Nâng cao lợi nhuận tại Công ty Điên máy -Xe đạp, xe máy

Lời nói đầu Từ khi nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đều phải chuyển mình và thay đổi hoàn toàn để thích nghi được với môi trường và không ngừng đi lên. Để đạt được điều đó, doanh nghiệp phải đáp ứng được những đòi hỏi, những yêu cầu của thị trường mà một trong những đòi bức bách đó là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải thu được lợi nhuận. Trong

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao lợi nhuận tại Công ty Điên máy -Xe đạp, xe máy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ chế thị trường, lợi nhuận đã trở thành nền tảng cho sự phát triển và tồn tại cho doanh nghiệp. Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế, là mục tiêu hàng đầu, là đích cuối cùng mà tất cả các doanh nghiệp đều vươn tới. Công ty Điện máy - xe đạp, xe máy( TODIMAX) là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Thương mại. Cũng như mọi doanh nghiệp Nhà nước khác khi chuyển mình sang nền kinh tế thị trường, công ty đã gặp phải rất nhiều khó khăn. Nhưng với sự cố gắng, quyết tâm của ban Giám đốc, cùng toàn thể cán bộ công nhân viên, công ty đã vượt qua những khó khăn, dần đi vào hoạt động ổn định, có hiệu quả, lợi nhuận hàng năm được nâng cao, đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện rõ rệt và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước. Để tiếp tục duy trì và nâng cao lợi nhuận, đòi hỏi công ty phải thiết lập kế hoạch, định hướng phát triển và đề ra các biện pháp cụ thể phù hợp với điều kiện công ty và thích ứng với thị trường. Trong thời gian thực tập tại Công ty Điên máy - xe đạp - xe máy.Với những kiến thức đã được trang bị trong nhà trường ; cùng với thực tế của Công ty và được sự chỉ bảo hướng dẫn tận tình của cô giáo Trần Thuý Sửu và các cô, chú phòng Tài chính - Kế toán, Ban Giám đốc Công ty Điện máy, xe đạp - xe máy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: "Một số biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại công ty Điên máy -xe đạp, xe máy" Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ bản chất và nguồn gốc của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, đánh giá khái quát tình hình hoạt động kinh doanh, lợi nhuận của công ty, từ đó đưa ra một số biện pháp nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đề tài được chia làm ba chương như sau: Chương I : Tổng quan về lợi nhuận doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương II : Tình hình lợi nhuận tại công ty Điện máy-xe đạp, xe máy. Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại công ty Điên máy-xe đạp, xe máy. Đây là lần đầu tiên em tiếp xúc với thực tế, do thời gian và trình độ chuyên môn còn hạn chế mặc dù đã hết sức cố gắng song bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý phê bình của thầy, cô giáo, các cô, chú trong công ty để bài viết của em hoàn thiện về lí luận và thiết thực với thực tế. Em xin chân thành cám ơn ! Chương I Tổng quan về lợi nhuận doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường I. Lợi nhuận của doanh nghiệp 1. Khái niệm, nguồn gốc lợi nhuận doanh nghiệp. Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Trong nền kinh tế thị có nhiều đối tượng quan tâm đếnkết quả kinh doanh, lợi nhuận của doanh nghiệp và cũng từ đó đã tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về lợi nhuận, xét trên các góc độ khác nhau ta có các khái niệm khác nhau về lợi nhuận như sau: Các nhà kinh tế học cổ điển trước K.Mark cho rằng:‘’Các phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phi sản xuất là lợi nhuận". Theo Adam Smíth lợi nhuận là:’’Khoản khấu trừ thứ hai" . Còn theo David Ricardo:" Lợi nhuận là phần giá trị thừa ngoài tiền công". K.Mark thì cho rằng: "giá trị thặng dư hay là lợi nhuận chính là phần dôi ra ấy của giá trị hàng hoá so với chi phí sản xuất của nó; nghĩa là phần dôi ra của tổng số lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá so với số lượng lao động được trả công chứa đựng trong hàng hoá. Các nhà kinh tế học hiện đại như : PA Samuelson và WD Nordhus lại cho rằng: "Lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra,bằng tổng số thu trừ tổng số chi". Hay nói cách khác: "Lợi nhuận là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của một doanh nghiệp và tổng chi phí". Tóm lại xét về mặt lượng, các định nghĩa đều thống nhất rằng: "Lợi nhuận là số thu dôi ra so với chi phí đã bỏ ra". Từ góc độ doanh nghiệp, có thể thấy rằng: "Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để đạt được doanh thu từ các hoạt động doanh nghiệp đưa lại. Nguồn gốc lợi nhuận cũng là một đề tài được nhiều nhà kinh tế học tranh cãi: Chủ nghĩa trọng thương cho rằng : " Lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực lưu thông, lợi nhuận thương nghiệp là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt". Chủ nghĩa trọng nông khẳng định : " Nguồn gốc sự giàu có của xã hội lại là thu nhập trong sản xuất nông nghiệp". Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh mà đại diện là Adam Smiths lại cho rằng: "Lợi nhuận trong phần lớn trường hợp chỉ là món tiền thưởng cho việc mạo hiểm và cho lao động khi đầu tư tư bản". Ông đã không thấy được sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư nên đã tuyên bố : "Lợi nhuận chỉ là những hình thái khác nhau của giá trị thặng dư". Còn D. Ricardo lại không biết đến giá trị thặng dư. Kế thừa có chọn lọc các nhân tố khoa học của kinh tế chính trị tư sản cổ điển, kết hợp với những phương pháp biện chứng duy vật, K Mark đã xây dựng thành công lý luận về hàng hoá sức lao động. Cơ sở để xây dựng học thuyết giá trị thặng dư, đi đến kết luận : "Giá trị thặng dư được quan điểm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra mang hình thái biến tướng là lợi nhuận". Kinh tế học hiện đại dựa trên các quan điểm của các trường phái và sự phân tích thực tế thì kết luận rằng nguồn gốc của lợi nhuận doanh nghiệp : " Thu nhập mặc nhiên từ các nguồn lực mà doanh nghiệp đã đầu tư cho kinh doanh; phần thưởng cho sư mạo hiểm sáng tạo đổi mới cho doanh nghiệp và thu nhập độc quyền". 2.Tỷ suất lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu tuyệt đối để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhưng không vì thế mà nó là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cùng loại hình kinh doanh, cùng qui mô, vốn, thời gian... thì việc dùng chỉ tiêu lợi nhuận để đánh giá thì kết quả phản ánh thật chính xác. Nhưng giả thiết đối với các loại doanh nghiệp cùng loại, nếu qui mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được khác nhau, ở doanh nghiệp lớn lợi nhuận thu về lớn hơn số lợi nhuận mà doanh nghiệp nhỏ đạt được. Nhưng qua đó chưa thể kết luận được doanh nghiệp lớn hoạt động có hiệu quả hơn. Như vậy để đánh giá một cách chính xác và so sánh chất lượng hoạt động của doanh gnhiệp ngoài việc sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối người ta còn sử dụng chỉ tiêu lợi tương đối đó là tỷ suất lợi nhuận . Sau đây là một số tỷ suất lợi nhuận thường gặp : 2.1 Tỷ suất lợi nhuận vốn Khái niệm : Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế với tổng nguồn vốn trong kỳ. Công thức : Tv = P/V*100 Trong đó : Tv là tỷ suất lợi nhuận vốn. P Là lợi nhuận sau thuế. V là tổng nguồn vốn trong kỳ. Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn bỏ vào đầu tư sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Nó cho phép đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp các doanh nghiệp khác nhau về qui mô sản xuất. 2.2 Tỷ suất lợi nhuận giá thành Khái niệm : Là quan hệ giữa lợi nhuận thu được so với giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ. Công thức : Tg = P/ Zt *100. Trong đó Tg : Tỷ suất lợi nhuận giá thành . P : Lợi nhuận thu được ( Lợi nhuận trước thuế hoạc sau thuế ). Zt : Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. Tỷ suất lợi nhuận giá thành phản ánh hiệu quả kinh tế theo lợi nhuận và chi phí sản xuất. Nó cho biết cứ 100 đồng chi phí bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. 2.3 Tỷ suất lợi nhuận doanh thu Khái niệm : Là quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế so với doanh thu thuần của doanh nghiệp. Công thức : Tdt = P/ T *100. Trong đó Tdt : Tỷ suất lợi nhuận doanh thu. P : Lợi nhuận sau thuế. T : Doanh thu thuần. Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng doanh thu thuần có bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Nếu tỷ suất này thấp hơn tỷ suất của toàn nghành chứng tỏ doanh nghiệp bán hàng với giá thấp hoặc giá thành của doanh nghiệp cao hơn doanh nghiệp cùng nghành. Nói chung doanh nghiệp ngoài việc phấn đấu tăng lợi nhuận còn phải phấn đấu làm tăng tỷ suất lợi nhuận. 3. ý nghĩa, vải trò của lợi nhuận. 