Nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của Công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng

Tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của Công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng: LỜI NÓI ĐẦU Đất nước ta đang trên đà phát triển, tình hình kinh tế trong những năm vừa qua có rất nhiều sự chuyển biến tốt đẹp. Năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Để theo kịp với nền kinh tế thế giới và khu vực thì vấn đề đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng là rất quan trọng, nó sẽ thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm gần đây, hoạt động đấu thầu xây dựng ở nước ta trong lĩnh vực xây dựng cơ ... Ebook Nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của Công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1255 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của Công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sở hạ tầng phát triển hơn bao giờ hết, các công ty xây dựng phải cạnh tranh trong một môi trường vô cùng khắc nghiệt. Số lượng các doanh nghiệp xây dựng gia tăng ngày càng nhiều, cả trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về đấu thầu ở nước ta vẫn chưa được hoàn chỉnh, các vấn đề bất cập xoay quanh nó vẫn còn rất nan giải, các doanh nghiệp phải điều chỉnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình để thích ứng và tồn tại. Qua một thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng và với những kiến thức đã học đã cho em thấy vai trò của công tác đấu thầu xây dựng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty là vô cùng quan trọng, vì vậy em đã quyết định chọn đề tài: “Nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng” là đề tài nghiên cứu của mình. Nội dung đề tài bao gồm ba chương: Chương 1: Những lí luận chung về khả năng cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của doanh nghiệp. Chương 2. Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng. Chương 3: Những biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng. Do trình độ và thời gian có hạn nên đề tài nghiên cứu của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo cũng như sự góp ý của các cán bộ trong công ty cổ phần đầu tư thiết kế công nghệ xây dựng để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả nhân viên trong công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng đã giúp đỡ, chỉ bảo em hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Hoàng Minh Đường đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt thời gian thực tập vừa qua, giúp em hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình. CHƯƠNG 1. NHỮNG LÍ LUẬN CHUNG VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG CỦA DOANH NGHIỆP. TỔNG QUAN VỀ ĐẤU THẦU XÂY DỰNG. Các khái niệm liên quan đến đấu thầu. Theo điều 3 tại chương I của quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88 / 1999 / NĐ – CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ đã nêu rõ nội dung của một số thuật ngữ về đấu thầu: - Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của Bên mời thầu. - Đấu thầu trong nước là cuộc đấu thầu chỉ có các nhà thầu trong nước tham dự. - Đấu thầu quốc tế là cuộc đấu thầu có các nhà thầu trong và ngoài nước tham dự. - Xét thầu là quá trình Bên mời thầu xem xét, phân tích, đánh giá xếp hạng các hồ sơ dự thầu để lựa chọn nhà thầu trúng thầu. - Dự án là tập hợp những đề xuất để thực hiện một phần hay toàn bộ công việc, mục tiêu, hoặc yêu cầu nào đó. Dự án bao gồm dự án đầu tư và dự án không có tính chất đầu tư. - Bên mời thầu là chủ dự án, chủ đầu tư hoặc pháp nhân đại diện hợp pháp của chủ dự án, chủ đầu tư được giao trách nhiệm thực hiện công việc đấu thầu. - Nhà thầu là tổ chức cá nhân trong nước hoặc nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự, đối với cá nhân còn phải có năng lực hành vi dân sự để kí kết và thực hiện hợp đồng. Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của nhà thầu trong nước được xét theo pháp luật Việt Nam, đối với nhà thầu nước ngoài được xét theo pháp luật của nước nơi nhà thầu mang quốc tịch. Nhà thầu phải đảm bảo sự độc lập về tài chính của mình. Nhà thầu là nhà xây dựng trong đấu thầu xây lắp; là nhà cung cấp trong đấu thầu mua sắm hàng hóa; là nhà tư vấn( có thể là một cá nhân) trong đấu thầu tuyển chọn tư vấn; là nhà đầu tư trong đấu thầu lựa chọn đối tác đầu tư. Nhà thầu có thể tham gia dự thầu độc lập( gọi là nhà thầu độc lập) hoặc liên doanh với các nhà thầu khác( gọi là nhà thầu liên doanh). Trường hợp liên doanh phải có văn bản thỏa thuận giữa các thành viên tham gia liên doanh về trách nhiệm chung và riêng đối với công việc thuộc gói thầu và phải có người đứng đầu của liên doanh. - Gói thầu là toàn bộ dự án hoặc một phần công việc của dự án được phân chia theo tính chất kỹ thuật hoặc trình tự thực hiện một dự án, có quy mô hợp lý và bảo đảm tính đồng bộ của dự án. - Hồ sơ mời thầu là toàn bộ tài liệu do Bên mời thầu lập, bao gồm các yêu cầu cho một gói thầu được dùng làm căn cứ để nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu và Bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu. Hồ sơ mời thầu phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi phát hành. - Hồ sơ dự thầu là các tài liệu do nhà thầu lập theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. - Mở thầu là thời điểm tổ chức mở các hồ sơ dự thầu được quy định trong hồ sơ mời thầu. - Đóng thầu là thời điểm kết thúc việc nộp hồ sơ dự thầu được quyết định trong hồ sơ mời thầu. - Kết quả đấu thầu là nội dung phê duyệt của người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền về tên nhà thầu trúng thầu, giá trúng thầu và loại hợp đồng. - Thương thảo hoàn thiện hợp đồng là quá trình tiếp tục thương thảo hoàn chỉnh nội dung chi tiết của hợp đồng với nhà thầu trúng thầu để kí kết. 1.1.2. Các hình thức và phương thức đấu thầu xây dựng. Theo điều 4- Quy chế đấu thầu thuộc nghị định số 88/1999/ NĐ- CP thì đấu thầu xây dựng cũng như các loại đấu thầu khác được thực hiện theo hai hình thức chủ yếu đó là: - Đấu thầu rộng rãi : Là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông báo trên tờ thông tin về đấu thầu và trang Web về đấu thầu của Nhà nước và của Bộ, ngành địa phương tối thiểu 10 ngày trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Đấu thầu rộng rãi là hình thức chủ yếu áp dụng trong đấu thầu. - Đấu thầu hạn chế: Là hình thức đấu thầu mà Bên mời thầu mời một số nhà thầu ( tối thiểu là 5) có đủ kinh nghiệm và năng lực tham dự. Trong trường hợp thực tế chỉ có ít hơn 5, Bên mời thầu phải báo cáo chủ dự án trình người có thẩm quyền xem xét, quyết định. Chủ dự án quyết định danh sách nhà thầu tham dự trên cơ sở đánh giá của Bên mời thầu về kinh nghiệm và năng lực các nhà thầu, song phải đảm bảo khách quan công bằng và đúng đối tượng. Hình thức này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau: * Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu. * Do nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tiến hành đấu thầu hạn chế. * Do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế. Theo điều 5- Quy chế đấu thầu thuộc nghị định số 88/ 1999/ NĐ- CP thì có ba phương thức đấu thầu: - Đấu thầu một túi hồ sơ: Là phương thức mà nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu trong một túi hồ sơ. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu mua sắm hàng hóa và xây lắp. - Đấu thầu hai túi hồ sơ: Là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về giá trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Túi hồ sơ đề xuất kỹ thuật sẽ được xem xét trước để đánh giá. Các nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật từ 70% trở lên sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất về giá để đánh giá. Phương thức này chỉ được áp dụng đối với đấu thầu tuyển chọn tư vấn. - Đấu thầu hai giai đoạn: Phương thức này áp dụng cho những trường hợp sau: * Các gói thầu mua sắm hàng hóa và xây lắp có giá trị từ 500 tỷ đồng trở lên. * Các gói thầu mua sắm hàng hóa có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp. * Dự án thực hiện theo hợp đồng chìa khóa trao tay. Giai đoạn 1: Các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu sơ bộ gồm đề xuất về mặt kỹ thuật và phương án tài chính ( chưa có giá ) để Bên mời thầu xem xét và thảo luận cụ thể với từng nhà thầu nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà thầu chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu chính thức của mình. Giai đoạn 2: Bên mời thầu mời các nhà thầu tham gia trong giai đoạn thứ nhất nộp hồ sơ dự thầu chính thức với đề xuất kỹ thuật đã được bổ sung hoàn chỉnh trên cùng một mặt bằng kỹ thuật và đề xuất chi tiết về tài chính với đầy đủ nội dung về tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng, giá dự thầu. 1.1.3 Một số tính chất và nguyên tắc của đấu thầu xây dựng. - Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có rất nhiều công ty xây dựng với quy mô và năng lực khác nhau. Vì thế để công trình xây dựng đạt được hiệu quả kinh tế cũng như đảm bảo tính kỹ thuật thì nhà nước đã ban hành quy chế về đấu thầu với một số tính chất sau: * Tính bình đẳng: Trong đấu thầu tính bình đẳng thể hiện ở điểm là mọi nhà thầu đều được tham gia dự thầu một cách công bằng, tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Những nhà thầu tham gia đều có quyền được Bên mời thầu cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết về gói thầu. Tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá được áp dụng chung cho tất cả mọi nhà thầu. Thực hiện tính bình đẳng trong đấu thầu xây dựng mang lại hiệu quả kinh tế và chất lượng công trình cho nhà đầu tư, nhà dự thầu và Bên mời thầu. * Tính thống nhất: Thể hiện ở chỗ là khi đã hết hạn nộp hồ sơ dự thầu thì không được thay đổi bất kỳ một yếu tố nào trong hồ sơ tham gia dự thầu vì theo quy định tất cả những đề xuất về mặt kỹ thuật cũng như về mặt tài chính đều đã được niêm phong. Tính thống nhất còn thể hiện ở chỗ là mọi hồ sơ của nhà thầu từ nhà thầu đầu tiên đến nhà thầu cuối cùng đều được đánh giá theo một tiêu chuẩn thống nhất. Nhà thầu không thay đổi những quy định liên quan tới gói thầu, nếu có sự thay đổi phải thông báo cho các nhà thầu biết trước khi hết hạn nộp hồ sơ dự thầu. Ngoài ra việc đấu thầu phải tiến hành theo một lộ trình thống nhất, các bên tham gia đấu thầu phải tuân theo mọi thủ tục và theo các quy định định sẵn của nhà thầu. Làm tốt công tác này sẽ giúp đảm bảo tiến độ và kết quả của đấu thầu. * Tính bảo mật cao: Mọi thông tin về các đề xuất tài chính và kỹ thuật của nhà thầu phải được nhà mời thầu bảo đảm giữ bí mật, không được tiết lộ ra bên ngoài hay sao chép trước thời điểm mở thầu. Thang điểm đánh giá hồ sơ dự thầu cũng phải được bảo đảm bí mật tuyệt đối. * Tính khách quan: Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu đòi hỏi phải có sự đánh giá khách quan của Bên mời thầu. Các tiêu chí đánh giá phải được nêu rõ trong tài liệu đấu thầu và có thang điểm đi kèm. Thông thường Bên mời thầu ngoài việc xem xét về yếu tố giá cả và kỹ thuật còn phải xem xét các yếu tố khác như hồ sơ năng lực kinh nghiệm của công ty, năng lực nhân sự, phương thức thanh toán và các điều khoản bảo hành. - Một số nguyên tắc của đấu thầu xây dựng: * Nguyên tắc cạnh tranh công bằng với các điều kiện như nhau: Với mỗi cuộc đấu thầu đều có sự tham gia của một số nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu do nhà mời thầu đưa ra, tạo ra một môi trường cạnh tranh giữa các nhà thầu. Nhà mời thầu phải cung cấp đầy đủ các thông tin và các tài liệu đấu thầu là như nhau cho các nhà thầu, không được có sự thiên lệch về bất cứ bên