng thời khi cộng tác với nhau thì tiếng nói của khu vực DNNVV sẽ tăng lên và cơ hội hợp tác quốc tế cũng sẽ tăng lên. Sự phối hợp, công tác không nên giới hạn trong phạm vi quốc gia mà phải hướng về khu vực và thế giới, đồng thời cần có ý thức cộng tác với cả các doanh nghiệp lớn. [8] Sự hỗ trợ từ phía các đoàn thể và tổ chức xã hội Thành lập các tổ chức hỗ trợ thị trường Thị trường trong các nước phát triển thực hiện tốt chức năng của mình nhờ sự có mặt của nhiều tổ chức trợ giúp thị trường đầy kinh nghiệm. Các tổ chức này giúp cho các thành viên tham gia vào thị trường được thông báo đầy đủ, thúc đẩy giao dịch và thi hành các luật lệ. Ba tổ chức đóng vai trò đặc biệt quan trọng cho phát triển khu vực DNNVV đó là: tổ chức tài chính, các hiệp hội kinh doanh và các tổ chức giáo dục. Các hiệp hội kinh doanh: ở các quốc gia trên thế giới, các hiệp hội kinh doanh là một nguồn trợ giúp quan trọng đối với các DNNVV. Hầu hết các hiệp hội kinh doanh đều cung cấp 3 loại dịch vụ cơ bản cho thành viên của mình; các thông tin đã được xử lý về tất cả lĩnh vực trên thị trường trong nước và quốc tế; một diễn đàn nơi các thành viên có thể gặp gỡ và học hỏi lẫn nhau; và là một diễn đàn các thành viên có thể phản ánh lợi ích của họ đến chính phủ. Ngoài ra, các hiệp hội kinh doanh còn là các kênh để các nhà tài trợ và các đối tượng khác có thể cung cấp dịch vụ cho các công ty nhỏ hơn ở các nước đang phát triển. Các DNNVV Việt Nam rất cần tất cả những dịch vụ này và họ có thể tiếp cận đến chúng hiệu quả hơn nếu họ được tự do thành lập các hiệp hội kinh doanh của riêng mình. Trong thế kỷ 21, một nhân tố quan trọng là các hiệp hội của ngành, các phòng thương mại, các học viện, các cơ quan và công đoàn lao động phải xác định lại vai trò của họ như những người dẫn đầu của giơí lãnh đạo kinh doanh. Việc xây dựng các chương trình và thủ tục để đào tạo, huấn luyện và động viên các nhà quản lý của DNNVV nhằm phát truển các chiến lược mang tính cạnh tranh cao hơn cần phải được ưu tiên thay cho việc không ngừng vận động hay phê phán Nhà nước. Những tổ chức này có vị trí đặc biệt trong việc khuyến khích đối thoại giữa chính phủ với khối kinh doanh, và họ phải chủ động đưa ra sáng kiến mà không được đợi Chính phủ nêu yêu cầu. Đặc biệt, các hiệp hội của ngành và các phòng thương mại cần mở thêm nhiều chương trình đào toạ với nội dung không chỉ tập trung vào nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp mà còn phải hướng dẫn cho các chủ doanh nghiệp và các cán bộ của chính phủ nhận thấy được hết khả năng của mình. [9] Các tổ chức giáo dục. Về lâu dài Việt Nam cần phải hiện đại hoá các tổ chức giáo dục từ trên xuống dưới nếu muốn cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Về ngắn hạn, nên tập trung vào nâng cao chất lượng và tính phổ cập của nhiều khoá đào tạo kinh doanh ngắn hạn đã được thực hiện ở các thành phố chính. Thứ nhất, tài liệu học cần được chọn lựa và điều chỉnh cho phù hợp với việc sử dụng ở Việt Nam chứ không đơn giản chỉ hoàn toàn sử dụng tài liệu của nước ngoài. Trong thực tế các nguyên tắc và kỹ năng kinh doanh chủ yếu giống nhau ở tất cả mọi nơi: điều khác nhau là chúng được áp dụng như thế nào, các ví dụ là những điều được sử dụng để dạy sinh viên, và các công nghệ giảng dạy phù hợp nhất đối với các nền văn hoá khác nhau. Thứ hai, tăng số giảng viên người Việt Nam có trình độ cao trong việc giảng dạy các khoá học kinh doanh và giảm số giáo viên người nước