3.1. ý nghĩa của việc nghiên cứu lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế và với nhà nước. Nó là chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh doanh cuối cùng của đơn vị. Nếu kinh doanh có lãi chứng tỏ doanh nghiệp tổ chức kinh doanh hợp lý, cải tiến kĩ thuật, chất lượng sản phẩm tốt, giảm chi phí, hạ giá thành, đầu tư đúng hướng vào thị trường mục tiêu. Điều đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp cũng cố uy tín, gọi vốn kinh doanh, vốn đầu tư phát triển sản xuất. Mặt khác, nó tạo điều kiện tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên của đơn vị, và doanh nghiệp có cơ sở để tái sản xuất mở rộng sản xuất kinh doanh góp phần tăng trưởng kinh tế quốc dân. ngược lại, nếu kinh doanh thua lỗ sẽ làm giảm thu nhập người lao động, doanh nghiệp không duy trì được sản xuất và ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế quốc dân là điều khó tránh khỏi. Nói tóm lại, lợi nhuận có tác động rất lớn đến quản lý kinh tế tài chính và chỉ đạo sản xuất của đơn vị. Nó là cơ sở để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị, là cơ sở để lập phương án phân phối lợi nhuận, đồng thời là căn cứ để phát triển sản xuất ở doanh nghiệp. Thông qua kết quả kinh doanh, nhà nước nắm được hiệu quả sản xuất kinh doanh ở đơn vị . Từ đó có chính sách kinh tế hợp lý điều chỉnh các qui chế quản lý, bổ sung các chính sách xã hội có liên quan đồng thời nhà nước cũng xem xét các nguồn thu (nộp ngân sách, tính khấu hao tài sản cố định, thu các loại thuế cho hợp lý. Đối với tổ chức kinh tế các đối tượng liên quan (như ngân hàng, chủ nợ, ngưòi cung ứng, khách hàng, cổ đông...) cũng là những đối tượng quan tâm đến lợi nhuận của doanh nghiệp bởi lẽ đó chính là cơ sở, là căn cứ để đảm bảo cho việc thanh toán công nợ và quan hệ khác trong cung cấp nguyên liệu, hợp đồng kinh tế. 3.2 Vai trò của lợi nhuận. Thông qua ý nghĩa của việc nghiên cứu lợi nhuận ở trên ta thấy lợi nhuận có vai trò quan trọng đôí với cả doanh nghiệp và xã hội. Đối với doanh nghiệp Trong cơ chế thị trường mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đều nhằm vào mục tiêu bao trùm, lâu dài đó là tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuận là mục tiêu là thước đo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng của quá trình sản xuất. Thật vậy để có được sự cung cấp hàng hoá và dịch vụ phục vụ cho nhu cầu thị trường các nhà doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản chi phí nhất định. Chi phí đó có thể là tiền thuê đất đai, thuê lao động, tiền vốn... trong quá trình kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Ngoài việc mong muốn rằng giá cả mà hàng hoá họ tiêu thụ ít nhất cũng bù đắp được chi phí đã bỏ ra mà họ còn mong muốn họ có phần "dôi ra" để mở rộng sản xuất, trả cổ tức... như vậy suy cho cùng họ muốn có lợi nhuận. Nếu không có yếu tố này họ sẽ không sẵn sàng tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy lợi nhuận là động lực thôi thúc các doanh nghiệp phát triển mở rộng sản xuất. Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát phản ánh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường. Cơ chế quản lý mới đã xoá bỏ bao cấp của nhà nước, các doanh nghiệp tự chủ về tài chính, phải chủ động tìm nguồn tài nguyên cho mọi nhu cầu sản xuất chi tiêu của đơn vị, lợi nhuận không những trở thành mục đích thiết thực mà còn là động lực trực tiếp mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu không có lợi nhuận doanh nghiệp sẽ không mở rộng được qui mô sản xuất, không có điều kiện để thay đổi công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải thiện đời sống công nhân viên ... từ đó sản phẩm bán ra không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng giá thành cao dẫn đến thất bại trong cạnh tranh về lâu dài có thể dẫn tới phá sản. Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động. Để hoạt động doanh nghiệp sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách liên tục, có hiệu quả, tăng chất lượng sản phẩm, giảm chi phí... các doanh nghiệp phải quan tâm đến người lao động thông qua chính sách tiền lương, tiền thưởng. Nguồn cơ bản để doanh nghiệp thực hiện chính sách đối với người lao động là lợi nhuận. Lợi nhuận là nguồn để trích lập các quĩ khen thưởng phúc lợi... từ đó doanh nghiệp có thể giải quyết từng bước nhu cầu vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp nhằm khuyến khích và kích thích người lao động tạo động lực cho sản xuất kinh doanh phát triển . Đối với xã hội Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ bản quyết định sự thành bại của thị trường và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp phản ánh hiệu quả sản xuất của nền kinh tế. Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do đó nó phản ánh hiệu quả sản xuất của nền kinh tế. Nền kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi về môi trường kinh doanh, tài chính, đầu tư... cho doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh có lãi và nó tác động trở lại thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Thêm vào đó lợi nhuận có mối quan hệ với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật khác như chỉ tiêu về đầu tư sản xuất chi phí, giá thành các chỉ tiêu đầu ra và chính sách quốc gia. Lợi nhuận không những có vai trò quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với toàn xã hội. Lợi nhuận của doanh nghiệp một phần sẽ được chuyển vào ngân sách nhà nước thông qua các sắc thuế. Đây là cơ sở để tiến hành tái sản xuất mở rộng, củng cố tiềm lực quốc phòng duy trì quản lý hành chính, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho nhân dân. Qua việc nghiên cứu trên ta thấy lợi nhuận có vai trò quan trọng tới sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp và toàn bộ xã hội, doanh nghiệp muốn tăng trưởng, mở rộng sản xuất phải có tích luỹ, tức là phải có nhiều lợi nhuận, nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi sẽ đưa nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển. Trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay để thích nghi với giai đoạn mới của nền kinh tế, nhà nước đã ban hành chính sách tài chính mới nhằm từng bước cải thiện môi trường kinh doanh buộc các doanh nghiệp thực hiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường lấy thu bù chi và có lãi. Qua thực tiễn cho thấy đã có nhiều doanh nghiệp nhà nước rất năng động linh hoạt thích nghi với môi trường kinh doanh mới các doanh nghiệp luôn quan tâm đến việc tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch lấy lợi nhuận làm mục tiêu phấn đấu. Kết quả là các doanh nghiệp này đã phát triển mạnh, đứng vững trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Tuy nhiên cũng không ít doanh nghiệp nhà nước còn rất lúng túng chậm thích nghi với cơ chế thị trường, vẫn còn mang phong cách kinh doanh cũ, tâm lý ỷ lại trông chờ nhà nước dẫn tới kết quả làm ăn kém hiệu quả lợi nhuận thu được thấp, thậm chí thua lỗ kéo dài dẫn tới phải ngừng sản xuất kinh doanh, giải thể doanh nghiệp gây tác động tiêu cực cho xã hội. Thất nghiệp, đời sống khó khăn, tệ nạn xã hội ... Do vậy trong điều kiện hiện nay, nâng cao lợi nhuận không chỉ là mục tiêu hàng đầu mà còn là điều kiện quyết định sự tồn tại phát triển của các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. ii. phương pháp xác định lợi nhuận và các chỉ tiêu tài chính đánh giá tình hình thực hiện lợi nhuận ở doanh nghiệp 1. Phương pháp xác định. 1.1 Các bộ phận cấu thành lợi nhuận doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường bao gồm : Ba hoạt động chính như sau: - Hoạt động sản xuất kinh doanh : Là hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ của các nghành sản xuất kinh doanh chính và sản xuất kinh doanh phụ. - Hoạt động tài chính: Là hoạt động đầu tư về vốn và đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn với mục đích kiếm lời như đầu tư chứng khoán cho thuê tài sản kinh doanh bất động sản mua bán ngọai tệ... - Hoạt động bất thường: Là hoạt động diễn ra không thường xuyên, không dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít khả năng thực hiện như giải quyết các vấn đề xử lý tài sản thừa, thiếu chưa rõ nguyên nhân... Cũng từ hoạt động chính, lợi nhuận của doanh nghiệp thường được cấu thành từ ba bộ phận sau: + Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. + Lợi nhuận từ hoạt động tài chính. + Lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận có sự khác nhau giữa các doanh nghiệp do các lĩnh vực kinh doanh khác nhau cũng như môi trường kinh tế khác nhau. Điều này được thể hiện như sau: Thứ nhất: Có sự khác nhau giữa cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường với doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tài chính, tín dụng ... Với doanh nghiệp thông thường hoạt động sản xuất kinh doanh tách biệt với hoạt động tài chính. Do đó cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp thông thường gồm ba bộ phận: Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, và hoạt động bất thường. Trong ba bộ phận trên lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất. Trong khi đó khác với nhóm doanh nghiệp thường, cơ cấu lợi nhuận của các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính, tín dụng ngân hàng chỉ gồm hai bộ phận là lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. ở các doanh nghiệp này lợi nhuận từ hoạt động tài chính chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng lợi nhuận do họ thực hiện chức năng kinh doanh hàng hoá đặc biệt - kinh doanh tiền tệ nên hoạt động tài chính cũng là hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ hai: Trong các môi trường kinh tế khác nhau các doanh nghiệp cùng loại có sự khác biệt về tỷ trọng các bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận của mình. Chẳng hạn doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường cơ cấu gồm ba bộ phận. Khi nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ cao, hoạt động tài chính, hoạt động thị trường chứng khoán diễn ra sôi nổi, hiệu quả thì tất hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng được phát triển. Lúc này lợi nhuận từ hoạt động tài chính cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể không kém gì lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại khi nền kinh tế thị trường ở trình độ thấp, hoạt động tài chính, thị trường chứng khoán chưa phát triển, hoạt động tài chính của doanh nghiệp sẽ rất hạn chế. Vì vậy lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ luôn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng lợi nhuận doanh nghiệp, đóng vai trò quyết định đến mọi hoạt động doanh nghiệp. Tóm lại: Cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp thông thường gồm ba bộ phận: Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. 