nào. * Nguyên tắc công khai và cung cấp đầy đủ dữ liệu : Theo nguyên tắc này tất cả các giai đoạn từ gọi thầu đến mở thầu Nhà mời thầu phải thực hiện công khai, trừ những công trình có tính chất đặc biệt thuộc về bí mật quốc gia. Ngoài ra Nhà mời thầu còn phải có trách nhiệm cung cấp tất cả các thông tin liên quan đến gói thầu như về quy mô, yêu cầu chất lượng, khối lượng công trình. Thực hiện tốt công tác này sẽ giúp cho quá trình lập hồ sơ đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính của nhà thầu sẽ chính xác, quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu lựa chọn nhà thầu vì thế mà đúng đắn hơn. * Nguyên tắc đánh giá khách quan: Hội đồng xét thầu phải tiến hành đánh giá đầy đủ các bộ hồ sơ dự thầu và theo cùng một tiêu chuẩn, thang điểm đã được xây dựng từ trước. Trong quá trình đánh giá không được có bất cứ một sự ưu tiên thiên vị dành cho một nhà thầu nào đó. * Nguyên tắc ba bên : Một số gói thầu có yêu cầu kỹ thuật cao thì đòi hỏi có sự có mặt của ba bên đó là nhà mời thầu, nhà thầu, các nhà chuyên gia tư vấn. Các chuyên gia tư vấn có vai trò như nhà trọng tài đảm bảo cho quá trình đánh giá hồ sơ, lựa chọn nhà thầu được diễn ra khách quan, đem lại sự công bằng cho các nhà thầu tham gia dự thầu. Những sự vi phạm của nhà mời thầu trong quá trình đánh giá cũng như sự mua chuộc của nhà thầu, sự móc ngoặc liên kết giữa các nhà thầu đều bị xử phạt. * Nguyên tắc bảo đảm và bảo lãnh: Theo nguyên tắc này thì các nhà thầu phải thực hiện một trong các biện pháp đặt cọc, kí quỹ hoặc nộp thư bảo lãnh để bảo đảm trách nhiệm dự thầu của nhà thầu, hoặc để bảo đảm trách nhiệm thực hiện hợp đồng của nhà thầu trúng thầu trong một thời gian xác định theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Nguyên tắc này giúp bảo đảm lợi ích của cả Bên mời thầu và nhà thầu, nó thể hiện tính chất nghiêm túc của quá trình thực hiện đấu thầu. 1.1.4 Vai trò của đấu thầu xây dựng. - Đối với nhà nước: Đấu thầu giúp Nhà nước nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, hạn chế lãng phí thất thoát vốn chống tiêu cực vào các công trình xây dựng, đóng góp vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng của nhà nước. Nhà nước thông qua đấu thầu có thể lựa chọn được nhà thầu có khả năng hoàn thành công trình với phương án kinh tế hợp lý. Hiện nay theo con số mà Uỷ ban kinh tế và Ngân sách Quốc hội là khoảng 50% vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Việt Nam bị rút ruột thất thoát. Có đến 80% các gói thầu thuộc các lãnh vực khác nhau được giới chức thực hiện hiện theo hình thức chỉ định thầu hoặc đấu thầu hạn chế, ngoài ra còn tình trạng thông thầu, gian lận cố ý tính sai giảm giá gói thầu để trúng thầu sau đó xin điều chỉnh gói thầu. Vì vậy việc áp dụng luật mới trong đấu thầu xây dựng là rất cần thiết để giảm thiểu tình trạng thất thoát vốn nhà nước, các công trình bị rút ruột. - Đối với doanh nghiệp: Đấu thầu xây dựng tạo lập một môi trường cạnh tranh công bằng minh bạch mà ở đó nhà thầu nào có năng lực thì nhà thầu đó chiếm vị trí thượng phong, không còn tình trạng thông thầu, tình trạng khép kín trong đấu thầu xây dựng, tình trạng cấu kết thông đầu giữa bên mời thầu với nhà thầu, cố tình sắp đặt để cha mẹ đẻ, cha mẹ vợ hoặc chồng, anh chị em ruột, người thân tham gia các gói thầu mà bản thân làm bên mời thầu hoặc là thành viên tổ chuyên gia đấu thầu, thành viên tổ chuyên gia thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu. Đấu thầu giúp chủ đầu tư có thể lựa chọn được nhà thầu có năng lực đáp ứng được yêu cầu của mình về kỹ thuật, chất lượng công trình được đảm bảo, thực hiện công trình theo đúng tiến độ, hiệu quả kinh tế cao. Đấu thầu xây dựng là hình thức đảm bảo sự công bằng minh bạch cho tất cả các nhà thầu tham gia. Chính vì thế nó thúc đẩy các nhà thầu ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, khoa học quản lý hiện đại trong quá trình sản xuất và quản trị, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản trị và đội ngũ nhân viên trong doanh nghiệp. Thông qua đấu thầu các nhà thầu có thể lựa chọn những gói thầu phù hợp với khả năng của doanh nghiệp mình, đảm bảo chất lượng công trình tăng niềm tin, uy tín với chủ đầu tư và các đối tác trong tương lai. 1.2 NỘI DUNG CỦA CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG. 1.2.1 Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng. Thuật ngữ cạnh tranh xuất hiện từ nửa sau thế kỷ XVIII, xuất phát từ “ tự do kinh tế ” mà Adam Smith đã phát hiện. Nhờ cạnh tranh mà xã hội loài người ngày càng phát triển về mọi mặt. Cạnh tranh kích thích lòng tự hào, ý chí vươn lên ham muốn làm giàu, ham muốn khám phá cái mới, nhờ đó mà thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển, thúc đẩy sự phát triển của mọi ngành nghề lĩnh vực, mọi doanh nghiệp không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn phát triển ra phạm vi toàn cầu. Có khá nhiều quan niệm về cạnh tranh tồn tại từ trước nửa đầu thế kỷ XX đến nay của nhiều học giả kinh tế nổi tiếng trên thế giới nhưng tựu chung lại thì cạnh tranh chính là sự ganh đua, sự phấn đấu, vươn lên không ngừng để giành lấy vị trí hàng đầu trong một lĩnh vực hoạt động nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ khoa- kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, tạo ra năng suất và hiệu quả cao nhất. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường như nước ta hiện nay, nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý vĩ mô, mọi thành phần kinh tế đều hoạt động và vận hành theo cơ chế của thị trường: quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh. Trong đó quy luật cạnh tranh là quy luật tất yếu, là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, nếu doanh nghiệp muốn tồn tại, phát triển thì doanh nghiệp phải tìm mọi cách để hoàn thiện, nâng cao tiềm lực doanh nghiệp về mọi mặt. Trong cạnh tranh nảy sinh ra những người có khả năng cạnh tranh mạnh, người có khả năng cạnh tranh yếu hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản phẩm có khả năng cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó gọi là năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Trong đấu thầu xây dựng thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chính là thị phần của doanh nghiệp xây dựng, doanh thu, lợi nhuận từ hoạt động đấu thầu, năng lực tài chính của doanh nghiệp, nguồn nhân lực có trình độ cao có kinh nghiệm, phương pháp quản lý, bảo vệ môi trường, uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp. Những yếu tố trên tạo cho doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh có nghĩa là tạo cho doanh nghiệp có khả năng triển khai các hoạt động với hiệu suất cao hơn đối thủ cạnh tranh, tạo ra giá trị khác biệt cho khách hàng dựa trên những sự khác biệt hóa trong các yếu tố của chất lượng hoặc chi phí thấp hoặc cả hai. Cạnh tranh trong thị trường xây dựng rất khắc nghiệt nó tồn tại ba loại hình cạnh tranh chủ yếu: cạnh tranh giữa các nhà thầu, cạnh tranh giữa chủ đầu tư và nhà thầu, cạnh tranh giữa nhà thầu và người cung cấp các yếu tố đầu vào. Nhưng khắc nghiệt nhất vẫn là sự cạnh tranh giữa các nhà thầu. Thông qua đấu thầu xây dựng, nhà thầu nào có năng lực cạnh tranh, có lợi thế hơn hẳn so với các nhà thầu khác sẽ dành phần thắng. Vậy ta hiểu cạnh tranh giữa các nhà thầu trong đấu thầu xây dựng là như thế nào? Đó là quá trình doanh nghiệp tìm kiếm thông tin về đấu thầu, tìm kiếm thị trường sau đó tiến hành lựa chọn các gói thầu phù hợp với năng lực doanh nghiệp, đưa ra các giải pháp về tài chính và kỹ thuật các biện pháp thi công để tham gia đấu thầu. Nếu trúng thầu thì tiến hành kí kết và thực hiện hợp đồng cho tới khi bàn giao công trình cho chủ đầu tư. Như vậy muốn dành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh gay go này thì doanh nghiệp phải có thực lực về mọi mặt, không ngừng phát huy điểm mạnh, phải tạo ra được sự khác biệt đối với các doanh nghiệp khác. 1.2.2 Phương thức cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của các doanh nghiệp. Trong đấu thầu xây dựng các nhà mời thầu thường căn cứ vào một số tiêu chí để đánh giá, lựa chọn nhà thầu trúng thầu: Giá bỏ thầu Biện pháp kỹ thuật, chất lượng công trình. Tiến độ thi công Năng lực và kinh nghiệm nhà thầu. Biện pháp tổ chức thi công, bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh môi trường. Nhưng trong đó nhà mời thầu thường quan tâm tới bốn yếu tố đó là: giá bỏ thầu, biện pháp kỹ thuật chất lượng công trình, tiến độ thi công, biện pháp tổ chức thi công bảo đảm an toàn lao động và vệ sinh môi trường. Chính vì thế các doanh nghiệp xây dựng thường chú ý tới bốn yếu tố này để nâng cao khả năng thắng thầu của doanh nghiệp mình. 1.2.2.1 Cạnh tranh bằng giá dự thầu Trong quá trình tham gia dự thầu, doanh nghiệp xây dựng thường chú ý tới phương thức dùng giá để cạnh tranh với các nhà thầu khác bởi vì giá dự thầu là một trong những yếu tố quyết định tới khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Để đưa ra được một mức giá bỏ thầu hợp lý doanh nghiệp xây dựng phải tiến hành tìm hiểu thị trường, tìm hiểu các thông tin liên quan đến dự án, tiến hành đánh giá các yếu tố môi trường xung quanh. Việc xác định giá bỏ thầu là phức tạp vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ của người làm công tác xây dựng giá bỏ thầu, trình độ tổ chức quản lý công ty, kỹ thuật và tiến độ thi công, khả năng áp dụng công nghệ tiên tiến. Chính sách về giá được áp dụng trong giá bỏ thầu cũng phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp cũng như mục tiêu mà công ty theo đuổi, năng lực công ty, địa điểm thực hiện dự án, phong tục tập quán của địa phương nơi triển khai dự án, quy mô và đặc điểm của dự án. Doanh nghiệp muốn tăng khả năng cạnh tranh về giá thì phải áp dụng chính sách về giá một cách linh hoạt. 1.2.2.2 Cạnh tranh bằng chất lượng công trình. Chúng ta có thể nói rằng chất lượng công trình là minh chứng cụ thể và rõ ràng nhất cho uy tín và năng lực của doanh nghiệp. Thông qua đó nó gây được ấn tượng tốt cho chủ đầu tư, tạo khả năng thắng thầu cho doanh nghiệp. Chất lượng công trình được đánh giá dựa trên các đặc trưng kinh tế kỹ thuật, các chỉ tiêu mà nhà đầu tư đưa ra như tính năng, công dụng, độ bền, tính thẩm mỹ. Chất lượng công trình không đảm bảo sẽ gây thiệt hại không những về mặt kinh tế mà còn có thể cả về con người. Chính vì vậy mà doanh nghiệp xây dựng không ngừng nâng cao chất lượng công trình kể cả những công trình được tổ chức đấu thầu xây dựng và những công trình đã và đang xây dựng, vừa tạo ra một hình ảnh tốt vừa nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và đảm bảo thực hiện được các mục tiêu đề ra. 1.2.2.3 Cạnh tranh bằng tiến độ thi công Tiến độ thi công được thể hiện ở việc bố trí tổng thể công tác thi công công trình của doanh nghiệp xây dựng, nó ảnh hưởng tới sự cam kết đối với chất lượng, an toàn lao động và thời điểm bàn giao công trình cho chủ đầu tư. Cũng thông qua tiến độ thi công của các nhà thầu xây dựng chủ đầu tư có thể nghiên cứu tìm hiểu các vấn đề như trình độ quản lý, kỹ thuật thi công, máy móc thiết bị của nhà thầu xây dựng, nhân lực của nhà thầu. Nếu nhà thầu xây dựng đảm bảo thực hiện đúng tiến độ thi công, có giải pháp thi công sắp xếp công việc, bố trí thời gian thi công các hạng mục công trình hợp lý thì sẽ có được lợi thế cạnh tranh, khả năng thắng thầu sẽ cao. 1.2.2.4 Cạnh tranh bằng biện pháp tổ chức thi công, bảo đảm an toàn cho người lao động và giữ gìn vệ sinh môi trường. Nếu các nhà thầu tham gia đấu thầu xây dựng mà có cùng số điểm khi đánh giá trên các tiêu chí: giá dự thầu, chất lượng công trình, tiến độ thi công thì việc lựa chọn nhà thầu thắng