Nâng cao khả năng huy động vốn đầu tư cho Tổng Công ty Sông Đà

LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình vận động phát triển, mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc bất kì lĩnh vực nào đều không ngừng nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất của mình. Để thực hiện mục tiêu đó đầu tư đóng vai trò quan trọng trong số những giải pháp các nhà kinh doanh lựa chọn. Khi thực hiện hoạt động đầu tư, người ta quan tâm đến lợi nhuận, đến hiệu quả đầu tư. Nhưng trên tất cả, để hoạt động đầu tư có thể được tiến hành thì một yếu tố khô

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng huy động vốn đầu tư cho Tổng Công ty Sông Đà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thể thiếu là vốn đầu tư. Trong thực tế rất nhiều dự án có tỷ lệ sinh lời cao, dự án được thẩm định là hiệu quả,nhưng doanh nghiệp không thể tiến hành đầu tư vì thiếu vốn. Vì vậy, trong môi trường cạnh tranh hiện nay, vốn là loại hàng hoá đặc biệt mà những người mua hàng (các doanh nghiệp) đều mong muốn có được để tiến hành đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của mình. Quá trình đầu tư bắt đầu từ việc xác định cơ hội đầu tư, lập dự án, thẩm định dự án rồi huy động vốn. Chính tại khâu huy động vốn này mà nảy sinh rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp không những phải chuẩn bị báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án mà còn phải thuyết trình về khả năng tài chính của doanh nghiệp, khả năng trả nợ để đảm bảo vốn vay ngân hàng. Ngoài nguồn vốn vay ngân hàng thì doanh nghiệp phải chủ động trong việc huy động vốn từ rất nhiều nguồn khác. Những nguồn này có mối liên kết với nhau, đòi hỏi những giải pháp đồng bộ không chỉ từ phía nội bộ doanh nghiệp mà còn phụ thuộc khách quan vào những yếu tố tác động bên ngoài như thị trường tài chính, cơ chế chính sách của Nhà Nước và Bộ ngành liên quan. Đáp ứng nhu cầu tăng cường hoạt động đầu tư nhằm mở rộng quy mô ngành nghề kinh doanh, tăng sản lượng và hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh với các đơn vị trong nuớc và quốc tế, tiến tới mục tiêu trở thành tập đoàn kinh tế mạnh, thì việc huy động vốn đầu tư tại Tổng công ty Sông Đà là một nhu cầu cấp thiết. Do đó, đề tài “Nâng cao khả năng huy động vốn đầu tư cho Tổng công ty Sông Đà” được chọn để nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề ra một số giải pháp đối với công tác huy động vốn dầu tư tại Tổng công ty Sông Đà. Mục đích nghiên cứu: Luận giải những vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn đầu tư của doanh nghiệp. Phân tích, đánh giá thực trạng công tác huy động vốn đầu tư của Tổng công ty Sông Đà. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn đầu tư cho Tổng công ty Sông Đà. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Nâng cao khả năng huy động vốn đầu tư cho Tổng công ty Sông Đà Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2004 đến năm 2008. Kết cấu luận văn tốt nghiệp: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục chuyên đề được kết cấu thành 3 phần: Chương 1: Lý luận chung về vốn đầu tư và các hình thức huy động vốn đầu tư trong doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng huy động vốn đầu tư tại Tổng công ty Sông Đà Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn đầu tư tại Tổng công ty Sông Đà Do những hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu, bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Chính vì vậy, em mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy để hoàn thiện đề tài hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS Nguyễn Ngọc Sơn và các cô chú, anh chị tại phòng Kế hoạch - Tổng công ty Sông Đà đã tận tình giúp đỡ hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN ĐÀU TƯ VÀ HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG DOANH NGHIỆP I. Lý luận chung về vốn đầu tư sản xuất 1. Khái niệm và đặc trưng của vốn đầu tư sản xuất 1.1.Khái niệm Vốn là tài sản tích luỹ được sử dụng vào sản xuất nhằm tạo ra lợi ích lớn hơn, nó là một trong các yếu tố của quá trình sản xuất (các yếu tố khác là đất đai, lao động,…). Vốn của doanh nghiệp (theo cách hiểu vốn tài chính) có thể coi là giá trị bằng tiền của tất cả các nguồn lực có thể chuyển thành tiền, được doanh nghiệp nắm giữ và sử dụng với mục đích thu được lợi ích lớn hơn trong tương lai, không phân biệt nguồn gốc hình thành và không phân biệt hình thái biểu hiện. Như vậy, vốn là phạm trù kinh tế rộng, song đề tài chỉ nghiên cứu vốn trong hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất và tạo ra năng lực sản xuất mới, đó là quá trình chuyển hoá vốn thành các tài sản phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh (SXKD). 1.2. Đặc điểm của vốn đầu tư sản xuất Vốn đầu tư trước hết là vốn nên cũng mang những đặc điểm của vốn: - Vốn là hàng hoá đặc biệt. Nó cũng có giá trị và giá trị sử dụng như những hàng hoá khác. Giá trị sử dụng của vốn là để sinh lời. Quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn có thể được gắn với nhau (trong trường hợp vốn chủ sở hữu) và cũng có thể tách rời nhau (trong trường hợp vốn vay). Người có vốn có thể chủ động sử dụng vốn để kinh doanh đầu tư. Tuy nhiên, nếu người chủ sở hữu thấy dùng vốn trong hoạt động kinh doanh của mình không có lợi thì có thể sẽ không đầu tư mà bán quyền sử dụng cho người khác có khả năng sử dụng vốn để sinh lời nhiều hơn. Giá bán vốn đó gọi là lãi suất. Chỉ khi nào lãi suất thoả đáng thì người sở hữu vốn mới bán quyền sử dụng vốn. Đây là nguyên tắc đầu tiên cần tính đến trong việc huy động vốn. - Đồng vốn có giá trị về mặt thời gian (Cùng một lượng tiền nhưng mua được số lượng của cải khác nhau ở các thời điểm khác nhau do ảnh hưởng của lạm phát; Cùng một lượng tiền nhưng sử dụng vào mục đích này có lợi hơn so với mục đích khác do chi phí cơ hội quyết định; Giá trị của tiền thay đổi do các yếu tố ngẫu nhiên) nên việc huy động vốn trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn khác nhau. Vốn đầu tư và vốn nói chung được phân biệt ở một số điểm sau: - Vốn đầu tư trong hoạt động đầu tư được phục vụ cho mục tiêu đầu tư phát triển. Do đó, nó mang ý nghĩa dài hạn. Còn trong hoạt động kinh tế ngắn hạn, việc bỏ vốn thường có mục đích kinh doanh thu lời trực tiếp. Sự phân biệt này mang ý nghĩa tương đối. - Vốn đầu tư được sử dụng cho các mục tiêu đã hoạch định cụ thể, nó thường được huy động theo các dự án đầu tư. Hoạt động sử dụng vốn đầu tư bắt đầu từ khi chuẩn bị dự án, triển khai và thực hiện dự án đầu tư. Kết thúc quá trình đầu tư là bắt đầu quá trình SXKD, lúc này chấm dứt việc sử dụng vốn đầu tư, mà chuyển sang sử dụng vốn SXKD. - Đối với một doanh nghiệp, vốn đầu tư là toàn bộ những giá trị bỏ ra ban đầu và giá trị đầu tư thêm để mở rộng lĩnh vực kinh doanh mới, đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ nâng cao năng lực SXKD. 2. Phân loại vốn đầu tư Vốn đầu tư được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức đáp ứng những yêu cầu quản lý và nghiên cứu khác nhau. Các tiêu thức phân loại vốn đầu tư thường được sử dụng là: 2.1. Phân loại theo nội dung của vốn Theo nội dung, vốn đầu tư bao gồm các chi phí sau đây: Chi phí xây lắp bao gồm: Chi phí phá và tháo dỡ các vật kiến trúc cũ. Chi phí san lắp mặt bằng xây dựng. Chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phụ trợ, phục vụ thi công (đường thi công, điện nước…), nhà tạm tại hiện trường để ở và điều hành thi công. Chi phí xây dựng các hạng mục công trình. Chi phí lắp đặt thiết bị. Chi phí di chuyển lớn thiết bị thi công và lực lượng xây dựng. Chi phí thiết bị bao gồm: Chi phí mua sắm thiết bị công nghệ. Chi phí vận chuyển từ cảng và nơi mua đến công