ngoài với mức tiền thuê đắt đỏ trong lĩnh vực này để các khoá học bền vững về mặt tài chính. Thứ ba, các phương pháp đào tạo người lớn cần được áp dụng rộng rãi hơn, nghĩa là, các khoá học ngắn hạn tập trung vào nâng cao các kỹ năng thực hành, thường bằng cách để học viên tích cực tham gia. Và thứ tư là đào tạo sẽ lại có vai trò rất quan trọng đối với nhiều người từ khu vực Nhà nước sang khu vực tư nhân. [3] Bên cạnh 2 nhóm tổ chức vừa nêu trên còn cần nhiều đến các tổ chức khác để hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực DNNVV của Việt Nam. Sự thành công của các DNNVV ở các quốc gia trong khu vực và trên thế giới cho thấy không chỉ đơn thuần xuất phát từ những thay đổi về chiến lược, chính sách hay các quy định và luật - những thay đổi có vai trò là chìa khóa để tạo ra một khuôn khổ cho các DNNVV - nhưng nhân tố củng cố cho sự thành công của các doanh nghiệp này lại chính là khả năng hoạt động có hiệu quả của các tổ chức hỗ trợ. Những tổ chức đó bao gồm các cơ quan quản lý chất lượng, các cơ quan marketing, hệ thống giáo thông vận tải, hệ thống phân phối, các tổ chức đào tạo, các cơ quan hỗ trợ cho các mối quan hệ quốc tế và những tổ chức về thông tin. Tất cả những tổ chức ấy đều rất cần thiết đối với các DNNVV Việt Nam. Việc định hướng lại hoạt động của các tổ chức hỗ trợ để phục vụ tốt được cả khu vực doanh nghiệp Nhà nước lẫn khu vực DNNVV đòi hỏi phái cắt giảm trợ cấp trên diện rộng và buộc chúng phải tăng hiệu quả hoạt động. Nhiều tổ chức hỗ trợ cũng cần được hợp lý hoá để chuyển đổi cơ cấu tổ chức theo hướng phù hợp với yêu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, cũng cần giới thiệu thêm các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mới cũng như củng cố kỹ năng của nhân viên. Tất cả những nhiệm vụ này đều đòi hỏi nhiều thời gian và nhiều công sức. Mặc dù cũng đã có một số chương trình của các nhà tài trợ trợ giúp kỹ thuật cho các tổ chức của Việt Nam trong các lĩnh vực đó nhưng hầu như chưa có một chương trình nào thấy rõ được nhu cầu cấp bách phải định hướng lại các tổ chức hỗ trợ nhằm đáp ứng được cả nhu cầu phát triển của khu vực DNNVV. Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh Môi trường kinh doanh hiện nay cần nhiều các công ty kinh doanh dịch vụ có thể cung cấp cho các công ty tư nhân những dịch vụ chất lượng cao và chuyên sâu. UNCTAD đã mô tả thời gian cung cấp dịch vụ làm 3 giai đoạn: “thượng nguồn” (nghiên cứu khả thi; các hoạt động nghiên cứu và phát triển); “trung nguồn” (kế toán, kỹ sư và các dịch vụ hành chính); và “hạ nguồn” (quảng cáo, lưu kho và phân phối). Khả năng cạnh tranh của công ty sẽ tăng theo khả năng tiếp cận của các công ty với các dịch vụ có chất lượng trong tất cả các lĩnh vực nêu trên. Như vậy, dịch vụ hỗ trợ thị trường cần thiết đối với các DNNVV Việt Nam sẽ bao gồm 7 ngành: Dịch vụ hạch toán kế toán Dịch vụ tin học Dịch vụ tư vấn Dịch vụ thiết kế bao bì mẫu mã Dịch vụ phân phối Dịch vụ nghiên cứu thị trường Dịch vụ đào tạo Để hỗ trợ phát triển các công ty kinh doanh dịch vụ ở Việt Nam cần tiến hành một số biện pháp sau: Trước hết, các công ty dịch vụ phải được đưa vào tất cả các chương trình trợ giúp vì họ thực sự cũng cần học các kiến thức cơ bản về quản lý kinh doanh. Thứ hai, giảm giá dịch vụ viễn thông và tiếp cận Internet là một sự trợ giúp đặc biệt cho nhóm này do họ thường phụ thuộc vào 2 loại dịch vụ này nhiều hơn các công ty khác. Thứ ba, cho phép thành lập các hiệp