thầu sẽ được căn cứ trên tiêu chí biện pháp tổ chức thi công, bảo đảm an toàn cho người lao động và giữ gìn vệ sinh môi trường. Hiện nay khoa học công nghệ rất phát triển, được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực xây dựng vì vậy mà doanh nghiệp xây dựng cần phải có giải pháp phân công bố trí nhân lực hợp lí sao cho có một biện pháp tổ chức thi công hợp lí tận dụng tối đa máy móc thiết bị, đảm bảo an toàn cho người lao động tham gia thi công và giữ gìn vệ sinh môi trường để tạo thêm ưu thế cạnh tranh so với nhà thầu khác. 1.2.3 Những tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng 1.2.3.1 Năng lực tài chính của doanh nghiệp. Năng lực tài chính là yếu tố rất quan trọng để xem xét tiềm lực của doanh nghiệp mạnh, yếu như thế nào. - Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp: * Hệ số khả năng thanh toán hiện hành = Tổng tài sản lưu động / tổng nợ ngắn hạn. Nếu hệ số này quá cao tức là doanh nghiệp đã đầu tư vào tài sản lưu động quá nhiều, không mang lại hiệu quả lâu dài. * Hệ số khả năng thanh toán tức thời = Tổng vốn tiền mặt/ Tổng nợ ngắn hạn. Nếu hệ số này cao doanh nghiệp có khả năng lớn nhưng nếu quá cao thì không mang lại hiệu quả vì tiền mặt không sinh lời. - Nhóm chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nguồn vốn và vốn : * Tỷ lệ nợ = Tổng nợ phải trả / Tổng vốn (%) Tỷ lệ này càng thấp doanh nghiệp càng ít phụ thuộc vào bên ngoài, các khoản nợ càng đảm bảo thanh toán. Vì vậy tỉ lệ này cần duy trì ở mức trung bình của ngành là hợp lý. * Tỷ lệ vốn cố định = Vốn cố định / Tổng tài sản (%) * Tỷ lệ vốn lưu động = Vốn lưu động / Tổng tài sản (%) - Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả: đây là nhóm chỉ tiêu quan trọng đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ, là căn cứ để đưa ra các quyết định trong tương lai. * Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = Lợi nhuận / Doanh thu (%). Chỉ số này càng cao càng tốt, nó chứng tỏ giá thành sản phẩm thấp, hiệu quả kinh doanh cao. * Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư = Lợi nhuận / Tổng vốn đầu tư (%) * Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có = Lợi nhuận / Tổng vốn chủ sở hữu (%) 1.2.3.2 Tổ chức của doanh nghiệp và phân công trách nhiệm. Các nhà kinh tế học nước ngoài cho rằng một tổ chức mạnh quyết định tới 70% đến 80% thành công của doanh nghiệp trong mọi hoạt động. Điều này cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của tổ chức đến mức nào. Ta có thể phân nhóm các tiêu chí trong tiêu trí này như sau: Hoạt động theo pháp luật của nhà nước. Hoạt động theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng. Phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của mọi bộ phận, mọi thành viên. Có chính sách, chiến lược, mục đích, mục tiêu hoạt động cụ thể. Có tổ chức gọn nhẹ tránh cồng kềnh. 1.2.3.3 Trình độ và năng lực điều hành của đội ngũ lãnh đạo. Thành ngữ Việt Nam có câu: “ Một người lo bằng kho người làm ”, qua đó ta hiểu rằng vai trò quan trọng như thế nào của đội ngũ lãnh đạo- những người dẫn đường chỉ lối cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Người lãnh đạo là người dẫn đường chỉ lối, vạch ra phương hướng, chiến lược, điều khiển và kiểm soát mọi hoạt động của doanh nghiệp vì vậy đòi hỏi đội ngũ này phải có trình độ cao có khả năng điều hành quản lý doanh nghiệp. 1.2.3.4 Đội ngũ công nhân viên lành nghề. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì tỷ lệ công nhân viên lành nghề là đòi hỏi vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm và theo đó ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Tỷ lệ công nhân viên lành nghề là yếu tố quan trọng để doanh nghiệp đạt được mục tiêu đề ra, chi phí thấp, năng suất lao động cao. Một doanh nghiệp có tỷ lệ này cao sẽ có lợi thế cạnh tranh và có năng lực cạnh tranh cao. 1.2.3.5 Giá trị vô hình của doanh nghiệp. Giá trị vô hình là tiêu chí mang tính tổng hợp, nó là cả một quá trình cố gắng nỗ lực phấn đấu hết mình của công ty mới có được, được xã hội và cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước biết đến. Giá trị vô hình của doanh nghiệp gồm hai bộ phận cấu thành. Một là uy tín, hình ảnh danh tiếng của doanh nghiệp và được phản ánh chủ yếu ở “văn hóa doanh nghiệp”. Văn hóa doanh nghiệp tạo ra các quy tắc ứng xử cho doanh nghiệp mà không phải tạo ra tác dụng chỉ đạo, nó không chỉ có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp mình thực hiện được phương thức kinh doanh “ lấy con người làm trung tâm”, mà còn làm cho năng lực phát triển sản phẩm và năng lực đoàn kết hiệp đồng tập thể của doanh nghiệp trở nên phồn vinh, tăng thêm sự gắn bó của nhân viên với doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hai là giá trị của tài sản nhãn hiệu, với những nhãn hiệu lâu đời có uy tín cao thì giá trị càng cao. Muốn có được thương hiệu doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo khác biệt về sản phẩm và phong cách cung cấp sản phẩm. 1.2.3.6 Chất lượng của môi trường sinh thái. Chất lượng của môi trường sinh thái là vấn đề cấp bách hiện nay, khi mà sự ô nhiễm môi trường ngày càng nặng, trái đất nóng lên, thiên tai lũ lụt, hạn hán xảy ra liên miên. Để có năng lực cạnh tranh cao thì sản phẩm của doanh nghiệp làm ra không được gây ô nhiễm môi trường bao gồm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm sự yên tĩnh. Việc đánh giá tiêu chí này rất phức tạp vì nó bao hàm nhiều chỉ tiêu mà phạm vi ảnh hưởng của nó đôi khi khó xác định vì vậy để bảo vệ môi trường sinh thái thì nó phụ thuộc vào chính sách và ý thức của doanh nghiệp. 1.2.3.7 Chất lượng của cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, máy móc thiết bị. Do tính chất đặc thù của ngành xây dựng đòi hỏi phải sử dụng máy móc thiết bị hiện đại, mang tính kỹ thuật cao do vậy mà doanh nghiệp muốn có được lợi thế cạnh tranh thì cần trang bị đầy đủ máy móc thiết bị, các cơ sở vật chất hạ tầng cần thiết cho doanh nghiệp mình. Hơn nữa chất lượng của cơ sở vật chất hạ tầng, máy móc thiết bị ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng của sản phẩm do đó ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng. 1.2.3.8 Năng suất lao động của doanh nghiệp. Năng suất lao động là chỉ tiêu tổng hợp của mọi yếu tố: công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật, con người, quản lý tổ chức…Năng suất của máy móc thiết bị, công nghệ được đo bằng lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian. Năng suất lao động được đo bằng lượng sản phẩm đảm bảo chất lượng trên một đơn vị lao động. Năng suất lao động của doanh nghiệp càng cao bao nhiêu thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao bấy nhiêu. Có được năng suất cao là nhờ tổ chức sản xuất kinh doanh tốt, sử dụng tối ưu các nguồn lực và giảm tối đa các chi phí vì thế năng suất lao động là yếu tố quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 1.2.3.9 Một số tiêu chí khác. Ngoài các tiêu chí trên để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp người ta còn dựa vào một số tiêu chí như: Số công trình trúng thầu và giá trị trúng thầu hoặc xác suất trúng thầu. Giá trị trúng thầu của từng năm là tổng giá trị của tất cả các công trình mà mỗi doanh nghiệp đã tham gia đấu thầu và trúng thầu trong năm đó. Xác suất trúng thầu là số công trình trúng thầu so với số công trình doanh nghiệp tham gia đấu thầu. Qua hai chỉ tiêu trên chúng ta có thể đánh giá được tình hình công tác dự thầu của doanh nghiệp cũng như thấy được tiềm lực của doanh nghiệp. 1.3 NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG CỦA DOANH NGHIỆP. 1.3.1 Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. 1.3.1.1 Người cung cấp các yếu tố đầu vào. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có sự phân công lao động và chuyên môn hóa cao, doanh nghiệp không thể tự đảm nhiệm sản xuất mọi yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất vì thế để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục và hiệu quả doanh nghiệp phải tìm mua các đ._.ầu vào từ bên ngoài có uy tín trên thị trường. Nguồn đầu vào phải đáp ứng được yêu cầu giao hàng đúng hẹn, đúng chủng loại và đảm bảo yêu cầu về chất lượng. Mặt khác doanh nghiệp phải thiết lập được mối quan hệ tốt với người cung ứng, giúp đỡ nhau giải quyết khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng và tạo được niềm tin cho người cung ứng. Việc mua các yếu tố đầu vào giữ vị trí quan trọng trong quá trình hình thành chất lượng của sản phẩm, đồng thời là yếu tố cấu thành chất lượng sản phẩm và có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam các nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, công nghệ, các thiết thông tin chưa tự sản xuất được phải nhập nguồn từ nước ngoài, việc kiểm tra đánh giá chất lượng của các sản phẩm đó còn nhiều hạn chế, khó khăn chính vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng các công trình xây dựng của doanh nghiệp. Do có khoảng cách địa lý quá xa doanh nghiệp xây dựng vì thế mà còn gặp nhiều khó khăn trong việc tìm đối tác nước ngoài có uy tín để đảm bảo chất lượng vật tư kỹ thuật, thời gian cung cấp sản phẩm theo tiến độ và việc xác định giá cả của các mặt hàng cần mua. Bên cạnh nhà cung cấp nguyên vật liệu, máy móc thiết bị doanh nghiệp còn cần nguồn cung cấp về tài chính đó là các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại. Những nhà cung cấp đầu vào này có ảnh hưởng nhất định tới doanh nghiệp họ có thể tạo ra những áp lực làm ảnh hưởng tới khả năng thu lợi nhuận như việc tăng giá thành, giảm chất lượng của những vật tư, máy móc thiết bị mà họ cưng ứng, cung ứng không đúng thời gian hoặc tăng lãi suất cho vay. Đặc biệt khi những nhà cung cấp này là những nhà cung cấp độc quyền một sản phẩm nào đó hay doanh nghiệp không phải là khách hàng quan trọng của các nhà cung cấp; loại vật tư, máy móc thiết bị mà nhà cung cấp cung ứng cho doanh nghiệp là yếu tố chủ đạo tạo lên chất lượng sản phẩm. Do những tác động bất lợi như vậy nên doanh nghiệp xây dựng cần phải biết biến những cái khó khăn thành những điểm mạnh như tạo mối quan hệ tốt lâu dài với những nhà cung cấp uy tín; nguồn vật tư, máy móc thiết bị có chất lượng tốt của nhà cung cấp có danh tiếng sẽ có được sự đánh giá tốt của chủ đầu tư. 1.3.1.2 Đối thủ cạnh tranh. Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam có không ít những cơ hội để tham gia thị trường thế giới như tiếp cận với các công nghệ mới, có điều kiện nhập khẩu các thiết bị, nguyên vật liệu, dịch vụ có chất lượng cao, giá rẻ. Tuy vậy môi trường cạnh tranh sẽ vô cùng khắc nghiệt, các doanh nghiệp xây dựng cạnh tranh không chỉ với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong nước mà còn với cả các doanh nghiệp nước ngoài họ không chỉ mạnh về cơ sở vật chất, máy móc thiệt bị, công nghệ mà còn mạnh cả về vốn. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam tuy đã lớn mạnh về nhiều mặt nhưng nhìn chung khả năng cạnh tranh còn rất nhiều yếu kém, các doanh nghiệp xây dựng hiện mới chỉ tiếp cận được các công nghệ phổ thông của thế giới chứ chưa phải công nghệ đỉnh cao. Các công trình xây dựng phổ thông đang được thi công theo phương thức thô sơ, nặng về thao tác thủ công, công nghệ môi trường vẫn đang ở trình độ các nước vào thập kỷ 70 thế kỷ trước, công nghệ hoàn thiện công trình đặc biệt là các chưng cư cao tầng còn nhiều mặt yếu, công nghệ duy tu bảo dưỡng và sửa chữa nâng cấp công trình hạ tầng chưa được chú ý đúng mức. Môi trường cạnh tranh khốc liệt buộc doanh nghiệp phải xác định các xu hướng của thị trường, quan trâm tới các vấn đề liên quan tới đối thủ cạnh tranh. Muốn chiến thắng trên thương trường, doanh nghiệp không chỉ cần biết mình phải làm gì mà còn cần phải biết đối thủ nghĩ gì, để từ đó có thể có những ảnh hưởng và đi trước một bước trong các hoạt động. Hiện nay thì các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam tham gia đấu thầu xây dựng cạnh tranh với nhau chủ yếu bằng bốn phương thức: cạnh tranh về giá dự thầu, cạnh tranh về chất lượng công trình, cạnh tranh về tiến độ thi công, cạnh tranh về biện pháp tổ chức thi công, bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh môi trường. Trong đó cạnh tranh bằng giá là sự cạnh tranh khốc liệt nhất, các doanh nghiệp trung bình, yếu sẽ không đủ khả năng để có thể tham gia cuộc chơi này. Chính vì thế sẽ dẫn đến tình trạng phá sản hay sát nhập hoặc mua đứt doanh nghiệp. 