1.2 Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp Lợi nhuận doanh nghiệp = lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh + lợi nhuận hoạt động tài chính + lợi nhuận hoạt động bất thường. a.Xác định lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh Khái niệm: là lợi nhuận thu được do tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ của các nghành sản xuất kinh doanh chính và sản xuất kinh doanh phụ trong doanh nghiệp. Cách xác định: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh = doanh thu thuần - giá thành toàn bộ. Trong đó: - Doanh thu thuần là số chênh lệnh giữa tổng doanh thu với các khoản giảm giá, chiết khấu bán hàng, doanh thu của số hàng hoá bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu. Doanh thu thuần = Tổng doanh thu - Các khoản giảm trừ + Tổng doanh thu có ý nghĩa với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, nó đảm bảo trang trải các khoản chi phí, thực hiện tái sản xuất và các nghĩa vụ đối với nhà nước. + Doanh thu bán hàng là nguồn thu chủ yếu trong tổng nguồn thu từ hoạt động kinh doanh. Đó là toàn bộ tiền thu về tiêu thụ sản phẩm và cung ứng dịch vụ cho khách hàng sản phẩm được xác định là tiêu thụ khi được đơn vị mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền. + Các khoản giảm trừ bao gồm: * Chiết khấu bán hàng: Là số tiền thưởng tính trên tổng doanh thu trả cho khách hàng do đã thanh toán tiền hàng trước thời hạn qui định. * Giảm giá hàng bán: Là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không đúng qui cách giao hàng không đúng thời hạn... ( do chủ quan của doanh nghiệp). Ngoài ra tính vào các khoản giảm giá bao gồm khoản thưởng cho khách hàng do trong một khoảng thời gian nhất định đã tiến hành mua một khối lượng lớn hàng hoá . * Hàng bán bị trả lại: Là số hàng đã được coi là tiêu thụ nhưng bị người mua từ chối trả lại do người bán không thực hiện đúng hợp đồng đã kí kết. * Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu: Là các loại thuế theo luật định, áp dụng cho các loậi hàng thuộc phạm chịu thuế tiêu đăc biệt và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá. - Giá thành toàn bộ sản phẩm bao gồm, giá thành sản phẩm và các khoản chi phí gián tiếp như chi bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. + Giá thành sản phẩm: Là biểu hiện bằng toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ta thấy giá thành sản phẩm được phân ra thành hai bộ phận giá thành sản xuất sản phẩm và giá thành tiêu thụ sản phẩm đó. Trong đó: * Giá thành tiêu thụ sản phẩm: bao gồm chi phí trực tiếp (đóng gói bao bì, vận chuyển, bảo quản...) và chi phí Marketing (điều tra nghiên cứu thị trường, quảng cáo, chi phí bảo hành...). * Giá thành sản xuất sản phẩm: bao gồm toàn bộ chi phí bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm: Giá thành hàng bán = Giá thành sản xuất + Chênh lệch thành phẩm tồn kho. Giá thành sản xuất = Chi phí sản xuất + Chênh lệch giá trị sản phẩm dở dang. Chênh lệch giá trị SPDD = SPDD đầu kỳ - SPDD cuối kỳ Chi phí sản xuất sản phẩm bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung và chi phí khấu hao tài sản cố định. Riêng đối với cơ sở doanh nghiệp giá vốn hàng bán được xác định như sau : Giá vốn hàng bán = Giá vốn hàng mua + Chênh lệch hàng hoá tồn kho. Giá vốn hàng mua = Giá mua + Chi phí thu mua Chênh lệch hàng hoá tồn kho là khoản chênh lệch giữa hàng hoá tồn kho đầu và cuối kỳ Chênh lệch hàng hoá tồn kho = Hàng hoá tồn kho đầu kỳ - Hàng hoá tồn kho cuối kỳ Sau khi xác định được chỉ tiêu doanh thu thuần và giá vốn hàng bán ta có chỉ tiêu tài chính trung gian là "Lãi gộp". Lãi gộp = Doanh thu thuần - Giá vốn hàng bán + Chi phí bán hàng:bao gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ như: Tiền lương, các khoản phụ cấp trả cho nhân viên bán hàng, tiếp thị đóng gói, bảo quản... Khấu hao tài sản cố định, chi phí vật liệu bao bì, dụng cụ, chi phí bảo hành quảng cáo... + Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm các chi phí quản lí kinh doanh, quản lí hành chính, và các chi phí chung khác có liên quan đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như tiền lương, các khoản phụ cấp trả cho ban Giám đốc và nhân viên quẩn lí ở các phòng ban, chi phí vật liệu để dùng cho văn phòng, KHTSCĐ dùng chung cho doanh nghiệp, các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp và các khác chung cho toàn doanh nghiệp như lãi vay, dự phòng, phí kiểm toán, tiếp tân, tiếp khách, công tác phí. Như vậy lợi nhuận của doanh nghiệp từ hoạt động kinh doanh được xác định bằng công thức: LNKD = Doanh thu thuần - Giá vốn hàng bán - Chi phí bán hàng và QLDN Hay: Lợi nhuận từ kinh doanh = Lãi gộp - Chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp. b) Xác định lợi nhuận hoạt động tài chính: Khái niệm: Là số chênh lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính. Lợi nhuận hoạt động tài chính = Thu nhập hoạt động tài chính - Chi phí hoạt động tài chính Trong đó: Thu nhập hoạt động tài chính: Là khoản thu do hoạt động đầu tư tài chính hoặc kinh doanh về vốn đưa lại gồm: Thu về hoạt động góp vốn tham gia liên doanh, thu nhập hoạt động đầu tư mua bán chứng khoán dài hạn và ngắn hạn, thu nhập về cho thuê tài sản, thu nhập về các hoạt động kinh doanh khác như bất động sản, thu lãi tiền gửi, thu lãi cho vay vốn, hoàn nhập dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn và ngắn hạn.. Chi phí hoạt động tài chính: Là các khoản chi phí cho các hoạt động đầu tư tài chính và các chi phí liên quan hoạt động về vốn gồm: Chi phí về liên doanh không tính vào giá trị vốn góp, lỗ liên doanh,lỗ do bán chứng khoán, chi phí đầu tư tài chính, chi phí liên quan đến vay vốn, chi phí liên quan đến mua bán ngoại tệ, lỗ do bán ngoại tệ, chi phí khấu hao TSCĐ thuê tài chính, giá trị gốc của bất động sản, dự phòng giảm giá đầu tư... c. Xác định lợi nhuận bất thường: Khái niệm: Là số chênh lệch giữa thu nhập bất thường và chi phí hoạt động bất thường. Lợi nhuận hoạt động bất thường = Thu nhập hoạt động bất thường - Chi phí hoạt động bất thường Trong đó: Thu nhập hoạt động bất thường: còn gọi là thu nhập đặc biệt là những khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính trước hoặc những khoản thu bất thường không xảy ra môt cách đều đặn và thường xuyên. Những khoản thu nhập có thể do chủ quản của doanh nghiệp hay khách hàng đưa đến gồm: thu về nhượng bán, thanh lý TSCĐ, thu tiền phạt do vi phạm hợp đồng, thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý xoá sổ, thu các khoản nợ không xác định được chủ, các khoản thu nhập kinh doanh của năm trước bị bỏ sót hay lãng quên chưa ghi sổ kế toán năm nay, mới phát hiện ra, hoàn nhạp dự phòng giảm giá hàng tồn kho và các khoản thu khó đòi, giá trị hàng bán bị trả lại của năm trước quá lớn không thể trừ vào doanh thu của năm sau. Chi phí bất thường: là những khoản lỗ do các nghiệp vụ riêng biệt với những hoạt động thông thường của doanh nghiệp. Những khoản chi phí bất thường có thể do nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan đưa tới gồm: giá trị còn lại của TSCĐ khi thanh lý nhượng bán, tiền phạt do vi phạm hợp đồng, bị phạt thuế, truy nộp thuế., các khoản chi phí kế toán ghi nhầm hay sai sót khi vào sổ chênh lệch phải thu khó đòi hoặc dự phòng phải thu khó đòi (không đủ) hoặc khoản thu khó đòi mất chắc chắn mà chưa lập dự phòng, số tiền trả lại khách hàng do số hàng bán bị trả lại của năm trước quá lớn không thể trừ vào doanh thu của năm sau. Đối với những doanh nghiệp thuộc những ngành nghề khác nhau thì tỷ trọng mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng số lợi nhuận doanh nghiệp có sự khác nhau. Thông thường các doanh nghiệp (khác với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ) hoạt động sản xuất kinh doanh tách rời với hoạt động tài chính do đó cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm cả ba bộ phận trên. Trong đó tỷ trọng lợi nhuận hoạt động kinh doanh chiếm tỷ lệ chủ yếu. Phân tích cơ cấu lợi nhuận giúp doanh nghiệp xác định được phần lợi nhuận nào chiêm tỷ trọng chủ yếu trong tổng lợi nhuận doanh nghiệp từ đó tập trung tìm nguyên nhân và xây dựng cac biện pháp nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong điều kiện các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, hoạt động tài chính còn hạn chế, hoạt động bất thường xảy ra không thường xuyên và cũng không quan trọng như bản chất của nó; hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động chính tạo ra hầu hết lợi nhuận cho doanh nghiệp. Chính vì vậy mục đích của đề tài này là tập trung nghiên cứu và tìm giải pháp nâng cao lợi nhuận hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 2. Các chỉ tiêu tài chính đánh giá tình hình lợi nhuận doanh nghiệp. Lợi nhuận được xác định ở trên cho chúng ta biết tổng quát về kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp từ các hoạt động. Tuy nhiên, nó có hạn chế là chỉ phản ánh qui mô lợi nhuận, điều đó có thể dẫn tới những sai lầm khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh trong kỳ. Vì vậy, để đánh giá chính xác kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, các nhà kinh tế thường sử dụng các chỉ số doanh lợi đặc biệt, đối với các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp khi đầu tư vốn vào kinh doanh hoặc lựa chọn dự án đầu tư có hiệu quả, họ thường quan tâm các chỉ số doanh lợi và những biến động của nó trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Có ba chỉ tiêu cơ bản để đánh giá tỉ lệ doanh lợi của doanh nghiệp như sau: 2.1. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = lợi nhuận ròng/doanh thu thuận *100% Trong đó: Lợi nhuận ròng (lợi nhuận sau thuế): là phần lợi nhuận còn lại sau cùng khi doanh thu khấu trừ tổng chi phí vàthuế thu nhập doanh nghiệp. Doanh thu thuận: là tổng doanh thu, thu được từ hoạt động tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ sau khi đã trừ đi các khoản giản trừ, hàng hóa được coi là tiêu thụ khi được khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận nơ. Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100 đồng doanh thu thuận thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng thu được, trong hoạt động sản xuất kinh doanh sự thay đổi mức doanh lợi tiêu thụ phản ánh những thay đổi về hiệu quả, đương lối sản phẩm hoặc loại khách hàng mà nó phục vụ. Để sử dụng chỉ tiêu tài chính này đánh giá tỉ lệ doanh lợi so với doanh thu thuận của doanh nghiệp, người ta so sánh tỉ lệ doanh lợi tiêu thụ sản phẩm qua các thời kỳ khác nhau va với tỉ lệ doanh lợi tiêu thụ của ngành từ đó đưa ra nhận xét về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị và tìm các nguyên nhân cũng như giải pháp để khắc phục. 2.2 Doanh lợi vốn. Doanh lợi vốn = Lợi nhuận ròng / toàn bộ vốn*100%. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của một đồng vốn được đầu tư, hay là khả năng sinh lợi của đầu tư ( ROI: Return On Investment). Doanh lợi vốn đầu tư là chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng tổng số vốn đầu tư vào doanh nghiệp, nó có quan hệ tới hiệu quả của hoạt động quản lý kinh doanh trong kỳ. Vốn đầu tư doanh nghiệp được chia thành hai loại: vốn cố định và vốn lưu động, do đó khi xác định doanh lợi vốn người ta cũng xác định riêng cho từng loại vốn trên. Doanh lợi vốn cố định: Doanh lợi vốn cố định = lợi nhuận ròng /vốn cố đinh*100%. Chỉ tiêu này cho ta biết hiệu quả sử dụng của một đồng vốn cố định, đặc biệt là vốn sử dụng máy móc thiết bị và phương tiện kỹ thuật. Do đó, khuyến khích doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị công nghệ có hiêu quả. - Doanh lợi vốn lưu động: Doanh lợi vốn lưu động = Lợi nhuận ròng /vốn lưu động *100%. Chỉ tiêu này cho ta thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn lưu động đặc biệt là sử dụng vốn nguyên vật liệu và nhiên liệu. Điều đó khuyến khích doanh nghiệp tiết kiệm vốn lưu động, sử dụng đầy đủ hợp lý, tiết kiệm nguyên vật liệu trong kinh doanh. 2.3. Doanh lợi vốn tự có Doanh lợi vốn tự có phản ánh khả năng sinh lợi của vốn tự có hay nói cách khác nó là tỉ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư của chủ sở hữu, được xác định bằng công thức sau: Doanh lợi vốn tự có = Lợi nhuận ròng /vốn tự ._.có*100%. Chỉ tiêu naỳ có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhà đầu tư, nó chỉ cho nhà đầu tư biết một đồng vốn nhà đầu tư bỏ ra sẽ đem lại bao nhiêu lợi nhuận, từ đó có thể đưa ra quyết định, lựa chọn phương án tối ưu. Việc phân tích các chỉ số doanh lợi ở trên cho ta thấy hình ảnh tương đối đầy đủ về kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong kỳ, nhưng nó có khiếm khuyết là yếu tố thời gian không được đề cập. Các chỉ số này là hình ảnh chụp nhanh ở một thời điểm nhưng có thể những biến chuyển thăng trầm của thời gian làm thay đổi cả bộ mặt của cả một thời điểm theo chiều hướng thuận lợi hay bất lợi. Do đó, sẽ là thiếu sót nếu không nghiên cưu yếu tố thời gian trong việc phân tích các chỉ số về mức doanh lợi. Phương pháp biểu đồ được sử dụng để chỉ rõ xu hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, phương pháp này có thể được diễn tả như sau: trục hoành biểu thị thời gian, trục tung sẽ là các chỉ số doanh lợi cần nghiên cứu. Như thế trên biểu đồ sẽ có hai đường biểu diễn theo thời gian, một đường biểu diễn tỉ suất doanh lợi trung bình ngành và đương biểu diễn tỉ số đó của doanh nghiệp cần nghiên cứu. Qua biểu đồ ta có thể đánh giá được xu hướng của từng chỉ tiêu doanh lợi. Hiện nay ngoài các phương pháp sử dụng để đánh giá tình hình doanh nghiệp ở trên, người ta còn sử dụng một phương pháp khá phổ biến đó là phương pháp phân tích tài chính DUPONT. 2.4. Phương pháp phân tích tài chính DUPONT. Phương pháp này dùng để phân tích tình hình doanh lợi của doanh nghiệp, nó được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Phương pháp này có ưu điểm là nó không chia ra các chỉ số mức doanh lợi như : doanh lợi tiêu thụ, doanh lợi vốn, doanh lợi vốn tự có mà còn thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa các chỉ số trên. Điều đặc biệt là phương pháp này cho người nghiên cứu thấy được nguồn gốc cũng như các nhân tố ảnh hưởng tới các chỉ tiêu, từ đó có những biện pháp nâng cao mức doanh lợi cho doanh nghiệp. Ta có thể khái quát phương pháp qua sơ đồ sau : Số vòng quay toàn bộ vốn Doanh lợi vốn Chi phí SX dở dang Các khoản phải thu Vật tư hàng hoá Vốn bằng tiền Vốn cố định Vốn bằng tiền Vốn cố định Vốn lưu động Toàn bộ vốn Doanh thu thuần Thuế TNDN Doanh lợi tiêu thụ Khấu hao Lãi nợ vay Tổng chi phí Doanh thu thuần Phí tổn hàng bán Chi phí điều hành Doanh thu thuần Lợi nhuận ròng Doanh lợi tiêu thụ Phía bên phải hình vẽ khai triển số vòng quay toàn bộ vốn. Phần này trình bày : tài sản dự trữ, khoản phải thu, và vốn bằng tiền cộng với tài sản cố định để cho ra tổng số vốn đầu tư . Doanh thu thuần chia cho tổng số vốn đầu tư để có số vòng quay toàn bộ vốn. Nhìn vào bên phải của hình chúng ta có thể thấy vòng quay toàn bộ vố. Nhìn vào bên phải của hình chúng ta có thể thấy vòng quay toàn bộ vốn sẽ bị ảnh hưởng bởi những nhân tố nào. Trên cơ sở nếu doanh nghiệp muốn gia tăng vòng quay vốn thì cần phải phân tích các nhân tố quan hệ để có biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Bên trái hình vẽ, triển khai doanh lợi trên doanh thu thuần các loại chi phí cộng thêm thuế thu nhập doanh nghiệp được khấu vào số doanh thu để có lợi nhuận ròng (lợi nhuận sau thuế). Lợi nhuận ròng được chia cho số doanh thu thuần để có doanh lợi tiêu thụ. Bên trái của hình cho ta thấy rõ những nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ. Trên cơ sở đó doanh nghiệp muốn gia tăng mức doanh lợi tiêu thụ, thì nhân tố tổng chi phí của hàng tiêu thụ cần được quan tâm , cụ thể hơn có thể đi sâu phân tích các loại chi phí cấu thành để có thể có các biện pháp hợp lý và kịp thời. Số vòng quay toàn bộ vốn = Doanh thu thuần Toàn bộ vốn Doanh lợi tiêu thụ = Lợi nhuận ròng x 100% Doanh thu thuần Doanh lợi vốn = Doanh lợi tiêu thụ x Số vòng quay toàn bộ vốn Doanh lợi vốn tự có = Doanh lợi vốn Tỷ trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn Hay = Doanh lợi vốn 1 - tỷ số nợ 2.5. Phân tích điểm hoà vốn Phân tích điểm hoà vốn được sử dụng rộng rãi ở các doanh nghiệp nhằm phục cho xây dựng kế hoạch về lợi nhuận và kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Đó là một kỹ thuật phân tích hoạch định mức doanh lợi căn cứ trên những tương quan có sẵn giữa những phí tổn và doanh thu. Nó là phương pháp giúp ta xác định "vị trí của điểm" mà tại đó doanh thu vừa đủ để trang trải tổng chi phí. Điểm đó chính là "điểm hoà vốn" là điểm mà tại đó với một khối lượng sản phẩm bán ra. Doanh số đạt được chỉ đủ trang trải tổng chi phí chi ra, có nghĩa là không lãi, không lỗ. Tổng chi phí ở đây chia làm hai loại. Chi phí biến đổi : Là những chi phí sản xuất thay đổi theo mức độ hoạt động của doanh nghiệp, tức là theo khối lượng sản phẩm tạo ra. Nhưng nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì chi phí này luôn không đổi. Đó là các khoản chi phí như : Chi phí nguyên vật liệu, tiền lương công nhân viên trực tiếp sản xuất, hoa hồng.... Chi phí cố định : Là những chi phí không thay đổi theo sự biến động của khối lượng sản phẩm sản xuất, nhưng nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì chi phí này lại luôn biến đổi và biến đổi theo tỷ lệ nghịch. Bao gồm chi phí KHTSCĐ tiền lãi vay, chi phí văn phòng, lượng công nhân gián tiếp. Kỹ thuật phân tích hoà vốn được thể hiện rõ qua sơ đồ sau : Biểu đồ trình bày sản lượng trên trục hoành, chi phí và lợi nhuận trên trục tung, chi phí cố định vẫn giữ nguyên dù sản lượng có thay đổi. Biến phí là 1.500đ mỗi đơn vị sản phẩm như vậy tổng chi phí sẽ gia răng thêm 1500đ khi sản xuất thêm một đơn vị. Doanh thu được tượng trưng bởi đường thẳng xuất phát từ gốc tọa độ 0. Lợi nhuận Chi phí biến đổi Chi phí cố định Doanh thu và chi phí Đường doanh thu P* E 30 Đường chi phí 20 Q * 0 20 40 Sản lượng Tại sản lượng tiêu thụ = 0, doanh thu = 0 và gia tăng tương ứng với mức sản lượng. Độc dốc của đường thẳng doanh thu lớn hơn độ dốc đường thẳng chi phí và doanh nghiệp thu được 2.500đ mỗi đơn vị và chi ra tương ứng 1.200đ chi phí biến đổi. Điểm hoà vốn E (Q* = 40 , DT = 30) là giao điểm của hai đường doanh thu và tổng chi phí. Trước điểm này (khi sản lượng < Q*) thì doanh nghiệp chịu lỗ. Sau điểm này (khi sản lượng tiêu thụ lớn hơn Q*) doanh nghiệp có lãi. Điểm hoà vốn được xác định là điểm tại đó Q = Q* : P = P* Với : Q* = Tổng chi phí cố định Giá bán đơn vị sản phẩm - Chi phí biến đổi đơn vị sản phẩm Sản lượng hoà vốn Q* chỉ ra cho nhà quản trị tài chính biết được sản lượng tối thiểu mà doanh nghiệp cần tiêu thụ trong kỳ là bao nhiêu mà với chi phí và giá bán sản phẩm nhất định không bị lỗ. Tại mức sản lượng hoà vốn, cứ mỗi đơn vị sản phẩm tiêu thụ tăng thêm. Doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận bằng hiệu số giữa giá bán đơn vị sản phẩm với chi phí biến đổi đơn vị. Thông thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị trong một thời kỳ nhất định, giá bán sản phẩm được xác định trước dựa vào tình hình thị trường, lợi nhuận kế hoạch được xây dựng ở đầu kỳ căn cứ vào tình hình thực tế của doanh nghiệp. Nhà quản trị doanh nghiệp, thông qua