hội nghề nghiệp tư nhân sẽ đặc biệt có ích cho nhóm này do biểu hiện đặc trưng của các ngành dịch vụ kinh doanh cạnh tranh là tự quản lý. Dù là bắt buộc (như với kế toán) hoặc tự nguyện (như đối với tư vấn quản lý), hầu hết các ngành kinh doanh dịch vụ ở các nền kinh tế phát triển đều có một hiệp hội ngành nghề có quyền hạn pháp lý để thừa nhận những nhà chuyên nghiệp và yêu cầu một tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp tối thiểu. Những hiệp hội như vậy thường đặt ra một tiêu chuẩn nghề nghiệp chung trong đo các nhà chuyên môn muốn được thừa nhận thì phải chứng tỏ có đủ năng lực trên cơ sở thi cử, kinh nghiệm làm việc hoặc kết hợp cả hai yếu tố trên. Càng ngày các hiệp hội cũng sẽ đòi hỏi tiếp tục giáo dục đào tạo để duy trì sự công nhận đó cũng như bằng chứng của việc tuân thủ các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của ngành. [25] ---o0o--- DNNVV Việt Nam đang đứng trước những thách thức mới trong quá trình mở cửa và hội nhập mà “hành trang” chuẩn bị còn rất sơ sài đã làm cạn dần những ưu thế và tăng dần những bất lợi cho chính các doanh nghiệp này. Việc tự đưa ra những giải pháp cụ thể cho chính doanh nghiệp mình là một việc làm hết sức quan trọng thể hiện sự nhận thức và lòng quyết tâm của doanh nghiệp trước vận hội và thách thức. Tuy nhiên, những nỗ lực tự thân của họ sẽ không thể nhanh chóng lấp đầy các thách thức này mà cần đến sự phối hợp và hỗ trợ có hiệu quả của chính phủ và các đoàn thể xã hội mà cụ thể là các giải pháp thiết thức nhất trong việc nâng cao khả năng tranh của DNNVV như xây dựng chính sách pháp lý, tạo điều kiện kinh doanh, hỗ trợ kinh doanh... Kết luận Trong mấy thập kỷ gần đây, sự tăng trưởng trong thương mại quốc tế với sự tham gia của các DNNVV trong tiến trình này là sự quan tâm chung của các nhà hoạch định chính sách, các nhà phân tích kinh tế cũng như của tất cả mọi doanh nghiệp. Có thể nói, ở bất cứ nơi nào có sự tăng trưởng kinh tế thì ở đó đều có những cơ hội. Đối với nền kinh tế Việt Nam cũng vậy, tham gia vào tiến trình hội nhập với nền kinh tế toàn cầu đang mở ra những cơ hội cho các DNNVV phát triển, đồng thời tiến trình này cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ cần phải được nhận thức rõ để từ đó đặt ra những giải pháp, hướng đi đúng đắn nhằm tận dụng được đến mức tối đa những cơ hội do hội nhập mang lại và giảm đến mức tối thiểu những khó khăn, bất lợi có thể có trên con đường phát triển của mình. Vì thế, để hội nhập thành công, các DNNVV Việt Nam cần phải chuẩn bị tốt về mọi mặt, cần cả kiến thức, nhận thức và sự quyết tâm. Tuy nhiên, tất cả cố gắng của doanh nghiệp chỉ mang lại kết quả mong muốn khi môi trường kinh doanh được cải thiện, khi Nhà nước có chính sách hỗ trợ hữu hiệu cho các DNNVV trên cơ sở chiến lược phát triển thích hợp. Cần phải hội nhập để phát triển và cũng cần phải phát triển để hội nhập tốt hơn, đó là hai mặt của một vấn đề và đều cần đến sự cố gắng của cả Nhà nước lẫn các nhà doanh nghiệp. Mặc dù còn nhiều thử thách ở phía trước nhưng nếu biết chớp thời cơ, tận dụng được các lợi thế so sánh để phát triển thì khu vực DNNVV Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ và sẽ là nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc phát triển kinh tế. Tài liệu tham khảo Thanh Bình “Những điều cần biết về thị trường nước ngoài” - Tạp chí Ngoại Thương số 11 - 2002, Bộ Thương mại. Bộ Kế hoạch Đầu tư và Jica. Dự thảo báo cáo cuối cùng: Nghiên cứu xúc