1.3.1.3 Chủ đầu tư và doanh nghiệp tư vấn giám sát Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay, nhà nước không còn giữ vai trò độc quyền cung cấp các sản phẩm xây dựng. Thị trường xây dựng trong đó có sự tham gia của nhiều người bán và nhiều người mua, việc lựa chọn khách hàng đối tác làm ăn vì thế mà ngày càng trở lên dễ dàng và thuận tiện. Và việc nghiên cứu thị trường, lựa chọn nhà đầu tư là vô cùng quan trọng nó quyết định tới sự tồn tại của doanh nghiệp xây dựng. Trong đấu thầu xây dựng thông qua sự đánh giá phân tích cho điểm của doanh nghiệp tư vấn chủ đầu tư sẽ quyết định nhà thầu thắng thầu, nếu có sự công minh và công bằng trong đánh giá, quyết định của chủ đầu tư và nhà tư vấn sẽ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà thầu. Những nhà thầu nào không đủ năng lực sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi. Như vậy ta có thể thấy rằng khả năng thắng thầu của doanh nghiệp phụ thuộc vào cả chủ đầu tư và doanh nghiệp tư vấn giám sát. Trình độ và kinh nghiệm của nhà tư vấn giám sát ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Vì thế đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo của doanh nghiệp xây dựng phải xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp và lâu dài với cả chủ đầu tư và các doanh nghiệp tư vấn giám sát. 1.3.1.4 Các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường nhà nước đóng vai trò quản lý vĩ mô, nhà nước ra các chính sách, điều luật và buộc các doanh nghiệp xây dựng phải tuân theo. Các luật lệ quy định sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh và hợp tác bình đẳng giữa mọi doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nhất là khi Việt Nam tham gia tổ chức thương mại thế giới thì việc xây dựng một môi trường pháp lý lành mạnh là rất cần thiết, một mặt tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mặt khác doanh nghiệp dựa vào đó để điều chỉnh hoạt động của mình. Việc chấp hành luật pháp nghiêm minh của các cơ quan quản lý và của các doanh nghiệp sẽ đưa lại hiệu quả kinh doanh tốt, ngược lại việc thực thi luật pháp không nghiêm minh, thiếu trong sáng sẽ dẫn doanh nghiệp vào con đường bất chính hoặc doanh nghiệp không được đánh giá đúng thực chất năng lực cạnh tranh. Môi trường chính trị ổn định cũng là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp phát triển hoạt động kinh doanh, mở rộng liên doanh liên kết ngược lại nếu môi trường chính trị biến động sẽ gây rất nhiều bất lợi cho doanh nghiệp. Hiện nay tình hình thị trường xây dựng có nhiều biến động, giá vật liệu xây dựng tăng lên tục, giá nhân công cũng tăng đáng kể điều đó làm cho hàng loạt các công trình xây dựng ngưng trệ vì giá dự toán với giá tại thời điểm thi công chênh lệch một khoản khá lớn trong khi các nhà thầu xây dựng không nhận được tiền bù giá chênh lệch từ chủ đầu tư. Vì vậy mà Bộ xây dựng cùng cơ quan chức năng có liên quan cần ban hành các văn bản, thông tư hướng dẫn tính toán điều chỉnh trượt giá, điều chỉnh hợp đồng xây dựng để đảm bảo tài chính cho các nhà thầu tiếp tục thi công, đẩy nhanh tiến độ thi công. Nhà nước cũng cần đưa ra định mức và đơn giá xây dựng hợp lý với tình hình thực tế để doanh nghiệp xây dựng có căn cứ để tính đúng, tính đủ dự toán xây dựng cũng như là giá dự thầu công trình. Nếu không làm tốt công tác này sẽ gây khó khăn không nhỏ cho công tác tính dự toán công trình của doanh nghiệp. 1.3.1.5 Năng lực cạnh tranh quốc gia. Năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm có mối liên hệ mật thiết với nhau. Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh khi mọi tổ chức ( các cơ quan, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện…) có năng lực cạnh tranh. Ngoài ra năng lực cạnh tranh của quốc gia còn được đánh giá theo các tiêu chí quan trọng khác như hoạt động của Chính phủ, thể chế luật pháp của Nhà nước, nền tài chính quốc gia, trình độ nhân lực và công nghệ, cơ sở hạ tầng, độ mở cửa của nền kinh tế. Một quốc gia có khả năng cạnh tranh tốt sẽ là chỗ dựa cho các doanh nghiệp trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp xây dựng có thể mở rộng phát triển thị trường ra các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Ngược lại doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh nó cũng đóng góp vào năng lực cạnh tranh quốc gia. 1.3.2 Nhóm nhân tố nội tại của doanh nghiệp. 1.3.2.1 Năng lực tài chính. Tài chính là một yếu tố quan trọng để doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh ngược lại cũng ảnh hưởng đến hoạt động tài chính và theo đó ảnh hưởng tới công tác đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng. Do tính chât đặc thù của ngành xây dựng yêu cầu vốn lớn để mua sắm tài sản cố định, máy móc thiết bị, do vậy năng lực tài chính có ảnh hưởng quyết định tới các hoạt động của công ty đặc biệt là công tác đấu thầu. Nếu công ty có khả năng tài chính cao thì có thể tham dự đấu thầu nhiều công trình và những công trình có giá trị lớn trong năm vì những công trình lớn yêu cầu tiền bảo lãnh dự thầu cao, tiền đầu tư vào máy móc thiết bị thi công tốn kém đồng thời đảm bảo được khả năng thanh toán, giữ được niềm tin với các nhà cung cấp, các tổ chức tài chính tín dụng và nhà đầu tư. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp xây dựng muốn tăng khả năng thắng thầu của doanh nghiệp mình phải tạo được các mối quan hệ tốt với các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại để đảm bảo có được nguồn tài chính đảm bảo. Ta có thể thấy được năng lực tài chính của doanh nghiệp xây dựng ảnh hưởng đến công tác đấu thầu của doanh nghiệp như thế nào: - Trước tiên, một doanh nghiệp xây dựng tham gia đấu thầu xây dựng với năng lực tài chính mạnh họ sẽ đưa ra quyết định giá bỏ thầu một cách hợp lý nhất để tạo ra thế mạnh về giá tăng khả năng thắng thầu và hơn nữa năng lực tài chính là một trong những chỉ tiêu để đánh giá cho điểm nhà thầu. - Thứ hai là với năng lực tài chính mạnh, doanh nghiệp xây dựng có khả năng hoàn thành công trình theo đúng tiến độ và đảm bảo được chất lượng công trình, điều này sẽ tạo được uy tín cho doanh nghiệp, gây được lòng tin cho chủ đầu tư và những khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp. 1.3.2.2 Năng lực máy móc, thiết bị thi công Máy móc, thiết bị thi công là bộ phận cấu thành chủ đạo, giữ vị trí quan trọng nhất của tài sản cố định công ty, nó thể hiện trình độ kỹ thuật, công nghệ, nó liên quan trực tiếp tới chất lượng công trình và tiến độ thi công công trình. Năng lực máy móc thiết bị thi công thể hiện ở tính hiện đại hóa, tính đồng bộ, tính đổi mới, tính hiệu quả của máy móc thiết bị. Đi đôi với những công năng của máy móc thiết bị cũng cần phải có trình độ của người sử dụng nó. Khi máy móc thiết bị của doanh nghiệp xây dựng là ứng dụng công nghệ hiện đại, quá trình sử dụng phức tạp thì đòi hỏi người vận hành nó cũng phải am hiểu nó và sử dụng đúng theo hướng dẫn. Vì vậy mà khi doanh nghiệp xây dựng tiến hành đổi mới hay thay thế máy móc thiết bị cũ cũng cần phải tiến hành đào tạo lại nhân lực sử dụng máy móc thiết bị đó. Năng lực máy móc thiết bị cũng là một trong những tiêu chí mà chủ đầu tư quan tâm tới khi đánh giá cho điểm những nhà thầu tham gia vì yếu tố năng lực máy móc thiết bị sẽ quyết định biện pháp thi công công trình, bố trí sắp xếp con người và thiết bị thi công hợp lý, rút ngắn tiến độ thi công và giảm chi phí xây dựng dẫn tới giá bỏ thầu sẽ thấp hơn góp phần tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng. 1.3.2.3 Nhân lực của doanh nghiệp Nhân lực là yếu tố đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng lớn tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng. Chủ đầu tư thường đánh giá nguồn nhân lực của doanh nghiệp qua đội ngũ lãnh đạo và đội ngũ công nhân viên của doanh nghiệp xây dựng. + Cán bộ quản trị cấp cao: Là những con người đứng mũi chịu sào, chèo lái giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Họ vạch ra phương hướng chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn cũng như ngắn hạn của doanh nghiệp. Nếu đội ngũ này có trình độ cao, có tầm nhìn chiến lược, có những phẩm chất tốt của một nhà quản trị, dẫn dắt doanh nghiệp đi đúng hướng thì doanh nghiệp sẽ ngày càng mở rộng và phát triển về phạm vi và quy mô, ngược lại sẽ dẫn công ty tới tình trạng suy yếu có thể phá sản. Chủ đầu tư đánh giá rất cao năng lực của đội ngũ lãnh đạo, cũng như những kinh nghiệm, khả năng tổ chức quản lý nhân viên, khả năng nhạy bén trong kinh doanh, và đây cũng là một trong những điểm mạnh của doanh nghiệp để tăng khả năng cạnh tranh. + Đội ngũ công nhân viên trong doanh nghiệp : Đây là lực lượng đông đảo chiếm đa số của công ty. Quy mô của doanh nghiệp cũng thể hiện qua đội ngũ công nhân viên này, nó cho phép doanh nghiệp có thể cùng lúc thực hiện nhiều công trình cũng như tham gia đấu thầu nhiều công trình khi đội ngũ công nhân viên này đông đảo. Mặc khác đội ngũ này đông đảo cũng tạo được sự tin tưởng cho chủ đầu tư về năng lực lao động của công ty, góp phần tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng. Một sự đoàn kết, đồng lòng của tập thể người lao động và sự nhất trí cao trong đội ngũ lạnh đạo sẽ tạo lên một sức mạnh tổng hợp to lớn giúp doanh nghiệp giải quyết bất kỳ vấn đề khó khăn nào. 1.3.2.4 Hoạt động Marketing Hoạt động Marketing là cần thiết với bất kỳ doanh nghiệp xây dựng nào hiện nay do môi trường cạnh tranh của nền kinh tế thị trường vô cùng khốc liệt. Môi trường cạnh tranh mà ở đó cung lớn hơn cầu, khách hàng tự do lựa chọn nhà cung cấp cho mình. Chính vì vậy mà việc sử dụng chiến lược marketing phù hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường xây dựng. Thông qua hoạt động marketing doanh nghiệp xây dựng có thể quảng bá hình ảnh, thương hiệu của mình tới khách hàng, các đối tác làm ăn. Đồng thời thông qua các hoạt động nghiên cứu thị trường doanh nghiệp xây dựng có được các nguồn thông tin chính xác liên quan tới các gói thầu, thông tin về nguồn cung ứng. Từ đó giúp cho việc lập hồ sơ dự thầu đạt kết quả cao nhất. Điểm khác biệt của doanh nghiệp xây dựng với các loại hình doanh nghiệp khác trong hoạt động kinh doanh đó là doanh nghiệp không thể đưa các sản phẩm ra thị trường cho khách hàng lựa chọn mà thông qua danh tiếng của doanh nghiệp mình khách hàng sẽ tìm đến và cung cấp sản phẩm cho họ. Vì vậy mà việc quảng bá hình ảnh thương hiệu của doanh nghiệp qua các phương tiện thông tin đại chúng như các tạp chí chuyên ngành, báo đài, internet…là rất cần thiết nó sẽ giúp cho doanh nghiệp xây dựng dành được nhiều gói thầu hơn. 1.3.2.5 Khả năng liên doanh liên kết của doanh nghiệp xây dựng Liên doanh, liên kết trong xây dựng là sự kết hợp hai hay nhiều doanh nghiệp xây dựng với nhau, tạo ra một sức mạnh tổng hợp về tài chính, nhân lực, kinh nghiệm…Đối với những dự án quy mô lớn, một doanh nghiệp xây dựng đơn lẻ không thể một mình đảm nhận công việc vì vậy cần phải có sự liên doanh liên kết với các