phương pháp này, có thể xác định được mức sản lượng cần tiêu thụ trong kỳ để đạt được mức lợi nhuận mong muốn. Sản lượng cần tiêu thụ trong kỳ = Tổng chi phí cố định + Mức lãi mong muốn Giá bán đơn vị sản phẩm - Biến phí đơn vị sản phẩm Phân tích điểm làm vốn dựa vào sản lượng hoà vốn, như phân tích ở trên, cung cấp cho nhà quản trị doanh nghiệp một chỉ tiêu tài chính quan trọng trong phân tích va lập kế hoạch lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là nó chỉ xác định được ở các doanh nghiệp chỉ kinh doanh một loại sản phẩm và giá bán được cố định trong suốt kỳ phân tích, điều này không phù hợp với hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, hầu hết các doanh nghiệp đều đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh với mức giá bán thường xuyên thay đổi. Do đó, các doanh nghiệp này xác định điểm hoà vốn căn cứ vào doanh thu tiêu thụ. Doanh thu hoà vốn = Tổng chi phí cố định 1 tỷ lệ biến phí trên doanh số Doanh thu cần đạt để có được mức lãi mong muốn (được xây dựng trong kế hoạch đầu kỳ của doanh nghiệp ) được xác định như sau : Doanh thu mong muốn = Tổng chi phí cố định + Lãi mong muốn 1 - Tỷ lệ biến phí trên doanh thu Phương pháp này đã khắc phục được khiếm khuyết của cách xác định dựa vào sản lượng hoà vốn. Mặt khác nó chỉ đòi hỏi một lượng dữ liệu tối thiểu, chỉ cần ba chỉ số, doanh thu trong kỳ, chi phí cố định và chi phí biến đổi : Tổng doanh thu và tổng chi phí đã có sẵn trong các báo cáo hàng năm và tài liệu về đầu tư. Tổng chi phí sẽ được tách ra thành chi phí cố định và chi phí biến đổi, chi phí cố định có thể lấy ra trong bảng lãi lỗ của báo cáo kinh doanh, còn biến phí được xác định bằng cách lấy tổng chi phí trừ đi chi phí cố định vừa xác định ở trên. III. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát, phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó nó chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố có quan hệ với hoạt động kinh doanh doanh nghiệp. Tuy nhiên, để có một cách nhìn tổng quát ta có thể phân chúng thành 2 nhóm nhân tố cơ bản : Nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài. 1. Các nhân tố bên trong Nhân tố bên trong là các yếu tố có liên quan, chặt chẽ tới doanh nghiệp, ảnh hưởng tới lợi nhuận doanh nghiệp và trong phạm vi, khả năng của mình, doanh nghiệp có thể tác động chúng theo chiều hướng có lợi. Nó bao gồm các nhân tố sau : 1.1. Chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá ; Chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là những khoản chi phí liên quan tới việc sản xuất ra sản phẩm và đưa sản phẩm đó tới tay người tiêu dùng, bao gồm : Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, chi phí khấu hao TSCĐ và các khoản chi phí liên quan tới tiêu thụ sản phẩm. Hàng hoá như : Đóng gói, bao bì, vận chuyển, bảo quản sản phẩm, chi phí điều tra, nghiên cứu thị trường, bảo hành sản phẩm. đó là các yếu tố đầu vào mà doanh nghiệp phải nghiên cứu ảnh hưởng của nó để có biện pháp giảm thiểu chi phí góp phần tăng lợi nhuận. - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : Là những khoản chi phí liên quan tới việc sử dụng nguyên liệu, vật liệu phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, chi phí nguyên vật thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí, do đó nó tác động chặt chẽ tới lợi nhuận. Chi phí nguyên liệu vật liệu được xác định như sau : Chi phí nguyên vật liệu = Định mức tiêu hao NVL x Giá đơn vị NVL Định mức tiêu hao nguyên vật liệu được các nhà quản lý quan tâm và thường được xây dựng kế hoạch sản xuất, đòi hỏi phải được quản lý và kiểm tra thường xuyên nhằm sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu cho sản xuất. Giá đơn vị nguyên vật liệu, phụ thuộc vào giá mua trên thị trường và các khoản chi phí bỏ ra liên quan tới quá trình thu mua vật tư. Tất cả các nhân tố (định mức tiêu hao vật tư, giá mua nguyên vật liệu và chi phí thu mua) đều ảnh hưởng tới tổng chi phí và tác động tới lợi nhuận doanh nghiệp. Đòi hỏi các doanh nghiệp không những phải tìm các biện pháp để giảm tối thiểu các khoản chi phí trên mà còn phải xác định mức ảnh hưởng của từng nhân tố đến chi phí vật tư để có các biện pháp thích hợp. - Chi phí nhân công trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm các khoản tiền lương, thưởng và phụ cấp của công nhân trực tiếp tham gia vào sản xuất. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, do cơ sở vật chất trang thiết bị kỹ thuật còn lạc hậu. Năng suất lao động chưa cao, còn sử dụng nhiều lao động trực tiếp vào sản xuất, do đó chi phí nhân công trực tiếp còn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí sản xuất. Để giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm biện pháp giảm chi phí tiền lương công nhân trực tiếp trên một đơn vị sản phẩm. Tuy nhiên, việc hạ thấp tiền lương phải hợp lý, vì tiền lương là một hình thức thù lao trả cho người lao động, với sự phát triển của xã hội và đời sống ngày càng cải thiện đòi hỏi tiền lương cũng phải được nâng cao. Mặt khác, tiền lương hợp lý sẽ là đòn bẩy kích thích sự sáng tạo và tinh thần hăng say làm việc. Do đó, các doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư, đổi mới trang thiết bị công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, tăng năng suất lao động đảm bảo gia tăng tiền lương cho người lao động nhưng tốc độ tăng tiền lương không vượt quá độ tăng của sản xuất. - Chi phí về quản lý sản xuất kinh doanh. Bao gồm chi phí sản xuất chung và chi phí quản lý doanh nghiệp, là các khoản chi phí liên quan tới bộ máy quản lý doanh nghiệp và của phân xưởng, như tiền lương cho nhân viên quản lý phân xưởng nhân viên quản lý doanh nghiệp, chi phí văn phòng, chi phí khấu hao TSCĐ...tinh giảm bộ máy quản lý đang là vấn đề đặt ra ở các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay. Các doanh nghiệp cần có kế hoạch đào tạo, nâng cao trình độ quản lý sản xuất, kinh doanh cho nhân viên quản lý, tăng hiệu suất làm việc, điều đó sẽ góp phần giảm chi phí cho doanh nghiệp. - Các khoản chi phí liên quan tới việc tiêu thụ sản phẩm : Trong kinh tế thị trường các doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm là để bán, thoả mãn nhu cầu của khách hàng, vì vậy hoạt động tiêu thụ sản phẩm luôn được doanh nghiệp quan tâm đầu tư nhiều công sức, tiền của nhằm thoả mãn nhất nhu cầu khách hàng và thắng được đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, ta đã biết chi phí tiêu thụ sản phẩm là một yếu tố chi phí đầu vào, việc tăng chi phí này sẽ làm tăng tổng chi phí và làm giảm lợi nhuận doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp khi xây dựng kế hoạch khoản chi phí này phải cân nhắc giữa những chi phí bỏ ra và hiệu quả của nó thể hiện qua công tác tiêu thụ sản phẩm. 1.2. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá Nếu như chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là các yếu tố đầu vào mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm tạo ra thu nhập để bù đắp khoản chi phí đó và tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ được xác định Doanh thu = Khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ x Giá bán đơn vị sản phẩm * Khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ : phân tích kết quả hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nhìn chung khối lượng sản phẩm tiêu thụ càng lớn chứng tỏ công tác tiêu thụ tốt. Hoạt động kinh doanh có hiệu quả và có lãi. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ phụ thuộc vào nhiều nhân tố. + Khối lượng sản phẩm sản xuất và chất lượng của sản phẩm khối lượng sản phẩm sản xuất đảm bảo đúng kế hoạch, thường xuyên, liên tục sẽ tạo điều kiện tăng sản lượng, sản phẩm tiêu thụ. Ngược lại, nếu sản xuất sản phẩm quá ít hay quá nhiều (tức là không đảm bảo kế hoạch sản xuất), mẫu mã không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng sẽ dẫn tới không đảm bảo khối lượng sản phẩm cung cấp cho khách hàng hoặc là hàng hoá khôngtiêu thụ được gây ứ đọng vốn. Chất lượng sản phẩm tiêu thụ cũng ảnh hưởng lớn tới khối lượng sản phẩm tiêu thụ, sản phẩm với chất lượng cao đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng sẽ được thị trường chấp nhận và có khả năng tiêu thụ được nhiều. Nâng cao chất lượng sản phẩm liên quan tới nhiều khâu như nâng cao trang thiết bị, máy móc kỹ thuật trình độ công nhân...và nó cũng tác động không nhỏ tới chi phí sản xuất. Vì vậy các doanh nghiệp phải lựa chọn công nghệ sản xuất hợp lý vừa đảm bảo chất lượng sản phẩm vừa phù hợp với trình độ công nhân và mức chi phí đầu tư hợp lý. + Kết cấu mặt hàng tiêu thụ : trong nền kinh tế thị trường, để hạn chế rủi ro kinh doanh, hầu hết các doanh nghiệp đều đa dạng hoá ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của mình, do đó sản phẩm kinh doanh cũng cần phải đa dạng hoá, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp phản ánh tổng hợp kết quả tiêu thụ của các mặt hàng đó. Việc nghiên cứu nhân tố này giúp doanh nghiệp xây dựng cơ cấu mặt hàng kinh doanh hợp lý, phù hợp với tình hình doanh nghiệp và biến động của thị trường. Trong đó phải xác định được một số mặt hàng kinh doanh chủ đạo để tập trung đầu tư nhằm tăng mức doanh thu cho doanh nghiệp. Ngoài hai nhân tố trên, khối lượng sản phẩm tiêu thụ còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác như thị trường tiêu thụ sản phẩm, giá cả hàng hoá, chất lượng dịch vụ sau bán hàng.... * Giá bán sản phẩm Khi các nhân tố khác không đổi, giá bán đơn vị sản phẩm tăng sẽ làm doanh thu tiêu thụ sản phẩm, tuy nhiên việc tăng giá sẽ ảnh hưởng tới việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Giá bán sản phẩm có thể do doanh nghiệp xác định giá bán phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của mình. Marketing tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp và giá bán của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường và các doanh nghiệp phải xác định cho mỗi loại sản phẩm một mức giá bán hợp lý đảm bảo bù đắp các khoản chi phí bỏ ra và được thị trường chấp nhận. 1.3. Công tác tổ chức quản lý quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tổ chức tốt, có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo đầy đủ kế hoạch về số lượng và chất lượng các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất diễn ra một cách liên tục, tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả của sản xuất sẽ làm tăng sản phẩm tiêu thụ, doanh thu bán hàng và do đó lợi nhuận được nâng cao. Quá trình tổ chức quản lý kinh doanh bao gồm các khâu như định hướng chiến lược phát triển doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch kinh doanh phương án kinh doanh, tổ chức kiểm tra, đánh giá và có biện pháp điều chỉnh. Thực hiện tốt các khâu của quá trình kinh doanh giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động và đó là điều kiện để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. 