tiến Doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ - tháng 10/1999. Chương trình phát triển dự án Mê kông – MPDF. Chuyên đề Nghiên cứu kinh tế tư nhân số 10 - Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trên đường tiến đến phồn vinh 11/1999. Bộ Ngoại giao và Oxfam – GB. Toạ đàm: “Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế - cơ hội, thách thức và giải pháp”, 28 -29/7/1999. Nguyễn Mạnh Dũng “ISO 9000 và việc áp dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam” . Trung tâm Đo lường - Tổng cục tiêu chuẩn Đo lường chất lượng, 2000. T.S Lê Đăng Doanh. Phát huy vai trò trợ giúp của các hiệp hội ngành nghề đối với các doanh nghiệp trong công cuộc hội nhập quốc tế hiện nay Vietnam Trade Review 16, 2002. Anh Dũng “Vấn đề hôm nay - Today’s issues” - Vietnam trade Review 15, 2001. Lê Đăng Doanh “Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay”. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 262, 11/11/2000. Lê Xuân Đình - Mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ - vai trò của các doanh nghiệp Việt Nam - Kỷ yếu hội thảo Doanh nghiệp Việt Nam với công cuộc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế. Điều tra công nghiệp 61 tỉnh thành năm 2000, Nhà xuất bản thống kê 2001. GS.TS Nguyễn Đình Hương. Giải pháp phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2001. Dự án US/VIE/05/004. Dự án của MPI-UNIDO - 1999. Quý Hào “2003: Năm trọng tâm chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước”, Thời báo kinh tế Việt Nam 16/12/2002. Phụng Hiệp “Xuất khẩu hàng dệt may những tháng cuối năm tăng mạnh”, Thông tấn xã Việt Nam 26/11/2002 JICA. Dự án hợp tác nghiên cứu Việt Nam - Nhật Bản về chính sách phát triển kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - 2000. Minh Hoà “Xuất khẩu nông sản dự kiến đạt 2,6 tỷ USD”, Nông thôn ngày nay 13/12/2002. Michale E.Port. The Competitive Advantage of Nations. Harward Business Review 3-4, 1999. Th.s Nguyễn Hải Hà & Nguyễn Tiến Hiệp “Ba năm phát triển xuất khẩu thuỷ sản”, Tạp chí kinh tế và dự báo 11/10/2002. TS. Hoàng Hải. Mấy vấn đề về Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hiện nay. Trong sách “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực”, Nhà xuất bản thống kê 11/1999. Quý Hào “Một vài vấn đề phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam”, Báo Diễn đàn doanh nghiệp các số 6, 15 - 2002. Hoàng Lan “Thương hiệu nông sản dân bối rối”, Thời báo kinh tế Sài Gòn 5/11/2002. Võ Đại Lược “Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trước thềm hội nhập”. Tạp chí Kinh tế thế giới - số 8, 2001. Lê Kim Oanh – Xuất khẩu 11 tháng tăng 8,3%. Thông tấn xã Việt Nam ngày 27/11/2002. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. “Quỹ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEDF)” 12/2001. Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Thu Hà. Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam - Nhà xuất bản thống kê Hà Nội - 2001. Tổng cục thống kê “Xuất khẩu năm 2001”, đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năm 2002. Chí Thành “Bộn bề hoạt động chuyển giao công nghệ”, Đầu tư 19/11/2002. Thế Quang “Về tình hình vụ khiếu kiện cá da trơn”, Thương mại 23/11/2002. Trung hợp tác nghiên cứu Việt Nam quản lý, với sự cộng tác của Trung tâm nghiên cứu quốc tế. Tư liệu chương trình nghiên cứu doanh nghiệp 2/1/2000. Thanh Thuỷ “Khả năng cạnh tranh của dệt may Việt Nam”, Tạp chí “Dệt may Việt