doanh nghiệp xây dựng khác để có đủ điều kiện tham gia và thực hiện. Xu hướng tất yếu trong thị trường xây dựng hiện nay là tăng khả năng liên doanh, liên kết để tham gia những công trình có quy mô lớn, yêu cầu kỹ thuật cao. Nếu doanh nghiệp không thực hiện liên doanh liên kết tức là doanh nghiệp đã bỏ lỡ cơ hội kinh doanh lớn, bỏ lỡ cơ hội đế phát triển mở rộng doanh nghiệp mình, mặt khác doanh nghiệp sẽ bị loại trong quá trình đánh giá cho điểm lựa chọn nhà thầu thắng thầu của bên mời thầu do không đủ điều kiện và năng lực tham gia. Thấy được tầm quan trọng của việc liên doanh liên kết như vậy cho nên các doanh nghiệp cần phải có chính sách, những hình thức liên doanh liên kết phù hợp. 1.3.2.6 Quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp. Nhìn vào thực trạng công tác đấu thầu xây dựng hiện nay của Việt Nam ta có thể nói rằng công tác đấu thầu xây dựng của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cấp, mang nặng tính tình cảm, nhà nước vẫn chưa thực sự quản lý có hiệu quả công tác đấu thầu. Với những công trình lớn doanh nghiệp tham gia đấu thầu, nếu lãnh đạo doanh nghiệp có mối quan hệ tốt với chủ đầu tư hoặc nhà mời thầu thì khả năng thắng thầu sẽ rất cao. Đối với những công trình quy mô nhỏ thì tình trạng chỉ định thầu là phổ biến và doanh nghiệp sẽ dành được công trình nếu lãnh đạo doanh nghiệp quan hệ tốt với chủ đầu tư, công ty sẽ tiết kiệm được các khoản chi phí liên quan đến công tác đấu thầu. Nhà nước đang dần dần hoàn chỉnh các điều luật về quản lý công tác đấu thầu nhưng quá trình hoàn thiện này cũng phải mất thời gian tương đối dài vì vậy tuy đây không phải là yếu tố tác động lớn đến kết quả đấu thầu nhưng lãnh đạo doanh nghiệp cũng cần phải chú ý đến công tác này. CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TƯ VẤN THIẾT KẾ CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG. 2.1 GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TƯ VẤN THIẾT KẾ CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG. 2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng. 2.1.1.1 Giới thiệu chung về công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng. Ngày 30/12/2003 Công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng được Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh . Công ty thuộc hình thức công ty cổ phần với tên giao dịch bằng tiếng việt là : C«ng ty Cæ phÇn t­ vÊn thiÕt kÕ c«ng nghÖ x©y dùng Tên giao dịch quốc tế: consultants designs technology construction Joint Stock Company. Tên viết tắt: CDTC.,JSC Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số : 0103003435 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp. Tài khoản của công ty tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam : 001.100.0749657. Văn phòng giao dịch: Tầng 10, tòa nhà CT4-2, khu đô thị mới Mễ Trì Hạ, xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Địa chỉ e-mail: CDTC2007@vnn.vn Điện thoại: 04.6624960 ; Fax: 04.6624960 Những ngành nghề kinh doanh chính là: - Khảo sát, tư vấn đầu tư, thiết kế tổng mặt bằng xây dựng công trình, thiết kế kiến trúc công trình, thiết kế nội ngoại thất công trình. - Khảo sát, tư vấn đầu tư, thiết kế kỹ thuật, lập dự toán, giám sát, đào tạo trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật công nghệ, điện, điện tử, điện thanh, điện lạnh, tin học, viễn thông, truyền hình. - Xây dựng công trình kỹ thuật, công trình bưu chính viễn thông, công trình dân dụng, công trình công nghiệp, công trình giao thông, công trình thuỷ lợi, cơ sở hạ tầng. - Lắp đặt: mạng tin học; ăngten truyền hình, cáp và mạng thông tin; hệ thống điện thoại trong nhà; thang máy, cầu thang, băng chuyền tự động; hệ thống điều hoà không khí; hệ thống chống sét; thiết bị âm thanh, ánh sáng; thiết bị camera bảo vệ, báo động; hệ thống phòng, báo, chữa cháy nổ, đường dây và trạm biến thế đến 35 KV; ống cấp nước, thoát nước, bơm nước, các thiết bị xây dựng. - Kinh doanh thiết bị điện, điện tử, điện máy, điện thanh, điện lạnh, tin học, viễn thông, truyền hình. - Kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ, đồ nhựa. - Kinh doanh trang thiết bị, dụng cụ, vật tư y tế. - Sản xuất, buôn bán phần mềm trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ. - Kinh doanh bất động sản. - Kinh doanh vận tải hàng hoá, vận chuyển hành khách, giao nhận vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển, đường bộ, đường sắt và đường hàng không. - Kinh doanh lắp đặt hệ thống khí sạch, khí y tế, thiết bị thí nghiệm, thiết bị xử lý môi trường. - Sản xuất, lắp ráp thiết bị, linh kiện điện, điện tử, điện thanh, điện lạnh và trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Công ty luôn đề cao tinh thần trách nhiệm và chất lượng đối với từng sản phẩm, từng hạng mục công trình mà công ty cung cấp cũng như thực hiện. Đó cũng là kim chỉ nam cho việc điều hành hoạt động quản lý và hoạt động kinh doanh của công ty. Do có được phương hướng, mục tiêu đúng đắn vì thế mà công ty ngày càng phát triển cả mặt lượng và chất : cơ sở vật chất hạ tầng, nhân sự, khoa học công nghệ, tổ chức quản lý… Công ty ngày càng gây được nhiều niềm tin với các bạn hàng và đối tác làm ăn trong nước cũng như ngòai nước. Gây được niềm tin trong đối tác là yếu tố quan trọng để doanh nghiệp mở rộng thị trường, phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt của nền kinh tế thị trường. 2.1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của công ty - Chức năng: Đất nước đang phấn đấu trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Muốn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì yếu tố cơ sở vật chất hạ tầng cho nền kinh tế là không thể thiếu. Công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng ra đời nhằm giúp cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước diễn ra nhanh hơn. Các chức năng chính của công ty là: * Xây dựng các công trình xây dựng dân dụng, công trình công nghiệp, công trình bưu chính viễn thông. * Nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình thi công xây dựng. - Nhiệm vụ: * Kinh doanh theo ngành nghề đã đăng kí kinh doanh và theo hướng kinh doanh mà doanh nghiệp lựa chọn. * Xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với khả năng của công ty. * Hoạt động kinh doanh của công ty phải đem lại lợi nhuận cao, đem lại mức sống cao cho người lao động trong công ty. * Thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh chế độ về chính sách tiền lương, thưởng, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động * Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật nhà nước, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước như đóng thuế. 2.1.1.3. Cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của các phòng ban, bộ phận trực thuộc công ty. Công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng tổ chức và quản lý các hoạt động kinh doanh theo mô hình chức năng trực tuyến. Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty bao gồm: - Giám đốc . - Phó giám đốc . - Phòng dự án. - Phòng xuất nhập khẩu. - Phòng kế toán. - Phòng hành chính nhân sự. - Phòng thiết kế. - Phòng kĩ thuật thi công. - Phòng vật tư. - Đội thi công công trường. - Đội thi công 1,2,3… Sơ đồ : Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty Gi¸m ®èc P.G§ Kinh doanh P.G§ Kü thuËt P. T­ vÊn ThiÕt kÕ P. Kü thuËt P.KÕ to¸n P.kinh doanh XNK P.HchÝnh- Nh©n sù §éi thi c«ng Phßng vËt t­ §éi thi c«ng 1 §éi thi c«ng 2 Đội thi công 3 P. Dù ¸n Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban trong doanh nghiệp. * Giám đốc( kiêm chủ tịch hội đồng quản trị) là người lãnh đạo cao nhất của công ty, trực tiếp quản lý và quyết định các vấn đề của công ty. Giám đốc ra các quyết định kinh doanh liên quan đến công ty, đồng thời chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị những vấn đề phát sinh trong quyền hạn và trách nhiệm của mình. * Phó giám đốc kinh doanh: Thay mặt giám đốc giải quyết các vấn đề của công ty khi giám đốc đi vắng, chịu trách nhiệm trước giám đốc về những nhiệm vụ được giao và ủy quyền; Phụ trách mảng đối ngoại của công ty; Nhận kế hoạch nhân sự của các phòng ban, lên kế hoạch tuyển dụng và thay mặt giám đốc ký các hợp đồng lao động, bố trí nhân sự; Quản lý tài sản và tiền lương. * Phó giám đốc kỹ thuật: Phụ trách các vấn đề về kỹ thuật. Trực tiếp chỉ đạo về mặt kỹ thuật cho phòng tư vấn thiết kế và phòng kỹ thuật. Tiến hành theo dõi, nghiệm thu và kiểm tra tiêu chuẩn kỹ thuật của nguyên vật liệu, dây chuyền công nghệ, các hạng mục công trình trước, trong và sau khi hoàn chỉnh. Chịu trách nhiệm trước giám đốc về chất lượng sản phẩm cũng như chất lượng công trình. * Phòng dự án: Tiếp khách, giao dịch đàm phán với khách hàng về giá hợp đồng, tiến độ hợp đồng. Lập hồ sơ mời thầu, hồ sơ dự thầu. Lập dự toán, tổng dự toán, thuyết minh dự toán trình cơ quan chức năng thẩm định dự án. Cập nhật thông tin về giá cả thị trường từng thời kỳ để có chiến lược trong sản xuất kinh doanh. Soạn thảo các hợp đồng kinh tế, giải quyết các thủ tục có liên quan khác. * Phòng tư vấn thiết kế: có chức năng tư vấn cho khách hàng, nhận yêu cầu của chủ đầu tư, phối hợp với phòng dự án và phòng kỹ thuật thi công lựa chọn phương án kỹ thuật thi công, lựa chọn vật tư thiết bị phù hợp với mục đích sử dụng, kinh phí của chủ đầu tư để thiết kế kỹ thuật thi công. Trên cơ sở đó viết thuyết minh kỹ thuật thi công. Bàn giao bản vẽ thiết kế đúng tiến độ * Phòng kỹ thuật: Lập phương án tổ chức thi công, phối hợp với phòng xuất nhập khẩu chuẩn bị và kiểm tra vật tư, thiết bị trước khi thi công. Tổ chức chỉ huy, giám sát, kiểm tra tiến độ, kỹ thuật thi công, được quyền đình chỉ thi công khi thấy chất lượng công trình không đảm bảo. Phòng kỹ thuật và phòng dự án phố hợp với nhau tiến hành tổ chức nghiệm thu và bàn giao với chủ đầu tư. Xây dựng nội quy và quy chế quản lý máy móc thiết bị, biện pháp an toàn lao động, môi trường và điều kiện làm việc. Lưu giữ các tài liệu kỹ thuật có liên quan, thực hiện bảo hành bảo trì công trình máy móc thiết bị khi có yêu cầu của chủ đầu tư, khách hàng. Thục hiện nghiên cứu các ứng dụng công nghệ mới nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng công trình trong quá trình thi công. * Phòng kế toán: Xây dựng các kế hoạch tài chính theo quý, năm như: doanh thu, chi phí, các loại quỹ, huy động và sử dụng vốn…..Quản lý công tác kế toán tài chính: tổ chức phân bổ kế hoạch tài chính, giám sát các khoản thu, chi, phát sinh.., tổ chức lập và phân tích các báo cáo tài chính, giao dịch với các ngân hàng, cơ quan tài chính. Cân đối các nguồn tiền mặt phục vụ cho việc thanh quyết toán tiền lương, thưởng của cán bộ công nhân viên. Tổ chức phổ biến, đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ kế toán, chế độ chính sách mới về kế toán tài chính hiện hành của nhà nước cho đơn vị. * Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu: Lập kế hoạch các loại nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, công cụ dụng cụ. Thực hiện các công việc nhập xuất hàng hóa, nguyên vật liệu phục vụ cho việc thi công công trình và phân phối cho các đại lý phân phối sản phẩm của công ty nhập khẩu. Quản lý và lưu giữ các tài liệu liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu của công ty. * Phòng hành chính nhân sự: Xây dựng mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ của các phòng ban phù hợp với thực tế của công ty. Đáp ứng nhu cầu văn phòng phẩm của các phòng ban trong công ty. Xây dựng kế hoạch và thực hiện đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng nhân sự theo yêu cầu của công việc cho các phòng ban, tổ ,đội thi công của công ty. Quản lý chế độ, chính sách đối với người lao động như: trả lương, thưởng, phạt, bảo hiểm xã hội,… * Phòng vật tư (phụ trách kho vật tư, hàng hóa, công cụ, dụng cụ): Thực chất phòng này thuộc quyền quản lý của phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Nó có nhiệm vụ cung ứng, nhập, xuất theo yêu cầu của tổ đội thi công phục vụ cho việc xây dựng công trình. * Đội thi công: Thực hiện thi công các hạng mục công trình của dự án đã trúng thầu, đồng thời nghiệm thu các khối lượng đã hoàn thành. Đội thi công 1,2,3… Trực tiếp thi công công trình dưới sự chỉ đạo, giám sát của người phụ trách công trình. 