trình, chi phí lưu kho, lưu bãi, lưu Container tại cảng Việt Nam (đối với các thiết bị nhập khẩu), chi phí bảo quản, bảo dưỡng tại kho bãi tại hiện trường. Thuế và chi phí bảo hiểm thiết bị công trình. Chi phí khác Do đặc điểm riêng biệt của khoản chi phí này nên nội dung của từng loại chi phí được phân chia theo các giai đoạn của quá trình đầu tư và xây dựng. Cụ thể: Chi phí khác ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư: + Chi phí lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đối với dự án, báo cáo nghiên cứu khả thi đối với dự án nói chung và các dự án chỉ thực hiện lập báo cáo đầu tư nói riêng. + Chi phí tuyên truyền, quảng cáo dự án. + Chi phí nghiên cứu khoa học, công nghệ có liên quan đến dự án. + Chi phí và lệ phí thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án đầu tư Chi phí khác ở giai đoạn thực hiện đầu tư: + Chi phí khởi công công trình. + Chi phí đền bù và tổ chức thực hiện trong quá trình đền bù đất đai, hoa màu, di chuyển dân cư và các công trình trên mặt bằng xây dựng, chi phí phục vụ cho công tác tái định cư và phục hồi. + Tiền thuê đất hoặc tiền chuyển quyền sử dụng đất. + Chi phí khảo sát lao động, thiết kế công trình, chi phí lập hồ sơ mời thầu, chi phí cho việc phân tích, đánh giá kết quả đấu thầu xây lắp, mua sắm vật tư, thiết bị, chi phí giám sát thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị, các chi phí tư vấn khác… + Chi phí ban quản lý dự án + Chi phí bảo vệ an toàn, bảo vệ môi trường trong quá trình xây dựng công trình. + Chi phí kiểm định vật liệu đưa vào công trình. + Chi phí lập, thẩm tra đơn giá dự toán, chi phí quản lý, chi phí xây dựng công trình. Chi phí khác ở giai đoạn kết thúc xây dựng, đưa công trình vào sử dụng: + Chi phí thực hiện việc quy đổi vốn, thẩm tra và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư công trình. + Chi phí tháo dỡ công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công. + Chi phí thu dọn vệ sinh công trình, tổ chức nghiệm thu, khánh thành và bàn giao công trình. + Chi phí đào tạo công nhân kỹ thuật và cán bộ quản lý sản xuất. + Chi phí thuê chuyên gia vận hành và sản xuất trong thời gian chạy thử. + Chi phí thường xuyên đối với các cơ sở hành chính sự nghiệp. + Chi phí nguyên liệu, năng lượng và nhân lực cho quá trình chạy thử không tải và có tải, cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên của các cơ sở SXKD dịch vụ. 2.2. Phân loại theo cơ cấu tái sản xuất Vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư theo chiều rộng và vốn đầu tư theo chiều sâu a. Vốn đầu tư theo chiều rộng có đặc điểm là vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tư và cần hoạt động đề thu hồi vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, rủi ro cao. Đầu tư theo chiều rộng chính là đầu tư xây dựng mới, đó là việc xây dựng đầu tư nhà cửa, cấu trúc hạ tầng. b. Đầu tư theo chiều sâu bao gồm các hình thức mở rộng, xây dựng lại và hiện đại hoá, đầu tư duy trì năng lực đã có. - Mở rộng là việc xây dựng thêm hoặc mua sắm thêm những TSCĐ mới nằm trong thành phần của TSCĐ có sẵn nhằm tăng cường khối lượng sản xuất và sự hoạt động của cơ sở. - Xây dựng lại là việc đầu tư để bố trí lại toàn bộ hoặc một bộ phận dây chuyền sản xuất cho phù hợp với điều kiện sản xuất mới. Hiện đại hoá là áp dụng kỹ thuật mới, cơ khí hoá và tự động hoá các bộ phận sản xuất đang hoạt động, thay thế những thiết bị cũ đã bị hao mòn hoặc lạc hậu bằng các thiết bị mới có năng suất và hiệu quả cao hơn. - Duy trì năng lực đã có là việc thực hiện những biện pháp nhằm bù đắp những TSCĐ đã bị loại bỏ do hao mòn toàn bộ hoặc hư hại hoàn toàn. 2.3. Phân loại theo bản chất của các đối tượng đầu tư Vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư cho các đối tượng vật chất (nhà xưởng, máy móc, thiết bị,…) và vốn đầu tư cho các đối tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực như: đào tạo, nghiên cứu khoa học, đầu tư phát triển thương hiệu,…). Trong đó, đầu tư đối tượng vật chất là điệu kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, còn đầu tư tài sản trí tuệ nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế cao. 2.4. Phân loại theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư Vốn đầu tư được phân chia thành: - Vốn đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các TSCĐ - Vốn đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho cơ sở SXKD mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có. Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Đầu tư cơ bản thuộc loại đầu tư dài hạn, đặc điểm kỹ thuật của quá trình đầu tư này là để tái sản xuất mở rộng các TSCĐ. Nó phức tạp, đòi hỏi vốn lớn và thu hồi lâu. Đầu tư vận hành chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn đầu tư, đặc điểm kỹ thuật của quá trình đầu tư không phức tạp. Đầu tư vận hành giúp các cơ sở SXKD có thể thu hồi vốn nhanh sau khi đưa các kết quả đầu tư nói chung vào hoạt động. 2.5. Phân loại theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư Vốn đầu tư có thể chia thành vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp. - Đầu tư trực tiếp: Là hình thức đầu tư trong đó: người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. - Đầu tư gián tiếp: Là hình thức đầu tư trong đó: người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. 2.6. Phân loại theo nguồn vốn Vốn đầu tư được chia thành: - Vốn huy động từ nội bộ doanh nghiệp. - Vốn huy động từ ngoài doanh nghiệp. 2.7. Phân loại theo tính chất luân chuyển vốn Vốn đầu tư được chia thành: - Vốn cố định: Đây là nguồn vốn có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài, được sử dụng để mua sắm, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Đặc điểm cơ bản của loại vốn này là có thể tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu của nó. - Vốn lưu động: Giá trị nhỏ, thời gian sử dụng thường dưới 1 năm, giá trị của nó dịch chuyển một lần vào giá thành sản phẩm. II. Các hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp 1. Các hình thức huy động vốn đầu tư của doanh nghiệp 1.1. Nguồn cung ứng từ nội bộ doanh nghiệp 1.1.1. Khấu hao tài sản cố định Tài sản cố định là những tư liệu lao động tham gia vào quá trình sản xuất. Trong quá trình sử dụng, TSCĐ bị hao mòn dần và chuyển dần giá trị của nó vào giá thành sản phẩm được gọi là khấu hao TSCĐ. Việc xác định mức khấu hao phụ thuộc vào thực tiễn sử dụng TSCĐ cũng như ý muốn chủ quan của nhà quản trị. Đối với doanh nghiệp Nhà nước quá trình xác định khấu hao chịu ảnh hưởng bởi quy định, chính sách cụ thể của Nhà nước. Trong chính sách tài chính cụ thể ở từng thời kỳ, doanh nghiệp có thể lựa chọn khấu hao và điều chỉnh khấu hao TSCĐ và coi đây như một công cụ điều chỉnh nguồn cung ứng vốn bên trong của mình. Tuy nhiên, cần chú ý rằng việc điều chỉnh khấu hao không thể tuỳ tiện mà phải dựa trên cơ sở các kế hoạch tài chính đã được xác định. Giá trị khấu hao TSCĐ được dùng cho việc tái đầu tư TSCĐ và trả nợ. Giá trị khấu hao được trích hàng năm nhưng trong thời gian doanh nghiệp chưa có nhu cầu mua mới TSCĐ thì doanh nghiệp có thể sử dụng vốn khấu hao cơ bản để làm vốn đầu tư SXKD. 1.1.2. Tích luỹ tái đầu tư Tích lũy tái đầu tư luôn được doanh nghiệp coi là nguồn cung ứng tài chính quan trọng vì nó có các ưu điểm sau: - Doanh nghiệp hoàn toàn chủ động sử dụng vốn này. - Giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng vốn. - Giúp doanh nghiệp tăng tiềm lực tài chính nhờ giảm tỉ lệ nợ/vốn Quy mô tự cung ứng vốn từ tích luỹ tái đầu tư tuỳ thuộc vào lợi nhuận thu được và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp Đối với doanh nghiệp Nhà nước lợi nhuận thu được sẽ được sử dụng vào các khoản: nộp tiền sử dụng vốn ngân sách theo quy định, lập các quỹ đặc biệt, chia lãi cho các đối tác liên doanh. Phần còn lại để lập các quỹ doanh nghiệp: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính (10%), quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm (5%), quỹ khen thưởng và phúc lợi. Như vậy, tích luỹ tái đầu tư chủ yếu được lấy từ quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính. 1.1.3. Điều chỉnh cơ cấu tài sản Điều chỉnh cơ cấu tài sản là việc kịp thời có giải pháp bán các TSCĐ dư thừa hoặc chưa sử dụng đến. Mặt khác, trên cơ sở kiểm tra thường xuyên, tính toán và xác định lại mức tài sản lưu động, ứng dụng mô hình dự trữ tối ưu, giảm lượng lưu kho tài sản lưu động không cần thiết, đảm bảo lượng lưu kho hợp lý. Phương thức này tuy không làm tăng tổng số vốn SXKD nhưng lại có tác dụng lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết. 1.2.Nguồn cung ứng từ ngoài doanh nghiệp 1.2.1. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước Đây là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Với hình thức cung ứng này, doanh nghiệp nhận được nguồn vốn xác định từ ngân sách Nhà nước cấp. Hình thức này không đòi hỏi nhiều điều kiện đôí với doanh nghiệp được cấp vốn như các hình thức huy động khác. Tuy nhiên hình thức cung ứng vốn này ngày càng bị thu hẹp cả về quy mô và phạm vi. Hiện nay, đối tượng được cung ứng phải là các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo; các dự án đầu tư ở những lĩnh vực sản xuất hàng hoá công cộng, hoạt động công ích mà tư nhân không muốn hoặc không có khả năng đầu tư; các dự án lớn có tầm quan trọng. 1.2.2. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước Mục đích của hình thức cung ứng vốn này là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Nguồn vốn này có tác dụng tích cực trong việc giảm đang kể sự bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. 1.2.3. Gọi vốn góp qua phát hành cổ phiếu Gọi vốn góp qua phát hành cổ phiếu là hình thức doanh nghiệp được cung ứng vốn trực tiếp từ thị trường chứng khoán. Khi có nhu cầu về vốn và lựa chọn hình thức này, doanh nghiệp tính toán và phát hành cổ phiếu, bán trên thị trường chứng khoán. Hình thức cung ứng vốn này có đặc trưng cơ bản là tăng vốn mà không làm tăng nợ của doanh nghiệp bởi những người sở hữu cổ phiếu trở thành cổ đông của doanh nghiệp. Vì lẽ đó nhiều người coi hình thức này là nguồn cung ứng nội bộ. Tuy nhiên, không phải mọi doanh nghiệp được phép khai thác nguồn vốn này mà chỉ những doanh nghiệp được phép phát hành cổ phiếu theo quy định của pháp luật (công ty cổ phần, doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn) và doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Hình thức huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu có ưu điểm là tập hợp được lượng vốn lớn ban đầu và dễ tăng vốn trong quá trình kinh doanh, quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn một cách tương đối nên bộ máy quản trị doanh nghiệp được toàn quyền chủ động sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này. Việc tài trợ bằng vốn cổ phần không phải trả lãi cho vốn cổ phần đã huy động được mà sẽ chia cổ tức cổ phần cho các chủ sở hữu nếu doanh nghiệp có lợi nhuận, lợi tức cổ phần chia cho các cổ đông tùy thuộc vào quyết định của Hội đồng quản trị và nó thay đổi theo mức lợi nhuận mà công ty đạt được.Doanh nghiệp không thế chấp tài sản hay nhờ bảo lãnh, bởi vốn huy động là của các chủ sở hữu. Bên cạnh đó, hình thức huy động vốn qua phát hành cổ phiếu cũng có hạn chế là doanh nghiệp phải có nghĩa vụ công khai hóa thông tin tài chính theo Luật doanh nghiệp; khi thừa vốn không hoặc chưa sử dụng đến doanh nghiệp không thể hoàn trả lại được, vì vậy khi có nhu cầu gọi vốn qua phát hành cổ phiếu đòi hỏi doanh nghiệp phải cẩn trọng tính toán, cân nhắc và doanh nghiệp có thể mất quyền kiểm soát nếu không quản lý được số lượng cổ phiếu mình phát hành. Mặt khác, hình thức huy động này cũng bị khống chế về số lượng dựa trên năng lực tài chính và kết quả kinh doanh của công ty, đồng thời do có thể làm giảm cổ tức nên doanh nghiệp phải có quy mô lớn, hứa hẹn lợi nhuận cao mới dễ bán được cổ phiếu phát hành trên thị trường. 1.2.4. Huy động vốn từ nội bộ cán bộ công nhân viên Đây là hình thức huy động vốn mới được sử dụng rông rãi trong các doanh nghiệp. Căn cứ vào nhu cầu vốn của doanh nghiệp, căn cứ vào vị trí chức vụ của cán bộ công nhân viên, doanh nghiệp đề ra chính sách huy động vốn từ cán bộ công nhân viên với mức quy định tối thiểu cho từng đối tượng. Nguồn vốn này có ưu điểm là huy động vốn nhàn rỗi trong CBCNV nên chi phí vốn thấp, thường vốn huy động theo hình thức này được trả lãi suất theo tỉ lệ lãi suất tiền gửi tiết kiệm, tránh được những thủ tục phức tạp cũng như chi phí khi huy động vốn từ các nguồn khác. Nhưng nguồn vốn này cũng luôn mang đặc điểm là khối lượng vốn huy động được hạn chế. 1.2.5. Vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn Hình thức vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng: doanh nghiệp phát hành lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường là có kỳ hạn xác định và bán cho công chúng. Khác với hình thức phát hành cổ phiếu, hình thức huy động vốn từ trái phiếu mang đặc trưng rất cơ bản là tăng vốn gắn với tăng nợ của doanh nghiệp. TPDN thường được công ty phát hành để huy động cho nguồn vốn hoạt động của công ty. Lẽ dĩ nhiên là bản thân doanh nghiệp khi muốn phát hành trái phiếu thì cần phải tính toán kỳ hạn là bao nhiêu cho phù hợp với dự án đầu tư của mình, và dòng tiền mình thu hồi về để hoàn trả lại cho trái phiếu khi đáo hạn. Đối với trường hợp các dự án có mức độ rủi ro cao thì thông thường doanh nghiệp cần có một hoặc một số tổ chức đứng ra bảo lãnh thanh toán. Một thuận lợi nữa cho các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn phát hành TPDN trong thời điểm hiện nay là khung khổ pháp lý cho việc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp đã và đang dần được hoàn thiện. Chẳng hạn như Luật doanh nghiệp quy định các doanh nghiệp được phép huy động trái phiếu cả trong nước và ngoài nước. Ngoài Luật doanh nghiệp qua các thời kỳ, Chính phủ đã có Nghị định số 120/1994/NĐ-CP và mới đây nhất là Nghị định số 52/2006/NĐ-CP được ban hành tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia thị trường trái phiếu. Theo Nghị định52: Nếu doanh nghiệp muốn phát hành TPDN là các tổ chức tín dụng thì phải thực hiện phát hành trái phiếu theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng; doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra công chúng (từ 100 nhà đầu tư trở lên) thì phát hành theo quy định của Luật Chứng khoán; Doanh nghiệp phát hành trái phiếu theo hình thức riêng lẻ thì phải phát hành theo quy định của Nghị định 52... Theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính đang tiến hành nghiên cứu xây dựng một nghị định cụ thể hóa hơn việc phát hành trái phiếu của Chính phủ và của doanh nghiệp Việt Nam ra thị trường quốc tế. Vay vốn bằng cách này có những ưu điểm chủ yếu là : có thể thu hút được một số lượng vốn lớn cần thiết, chi phí kinh doanh vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt chẽ như vay ngân hàng và doanh nghiệp có thể lựa chọn loại trái phiếu thích hợp với yêu cầu của mình. Tuy nhiên, hình thức huy động vốn từ phát hành trái phiếu cũng có những hạn chế nhất định. Hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc các kỹ thuật tài chính để tránh áp lực nợ đến hạn và vẫn có lợi nhuận, đặc biệt khi kinh tế suy thoái, làm phát cao. Chi phí kinh doanh phát hành trái phiếu khá cao vì doanh nghiệp cần có sự trợ giúp của một số ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp phải tính toán thỏa mãn điều kiện: tài sản cố định phải lớn hơn tổng số vốn và nợ dài hạn của doanh nghiệp. Mặt khác, không phải mọi doanh nghiệp mà chỉ những doanh nghiệp nào thỏa mãn các điều kiện theo luật định mới được phép phát hành trái phiếu. 