Nam” Tháng 6/2001. Tạp chí cộng sản và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào Hội nhập kinh tế thế giới - VCCI - Kỷ yếu hội thảo “Doanh nghiệp Việt Nam với công cuộc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập” - 5/3/2002. Vụ hợp tác Kinh tế Đa phương - Bộ Ngoại giao. Những cơ hội và thách thức đối với các DNVVN trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 12/1999. World Economic Forum - The Global Competitiveness Report 1999, 2000, 2001. Oxford University Press NewYork, London 2001. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Báo cáo về năng lực cạnh tranh 1999, 2000. www. vcci.com.vn www. vietnameconomy.com Phụ lục Số lượng các DNVVN Việt Nam qua các năm Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Doanh nghiệp của tư nhân Số lượng 20272 21032 20578 22767 29519 Tốc độ tăng 32.70 3.749 -2.16 10.64 29.66 Cá thể và tiểu chủ Số lượng 2.016.259 1.949.836 1.981.306 2.054.178 2.137.713 Tốc độ tăng -1.66 -3.29 1.61 3.68 4.07 [Nguồn: Số liệu báo cáo trong “Vai trò doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phát triển kinh tế tư nhân và định hướng đến năm 2010”- Tổng cục thống kê] Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành phân theo thành phần kinh tế Đơn vị: % 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Kinh tế Nhà nước 39,93 40,48 40,00 38,74 38,52 38,59 Kinh tế tập thể 10,03 8,91 8,90 9,84 8,58 8,21 Kinh tế tư nhân 3,36 3,38 3,41 3,37 3,38 3,77 Kinh tế cá thể 35,25 34,32 33,83 32,93 32,31 32,13 Kinh tế hỗn hợp 4,04 3,84 3,83 3,89 3,92 4,20 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 7,39 9,07 10,03 12,24 13,27 13,11 [Nguồn: Niên giám thống kê 2001, Nxb Thồng kê, Hà nội 2002] Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong kinh tế quốc gia (tính theo giá 1994) TT Chỉ tiêu Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 1 Tổng GDP cả nước tỷ đồng 213833 231264 244596 256272 273582 2 Khu vực kinh tế tư nhân tỷ đồng 68518 74167 78775 81455 86929 3 Tốc độ phát triển liên hoàn GDP % 109,34 108,15 105,76 104,77 106,65 4 Tốc độ phát triển liên hoàn của khu vực KTTN % 111,44 108,24 106,21 103,40 106,72 5 Tốc độ tăng liên hoàn của doanh nghiệp tư nhân % 14,4 9,8 7,9 3,2 8,5 6 Tốc độ tăng liên hoàn của hộ cá thể % 11,2 8,9 6,4 2,9 7,2 7 Tỷ trọng GDP của khu vực KTTN trong GDP cả nước % 32,04 32,07 32,21 31,78 31,77 [Nguồn: Số liệu điều tra 61 tỉnh thành năm 2000 - Tổng cục thống kê,2001] Tình hình thu hút lao động trong khu vực kinh tế tư nhân trong những năm qua (tính đến thời điểm 31/12 hàng năm) 1996 1997 1998 1999 2000 Lao động (người) 3.865.136 3.666.825 3.816.942 4.097.455 4.643.844 Tốc độ phát triển liên hoàn(%) 100 94,87 104,09 107,35 113,33 Tốc độ tăng liên hoàn (%) -5,13 4,09 7,35 13,33 % trong tổng lao động xã hội 11,2 10,3 10,3 10,9 12,0 [Nguồn: Số liệu thống kê 61 tỉnh thành - Tổng cục Thống kê, 2001] Kết quả sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân năm 2000 Đơn vị: % Toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân Hộ kinh doanh cá thể Doanh nghiệp Kết quả sản xuất kinh doanh- % trong GDP cả nước 26,87 19,72 7,14 Tỷ trọng trong khu vực kinh tế tư nhân 100,00 73,41 26,59 Trong đó: Công nghiệp 20,21 17,68 27,18 Thương nghiệp và dịch vụ 33,34 31,27 39,07 Các ngành khác 45,65 51,05 33,75 [Nguồn: Số liệu thống kê 61 tỉnh thành năm 2000 Tổng cục Thống kê, 2001] ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc646.doc
Tài liệu liên quan