2. Các nhân tố bên ngoài Nhân tố bên ngoài là tập hợp tất cả các yếu tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp mà bản thân doanh nghiệp không thể kiểm soát được. Nghiên cứu các nhân tố này giúp doanh nghiệp có các biện pháp điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình thích nghi với các nhân tố này. Nó bao gồm các nhân tố sau : 2.1. Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế phản ánh tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế về cơ cấu ngành, vùng, triển vọng phát triển của nền kinh tế trong khu vực. Môi trường kinh tế bao gồm các yếu tố ảnh hưởng tới sức mua và cơ cấu chỉ tiêu của người tiêu dùng. Do đó ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi nền kinh tế ở giai đoạn suy thoái, sức mua hàng giảm, hàng hoá bị ứ đọng trên thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Tình hình sẽ trái ngược lại khi nền kinh tế trở lại thời kỳ phục hồi và tăng trưởng, việc mua sắm hàng hoá tập hợp trở lại, làm cho nhịp và chu kỳ kinh doanh trở lên phồn thịnh tạo điều kiện cho việc sản xuất, tiêu thụ và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nghiên cứu môi trường kinh tế, giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có thể điều chỉnh kịp thời kế hoạch, mục tiêu sản xuất của doanh nghiệp phù hợp với điều kiện của nền kinh tế, duy trì và tăng vị thế doanh nghiệp trên thị trường. 2.2. Thị trường tiêu thụ sản phẩm Muốn tiến hành sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp phải mua sắm các yếu tố cần thiết như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu dự trữ... (các yếu tố đầu vào). Sau khi tiến hành sản xuất tạo ra sản phẩm, doanh nghiệp lại đưa sản phẩm tiêu thụ trên thị trường, tạo nguồn thu bù đắp các khoản chi phí bỏ ra và thu lợi nhuận. Như vậy, mọi hoạt động của doanh nghiệp từ việc mua sắm các yếu tố đầu vào, tới tiêu thụ sản phẩm đều được thực hiện thông qua thị trường, do đó những biến động trên thị trường ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường và ảnh hưởng của nó đối với hoạt động của doanh nghiệp và nhiệm vụ quan trọng nhất của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để đi sâu vào tìm hiểu thị trường các nhà kinh tế phân nó ra thành 4 loại cơ bản. + Thị trường cạnh tranh thuần tuý : là thị trường bao gồm nhiều người mua và người bán trao đổi với nhau về một thứ hàng hoá đồng nhất (ví dụ : thị trường nông sản, thị trường chứng khoán ) việc gia nhập và rút lui khỏi thị trường một cách dễ dàng, khi kinh doanh ở thị trường này, tất cả người tham gia đều phải chấp nhận mức giá do số đông thành viên của thị trường thỏa thuận. + Thị trường độc quyền thuần tuý : Là thị trường thường chỉ có một người bán, những công ty độc quyền. Họ luôn có "hàng rào " cản trở sự gia nhập của các Công ty khác hoặc do quy định của Nhà nước, hoặc do có những thế mạnh "độc nhất vô nhị" trong khả năng cạnh tranh như : Điều kiện tự nhiên, bản quyền phát minh sáng chế, khả năng đặc biệt của làng nghề, lợi thế về tài nguyên. + Thị trường cạnh tranh có độc quyền : Là thị trường bao gồm nhiều người mua và người bán giao dịch với nhau qua một "khung giá" chứ không phải một mức giá duy nhất. Những Công ty nào tạo được cho sản phẩm của mình một sự khác biệt về chất lượng, mẫu mã, hoặc dịch vụ kèm theo sẽ được khách hàng chấp nhận và có thể xác định riêng cho sản phẩm của mình một mức giá. + Thị trường độc quyền nhóm : Bao gồm một số ít người bán luôn có thế mạnh để có thể gây ảnh hưởng và rất nhạy cảm với những chiến lược Marketing của các đối thủ cạnh tranh, sản phẩm của nó có khả năng thay thế trong thị trường này đều có một khả năng cốt lõi dưới dạng bằng sáng chế hoặc kiến thức chuyên môn đặc biệt hoặc kiểm soát được nguồn nguyên liệu. Nghiên cứu nhân tố này, đòi hỏi các nhà quản trị khi kinh doanh trong cơ chế thị trường phải xác định được doanh nghiệp của mình đang kinh doanh trên thị trường nào để có các biện pháp thích hợp vì mỗi loại thị trường có đặc tính riêng và do đó cần có các biện pháp riêng biệt. 2.3. Chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, ngoài việc tuân thủ các quy luật của thị trường (quy luật cung cấp, giá trị và quy luật cạnh tranh) còn chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, thông qua các công cụ như, thuế, chính sách tiền tệ, lãi suất...Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế nhằm khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị trường, tạo điều kiện và môi trường kinh doanh thuận lợi. Việc thay đổi các chính sách quản lý của Nhà nước sẽ ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tất cả các nhân tố trình bày ở trên đều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu các nhân tố trên là rất cần thiết, nó giúp doanh nghiệp xác định được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới lợi nhuận, đâu là nhân tố chủ yếu từ đó có các biện pháp xử lý linh hoạt, kịp thời. IV. Các biện pháp nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp. Lợi nhuận chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố vì vậy sẽ có nhiều biện pháp khác nhau nhằm nâng cao lợi nhuận, tuy nhiên ta có thể khái quát chúng thành các nhân tố: Là các biện pháp tăng doanh thu, giảm chi phí, và hoàn thiện bộ máy quản lý doanh nghiệp 1. Các biện pháp tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Chi phí là những khoản mà doanh nghiệp phải chi ra để tiến hành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, và doanh thu chính là khoản mà doanh nghiệp được nhận thông qua hoạt động bán hàng và đầu tư. Nó bù đắp những khoản chi phí bỏ ra và tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Do đó, tăng doanh thu sẽ là nhân tố cơ bản tăng lợi nhuận, để tăng doanh thu cần thực hiện các biện pháp sau: 1.1. Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là một công việc hết sức phức tạp, nó bao gồm các hoạt động từ khâu nghiên cứu thị trường, tổ chức hoạt động sản xuất ra sản phẩm tới khâu tiêu thụ sản phẩm đó. Do đó, nó đòi hỏi sự tham gia tích cực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Để hoàn thiện việc nghiên cứu thị trường cần: - Doanh nghiệp tổ chức riêng phòng chuyên trách về nghiên cứu thị trường, đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ có thể tổ chức một bộ phận chuyên trách trong phòng kinh doanh. - Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ về nghiên cứu thị trường cho cán bộ nhân viên đặc biệt nhân viên chuyên trách về bộ phận maketing. 1.2. Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng. Trong cơ chế thị trường luôn tồn tại sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp không những canh tranh về giá mà chuyển sang canh tranh về chất lượng và dịch vụ sau bán hàng như tín dụng, sửa chữa, lắp đặt... Đòi hỏi doanh nghiệp phải: -Nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân viên, cải tiến máy móc, dây chuyền công nghệ. -Xây dựng và quản lý sản xuất theo hệ thống quốc gia và quốc tế. -Xây dựng hệ thống dịch vụ sau bán hàng cho từng loại sản phẩm nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu thị trường. 1.3. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh. Truớc hết doanh nghiệp phải xác định cho mình những mặt hàng nào sẽ kinh doanh, xu hướng biến động của nó ra sao. Điều này phụ thuộc vào khả năng của từng doanh nghiệp và thị trường doanh nghiệp kinh doanh. Xác định một hoặc một số mặt hàng chủ lực, đây là các mặt hàng có khả năng tạo ra phần lớn thu nhập cho doanh nghiệp và ổn định trong tương lai. Những mặt hàng này cần được đầu tư nhiều hơn, tăng cường xúc tiến, khuếch trương, thâm nhập vào thị trường mới và mở rộng thị trường hiện có, thường xuyên đánh giá tình hình kế hoạch sản xuất và tiêu thụ để có biện pháp xử lý kịp thời. 2. Các biện pháp giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. 2.1. Tăng năng suất lao động. Tăng năng suất lao động là tăng số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Để tăng năng suất lao động cần thực hiện các biện pháp: -Cải tiến đổi mới trang thiết bị cho phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp và đòi hỏi của thị trường về chất lượng sản phẩm. - Nâng cao hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị, sử dụng hết công suất của máy nhằm giảm chi phí khấu hao trên một đơn vị sản phẩm. -Tổ chức sắp xếp lao động hợp lý, đảm bảo đúng người đúng việc, có biện pháp khen thưởng kịp thời nhằm khuyến khích công nhân nâng cao năng suất lao động . 