1.2.6. Vay vốn từ các ngân hàng thương mại Vay vốn từ ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới các hình thức cụ thể ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ các ngân hàng thương mại. Đây là mối quan hệ tín dụng giữa một bên đi vay và một bên đi vay. Có thể nói vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có cung ứng các nguồn vốn. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Với hình thức vay vốn từ ngân hàng thương mại doanh nghiệp có thể huy động được lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các ngân hàng cùng tham gia thẩm định dự án nếu có nhu cầu vay đầu tư lớn. Nguồn vốn này còn có ưu điểm là do phần lãi vay được khấu trừ làm giảm thu nhập chịu thuế, nên doanh nghiệp được hưởng phần tiết kiệm nhờ thuế, cũng có nghĩa là chi phí sử dụng nợ thường thấp hơn chi phí vốn chủ sở hữu; hơn nữa doanh nghiệp lại không chịu nguy cơ mất quyền kiểm soát doanh nghiệp như phát hành cổ phiếu. Bên cạnh đó hình thức vay vốn từ các ngân hàng thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ tục thẩm định ngặt nghèo. Trong quá trình sử dụng vốn, doanh nghiệp phải tính toán trả nợ ngân hàng theo đúng tiến độ kế hoạch nên việc xác định và duy trì kết cấu vốn tối ưu là hết sức quan trọng. Mặt khác, khi doanh nghiệp vay vốn có thể bị ngân hàng thương mại đòi hỏi quyền kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian vay như : doanh nghiệp phải thế chấp bằng tài sản hình thành sau đầu tư, doanh nghiệp không thể đem thế chấp tài sản nếu không có sự đồng ý của ngân hàng cho vay, ngân hàng cho vay áp đặt cơ chế kiểm soát chi phối hoạt động đầu tư để phòng ngừa doanh nghiệp sử dụng vốn không đúng mục đích, ngân hàng cho vay có thể đòi hỏi doanh nghiệp thay đổi ban lãnh đạo của doanh nghiệp... Vốn vay từ ngân hàng thương mại là một nguồn vốn không thể thiếu trong các kênh huy động vốn của doanh nghiệp nhưng để đảm bảo an toàn cho các doanh nghiệp, trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp cần cân nhắc thận trọng khi quyết định vay vốn và sử dụng vốn hiệu quả sau khi huy động được. 1.2.7. Tín dụng Trong quá trình kinh doanh do đặc điểm của quá trình cung ứng hàng hóa và thanh toán không phải khi nào cũng có thể diễn ra đồng thời nên tín dụng thương mại xuất hiện và tồn tại như một tất yếu khách quan. Có các hình thức tín dụng thương mại chủ yếu sau : Doanh nghiệp mua máy móc, thiết bị theo phương thức trả chậm. - Sẽ chỉ có được hình thức tín dụng này nếu được ghi rõ trong hợp đồng mua bán về giá cả, số lần trả và số tiền trả mỗi lần, khoảng cách giữa các lần trả tiền. Như thế, doanh nghiệp có thể sử dụng máy móc, thiết bị ngay nhưng tiền lại chưa phải trả ngay, số tiền chưa phải trả là số tiền doanh nghiệp chiếm dụng của người cung ứng. - Trong môi trường hiện nay, với nhiều mặt hàng thì mua bán chưa phải trả ngay được coi là một chiến lược marketing của người bán cho nên doanh nghiệp dễ dàng tìm được nguồn vốn tín dụng loại này. Đặc biệt, khi thị trường có nhiều nhà cung ứng cạnh tranh với nhau doanh nghiệp càng có lợi thế về giá cả, kỳ hạn trả,...Khi quá trình này diễn ra một cách thường xuyên thì nguồn tín dụng này đóng vai trò như một nguồn tín dụng trung và dài hạn. Với phương thức tín dụng này doanh nghiệp có thể đầu tư chiều sâu với vốn ít mà không ảnh hưởng đến tình hình tài chính của mình. Hình thức tín dụng mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm càng có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu các điều kiện cần thiết để vay vốn từ các nguồn khác. - Bên cạnh đó, hình thức này cũng có những hạn chế nhất định như doanh nghiệp phải chịu chi phí kinh doanh sử dụng vốn khá cao. Mặt khác, sẽ chỉ mua theo phương thức trả chậm được nếu doanh nghiệp có uy tín, cũng như tình hình tài chính lành mạnh. Vốn khách hàng ứng trước. - Trong quá trình kinh doanh, khi ký hợp đồng đặt hàng khách hàng thường phải đặt cọc trước một số tiền nhất định, số tiền đặt cọc này doanh nghiệp được sử dụng mặc dù chưa sản xuất và cung ứng sản phẩm cho khách hàng. Tùy theo lượng mua hàng của khách, thông thường doanh nghiệp chiếm dụng được từ hai nguồn : + Vốn ứng trước của khách hàng lớn . + Vốn ứng trước của người tiêu dùng. - Thông thường số vốn chiếm dụng này là không lớn. Mặt khác, để sản xuất sản phẩm doanh nghiệp phải đặt hàng (nguyên vật liệu...) nên bị người cấp hàng chiếm dụng vốn của doanh nghiệp cũng theo hình thức này nên các quá trình kinh doanh diễn ra bình thường thì số dư vốn chiếm dụng hình thức này là không lớn. 1.2.8. Tín dụng thuê mua Tín dụng thuê mua là một hình thức tài trợ tín dụng thông qua các loại tài sản, máy móc thiết bị. Khi hình thức tín dụng thuê mua được sử dụng, một thỏa thuận thuê mua có thể được xác lập giữa hai hay nhiều bên liên quan đến một hay nhiều tài sản. Người cho thuê (chủ tài sản) chuyển giao tài sản cho người đi thuê ( người sử dụng tài sản). Người đi thuê được độc quyền sử dụng tài sản đó trong một thời gian nhất định, đổi lại người đi thuê phải trả một số tiền cho chủ tài sản tương ứng với quyền sử dụng mà họ phải hy sinh. Trong quá trình thuê, người cho thuê là người sở hữu tài sản, còn người đi thuê là người sử dụng tài sản đó. Kết thúc hợp đồng, người cho thuê thu hồi lại tài sản hoặc bán lại. Tín dụng thuê mua có hai phương thức cơ bản sau : - Thuê vận hành là phương thức thuê tài sản trong đó chủ tài sản bỏ tiền ra mua tài sản rồi cho người khác thuê để sử dụng với các đặc điểm sau: + Người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo trì, bảo hiểm, thuế sử dụng tài sản, ...cùng với mọi loại rủi ro và sự hao mòn giá trị của tài sản. + Người cho thuê được hưởng tiền thuê do người đi thuê trả theo thỏa thuận và mọi lợi ích gia tăng khác do bản thân của việc sở hữu tài sản đem lại. + Số tiền mà người đi thuê trả cho người cho thuê thường là rất thấp so với giá trị thật sự của tài sản đi thuê. - Thuê tài chính : Đây là phương thức tài trợ tín dụng trung và dài hạn không thể hủy ngang. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết bị mà người đi thuê cần và đã có thương lượng từ trước các điều kiện mua tài sản đó với người cần thuê. Tùy theo quy định của từng quốc gia, các giao dịch được coi là thuê tài chính khi thời hạn thuê mua chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng ( theo quy định hiện nay của Việt Nam, thời hạn đi thuê phải lớn hơn 60% thời hạn sử dụng hữu ích của tài sản mới được xem là thuê tài chính). Thường thì hợp đồng tài chính được chia làm 3 phần : + Thời hạn thuê cơ bản + Thời hạn gia hạn tùy chọn + Phần giá trị còn lại Trong suốt thời gian diễn ra hoạt động thuê tài sản, quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản thuộc về người cho thuê và quyền sử dụng tài sản thuộc về người thuê. Xét ở góc độ người thuê, hợp đồng thuê tài chính là một hình thức tài trợ tín dụng cho họ. Sự khác biệt cơ bản của thuê tài chính với một khoản nợ vay đó là người cho thuê vẫn nắm giữ quyền sở hữu tài sản nên có quyền thu hồi ngay nếu thấy có sự mất an toàn đối với tài sản của mình. Nhờ hình thức tín dụng thuê mua, doanh nghiệp có thể gia tăng năng lực sản xuất trong điều kiện hạn chế vốn đầu tư, có thể hiện đại hóa trang thiết bị theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới, rút ngắn thời gian đầu tư để đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh. Doanh nghiệp không chỉ nhận được máy móc thiết bị mà còn._. nhận được tư vấn đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cần thiết từ doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua. Doanh nghiệp sử dụng máy móc, thiết bị có thể tránh được những tổn thất do mua máy móc,thiết bị không đúng yêu cầu hoặc do mua nhầm. Mặt khác, doanh nghiệp có thể giảm được tỉ lệ nợ/vốn vì tránh phải vay ngân hàng thương mại. Hạn chế cơ bản của phương thức thuê mua đối với doanh nghiệp có cầu sử dụng máy móc, thiết bị là chi phí kinh doanh sử dụng vốn cao và hợp đồng tương đối phức tạp. Chi phí tài trợ thông qua tín dụng thuê mua thường cao hơn lãi suất cho vay của các hình thức tài trợ vốn khác trên cùng thị trường vốn; vào giai đoạn cuối của thỏa thuận thuê mua, dù đã trả hết tiền thuê, doanh nghiệp đi thuê vẫn chưa được quyền sử dụng tài sản vào mục đích khác. 2. Những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp 2.1.Những nhân tố khách quan 2.1.1. Tình hình chính trị đất nước và tăng trưởng kinh tế Tình hình chính trị của đất nước và tăng trưởng của nền kinh tế luôn có ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư cũng như khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.Nếu chính trị ổn định, nền kinh tế tăng trưởng cao và đều đặn thì Nhà nước sẽ thực hiện chính sách mở cửa, kêu gọi các nhà đầu tư tạo ra tác động tích cực, tạo ra sự hấp dẫn, yêm tâm cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, từ đó tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước thu hút vốn đầu tư, tạo được nhiều kênh huy động, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu đầu tư SXKD. Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế sẽ làm cho thu nhập quốc dân được mở rộng, lợi nhuận doanh nghiệp và thu nhập người dân tăng, tạo ra nguồn tích luỹ tiết kiệm từ các doanh nghiệp và dân cư, làm cho tổng cung về vốn để đáp ứngcho toàn nền kinh tế tăng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc huy động vốn. 2.1.2. Tỉ lệ lạm phát Tỉ lệ lạm phát ở mức vừa phải sẽ có tác động tích cực tới sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Nếu lạm phát cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ làm cho đồng tiền trong nước mất giá điều này sẽ làm mất lòng tin của các nhà đầu tư nhất là đầu tư nước ngoài. Đồng thời khi đó các doanh nghiệp không có thước đo ổn định giá giá trị đồng tiền thì các dự án đầu tư khi thực hiện sẽ không phản ánh chính xác từ đó hiệu quả kinh doanh thấp, các nguồn vốn đầu tư sẽ hạn chế nhằm ngăn ngừa rủi ro. 2.1.3. Chính sách thuế Hiện nay, Nhà nước đang thực hiện chính sách thuế với nhiều ưu đãi cho cả đầu tư trong và ngoài nước do đó thu hút được nhiều nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực mới có nhiều tiềm năng. 2.1.4. Chính sách lãi suất Lãi suất luôn là mối quan tâm của các tổ chức tín dụng cũng như của doanh nghiệp. Hiện nay Nhà nước thực hiện chính sách quản lý lãi suất gián tiếp, chỉ quy định lãi suất trần, cho các tổ chức tín dụng tự quyết định lãi suất tiết kiệm cũng như lãi suất cho vay dự trên lãi suất trần. Quy định này cho phép các tổ chức tín dụng đưa ra lãi suất hợp lý để huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội đồng thời đưa ra lãi suất cho vay phù hợp nhằm khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn. Như vậy chính sách lãi suất có ảnh hưởng tới chi phí vốn của doanh nghiệp do đó sẽ hạn chế hoặc tăng khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là Nhà nước xây dựng chính sách lãi luất trong từng giai đoạn như thế nào để tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng, thu hút được nhiều vốn nhàn rỗi trong xã hội và các doanh nghiệp có thể vay vốn với lãi suất đảm bảo hiệu quả kinh doanh, tránh tình trạng các tổ chức tín dụng thừa vốn mà các doanh nghiệp thiếu vốn để SXKD. 2.1.5. Chính sách về tỉ giá Tỷ giá thay đổi ảnh hưởng trực tiếp đến giá đồng ngoại tệ, ảnh hưởng đến vốn đầu tư nước ngoài. Nếu tỷ giá đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ cao sẽ có lợi cho nhà đầu tư nước ngoài do giá trị tỷ lệ góp vốn tăng do đó sẽ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. 2.1.6. Môi trường pháp lý Môi trường pháp lý là điều kiện hết sức cần thiết để tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, đảm bảo các điều kiện về lâu dài cho các nhà hoạt động kinh doanh. Các nhà đầu tư sẽ không thể bỏ vốn đầu tư trung và dài hạn nếu thiếu sự đảm bảo lâu dài của pháp luật. 2.2.Những nhân tố chủ quan 2.2.1. Dự án đầu tư cần huy động vốn Trước hết phải nói tới lĩnh vực đầu tư của doanh nghiệp, đó phải là lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao, có tiềm năng phát triển, có nhu cầu thị trường lớn hoặc nằm trong danh mục ưu tiên phát triển của Nhà nước…Những yếu tố này có khả năng hấp dẫn các nhà đầu tư. Tiếp đó dự án đầu tư của doanh nghiệp phải khả thi về mặt thị trường, công nghệ, hiệu quả tài chính…Đó là các dự án đầu tư có thể triển khai thực hiện và theo tính toán khi kinh doanh sẽ đem lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư. 2.2.2. Năng lực tài chính của doanh nghiệp Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Do vậy, sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp như : chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng, các cơ quan Nhà nước..., mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên mỗi góc độ khác nhau. Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu là khả năng phát triển, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp, do đó họ quan tâm trước hết tới lĩnh vực đầu tư và tài trợ. Đối với chủ ngân hàng và các chủ nợ khác, mối quan tâm chủ yếu là đánh giá khả năng thanh toán, khả năng trả nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp. Đối với các nhà đầu tư khác, họ quan tâm tới các yếu tố rủi ro, lãi suất, khả năng thanh toán... Như vậy, để có thể huy động vốn từ bất kỳ nguồn nào bên ngoài, doanh nghiệp cũng cần phải có tình hình tài chính lành mạnh, kinh doanh hiệu quả. Trước khi quyết định có tài trợ vốn cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp hay không, các nhà đầu tư, ngân hàng thương mại và các chủ nợ khác thường phân tích tình hình tài chính thông qua các chỉ tiêu và tỉ lệ tài chính chủ yếu. Dưới góc độ nhà tài trợ vốn thì đây là những chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp và cũng là căn cứ để đưa ra các quyết định tài trợ. Các chỉ tiêu và tỉ lệ tài chính chủ yếu bao gồm : - Nhóm chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán. Tình hình tài chính của doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ảnh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Nhóm chỉ tiêu này gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau : + Hệ số thanh toán ngắn hạn = TSLĐ Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán ngắn hạn là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được thanh toán bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ. Hệ số này xấp xỉ bằng một thì doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính doanh nghiệp là bình thường. Ngược lại, nếu hệ số này nhỏ hơn một thì khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp đang gặp khó khăn. + Hệ số thanh toán nhanh = Vốn bằng tiền + Các khoản phải thu Nợ ngắn hạn Hệ số này là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn, nó cho biết khả năng thanh toán nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ. Nếu hệ số này > 0.5 thì tình hình của doanh nghiệp tương đối khả quan, ngược lại doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ và do đó doanh nghiệp có thể phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không đủ phương tiện thanh toán. Tuy nhiên nếu hệ số này quá cao, vốn bằng tiền nhiều, vòng quay của vốn chậm làm giảm mạnh hiệu quả sử dụng vốn. - Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính. + Hệ số nợ tổng tài sản = S Nợ phải trả S Tài sản Chỉ tiêu này dùng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ. Về mặt lý thuyết, chỉ số này nằm trong khoảng (0 – 1) nhưng thông thường nó dao động quanh giá trị 0,5. Bởi lẽ nó tự điều chỉnh từ phía chủ nợ và doanh nghiệp vay nợ. Thông thường các chủ nợ thích tỷ số nợ vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Nếu chỉ số này càng cao, chủ nợ sẽ rất chặt chẽ khi quyết định cho vay thêm, mặt khác về doanh nghiệp vay nợ, nếu vay quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến quyền kiểm soát, đồng thời bị chia phần lợi nhuận quá nhiều cho vốn vay ( trong thời kỳ kinh doanh ) và rất dễ bị phá sản ( trong thời kỳ kinh doanh đình đốn ). + Hệ số tự tài trợ = S Vốn chủ sở hữu S Nguồn vốn Hệ số này phản ánh mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp, nó cho biết vốn chủ sở hữu chiếm tỉ trọng bao nhiêu trong tổng nguồn vốn. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ mức độ độc lập tài chính của doanh nghiệp càng cao vì hầu hết tài sản của doanh nghiệp đều được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu. Tỷ số này rất quan trọng trong phân tích tài chính khi doanh nghiệp đi vay bởi lẽ chủ nợ nhìn vào tỷ lệ vốn của chủ sở hữu để thấy mức độ tin cậy vào sự bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn thì rủi ro trong sản xuất kinh doanh chủ yếu do chủ nợ gánh chịu. + Hệ số nợ vốn chủ sở hữu = S Nợ phải trả S Vốn chủ sở hữu Hệ số này đo lường mức độ tương đối giữa các khoản nợ và vốn chủ sở hữu trong việc tài trợ cho toàn bộ tài sản có của doanh nghiệp. Hệ số này cho biết trạng thái rủi ro tương đối của doanh nghiệp, khả năng vay thêm, mức độ đảm bảo cho các chủ nợ trong trường hợp thanh lý doanh nghiệp. Hệ số nợ vốn chủ sở hữu càng cao thì áp lực trong việc doanh nghiệp phải đạt được mức thu nhập, lợi nhuận và lưu chuyển tiền mặt sao cho đáp ứng được việc trả nợ càng lớn. Trong trường hợp thanh lý hoặc giải thể doanh nghiệp các chủ nợ có thế biết được mức độ thu hồi các khoản cho vay của mình. + Hệ số khả năng thanh toán lãi vay = Lợi nhuận trước thuế + lãi vay Lãi vay Hệ số này cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm cuar doanh nghiệp như thế nào. Việc không trả được các khoản nợ này sẽ có thể thể hiện nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. Chỉ số này là kết quả chính sách mắc nợ và giá vốn trên thị trường. Một doanh nghiệp hoạt động tốt thường có chỉ số này từ 8 trở lên. + Hệ số cơ cấu tài sản = TSLĐ hoặc TSCĐ S Tài sản Hệ số này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật nói chung và máy móc thiết bị nói riêng của doanh nghiệp, cho biết tỷ trọng các loại tài sản trong doanh nghiệp. - Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động + Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Doanh thu thuần TSCĐ Hệ số này phản ánh một đồng vốn đầu tư vào TSCĐ sẽ tạo ra bao nhiêu đơn vị doanh thu cho doanh nghiệp. + Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu thuần S Tài sản Hệ số này cho biết một đơn vị tài sản sử dụng tạo ra được bao nhiêu đơn vị doanh thu cho doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu về doanh lợi. + Hệ số sinh lợi doanh thu = Lợi nhuận sau thuế Doanh thu tiêu thụ Hệ số này phản ánh một đơn vị doanh thu của doanh nghiệp đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận. Nếu doanh thu của một doanh nghiệp lớn nhưng giá vốn của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra chiếm phần lớn doanh thu thì hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là thấp, doanh nghiệp nên xem xét lại từng khâu của quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhằm làm giảm giá thành. Giá trị của chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ khả năng sinh lợi càng cao và hiệu quả kinh doanh càng lớn. Chỉ số này được đánh giá là tốt nếu nó đạt từ 5% trở lên. + Hệ số sinh lợi của vốn = Lợi nhuận sau thuế + Tiền lãi vay S Tài sản Chỉ số này còn được gọi là chỉ số sinh lợi của vốn đầu tư ROI (Return of Investment). Cũng có thể coi chỉ số này như một hệ số để đánh giá năng lực sử dụng vốn của các nhà quản trị doanh nghiệp, những nhà quản trị giỏi là những người biết cách làm cho đồng vốn trong tay mình sinh lời với một tỷ lệ thích đáng. Các nhà đầu tư sẽ an tâm nếu giao vốn vào tay những người có khả năng làm cho đồng vốn đó sinh lợi, điều đó được coi như là một sự đảm bảo an toàn của vốn đầu tư. + Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu Hệ số này phản ảnh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và hệ số này được đặc biệt quan tâm khi những nhà đầu tư cũng chính là chủ sở hữu doanh nghiệp như cổ đông, những nhà đầu tư dưới hình thức liên doanh, liên kết. Sau khi tổng hợp và phân tích các hệ thống chỉ tiêu trên, các nhà đầu tư có thể có một cái nhìn tương đối tổng quan về năng lực tài chính của doanh nghiệp và có những cơ sở nhất định để quyết định có nên cho doanh nghiệp vay vốn không. 2.2.3. Uy tín của doanh nghiệp Một yếu tố không nhỏ ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp và có thế coi như tài sản vô hình là mức độ tín nhiệm của khách hàng, nhà cung cấp, các tổ chức tín dụng đối với doanh nghiệp. Yếu tố cơ bản của tiêu chí này là mối quan hệ dài hạn với khách hàng, uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường, năng lực và trình độ quản lý, sự am hiểu trong lĩnh vực kinh doanh... Khách hàng luôn muốn giao dịch với những doanh nghiệp có uy tín, có năng lực, làm việc có nguyên tắc, có hiệu quả do đó họ sẵn sàng trả trước một tỷ lệ nhất định trên hợp đồng giao dịch như một khoản đặt cọc. Đồng thời tạo thuận lợi cho doanh nghiệp về vốn để cung cấp cho mình những sản phẩm chất lượng. Đối với nhà cung cấp, uy tín của doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp mua sắm nguyên vật liệu, cũng như máy móc thiết bị dưới hình thức trả chậm. Còn đối với các tổ chức tín dụng - nhà đầu tư vốn lớn nhất cho các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, thì uy tín của doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng nhất là khi doanh nghiệp mong muốn nhận được các khoản tín dụng dưới hình thức tín chấp hay bất kì phương thức cấp tín dụng nào. Mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp khác được đánh giá qua uy tín của doanh nghiệp trên thương trường, chất lượng quan hệ tín dụng đã có giữa doanh nghiệp và tổ chức tín dụng. Chất lượng quan hệ giữa doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng được xây dựng qua quá trình giao dịch giữa hai bên, trong đó yếu tố quan trọng nhất là mức độ thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng tín dụng về các điều kiện đảm bảo an toàn vốn vay, trả nợ đúng số lượng và thời hạn, đây là cơ sở hình thành nên một quan hệ lâu dài và mức độ sẵn lòng cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp. Như vậy, uy tín của doanh nghiệp không chỉ có tác dụng nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà còn có vai trò không nhỏ nâng cao vị thế và hình ảnh của doanh nghiệp khi doanh nghiệp quyết động huy động vốn từ các nguồn khác nhau. 2.2.4. Chiến lược phát triển của doanh nghiệp Để xác định phương hướng phát triển trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đều phải xây dựng cho mình một chiến lược phát triển với những mục tiêu cụ thể về sản xuất kinh doanh, đầu tư, mở rộng và lựa chọn thị trường, đào tạo nguồn nhân lực... với những phương hướng cơ bản để đạt được những mục tiêu đó. Việc xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp không chỉ có ý nghĩa xác định hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai mà còn có tác dụng gây dựng lòng tin cho các nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng về những mục tiêu cụ thể cũng như giải pháp để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TẠI TỔNG CÔNG TY SÔNG ĐÀ I. Giới thiệu tổng quan về Tổng công ty Sông Đà 1. Lịch sử hình thành và chức năng, nhiệm vụ của Tổng công ty 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Tổng công ty Sông Đà Tên gọi đầy đủ bằng tiếng Việt: TỔNG CÔNG TY XÂY DỰNG SÔNG ĐÀ Tên giao dịch quốc tế: SONG DA COPRATION Tên viết tắt: SÔNG ĐÀ Địa chỉ trụ sở chính: Nhà G10 - phường Thanh Xuân Nam - quận Thanh Xuân – TP.Hà Nội Điện thoại: (84 - 4) 8541164/8541160 Fax: (84 - 4) 8541161 Email: tctsd@songda.com.vn Website: http:// www.songda.com.vn Tổng công ty Sông Đà là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Xây dựng được thành lập ngày 01 tháng 6 năm 1961 với tên gọi ban đầu là Ban chỉ huy Công trường Thuỷ điện Thác Bà sau đổi thành Công ty Xây dựng Thủy điện Thác Bà bởi nhiệm vụ chính của đơn vị lúc đó là xây dựng công trình Nhà máy Thủy điện Thác Bà có công suất 110 MW; Đây là công trình thuỷ điện đầu tiên, cánh chim đầu đàn của ngành thủy điện Việt Nam. Từ năm 1979 - 1994, Tổng công ty tham gia xây dựng công trình Nhà máy Thủy điện Hoà Bình công suất 1.920 MW trên sông Đà - một công trình thế kỷ. Và cũng chính trong thời gian này, tên của dòng sông Đà đã trở thành tên gọi mới của đơn vị: Tổng công ty Xây dựng Thủy điện Sông Đà. Ngày 15 tháng 11 năm 1995, theo Quyết định số 966/BXD-TCLĐ của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Tổng công ty được thành lập lại theo mô hình Tổng công ty 90 với tên gọi là Tổng công ty Xây dựng Sông Đà. Và ngày 11 tháng 3 năm 2002, theo Quyết định số 285/QĐ-BXD của Bộ trưởng Bộ Xây dựng Tổng công ty Xây dựng Sông Đà đã được đổi tên thành Tổng công ty Sông Đà. Có thể nói, lịch sử phát triển của Tổng công ty Sông Đà luôn gắn liền với các công trình thuỷ điện, công nghiệp và giao thông trọng điểm của đất nước mà Tổng công ty đã và đang thi công. Đó là các nhà máy thuỷ điện Thác Bà (110MW), Hoà Bình (1.920MW), Trị An (400MW), Vĩnh Sơn (66MW), Sông Hinh (66MW), Yaly (720MW), Sê San 3 (273MW), Tuyên Quang (342MW), Sơn La (2.400MW)...; Đường dây 500kV Bắc - Nam; Nhà máy giấy Bãi Bằng, Nhà máy dệt Minh Phương, Nhà máy xi măng Bút Sơn; Đường cao tốc Láng - Hoà Lạc, Quốc lộ 1A, Quốc lộ 10, Quóc lộ 18, đường Hồ Chí Minh, Hầm đường bộ qua đèo Hải Vân... Trải qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, Tổng công ty Sông Đà đã trở thành một Tổng công ty xây dựng hàng đầu của Việt Nam. Từ một đơn vị nhỏ bé chuyên về xây dựng thuỷ điện, đến nay Tổng công ty Sông Đà đã phát triển với hàng chục đơn vị thành viên hoạt động trên khắp mọi miền của đất nước và trong rất nhiều lĩnh vực SXKD khác nhau: Xây dựng các công trình thủy điện, thuỷ lợi, công nghiệp, dân dụng, giao thông; Kinh doanh điện thương phẩm; Sản xuất vật liệu xây dựng; Đầu tư xây dựng các khu công nghiệp và đô thị; tư vấn xây dựng; Xuất nhập khẩu lao động và vật tư, thiết bị công nghệ cùng nhiều lĩnh vực kinh doanh khác. Ngày nay Tổng công ty có một đội ngũ hơn 40.000 cán bộ và công nhân kỹ thuật lành nghề, trong đó có hơn 6000 cán bộ kỹ thuật, quản lý có trình độ đại học và trên đại học. Cùng với việc phát triển về số lượng các đơn vị thành viên và đội ngũ CBCNV, Tổng công ty Sông Đà liên tục đầu tư nâng cao trình độ kỹ thuật, năng lực quản lý của cán bộ, kỹ sư cũng như tay nghề của công nhân và năng lực xe máy, thiết bị. Nhiều khoá đào tạo nâng cao trình độ và tay nghề đã được tổ chức cho CBCNV của Tổng công ty. Hàng chục dự án đầu tư nâng cao năng lực xe máy, thiết bị đã được thực hiện. Hiện tại, Tổng công ty Sông Đà có một dàn xe máy, thiết bị hiện đại được nhập khẩu từ các nước công nghiệp phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Thuỵ Điển, Phần Lan, Mỹ... Đặc biệt, trong lĩnh vực thi công công trình ngầm, Tổng công ty là đơn vị đầu tiên đưa vào sử dụng công nghệ và thiết bị hiện đại như máy khoan hầm và máy khoan néo anke của hãng ATLAS COPCO (Thụy điển), TAMROCK (Phần Lan), máy phun vẩy bê tông của hãng ALIVA (Thụy Sĩ), máy khoan ngược ROBBINS của hãng ATLAS COPCO (Mỹ)... Với đội ngũ CBCNV lành nghề và giầu kinh nghiệm, với năng lực xe máy, thiết bị hiện đại, tiên tiến, Tổng công ty Sông Đà luôn hoàn thành các công trình được Nhà nước giao đảm bảo đúng tiến độ, chất lượng và hiệu quả. Với phương châm "phát huy nội lực, đa dạng hoá ngành nghề, đa dạng hoá sản phẩm, tiến tới xây dựng Tổng công ty trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh", năm 2000 Tổng công ty đã nghiên cứu và triển khai đầu tư một loạt các nhà máy thuỷ điện với qui mô vừa và nhỏ, các dự án sản xuất xi măng, sắt thép, các khu đô thị và công nghiệp... Đó là các nhà máy thuỷ điện Ry Ninh 2 (8,1MW), Nà Lơi (9,3MW), Cần Đơn (80MW), Nậm Mu (15MW), Sê San 3A (100MW), Nậm Chiến (220MW), Sekaman 3 (300MW)...., Nhà máy thép Việt - ý (250.000 tấn/năm), Nhà máy xi măng Hạ Long (2,4 triệu tấn/năm), Hầm đường bộ qua đèo Ngang, Khu đô thị mới Mỹ Đình - Mễ Trì... Đến nay, một số nhà máy như thủy điện Ry Ninh 2, Nà Lơi, Nậm Mu, Cần Đơn, Nhà máy thép Việt - ý đã đi vào hoạt động góp phần tăng đáng kể tỉ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của Tổng công ty. Bằng những nỗ lực, phấn đấu không mệt mỏi, tập thể CNCNV Tổng công Sông Đà vinh dự được Đảng, Nhà nước và Chính phủ tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quí trong đó có 2 Huân chương Hồ Chí Minh, nhiều huân chương Độc lập và Huân chương Lao động các hạng. Đặc biệt, ngày 15 tháng 1 năm 2004, một vinh dự lớn lao đã đến với Tổng công ty Sông Đà: Đảng và Nhà nước đã quyết định phong tặng Danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới cho tập thể CBCNV Tổng công ty. Phát huy những thành tích đã đạt được, tập thể CBCNV Tổng công ty Sông Đà đang tiếp tục phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.2. Chức năng, nhiệm vụ a. Chức năng: Tổng công ty Sông Đá trực tiếp xây dựng các công trình dân dụng, công trình công nghệ, cơ sở hạ tầng và công trình giao thông.Ngoài ra, Tổng công ty Sông Đà còn tham gia vào một số lĩnh vực khác như: tư vấn xây dựng, xuất nhập khẩu, cơ khí, nghiên cứu, đào tạo… Tổng công ty Sông Đà tổ chức nghiên cứu nâng cao năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, còn có trường đào tạo công nhan kỹ thuật lành nghề. Tổng công ty Xây dựng Sông Đà thực hiện chính sách, chế độ quản lý và sử dụng tiền vốn, vật tư tài sản, nguồn lực, thực hiện hoạch toán kinh tế, bảo toàn và phát triển nguồn vốn thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.Quản lý toàn diện, đào tạo và phát triển đội ngũ các cán bộ công nhân viên theo pháp luật, theo chính sách của Nhà nước và sự phân cấp quản lý của toàn công ty để thực hiện sản xuất kinh doanh. b. Nhiệm vụ: Lên kế hoạch và tổ chức các hoạt động mua với sự tác động của bộ phận sản xuất phù hợp với kế hoạch tổng thể của dự án Mua vật liệu, máy móc trong nước và nước ngoài, lên kế hoạch vận chuyển tới công trường Kiểm tra và lưu kho vật liệu công trường, xây dựng phù hợp với nơi đặt hàng Tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm đối với dự án sản xuất trong quá trình đưa dự án vào vận hành. Xây dựng thuỷ điện: Việt Nam là một trong 14 nước trên thế giới giàu tiềm năng về thuỷ điện.Tổng công ty Sông Đà đã xây dựng thuỷ điện Thác Bà 108 KW, thuỷ điện Hoà Bình 1920 KW, Yaly 720 KW. Xây dựng công trình hầm và các công trình ngầm Xây lắp đường dây và trạm biến áp, dường dây cao thế và hạ thế như: trạm biến áp 500 KW (đường dây Bắc Nam), Móng Cái - Quảng Ninh 220 KW, cải tạo lưới điện. 2. Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty Cơ cấu tổ chức của Công ty Mẹ, gồm: Hội đồng quản trị: bao gồm cả Hội đồng tư vấn phát triển, Ban kiểm soát. Tổng giám đốc điều hành: Tổng giám đốc Tổng công ty và các Phó tổng giám đốc Tổng công ty. Bộ máy giúp việc: Các phòng ban chức năng Tổng công ty: PHÒNG KẾ HOẠCH Tham mưu giúp Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Tổng công ty trong các lĩnh vực: Xây dựng và quản lý công tác kế hoạch. Quản lý công tác sản xuất công nghiệp và vật tư. Thực hiện và quản lý công tác báo cáo kế hoạch và báo cáo thống kê. PH ÒNG Đ ẦU T Ư Quản lý công tác đầu tư Lập, thẩm định và trình duyệt các dự án đầu tư, các dự án lien doanh, liên kết trong và ngoài nước. PHÒNG KẾ TOÁN - TÀI CHÍNH Là phòng chức năng giúp việc cho Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị Tổng công ty trong lĩnh vực: 1. Kế toán và hoạch toán kinh doanh trong toàn Tổng công ty. 2. Giúp Tổng công ty và Hội đồng quản trị kiểm soát bằng đồng tiền các hoạt động kinh tế trong Tổng công ty theo các quy định về quản lý kinh tế của Nhà nước và Của Tổng công ty. 3. Kiểm soát hoạt động tài chính của các đơn vị trong Tổng công ty. PHÒNG QUẢN LÝ KỸ THUẬT Là phòng chức năng giúp việc cho Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Tổng công ty về các lĩnh vực: Quản lý kỹ thuật chất lượng Quản lý tiến độ thi công công trình Ứng dụng công nghệ mới, tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất Công tác bảo hộ lao động Tổ chức đấu thầu, theo dõi, giám sát tiến độ thực hiện các gói thầu PHÒNG THIẾT BỊ CÔNG NGHỆ Là phòng chức năng giúp việc cho Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Tổng công ty về các lĩnh vực: Tổ chức thực hiện công tác đấu thầu thiết bị, vật tư, phụ tùng Quản lý công tác lắp đặt thiết bị Nghiên cứu và đề xuất việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực thiết bị vào sản xuất Quản lý cơ giới Công tác cơ khí Nghiên cứu, đề xuất: Tính năng, tác dụng, khả năng sử dụng của các xe máy thiết bị mới, hiện đại để Tổng công ty xem xét quyết định đầu tư; Cải tiến biện pháp quản lý phù hợp từng thời kỳ về công tác quản lý cơ giới và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong kĩnh vực cơ khí VĂN PHÒNG TỔNG CÔNG TY Tham mưu tổng hợp: - Văn phòng Tổng công ty là cơ quan đầu mối giải quyết các công việc tham mưu giúp lãnh đạo Tổng công ty điều hành và chỉ đạo thống nhất và tập trung những công việc trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty - Văn phòng Tổng công ty đảm nhiệm vai trò là chiếc cầu nới quan trọng trong quan hệ công tác với cấp trên, cấp dưới, ngang cấp và với chính quyền, nhân dân địa phương và ngược lại 2. Quản trị hành chính: - Quản lý toàn bộ cửa và trang thiết bị của cơ quan Tổng công ty - Đảm bảo các điều kiện làm việc về cơ sở vật chất, không ngừng cải tiến và mua sắm những trang thiết bị văn phòng tiên tiến đư vào sử dụng để phục vụ cơ quan PHÒNG TỔ CHỨC ĐÀO TẠO Là phòng chức năng giúp việc cho Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Tổng công ty về các lĩnh vực: - Công tác tổ chức, công tác cán bộ - Chế độ chính sách đối với người lao động - Chế độ đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực PHÒNG KINH TẾ Là phòng chức năng tham mưu giúp Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc Tổng công ty trong các lĩnh vực: - Công tác Kinh tế - Công tác Hợp đồng kinh tế - Công tác tiếp thị, đấu thầu - Công tác hoạch toán sản xuất kinh doanh Hình 2.1: Tổ chức bộ máy quản lý và sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Sông Đà: HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ Công đoàn Đảng uỷ TỔNG GIÁM ĐỐC Các chi nhánh và ban quản lý: - Đại diện Tổng công ty tại Miền Trung - Đại diện Tổng công ty tại Sơn La - Chi nhánh Tổng công ty tại TP.Hồ Chí Minh - Ban điều hành dự án thuỷ điện Sơn La - Ban điều hành dự án thuỷ điện Bản Vẽ Các phòng ban chức năng: - Phòng kế hoạch - Phòng đầu tư - Phòng tài chính - kế toán - Phòng kiểm toán nội bộ - Phòng tổ chức đào tạo - Phòng thiết bị - Phòng quản lý kỹ thuật - Phòng quản lý cơ bản - Phòng thanh tra Các công ty Con, liên kết: - Công ty Sông Đà 1 - Công ty Sông Đà 2 - Công ty Sông Đà 3 - Công ty Sông Đà 4 - Công ty Sông Đà 5 - Công ty BOT thuỷ điện Cần Đơn - Công ty cổ phần xi măng Hạ Long … 3. Lĩnh vực hoạt động Xây dựng Xây dựng các công trình thuỷ điện, thuỷ lợi, công trình công nghiệp, dân dụng Xây dựng các công trình ngầm Xây lắp đồng bộ các hệ thống đường dây đến 500KV và trạm cao, trung, hạ thế các hệ thống điện công nghiệp và dân dụng Xây dựng công nghiệp Lắp đặt các hệ thống thiết bị công nghệ của công trình công nghiệp, thuỷ điện. Xây dựng các công trình giao thông: Cầu, đường bộ, sân bay, bến cảng... Lĩnh vực đầu tư Sản xuất công nghiệp Sản xuất kinh doanh điện thương phẩm, xi măng, sắt thép, may mặc và các săn phẩm công nghiệp, dân dụng khác Chế tạo, lắp đặt thiết bị thuỷ điện, thuỷ lợi và các kết cấu cơ khí xây dựng Vận tải đưởng thuỷ, đường bộ: Các thiết bị siêu trường, siêu trọng và các sản phẩm hàng hoá khác Tư vấn đầu tư, tư vấn xây dựng Tư vấn đầu tư các dự án Khảo sát địa hình, địa chất, thuỷ văn các dự án đầu tư Thiết kế các công trình thuỷ điện, thuỷ lợi, công nghiệp, dân dụng Thiết kế trạm biến áp và đường dây điện có cấp điện áp đến 500KV Thẩm định thiết kế kỹ thuật các công trình công nghiệp, dân dụng Lập quy hoạch dự án đầu tư xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, kỹ thuật hạ tầng đô thị Tư vấn, giám sát thi công các công trình thuỷ điện, công nghiệp, dân dụng, giao thông... Thí nghiệm chuyên ngành các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Quản lý dự án các công trình thuỷ điện, thuỷ lợi và các công trình công nghiệp dân dụng Đầu tư, kinh doanh khu đô thị, công nghiệp và cơ sở hạ tầng Xuất nhập khẩu vật tư thiết bị máy móc Sản xuất và xuất khẩu sản phẩm công nghiệp Xuất khẩu cung ứng lao động Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... Đào tạo, cung ứng nhân lực và các dịch vụ đào tạo Nghiên cứu đào tạo Các ngành nghề kinh doanh và các dịch vụ khác phù hợp với quy định của pháp luật 4. Khái quát về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh Trong những những năm vừa qua, Tổng công ty đã hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu của kế hoạch SXKD đề ra. Công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp thực hiện đứng kế hoạch đề ra. Đảm bảo đủ vốn cho SXKD và đầu tư. Bảo toàn và phát triển vốn chủ sở hữu của TCT. Duy trì sự ổn định, phát triển SXKD và đầu tư trong điều kiện có những biến động lớn của thị trường, bảo toàn và phát triển vốn. Hoàn thành mục tiêu, tiến độ, đảm bảo chất lượng xây lắp các công trình trọng điểm. (Xem bảng 2.1 ) Qua bảng số liệu cho thấy Tổng công ty vẫn giữ được sự phát triển tương đối ổn định, mọi chỉ tiêu đều có mức tăng trưởng đáng kể trong đó có ba chỉ tiêu quan trọng nhất là giá trị sản xuất kinh doanh, tổng doanh thu và lợi nhuận. Với sự nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi tập thể cán bộ công nhân viên Tổng công ty Sông Đà và sự chỉ đạo của Ban lãnh đạo với những kế hoạch mục tiêu cụ thể, trong những năm qua, tổng giá trị SXKD của Tổng công ty liên tục tăng, từ 10.500 tỷ đồng năm 2006 đến 18.510 tỷ đồng năm 2008. BẢNG 2.1: KẾT QUẢ SXKD CỦA TCT GIAI ĐOẠN 2006 – 2008 (Đơn vị tính: tỷ đồng) 2008/2007 21 % 21 % 26 % 18 % 23 % 18 % 11 % 25 % 1 % (Nguồn: Phòng kế hoạch Tổng công ty Sông Đà) Năm2008 18.510 9.262 3.507 5.740 15.000 730 830 5,2 % 15,5 % 3,34 7.517 2007/2006 46 % 39 % 34 % 68 % 50 % 46 % 66 % 26 % 67 % Năm2007 15.300 7.662 2.782 4.856 12.600 620 750 6 % 16.4 % 2,._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2617.doc
Tài liệu liên quan