2.1.1.4 Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm vừa qua. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế nước ta có rất nhiều sự chuyển biến tốt đẹp. Năm 2006 vừa qua Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới( WTO) điều đó đồng nghĩa với việc cánh cửa thị trường xây dựng sẽ mở rộng. Sẽ có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam và như vậy thì ngành công nghiệp xây dựng Việt Nam có điều kiện để phát triển, chúng ta tranh thủ được nguồn vốn, công nghệ từ nước ngoài. Tuy nhiên thì bên cạnh mặt thuận lợi, những yếu tố khó khăn cũng không phải là không có. Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải làm việc trong một môi trường cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp Việt Nam với những khó khăn về tiền vốn, cung cách quản lý lạc hậu không thể tham gia vào các dự án quy mô lớn, họ chỉ giữ vai trò là thầu phụ. Trong bối cảnh đó thì công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng vẫn cố gắng hoàn thiện mình và ngày càng tạo được niềm tin với các đối tác bạn hàng. Có rất nhiều công trình có giá trị lớn công ty đã tham gia và hoàn thành được đánh giá cao về mặt chuyên môn. Trong những năm vừa qua quy mô của công ty không ngừng mở rộng, năm 2005 công ty chỉ có 155 lao động đến năm 2007 con số này tăng lên là 193 lao động. Nguồn vốn của công ty năm 2005 là hơn 4 tỷ thì đến năm 2007 là trên 18 tỷ Bảng 1: chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận của công ty Đơn vị tính: đồng 2005 2006 2007 Doanh thu 4.835.191.000 6.270.560.641 16.018.014.896 Lợi nhuận 70.763.826 104.653.784 201.876.342 Tốc độ phát triển liên hoàn của doanh thu (%) 239 129,7 255,4 Tốc độ phát triển định gốc của doanh thu (%) 239 309,98 610,4 Tốc độ phát triển liên hoàn của lợi nhuận (%) 228,4 147,4 192,9 Tốc độ phát triển định gốc của lợi nhuận (%) 228.4 336,6 440,6 Chỉ tiêu doanh lợi trên tổng doanh thu (%) 1,46 1,67 1,26 Nguồn : Phòng kế toán 2005 2006 2007 2005 2006 2007 Biểu đồ 1: Doanh thu Biểu đồ 2: Lợi nhuận Từ bảng số liệu trên có thể thấy được doanh thu và lợi nhuận đều tăng qua các năm. Về doanh thu: Năm 2005 doanh thu là hơn 4 tỷ, sang đến năm 2006 doanh thu tăng lên là 6 tỷ, đến năm 2007 doanh thu tăng vọt lên hơn 16 tỷ. Điều đó là do trong những năm 2005, 2006 công ty mới đi vào kinh doanh nên chưa có được niềm tin từ phía khách hàng vì thế chưa nhận được nhiều hợp đồng có giá trị lớn, sang đến năm 2007 công ty ngày càng chứng tỏ được uy tín và năng lực của mình, công ty đã tham gia vào nhiều dự án có giá trị lớn. Điều đó cho ta thấy công ty đang ngày càng phát triển và có xu hướng đi lên. Về lợi nhuận: Lợi nhuận của công ty có tăng qua các năm, năm 2005 là hơn 70 triệu đồng, năm 2006 hơn 104 triệu đồng, năm 2007 là hơn 201 triệu đồng. Tuy nhiên thì tốc độ tăng của lợi nhuận lại giảm, nguyên nhân là do công ty đã chi tiền để mua thêm máy móc thiết bị và khoản chi phí lãi vay cũng tăng. Điều đó cũng lý giải tại sao chỉ tiêu mức doanh lợi trên tổng doanh thu năm 2007 lại giảm một cách rõ rệt như vậy. Năm 2005 chỉ tiêu này là 1,46; năm 2006 là 1,67; năm 2007 giảm xuống còn 1,26. Cùng với doanh thu và lợi nhuận tăng thì chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người cũng tăng dần qua các năm. Công ty luôn hoàn thành chỉ tiêu này theo mức kế hoạch đặt ra hàng năm và tăng dần qua mỗi năm. Thu nhập bình quân đầu người tăng là yếu tố quan trọng để ổn định và nâng cao đời sống c._.ộng nguồn vốn đóng góp thêm từ các cổ đông của công ty, thực hiện được điều này chỉ thực sự dễ dàng khi công ty làm ăn có hiệu quả, có được lòng tin của chủ đầu tư. Khi nguồn vốn tự có của công ty chiếm tỉ lệ lớn, công ty sẽ chủ động hơn trong kinh doanh, không phải phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, công ty sẽ tận dụng được các cơ hội kinh doanh đến với mình. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kinh doanh: Công ty cần phải lên kế hoạch chi tiêu hợp lý, phổ biến thực hành tiết kiệm chống lãng phí tới từng cán bộ nhân viên, từng phòng ban. Cần lên kế hoạch kiểm tra sổ sách, tình hình thu chi của doanh nghiệp nhằm tránh hiện tượng thất thoát vốn mà không rõ nguyên nhân. Bên cạnh đó công ty cũng phải tìm cách giảm các chi phí đầu vào bằng cách tìm kiếm những nhà cung ứng vật tư thiết bị với giá cả hợp lý. Thực hiện tốt các biện pháp trên sẽ giúp công ty nâng cao được năng lực tài chính của mình. Từ đó công ty mới có thể thực hiện được các mục tiêu đề ra. 3.2.2 Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là tài sản lớn nhất mà công ty dựa vào đó để thực hiện các mục tiêu của mình. Chính vì thế mà để mở rộng và phát triển doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng công ty cần phải có một đội ngũ công nhân viên trình độ chuyên môn cao, dày dạn kinh nghiệm đặc biệt là đội ngũ nhân viên phụ trách việc lập hồ sơ dự thầu vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thắng thầu của công ty. Một số biện pháp áp dụng: - Công ty cần thực hiện tốt công tác kế hoạch hóa nguồn nhân lực, có kế hoạch tuyển dụng nhân viên cho từng thời kỳ. Muốn thực hiện tốt công tác này công ty cần phải tiến hành đánh giá thực trạng nguồn nhân lực của công ty dựa trên các yếu tố như cơ cấu, số lượng, trình độ, kinh nghiệm và khả năng hoàn thành nhiệm vụ của nhân viên từ đó tìm ra được điểm mạnh, điểm yếu cũng như những khó khăn và thuận lợi về nguồn nhân lực của công ty. Tiến hành dự báo nhu cầu về nguồn nhân lực mà công ty sẽ cần đến trong tương lai và dựa trên nguồn nhân lực hiện có công ty sẽ lên kế hoạch tuyển dụng. Động viên đội ngũ lao động quản trị trong công ty có trình độ đại học tiếp tục học tập nghiên cứu sâu hơn về chuyên ngành và các chuyên ngành khác phụ trợ cho công tác đấu thầu như ngoại ngữ, vi tính, luật đầu tư, luật xây dựng…Có chính sách hỗ trợ thỏa đáng để tạo điều kiện cho nhân viên đi học. Tạo điều kiện cho đội ngũ quản lý và nhân viên phòng dự án và phòng tư vấn thiết kế đi học các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ. Tiến hành tổ chức các buổi hội thảo trao đổi kinh nghiệm định kỳ cho tất cả các nhân viên trong công ty, nhằm giúp cho các nhân viên hiểu rõ hơn về công việc của nhau đặc biệt là nhân viên phòng dự án, nhân viên phòng tư vấn thiết kế kỹ thuật, nhân viên phòng kỹ thuật. Với những nhân viên mới vào công ty có thể đào tạo theo hai kiểu: * Đào tạo theo kiểu chỉ dẫn công việc: Hình thức này chủ yếu được áp dụng với các công nhân kỹ thuật, bởi đây là hình thức dạy các kỹ năng thực hiện công việc theo quá trình: từ chỉ dẫn tỉ mỉ theo từng bước, trao đổi học hỏi và làm thử cho tới khi thành thạo dưới sự hướng dẫn của người dạy. * Đào tạo theo kiểu học nghề: Phương pháp này được sử dụng đối với những lao động mới được tuyển vào Công ty còn chưa quen việc. Những lao động mới này sẽ được chỉ dạy tận tình của những người có kinh nghiệm trong hoạt động cho đến khi họ đảm bảo thực hiện tốt công việc đựoc giao. Công ty cần có chính sách lương thưởng hợp lý cho cán bộ công nhân viên có thành tích, nhằm khích lệ họ cố gắng phấn đấu. Ngoài ra công ty cũng cần phải chú tâm đến công tác chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty phải làm sao cho họ gắn bó chặt chẽ hơn với công ty, hạn chế tình trạng nhân viên bỏ công ty khi cơ cấu tổ chức đã ổn định. Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, tạo điều kiện cho nhân viên phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần tập thể. Thực hiện tốt các biện pháp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kế hoạch hóa nguồn nhân lực sẽ giúp công ty thực hiện tốt hơn công tác đấu thầu và nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh. 3.2.3 Nâng cao uy tín và phát triển thương hiệu. Uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp nói chung cũng như doanh nghiệp xây dựng nói riêng là những yếu tố vô hình, ta không thể cầm, sờ hay nhìn thấy nó và để có được nó doanh nghiệp xây dựng phải trải qua một quá trình gây dựng lâu dài. Thông qua giá cả, chất lượng sản phẩm (công trình ) và các hoạt động marketing doanh nghiệp xây dựng dần dần gây được niềm tin trong khách hàng, khách hàng thực sự tin tưởng khi tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở tạo ra sự quan tâm của khách hàng đến sản phẩm của doanh nghiệp, sự “cảm tình”, “ tin cậy”, “ hiểu biết đầy đủ” về doanh nghiệp sẽ tạo nhiều cơ hội cho việc ra quyết định có tính ưu tiên khi khách hàng mua hàng, điều này cho phép doanh nghiệp dễ bán được sản phẩm của mình hơn. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp cả trong nước và ngoài nước đều thông qua hoạt động marketing để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Bên cạnh việc gây niềm tin với khách hàng, doanh nghiệp còn có được những thông tin về giá cả thị trường của vật liệu xây dựng, thông tin về chủ đầu tư, về đối thủ cạnh tranh…Căn cứ vào những thông tin đó doanh nghiệp sẽ xây dựng được kế hoạch kinh doanh đúng đắn cho doanh nghiệp mình. Một yếu điểm hiện tại của công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng đó là chưa có phòng marketing chỉ mới có phòng kinh doanh xuất nhập khẩu vì vậy hạn chế rất nhiều cơ hội phát triển kinh doanh. Giải pháp cho công ty đó là nên hình thành một phòng marketing chuyên phụ trách mảng nghiên cứu, phát triển thị trường, mở rộng cơ hội tham gia dự thầu và trúng thầu. Nhân viên phòng marketing sẽ phụ trách các công việc đó là: Nghiên cứu thị trường đầu vào: Tìm kiếm nguồn nguyên vật liệu, máy móc thiết bị với giá cả hợp lý chất lượng tốt. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, giá cả vật liệu máy móc tăng một cách chóng mặt, doanh nghiệp nếu không nắm rõ được tình hình thị trường sẽ rất khó khăn trong việc đưa ra giá bỏ thầu hợp lý. Nghiên cứu thị trường đầu ra : Tiến hành phân tích thị trường đầu ra theo các yếu tố sản phẩm, địa lý và khách hàng với nhu cầu của họ. Mục tiêu của công tác nghiên cứu, xác định thị trường chính là việc tìm kiếm, lựa chọn thị trường trọng điểm, tìm kiếm nhóm khách hàng tiềm năng đang lên mà doanh nghiệp muốn chinh phục. Bên cạnh đó nhân viên phòng marketing cũng phải tiến hành thu thập thông tin về các dự án, gói thầu mời thầu, thông tin về chủ đầu tư với các yêu cầu của họ để từ đó công ty đánh giá xem xét có lên tham gia dự thầu hay không. Dựa trên những nguồn thông tin và sự đánh giá trên công ty sẽ vạch ra phương hướng chiến kinh doanh đúng đắn trong giai đoạn tới. Tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh : Đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thắng thầu của Công ty. Vì vậy, để có thể cạnh tranh trên thị trường công ty cần phải xác định được vị trí của mình trong ngành nơi mà Công ty có thể tối đa hoá giá trị những năng lực độc đáo so với đối thủ cạnh tranh. Trong lĩnh vực trung tâm của việc xây dựng chiến lược chính là một sự phân tích có sức thuyết phục về đối thủ cạnh tranh. Mục đích của việc phân tích đối thủ cạnh tranh là xây dựng một danh mục tổng thể về những điểm mạnh, điểm yếu, mục tiêu của đối thủ cũng như dự đoán những phản ứng có thể có với những chiến lược mà Công ty đưa ra. Từ đó Công ty sẽ đưa ra những chiến lược phù hợp để có thể chiến thắng trong cạnh tranh. Các bước tiến hành phân tích một cách đầy đủ đối thủ cạnh tranh là: - Bước 1: Cần phải xác định được đâu là đối thủ cạnh tranh của Công ty, rồi tiến hành phân loại xem đâu là đối thủ chính cần quan tâm nhất. Việc phân loại này dựa vào tỷ lệ thị phần tương đối là chính, bên cạnh đó còn xem xét đến yếu tố chất lượng, uy tín của các đối thủ. Sau đó tiến hành phân loại và sắp xếp các đối thủ. Bước 2: Tiến hành thu thập các thông tin về đối thủ cạnh tranh Các thông tin về đối thủ cạnh tranh có thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau. Việc lấy thông tin từ nguồn nào còn tuỳ thuộc vào khả năng chi phí, mối quan hệ, tính năng động của các nhân viên thu thập thông tin trong công ty. Các nguồn thông tin có thể thu thập : Các tổ chức kiểm tra chất lượng của đối thủ. Các phương tiện thông tin đại chúng. Các nhà quản lý hay các nhân viên mới rời bỏ việc của đối thủ. Các nhà cung ứng cho đối thủ cạnh tranh đã quen thuộc với Công ty. Các tài liệu của cơ quan Nhà nước, ngành. Giá cả và danh mục sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Các báo chuyên ngành. Sau khi có được nguồn thông tin thì phải tiến hành: Phân loại dữ liệu theo độ tin cậy của nguồn Tóm tắt dữ liệu Phân loại báo cáo hàng năm của đối thủ cạnh tranh Phân loại danh mục sản phẩm và tổng thị phần từng loại của đối thủ cạnh tranh ước tính đường chi phí tương đối của đối thủ cạnh tranh Bước 3: Từ các thông tin đã thu thập được, ta tiến hành phân tích đối thủ cạnh tranh theo các nội dung sau: Những mục tiêu trong tương lai mà đối thủ cạnh tranh sẽ hướng tới là gì? Những chiến lược hiện tại và trong tương lai của đối thủ cạnh tranh là gì? Điểm yếu của đối thủ cạnh tranh. Họ có thỏa mãn về vị trí của họ hiện nay không? Khả năng thay đổi chiến lược mà họ có thể thực hiện. Điều gì sẽ kích thích họ phản ứng mạnh nhất. - Bước 4: Tổng hợp các thông tin đã phân tích từ đó tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh, cách thức cạnh tranh và mục tiêu theo đuổi của đối thủ cạnh tranh Khi phân tích đối thủ cạnh tranh theo phương pháp này, Công ty phải: + Bỏ ra một khoản chi phí nhất định để thu thập thông tin về đối thủ. Thông tin càng nhiều, càng chính xác thì cho kết quả càng cao trong bước phân tích đối thủ cạnh tranh. + Có những nhân viên giỏi, các nhân viên phải năng động, sáng tạo trong hoạt động để khai thác được nhiều thông tin về đối thủ chưa được công bố. + Phải có những cán bộ có trình độ và có kinh nghiệm để có thể đưa ra được những phán đoán chính xác trong bước phân tích, tránh những thông tin sai lệch do đối thủ tung ra để đánh lừa các đối thủ cạnh tranh của họ Kết quả của phương pháp phân tích này là Công ty lại có được đầy đủ các thông tin về đối thủ cạnh tranh, biết được điểm mạnh, điểm yếu, chiến lược phát triển, mục tiêu theo đuổi, .... Từ đó giúp các nhà hoạch định của công ty lựa chọn chiến lược hành động phù hợp trên cơ sở dự đoán được những phản ứng của đối thủ trước nước cờ mà công ty đưa ra và tránh được những lĩnh vực mà đối thủ có khả năng phản ứng mạnh nhất, thậm chí liều lĩnh đồng thời tập trung vào những lợi thế nội bộ của mình. Dựa trên tất cả các nguồn thông tin trên, các phòng ban có liên quan sẽ tiến hành phân tích đánh giá thông tin và đưa ra quyết định tranh thầu hoặc không tranh thầu. Với các doanh nghiệp xây dựng để gây được lòng tin nơi khách hàng (chủ đầu tư) thì các yếu tố như chất lượng công trình, tính mỹ thuật, hiệu quả, tiến độ thi công phải đặc biệt coi trọng. Nếu doanh nghiệp thực hiện tốt được những yêu cầu trên thì uy tín thương hiệu của doanh nghiệp sẽ được chủ đầu tư đánh giá rất cao và doanh nghiệp sẽ có được nhiều ưu thế hơn khi tham gia đấu thầu. Bên cạnh những cố gắng nỗ lực trong quá trình thực hiện các công trình công ty cũng cần phải có những biện pháp khác để nâng cao uy tín và phát triển thương hiệu doanh nghiệp: Thứ nhất là : tăng cường quảng bá hình ảnh doanh nghiệp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, internet. Đặc biệt, công ty cần xây dựng một trang web tốt, mang tính chuyên nghiệp, thông tin được cập nhật thường xuyên, nội dung phong phú, dễ sử dụng. Ngoài ra có thể sử dụng các công cụ tìm kiếm trực tuyến để hướng mọi người tới trang web của mình. Hai là: Thực hiện tốt các hoạt động quan hệ công chúng (Public Relations) Có thể nói hoạt động PR có tác động tích cực trong việc quảng bá thương hiệu với các chương trình hành động được thiết kế và hoạch định tỉ mỉ, cấn thận nhằm gặt hái được sự thừa nhận của công chúng và thông tin đến họ những hoạt động và mục tiêu của doanh nghiệp. PR là một công cụ giao tiếp rất linh hoạt có thể bằng các hoạt động tài trợ, hoạt động từ thiện, quan hệ với cộng đồng, tổ chức các buổi hội thảo, tuyên truyền, họp báo…Vai trò chính của PR là giúp doanh nghiệp truyền tải các thông điệp đến khách hàng và những nhóm công chúng quan trọng của họ. Khi truyền đi các thông điệp này, PR giúp sản phẩm dễ đi vào nhận thức của khách hàng, hay cụ thể hơn là giúp khách hàng dễ dàng liên tưởng tới mỗi khi đối diện với một thương hiệu. Hơn nữa chi phí cho hoạt động PR thấp hơn các loại hình khuyến mãi khác. Khi so sánh chi phí cho chiến dịch tiếp thị trực tiếp hoặc đăng một mẫu quảng cáo với chi phí cho một thông cáo báo chí đương nhiên mẫu thông cáo báo chí sẽ có chi phí thấp hơn và có một lượng công chúng rộng rãi hơn.Một ích lợi nữa của hoạt động PR đó là nó giúp doanh nghiệp tuyển chọn được nhân tài vì thông thường người lao động thích làm việc cho những công ty nổi tiếng mà họ tin tưởng rằng nó rất vững chắc và họ có khả năng thăng tiến. Trong thực tế có thể thấy rằng hoạt động PR là giải pháp tốt nhất cho doanh nghiệp vì nó tạo ảnh hưởng tốt, hữu hình, với chi phí thấp, tạo được tiếng vang khi chuyền tải hình ảnh doanh nghiệp đến với khách hàng cũng như công chúng. 3.2.4 Hoàn thiện bộ máy tổ chức thực hiện đấu thầu. Bộ máy tổ chức thực hiện đấu thầu gồm ban lãnh đạo, đội ngũ công nhân viên phụ trách công tác tham gia đấu thầu và đội ngũ nhân viên thực hiện triển khai thi công công trình. Để quá trình từ khi bắt đầu lập hồ sơ dự thầu cho đến khi hoàn thành công trình được vận hành một cách suôn sẻ, đạt hiệu quả cao thì cần phải có sự tổ chức quản lý xây dựng, tổ chức lao động một cách chặt chẽ và khoa học. Với những công trình quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời gian thi công dài thì yêu cầu về năng lực tổ chức quản lý của nhà thầu càng cao. Giải pháp cho công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng đó là: Đội ngũ ban giám đốc cũng như toàn thể nhân viên trong công ty không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức, tìm hiểu những thành tựu khoa học công nghệ, khoa học quản lý đã được sử dụng trên thế giới rồi từ đó đem ứng dụng vào công việc của mình. Thường xuyên cập nhật thông tin về chính sách, điều luật mới được nhà nước ban hàng hoặc sửa đổi. Qua từng hạng mục công trình hoàn thành, công ty phải tiến hành tổng kết, đánh giá những mặt đạt được và mặt chưa được trong công tác tổ chức quản lý, công tác triển khai, thực hiện đấu thầu rồi đưa ra giải pháp khắc phục hiệu quả hơn đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của kỹ thuật xây dựng, của nền khoa học hiện đại. Phân công, bố trí công việc phù hợp với khả năng của từng người, tạo điều kiện cho nhân viên phát huy hết sở trường. Làm được điều này đòi hỏi nhà lãnh đạo phải có óc tổ chức, hiểu rõ nhân viên của mình. Đối với những nhân viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, công ty phải có chính sách khen thưởng khích lệ kịp thời. Với những nhân viên chưa làm tốt công việc doanh nghiệp giao cho thì lãnh đạo phải tìm hiểu nguyên nhân và giúp đỡ họ nếu họ gặp khó khăn. Sự quan tâm, động viên từ ban lãnh đạo doanh nghiệp sẽ giúp nhân viên gắn bó với doanh nghiệp hơn, họ sẽ cố gắng phấn đấu nỗ lực hết mình vì lợi ích của doanh nghiệp. Sử dụng các sơ đồ mạng để lập kế hoạch và chỉ đạo thực hiện các dự án bao gồm nhiều khâu công việc có liên quan với nhau. Theo phương pháp này, người ta thường dùng một đồ thị có hướng còn gọi là mạng để mô tả tiến trình thực hiện các công việc của dự án (x. Lí thuyết đồ thị). Một cách làm cụ thể như sau: n sự kiện của dự án được đặt tương ứng với n đỉnh của một mạng, đánh số lần lượt từ 1 đến n, ngoài ra thêm vào mạng một đỉnh 0 (ứng với sự kiện “khởi công”) và một đỉnh n + 1 (ứng với sự kiện “hoàn thành”). Sự kiện i nào (i = 1,…, n) có thể tiến hành ngay thì vẽ một cung có mũi tên đi từ đỉnh 0 đến đỉnh tương ứng. Nếu sự kiện thứ i phải hoàn thành trước sự kiện thứ j thì vẽ cung có mũi tên đi từ đỉnh i đến đỉnh j và đặt tên cung này là Cij. Nếu sự kiện i không cần hoàn thành trước bất cứ sự kiện nào khác thì vẽ cung có mũi tên từ đỉnh i tới đỉnh n + 1. Mỗi cung Cij cũng được gọi là công việc Cij. Gán cho mỗi cung một số, bằng số đơn vị thời gian cần thiết để hoàn thành công việc. Làm như vậy ta có một sơ đồ mạng của dự án. Ví dụ một mạng như hình vẽ. Dãy hữu hạn các cung nối từ đỉnh 0 tới đỉnh n + 1 mà tổng các số gán cho các cung trong dãy là lớn nhất trong các dãy hữu hạn như vậy của mạng được gọi là đường găng. Trong hình vẽ, đường găng là dãy các cung sau {C01; C13; C35; C57}. Phương pháp sơ đồ mạng Sơ đồ mạng PERT Sơ đồ mạng cho ta một bức tranh toàn cảnh về toàn bộ các công việc của dự án trong mối liên hệ hữu cơ giữa chúng với nhau. Dựa vào đó có thể tính toán một số chỉ tiêu như thời hạn hoàn thành dự án, tài chính, vật tư... giúp cho việc chỉ đạo thực hiện dự án được khoa học hơn. Chẳng hạn ở mô hình trên có thể tính được thời gian cần thiết để hoàn thành dự án, thời gian bắt đầu và kết thúc mỗi công việc của dự án, cũng như khoảng thời gian dự trữ của mỗi công việc... nhờ đó biết được những công việc nào cần tập trung chỉ đạo để khỏi ảnh hưởng đến kì hạn thực hiện của toàn bộ dự án. Trên thế giới, PPSĐM đã được vận dụng có kết quả trong nhiều lĩnh vực khác nhau của kinh tế, đời sống và quốc phòng. Ở Việt Nam, từ 1966 các ngành giao thông vận tải, kiến trúc, công nghiệp cũng đã bắt đầu áp dụng PPSĐM vào công tác của ngành, chủ yếu trong chỉ đạo thi công và đã đưa lại những kết quả tốt. 3.2.5 Tăng cường công tác quản lý chất lượng trong thi công công trình Bất kỳ một doanh nghiệp xây dựng nào muốn tồn tại, phát triển bền vững trên thị trường thì đều phải đưa công tác quản lý chất lượng lên hàng đầu. Công tác quản lý chất lượng công trình không tốt sẽ ảnh hưởng xấu tới chất lượng công trình và như vậy thì hình ảnh, uy tín của công ty sẽ bị mất đi, khả năng cạnh tranh trong đấu thầu cũng sẽ giảm sút. Công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng tiến hành quản lý chất lượng các công trình qua 3 bước. Bước 1: Quản lý chất lượng công trình trong quá trình chuẩn bị thi công. - Tiến hành khảo sát, điều tra về địa chất và khí tượng thủy văn tại nơi công trình xây dựng thi công. - Tiến hành nghiên cứu và lựa chọn nguồn cung ứng nguyên vật liệu, bán thành phẩm, máy móc thiết bị bảo đảm chất lượng. - Chuẩn bị phương án về các thiết bị thí nghiệm và kiểm tra chất lượng các yếu tố về tiêu chuẩn chất lượng. - Lựa chọn các cán bộ kỹ thuật, công nhân có đủ trình độ và kinh nghiệm để thực hiện công việc. Bước 2: Quản lý chất lượng trong quá trình thi công Trong giai đoạn này,công tác quản lý chất lượng cần chú ý đến các yếu tố sau: - Quán triệt nguyên tắc: làm đúng ngay từ đầu tới toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty. Các cán bộ kỹ thuật và chất lượng viên phải thường xuyên kiểm tra việc chấp hành quy trình kỹ thuật, phương pháp thao tác, cách pha trộn, định lượng nguyên vật liệu để xem đúng chỉ tiêu yêu cầu của thiết kế kỹ thuật hay không để từ đó có những biện pháp xử lý kịp thời với những vi phạm về chất lượng. Bước công việc trước phải đảm bảo yêu cầu chất lượng thì mới cho phép thực hiện bước công việc tiếp theo. Để đảm bảo điều này thì khâu trước phải coi trọng khâu sau là khách hàng của mình. Để kiểm tra chất lượng được tốt nhất thì căn cứ để kiểm tra là các chỉ tiêu về độ bền vững, độ an toàn. Tất cả công việc kiểm tra cần phải ghi vào sổ nhật ký công trình làm tài liệu theo dõi thường xuyên và xác nhận trách nhiệm khi có sự cố xảy ra. Trong quản lý chất lượng sản phẩm xây dựng công ty có thể sử dụng các công cụ thống kê để phân tích định tính và định lượng. Bước 3: Quản lý chất lượng đến khi nghiệm thu công trình Trước khi nghiệm thu công trình phải được kiểm tra một lần cuối cùng. Cán bộ quản lý kỹ thuật và cán bộ quản lý chất lượng phải chịu trách nhiệm trước cấp trên về chất lượng công trình mà mình nghiệm thu. Cần áp dụng chế độ 3 kiểm tra là : công nhân tự kiểm tra, cán bộ thi công kiểm tra và cán bộ quản lý chất lượng kiểm tra. Khi thấy công trình đạt yêu cầu về chất lượng thì cho nghiệm thu . 