2.2. Giảm chi phí trực tiếp. Chi phí trực tiếp bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Đó là những khoản chi phí bỏ trực tiếp vào qúa trình sản xuất kinh doanh . Sử dụng tiết kiệm hợp lý nguyên vật liệu, phải thông qua các biện pháp sau: - Xây dựng kế hoạch khoa học, hợp lý từ khâu thu mua vật tư dự trữ trong doanh nghiệp tới việc cung ứng cho các đơn vị sản xuất đảm bảo qúa trình sản xuất diễn ra một cách liên tục. - Thường xuyên, kiểm tra, rà soát định mức trực tiếp tiêu hao vật tư của đơn vị. - Tăng cường quản lý các khâu trong qúa trình sản xuất, có biện pháp xử phạt nghiêm các trường hợp gây thất thoát lãng phí vật tư. Tiết kiệm chi phí nhân công gồm các biện pháp sau: - Sử dụng có hiệu quả đòn bẩy tiền lương, tiền thưởng khuyến khích khả năng sáng tạo của người lao động, tăng năng suất hiệu quả làm việc. - Có kế hoạch đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên tổ chức sắp xếp lao động hợp lý nhằm phát huy mọi khả năng của người lao động. 2.3. Giảm chi phí gián tiếp. Chi phí gián tiếp bao gồm chi phí khấu hao TSCĐ, tiền lương công nhân gián tiếp, chi phí văn phòng,tiếp khách...các khoản chi phí này không liên quan trực tiếp tới qúa trình tạo ra sản phẩm.Vì vậy cần phải giảm tỷ lệ của nó trong tổng chi phí, thông qua các biện pháp sau : - Tinh giảm bộ máy quản lý, nâng cao trình độ, trang thiết bị làm việc cho các nhân viên quản lý, đảm bảo với số lượng cán bộ quản lý vẫn đảm bảo được kế hoạch sản xuất. - Có kế hoạch dự toán chi phí sử dụng máy móc thiết bị trên cơ sở kế hoạch sửa chữa, khấu hao TSCĐ và các định mức sử dụng máy. - Tiết kiệm các khoản chi phí như chi phí văn phòng, chi phí tiếp khách... 3. Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý. Tổ chức tốt hoạt động quản lý sản xuất kinh doanh khâu cung ứng sản phẩm, hàng hoá, khai thác tối đa khả năng người lao động sẽ góp phần nâng cao kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần tổ chức bộ máy các phòng ban chức năng và sắp xếp lao động hợp lý đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của cấp trên đối với cấp dưới và sự kiểm soát giữa các bộ phận với nhau. Quản lý qúa trình sản xuất kinh doanh là điều kiện tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Do đó phải xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển, kinh doanh, tổ chức điều hành các khâu trong qúa trình sản xuất . Chương II Phân tích tình hình lợi nhuận tại Công ty điện máy xe đạp xe máy I. Giới thiệu sơ lược về Công ty 1. Qúa trình hình thành và phát triển của Công ty. Vào năm 1960 do nhu cầu sử dụng hàng điện máy và một số mặt hàng khác, Cục Điện máy xăng dầu trung ương được thành lập đến năm 1970 do đòi hỏi của nền kinh tế, chính phủ ra quyết định thành lập tổng Công ty điện máy. Đầu tháng 6/1981 theo kế hoạch của Nhà nước và căn cứ vào yêu cầu thực tế của nền kinh tế , tổng Công ty điện máy bị giải thể. Bên cạnh đó thành lập hai Công ty Trung ương trực thuộc Bộ thương mại đó là 1. Công ty điện máy trung ương có trụ sở tại 163 Đại La - Hai Bà Trưng - Hà Nội. 2. Công ty xe đạp, xe máy có trụ sở tại 28 ái Mộ - Gia Lâm - Hà Nội. Cả hai Công ty cùng chịu sự chỉ đạo của Bộ Thương mại cho đến tháng 12/1995 của hai Công ty sát nhập thành tổng Công ty điện máy xe đạp - xe máy. Lúc này thị trường tiêu thụ của Công ty đã được mở rộng ra nước ngoài với nhiều mặt hàng kinh doanh khá đa dạng. Ngày 22/12/1995 căn cứ vào quyết định số 95 CP ngày 4/12/1993 chính phủ quy định quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Thương mại, căn cứ vào thông báo số 11/TB ngày 2/2/1995 của Chính phủ về thành lập lại Công ty điện máy xe đạp và xe máy Bộ trưởng bộ thương mại đã ra quyết định thành lập Công ty điện máy xe đạp xe máy trên cơ sở giải thể Công ty. Công ty điện máy xe đạp - xe máy có trụ sở chính tại 209 Đại La - Hai Bà Trưng - Hà Nội. Công ty đã phát triển được mạng lưới kinh doanh khá rộng lớn. Hiện nay Công ty điện máy xe đạp - xe máy có 8 đơn vị kinh doanh chính trực thuộc Công ty. 1. Chi nhánh điện máy - xe đạp - xe máy Nam Định trụ sở tại 111 Quang Trung - Nam Định. 2. Xí nghiệp sản xuất và kinh doanh điện máy trụ sở 5 ái Mộ - Gia Lâm - Hà nội. 3. Cửa hàng kinh doanh điện máy kim khí số 1 trụ sở 163 Đại La - Hai Bà Trưng - Hà Nội. 4. Cửa hàng kinh doanh kim khí số 1 - Trụ sở 215 Phố Vọng - Hai Bà Trưng - Hà Nội. 5. Cửa hàng kinh doanh kim khí số 5 trụ sở chợ Mơ - Hai Bà Trưng - Hà Nội. 6. Chi ._.rường thường xuyên biến động, cạnh tranh ngày càng gay gắt gây sức ép mạnh về giá cả và chất lượng hàng hoá cũng tác động mạnh tới kết quả kinh doanh của Công ty. Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của Công ty trong những năm qua. Để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh trong thời gian tới đòi hỏi Công ty phải có những biện pháp thích hợp. Điều hành sẽ được giải quyết ở chương sau. Chương III Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận cho công ty điện máy -xe đạp -xe máy I. Định hướng phát triển kinh doanh cửa công ty trong thời gian tới Khi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các doanh nghiệp Nhà nước đứng trước một bước ngoặt lớn giữa một bên là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp các doanh nghiệp đã làm quen với việc dựa dẫm ỷ lại vào cấp trên và một bên là phải hạch toán kinh doanh độc lập nghĩa là doanh nghiệp phải tự thân vận động, lời ăn lỗ chịu. Để tồn tại và thích nghi với tình hình mới các doanh nghiệp không những phải lập ra được kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp trong từng giai đoạn mà phải có những định hướng chính sách kinh doanh mang tính chiến lược. Với chức năng, nhiệm vụ được Bộ Thương Mại giao phó. Trong thời gian qua công ty TODIMAX đã quyết tâm thực hiện các mục tiêu đề ra, khôi phục hoạt động kinh doanh và cải thiện đời sống cho người lao động. Năm 2000 hoạt động kinh doanh của Công ty gặp khó khăn doanh thu tiêu thụ giảm mạnh, chi phí còn rất cao, chưa giải quyết dứt điểm các khoản nợ đọng, khả năng huy động thêm vốn còn nhiều hạn chế. Bước sang năm 2001 đây là năm đầu tiên của thế kỷ, cũng là năm thứ ba Công ty đổi mới hoạt động. Nhận định những khó khăn và thuận lợi chung của nền kinh tế đất nước, kết hợp với tình hoạt động của đơn vị, Công ty đề ra cho mục tiêu kinh doanh của năm 2001 và một số năm tiếp theo là : "Giải quyết một cách cơ bản những tồn tại cũ, kinh doanh có lãi duy trì và phát triển một số mặt hàng kinh doanh chủ yếu, ổn định mọi hoạt động của đơn vị, tạo công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động". Để thực hiện mục tiêu trên Công ty xây kế hoạch năm 2001với các chỉ tiêu sau: - Doanh thu tiêu thụ đạt 400 tỷ đồng trong đó các mặt hàng kinh doanh chính là : Tủ lạnh ,xe máy , điều hoà, vật liệu xây dựng ... - Tổng quỹ lương tăng 20% so với năm 2000, đạt 5.027 triệu đòng. Hoành thành nghĩa vụ với Nhà nước, trích nộp đầy đủ các quỹ đặc biệt, quỹ đầu tư phát triển , quỹ khen thưởng... theo quy định hiện hành. - Công tác xuất khẩu năm 2001 đơn vị sẽ chuyển hướng tìm hiểu thị trường Châu âu ,để trao đổi hàng tạo thêm chủng loại mới. Phấn đấu đạt giá trị xuất khẩu 100.000 USD (khoảng1,5 tỷ đồng). DDDDDĐ - Kim ngạch xuất khẩu đạt 10.000.000 USD (150 tỷ đồng), tăng 10% so với năm 2000, tập trung vào mặt hàng truyền thống là xe máy, ô tô, kim loại màu và triển khai thêm một số mặt hàng hoá chất như : nhựa, dầu và đơn vị có thị trường tiêu thụ. - Tận dụng các nguồn thu, các thương vụ kinh doanh, cố gắng hạn chế rủi ro, có chiến lược lắp ráp và bán hàng xe máy phù hợp, chớp thời cơ, tiết kiệm chi phí không cần thiết, quyết tâm định mức lợi nhuận năm 2001 đạt 10 tỷ đồng. - Lao động định biên dự kiến giảm đến mức cao nhất trên cơ sở động viên và tạo diều kiện người lao động về nghỉ theo chế độ. II. Một số biện pháp nâng cao lợi nhuận cho công ty TODIMAX. 1. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh. Trong cơ chế thị trường, có 3 loại hình kinh doanh, chủ yếu là chuyên môn hoá, đa dạng hoá và kinh doanh tổng hợp. Trong đó đa dạng hoá là hình thức kinh doanh phổ biến và có hiệu quả nhất, nó vừa đảm bảo hạn chế rủi ro trong kinh doanh vừa tạo điều kiện tập trung vào một số mặt hàng kinh doanh chủ đạo. Mặt khác, để nâng cao kết quả kinh doanh, lợi nhuận, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng cho mình cơ cấu kinh doanh hợp lý. Căn cứ vào hoạt động điều kiện công ty TODIMAX, xe máy là mặt hàng kinh doanh chính, chiếm 70% Tổng doanh thu và đem lại lợi nhuận chủ yếu cho công ty. Như vậy công ty chưa thực hiện đa dạng hoá mặt hàng, còn tập trung vào một mặt hàng (xe máy), rủi ro kinh doanh khá cao nếu như có sự thay đổi về chính sách xuất nhập khẩu Nhà nước hay nhu cầu thị trường về mặt hàng xe máy thay đổi. Mặt khác mặt hàng xe máy Trung quốc công ty lại phụ thuộc rất nhiều vào công tác nhập linh kiện xe maý từ Trung quốc. Xuất phát từ thực tế đó, công ty cần đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, xây dựng cơ cấu mật hàng hợp lý theo hướng sau : - Khôi phục một số mặt hàng điều kiện truyền thống như tủ lạnh, ti vi, ô tô, điều hoà, bóng điện đây là các mặt hàng kinh doanh truyền thống, có thị trường tiêu thụ ổn định và công ty có nhiều năm kinh nghiệm kinh doanh các mặt hàng này. Mặc dù trong năm 1999 kinh doanh các mặt hàng này có sự suy giảm đáng kể song đã có đấu hiệu phục hồi vào năm 2000, mặt khác đây là các mặt hàng mà nhu cầu trên thị trường tương đối ổn định. Nếu như công ty có biện pháp tích cực nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp dịch vụ sau bán hàng (bảo hành, sửa chữa...) thì đây vẫn sẽ là những mặt hàng đưa lại nguồn thu ổn định và đảm bảo việc đa dạng hóa mặt hàng kinh doanh cho công ty. - Duy trì sự phát triển kinh doanh mặt hàng xe máy, xác định đây là mặt hàng kinh doanh chủ đạo của công ty trong những năm tới. Mặc