3.2.6 Tăng cường liên doanh, liên kết. Trong đấu thầu xây dựng với những gói thầu có giá trị lớn, đòi hỏi kỹ thuật cao thì chủ đầu tư thường trao công trình cho những doanh nghiệp xây dựng có uy tín, có tiềm lực mạnh trên thị trường. Bởi chỉ có những công ty có có tiềm lực mạnh mới có đủ năng lực về vốn, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, kỹ thuật thi công, nhân lực để thi công công trình. Hiện nay, quy mô của công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng vẫn còn nhỏ vì vậy công ty muốn thắng thầu ở những gói thầu có giá trị lớn thì yêu cầu bắt buộc là công ty phải mở rộng việc liên doanh liên kết với các công ty khác. Liên doanh, liên kết trong đấu thầu sẽ giúp mỗi bên sử dụng hiệu quả hơn thế mạnh của mỗi bên, khắc phục được những nhược điểm của nhau. Để tiến hành liên doanh, liên kết công ty cần phải thực hiện: Xác định rõ mục tiêu liên doanh, liên kết. Xác định rõ những cái mà công ty sẽ được và những cái công ty sẽ mất khi liên doanh, liên kết. Công ty cần lựa chọn đối tác liên doanh, liên kết phù hợp, để đảm bảo quyền lợi cho mình. Khi đã xác định liên doanh liên kết thì cần phải lên kế hoạch cụ thể về thời gian và công việc. Những hình thức liên doanh, liên kết mà công ty có thể sử dụng: * Liên kết theo chiều dọc: Theo hình thức này, công ty sẽ liên kết với những nhà cung cấp đầu vào về máy móc thiết bị, nguyên vật liệu cung ứng cho công trình. * Liên kết theo chiều ngang: Đây là hình thức công ty liên kết với doanh nghiệp xây dựng khác để thực hiện dự án lớn mà công ty không đủ khả năng thực hiện được. 3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƯỚC, BỘ XÂY DỰNG. Trải qua hơn 20 năm đổi mới, ngành xây dựng đã có những bước tiến đáng kể theo hướng hiện đại. Không chỉ trong lĩnh vực xây dựng công trình, vật liệu xây dựng, kiến trúc và quy hoạch xây dựng mà còn cả những lĩnh vực khác: phát triển đô thị và nhà ở, năng lực xây dựng công trình có nhiều tiến bộ, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu xây dựng. Điều đáng nói là nhiều công trình có quy mô lớn, đòi hỏi chất lượng cao, công nghệ hiện đại, khoa học công nghệ xây dựng tiên tiến, ngành xây dựng đã hoàn thành được, trên một số lĩnh vực đã đạt tới trình độ quốc tế và khu vực. Vì vậy, tới thời điểm này có thể nói thị trường xây dựng ở Việt Nam đã phát triển tương đối ổn định.. Có thể nói, với giá trị sản lượng của ngành xây dựng đạt mức tăng trưởng bình quân khoảng 16,5%/năm, giá trị gia tăng 10%, thị trường xây dựng đã trở thành yếu tố quan trọng góp phần vào sự nghiệp tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị của đất nước. Điểm nổi bật trong thời gian qua là sự thay đổi của các doanh nghiệp trong ngành xây dựng. Tư duy nhạy bén, chủ động, sáng tạo, tiếp cận và hoà nhập nhanh với cơ chế thị trường, chú trọng chuyển dịch cơ cấu sản phẩm, thực hiện phương châm đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ, đa phương hoá quan hệ và đa dạng hoá sở hữu trở thành những ưu điểm của ngành. Song song với những thành tựu mà ngành xây dựng đạt được thì vẫn còn rất nhiều hạn chế tồn tại mà ngành xây dựng cần có biện pháp giải quyết. Tiêu cực trong công tác đấu thầu, công tác xây dựng công trình...xảy ra tương đối phổ biến. Các doanh nghiệp xây dựng đều tìm cách lợi dụng kẽ hở của pháp luật để lách luật, kiếm lợi bất chính. Các chủ đầu tư, cùng các nhà thầu liên kết ngầm với nhau, tìm cách đấu thầu ảo các công trình do nhà nước làm chủ đầu tư với mục đích tăng giá thầu rồi chia nhau phần tăng. Để tạo cho ngành Xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh, các cơ quan quản lý Nhà nước cần quản lý chặt chẽ các hoạt động của chủ đầu tư trong tất cả các hoạt động như huy động vốn, năng lực thiết kế và tổ chức các đấu thầu…Ngoài ra, Nhà nước cần phải có trách nhiệm kết hợp với các cơ quan chức năng trong việc tuyên truyền những văn bản pháp luật, những văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành mới để các doanh nghiệp hiểu rõ và thực hiện đúng các quy định. Nhà nước cần phải cải cách các thủ tục hành chính, làm cho nó gọn nhẹ hơn, bớt cồng kềnh nhiều giai đoạn gây cản trở cho các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh. Các thủ tục cấp giấy phép kinh doanh, thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập khẩu máy móc thiết bị cần cải tổ cho nó gọn nhẹ hơn, tránh qua nhiều cơ quan chức năng, làm mất nhiều thời gian của các doanh nghiệp. Cần xây dựng định mức và đơn giá chung, thống nhất, chính xác, phù hợp với tình hình thực tế của thị trường: Thực hiện nghị định 99/2007/ NĐ- CP và thông tư 05/2007/ TT-BXD, nhiều nhà thầu đang “kêu trời” vì không biết bỏ thầu thế nào do những bất cập của NĐ 99 và TT 05. Ví dụ: chi phí huy động, di chuyển thiết bị và lực lượng lao động lại không nằm trong chi phí xây dựng công trình (phần huy động, chuẩn bị công trường), mà nằm ở “chi phí khác”, nên rất bất cập khi xác định giá cho từng công trình hay gói thầu trong dự án. Nhiều nội dung khác cũng khiến 2 văn bản mới rất khó áp dụng: Ví dụ, NĐ 99 quy định “các chi phí thẩm tra” là thuộc thành phần chi phí Tư vấn. Tuy nhiên TT 05 lại quy định: Chi phí thẩm tra tổng mức đầu tư nằm trong thành phần “chi phí khác”. NĐ 99, điều 14, khoản 2 cũng ghi rõ: “Hệ thống giá xây dựng công trình dùng để xác định chi phí xây dựng công trình trong tổng mức đầu tư và dự toán công trình”. Tiếp đó, điều 15, khoản 1, là: “đơn giá xây dựng công trình được lập trên cơ sở định mức kinh tế kĩ thuật và các yếu tố chi phí sau đây: a, Giá vật liệu xây dựng xác định trên cơ sở giá thị trường do tổ chức có chức năng cung cấp, báo giá của nhà sản xuất, thông tin giá của nhà cung cấp hoặc giá đã được áp dụng cho công trình khác có tiêu chuẩn chất lượng tương tự; b, Giá nhân công xây dựng được xác định theo mặt bằng thị trường lao động phổ biến của khu vực, tỉnh, theo từng ngành nghề sử dụng. Giá nhân công xây dựng được tính toán căn cứ theo mức tiền lương tối thiểu được Nhà nước công bố; khả năng nguồn vốn, khả năng chi trả của chủ đầu tư và các yêu cầu khác”. Như vậy, có rất nhiều căn cứ xây dựng đơn giá vật liệu và nhân công và sẽ có nhiều đơn giá rất khác nhau. Chưa kể mỗi tư vấn khi quyết định sử dụng một căn cứ nào cũng chẳng có gì để chứng minh rằng tại sao là căn cứ này, mà không phải là căn cứ kia. Giá nhân công, yêu cầu “theo mặt bằng thị trường lao động”, rồi lại căn cứ theo “khả năng nguồn vốn, khả năng chi trả của chủ đầu tư” - là rất có thể mâu thuẫn nhau trên thực tế. Để hạn chế những sai sót không đáng có cho các nhà thầu xây dựng khi tham gia đấu thầu công trình, nhà nước cần xây dựng định mức, đơn giá chung, thống nhất và phù hợp với các tiêu chuẩn kỹ thuật, phù hợp với tình hình thực tế của thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Nhà nước cũng cần có những quy định về những trường hợp, những vấn đề cần được đăng tải trên trang thông tin điện tử về đấu thầu do cơ quan quản lý nhà nước quản lý. Thông báo rộng rãi các thông tin về đấu thầu: kế hoạch đấu thầu, mời thầu đối với đấu thầu rộng rãi, thông báo mời sơ tuyển… Việc công khai các thủ tục về đấu thầu sẽ hạn chế những tiêu cực trong công tác đấu thầu. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần đăng tải những trường hợp vi phạm của tổ chức, cá nhân trên báo chí và các website đấu thầu. Với những trường hợp vi phạm luật đấu thầu, luật đầu tư… Nhà nước cũng cần có những chế tài xử phạt nghiêm khắc, nếu xử phạt không nghiêm thì những tiêu cực sẽ xảy ra ngày càng nhiều hơn. Nhà nước cần tăng cường kiểm tra giám sát, thanh tra trong các hoạt động đầu tư, xây dựng để phát hiện ngăn chặn kịp thời các trường hợp vi phạm, làm thất thoát vốn của nhà nước. KẾT LUẬN Ta có thể thấy rằng, đấu thầu là hoạt động có ý nghĩa to lớn như thế nào đối với nền kinh tế nói chung và đối với lĩnh vực xây dựng nói riêng. Trong lĩnh vực xây dựng, hoạt động đấu thầu giúp chủ đầu tư lựa chọn được nhà thầu đúng đắn, đáp ứng tốt các yêu cầu của mình và nó cũng giúp nhà thầu nhận được nhiều công trình, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận từ đó mở rộng quy mô kinh doanh. Từ sức ép của sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà thầu buộc các nhà thầu phải tập trung hết nguồn lực, cố gắng phấn đấu nỗ lực không ngừng, cập nhập thông tin liên tục, và biết nắm lấy cơ hội kinh doanh trên thị trường. Sự cạnh tranh gay gắt là đặc điểm có thể thấy rõ nhất trong đấu thầu xây dựng, tuy nhiên tại nước ta các quy định, điều luật về đấu thầu cũng chưa được chặt chẽ và rõ ràng vì thế gây khó khăn và cản trở rất nhiều cho các doanh nghiệp trong việc điều hành hoạt động kinh doanh. Sự thiếu chặt chẽ và minh bạch của luật đấu thầu đã gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong công tác đấu thầu, dẫn đến tính hiệu quả của công tác đấu thầu tại các doanh nghiệp xây dựng chưa thật sự cao. Công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng là một doanh nghiệp mới được thành lập có quy mô tương đối nhỏ so với nhu cầu của thị trường xây dựng về lĩnh vực mà công ty hoạt động. Công ty vẫn còn rất nhiều cơ hội để phát triển, mở rộng quy mô kinh doanh của mình nhưng quan trọng là công ty nắm bắt cơ hội kinh doanh như thế nào và thực hiện nó ra sao. Trong những năm vừa qua công ty đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, các công trình trúng thầu ngày càng nhiều song trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì công ty vẫn cần phải cố gắng nhiều hơn nữa để nâng cao năng lực của công ty về mọi mặt, nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty trong đấu thầu xây dựng. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bản điều lệ thành lập công ty. Báo cáo tài chính Công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng. Kết quả hoạt động đấu thầu của công ty hàng năm. Giáo trình quản trị doanh nghiệp thương mại- Chủ biên PGS.TS Hoàng Minh Đường, PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc- NXB Lao động – Xã Hội- 2006 Giáo trình Marketing thương mại- Chủ biên PGS.TS Nguyễn Xuân Quang- NXB Lao Động- Xã Hội- 2006. Tạp chí xây dựng( nhiều số). Thời báo kinh tế Việt Nam. Luận văn sinh viên khóa trước : 44- 02 TM,44-13 TM. Các văn bản pháp quy liên quan đến quản lý đầu tư và xây dựng: Nghị định 88/1999/ NĐ- CP về ban hành quy chế đấu thầu. Nghị định số 14/2001/ NĐ- CP về đấu thầu. Luật đấu thầu. Nghị định 99/2007/ NĐ- CP và thông tư 05/2007/ TT-BXD. Các trang web: Google.com.vn MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20566.doc
Tài liệu liên quan