dù tiêu thụ mặt hàng này có dấu hiệu chững lại nhưng theo các nhà kinh tế tốc độ mua bán mặt hàng này vẫn được duy trì trong vòng 5 năm nữa. Do đó, công ty cần tăng cường các dịch vụ hỗ trợ bán hàng đặc biệt bảo hành, sửa chửa, mở rộng hình thức cấp tín dụng cho khách hàng thông qua mua bán trả góp, đồng thời xây dựng kế hoạch nhập khẩu linh kiện và lắp đặt xe máy một cách khoa học, đảm bảo cung cấp kịp thời sản phẩm cho khách hàng. - Đẩy mạnh tiêu thụ các mặt hàng mới như hoá chất, vật liệu xây dựng, nhôm. Đây là các mặt hàng có nhiều tiềm năng có khả năng thay thế các mặt hàng truyền thống. Thực tế doanh thu tiêu thụ các mặt hàng này của công ty tăng nhanh qua các năm song tỷ trọng cũng như giá trị còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Vì vậy công ty cần có kế hoạch tìm nguồn hàng ổn định cho các mặt hàng này, mở rộng thị trường tiêu thụ thông qua các kênh phân phối như các cửa hàng đại lý bán lẻ, phấn đấu trong năm 2001 mặt hàng sẽ chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu ngành hàng và dần thay thế các mặt hàng truyền thống trước đây. Bên cạnh đó Công ty cần tích cực tìm thêm một số mặt hàng mới như phụ tùng ô tô, nhựa, phân bón...các mặt hàng này này hiện nay đang có thị trường tiêu thụ rộng rãi phát triển mặt hàng này sẽ đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh đồng thời mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho Công ty. Tuy nhiên, công ty cần cân nhắc giữa doanh thu, chi phí cũng như thị trường tiêu thụ và các đối thủ cạnh tranh hiện có trên thị trường . Mặt hàng Giá trị (triệu đồng) Tỷ trọng (%) -Xe máy 140.500 35 -Tủ lạnh 34.500 8,6 - Ô tô 10.500 2,6 - Điều hoà 55.000 13,7 - Ti vi 8.750 2,1 - Bóng điện 10.500 2,6 - Nhôm 17.500 4,4 - Hoá chất 70.850 17,7 - Vật liệu xây dựng 35.000 8,7 - Phụ tùng ôtô 10.500 2,6 - Phân bón 7.000 2 Tổng 400.600 100 Trên cơ sở phân tích tình hình tiêu thụ hàng hoá của công ty cũng như xu hướng biến động của hàng hoá tiêu thụ trên, tôi xin đưa ra một cơ câú mặt hàng để Công ty áp dụng trong thời gian tới theo bảng trên : Cơ cấu mặt hàng trên đây được xây dựng với sự tham khảo ý kiến từ phía các cô chú phòng kế toán phòng kinh doanh và nó cũng phù hợp với chiến lược phát triển kinh doanh do ban lãnh đạo công ty đề ra là đa dạng hoá mặt hàng điều kiện trên cơ sở tập trung vào một số mặt hàng chính...Để thực hiện được điều đó đòi hỏi sự quyết đoán linh hoạt của ban lãnh đạo, nỗ lực chung của toàn công ty để xây dựng cơ cấu mặt hàng tối ưu. 2. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá: Chúng ta đều biết rằng, trong cơ chế thị trường sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào với khối lượng bao nhiêu đều do thị trường quyết định. Mặt khác nhu cầu trên thị trường thường xuyên biến động. Nếu doanh nghiệp nắm bắt xu hướng thay đổi của thị trường và điều chỉnh hoạt động kinh doanh phù hợp với nó thì sẽ tồn tại, phát triển ngược lại doanh nghiệp sẽ bị đào thải. Chính vì vậy công tác nghiên cứu thị trường đóng vai trò hết sức quan trọng nó giúp công ty thích nghi với thị trường và thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng. Công tác này của công ty TODIMAX trong những năm qua chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức hoạt động tiêu thụ đang có dấu hiệu suy giảm. Do đó công ty cần tập trung cho công tác này thông qua thành lập phòng Marketing độc lập thực hiện hai vấn đề chủ yếu. + Vấn đề 1: Là vấn đề nghiên cứu nhu cầu khách hàng về hàng hoá công ty đang kinh doanh như chủng loại, chất lượng, giá cả. + Vấn đề 2: Là vấn đề thực hiện công tác hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, tuyên truyền, xúc tiến bán. Như vậy bộ phận này sẽ cần 10 người có trình độ chuyên môn trong lĩnh vực kinh doanh, hoạt động thị trường. Các nhân viên này sẽ được ban Giám đốc bổ nhiệm từ ba phòng kinh doanh của công ty. Đề bạt một trưởng ban chịu trách nhiệm quản lý, lập kế hoạch phân công công tác, lập báo cáo nghiên cứu thị trường và trình ban Giám đốc phê duyệt. Các thành viên còn lại chia làm hai nhóm để thực hiện hai vấn đề nêu trên. Việc thành lập phòng Marketing độc lập, chuyên trách về lĩnh vực nghiên cứu thị trường sẽ tăng cường công tác tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường cho công ty. Đây là vấn đề hết sức khó khăn và nan giải bởi lẽ hầu hết nhân viên công ty được đào tạo trong thời kì bao cấp kiến thức chuyên môn về thị trường còn hạn chế. Vì vậy cần có biện pháp sau : - Đào tạo, nâng cao kiến thức về thị trường và nghiên cứu thị trường cho nhân viên đặc biệt là nhân viên chuyên về thị trường. - Trưởng phòng Marketing phải thường xuyên báo cáo hoạt động nghiên cứu thị trường cho ban Giám đốc và đề xuất các biện pháp xử lý kịp thời các nghiệp vụ phát sinh. - Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa phòng Marketing với các phòng chức năng để xây dựng chiến lược tiêu thụ hàng hoá cho công ty. 3. Sử dụng tiết kiệm chi phí kinh doanh. Đây là những khoản chi phục cho sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế thị trường hầu hết các doanh nghiệp phải giảm chi phí, hạ giá thành để nâng cao lợi nhuận. Xuất phát từ thực trạng hoạt động công ty TODIMAX trong những năm qua ta thấy chi phí (đặc biệt là chi phí giá vốn) còn ở mức rất cao so với doanh thu. Trong năm 1998 chi phí đã vượt doanh thu thuần gây thua lỗ cho công ty. Trước tình hình đó, công ty cần thực hiện các biện pháp sau: - Tích cực tìm kiếm nguồn hàng với chi phí thấp ổn định thiết lập mối kinh doanh chắt chẽ với nhà cung ứng đảm bảo cung ứng nguồn hàng kịp thời, chất lượng cao phục công tác kinh doanh của công ty. Quyết tâm hạ chi phí giảm giá vốn xuống 85% doanh thu thuần. - Tiết kiệm các khoản chi phí gián tiếp (chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp ), tăng cường chi cho hoạt động bán hàng như quảng cáo nghiên cứu thị trường...Đồng thời quản lý chặt chẽ các khoản chi phí: chi phí văn phòng, chi phí tiếp khách...nhằm giảm thiểu các khoản chi không cần thiết, phấn đấu đưa mức chi phí gián tiếp xuống còn 7% so với doanh thu thuần như kế hoạch mà công ty đã đề ra. Cùng với mức doanh thu thuần dự kiến là 400 tỷ đồng, thì lợi nhuận công ty sẽ đạt khoảng 12 tỷ đồng với mức doanh lợi tiêu thụ 3,5%, đây chính là mức lợi nhuận mục tiêu của công ty trong năm 2001. 4. Xây dựng cơ cấu vốn tối ưu và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn: Cơ cấu vốn tối ưu là cơ cấu mà ở đó chi phí bình quân vốn là thấp nhất. Việc nghiên cứu vốn ở công ty TODIMAX cho thấy tỷ trọng nợ của công ty là rất cao (chiếm khoảng 95,9% tổng nguồn vốn ) trong đó chủ yếu là nợ ngắn hạn chiếm gần 94% , đây là cơ cấu không hợp lý , cho nên trong thời gian tới công ty cần có các biện pháp để xây dựng cơ cấu vốn hợp lý hơn : - Tích cực đàm phán với các ngân hàng để giảm các khoản nợ đến hạn và giảm chi phí lãi vay trong năm 2001, đánh dấu thành công đáng kể của công ty đã kéo dài thời hạn trả nợ cho các khoản vay đến hạn 5 tỷ đồng, giảm gần 1 tỷ đồng lãi vay. Tuy nhiên đây vẫn là con số nhỏ bé so với khoản nợ ngắn hạn của công ty hiện nay 50 tỷ đồng, dự kiến đến năm 2001 khoản nợ đến hạn 15 tỷ, lãi vay ( kể cả lãi vay quá hạn) là 3,5 tỷ đồng. Do đó công ty xin gia hạn nợ với cam kết công ty sẽ thanh toán các khoản nợ, dưới sự bảo lãnh của Bộ thương mại. - Chủ động tìm kiếm nguồn vốn trung và dài hạn như: vốn ngân sách cấp bổ sung, vay ngân hàng, phát hành trái phiếu, vốn vay từ cán bộ công nhân viên công ty để dần dần thay thế nguồn vốn ngắn hạn. Trong cơ chế thị trường với kết quả kinh doanh đạt được năm 2000 (lãi 5.8 tỷ ) thì việc sử dụng vốn vay (từ ngân hàng, phát hành trái phiếu ) sẽ khuếch đại kết quả kinh doanh và tiết kiệm được thuế từ khoản lãi vay. Mặt khác, hiện nay việc vay ngân hàng hết sức thuận lợi, đã có mức lãi trần cho vay hợp lý nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất điều kiện của đơn vị. Đặc biệt đối với doanh nghiệp nhà nước việc vay vốn từ các ngân hàng thương mại quốc doanh không cần thế chấp, không giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ của doanh nghiệp mà căn cứ vào hiệu quả của sản xuất kinh doanh . Tuy nhiên, đây là các khoản vay dài hạn, lãi suất phải trả cao, bên cạnh đó các khoản nợ của Công ty còn tồn đọng lớn, việc huy động thêm vốn từ ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn trong thời gian tới. Vì vậy ngoài nỗ lực hoàn thiện các điều kiện vay của Công ty, cần có sự bảo lãnh của cấp chủ quản. Hiện nay vốn NSNN cấp bổ sung cho công ty rất ít, lại không liên tục, vốn vay từ ngân hàng ngày càng trở nên khó khăn, trước tình hình đó công ty cần nghiên cứu hình thức huy động vốn trung và dài hạn bằng cách phát triển hình thức chính sách vay từ cán bộ công nhân viên công ty. Đây được xem là biện pháp huy động vốn có hiệu quả nhất bởi nó tránh được thủ tục phiền hà khi đi vay, cắt giảm các khoản chi phí không cần thiết mà lại huy đọng vốn kịp thời, phát huy nội lực bên trong công ty. Muốn vậy công ty cần xây dựng một mức lãi suất hợp lý, thời gian thanh toán linh hoạt... đảm bảo lợi ích người cho vay. Với tình hình kinh doanh hiện nay, cơ cấu vốn mục tiêu công ty cần xây dựng trong những năm tới như sau: Nguồn vốn Tỷ trọng (%) 1. Nợ ngắn hạn 70 -Nợ ngân hàng 40 -Nợ ngắn hạn khác 30 2. Vốn dài hạn 30 -Vay ngân hàng 5 -Vay công nhân 10 -Vốn chủ sở hữu 15 - Xây dựng cơ cấu vốn tối ưu và huy động kịp thời nguồn vốn là điều kiện cần để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhưng vấn đề quan trọng là quản lý và sử dụng nguồn vốn đó như thế nào để có hiệu quả. Trong những năm qua, quản lý vốn còn lãng phí, không hiệu quả, thu nhập mang lại chưa tương xứng với nguồn vốn bỏ ra. Vì vậy, Công ty cần : - Quản lý chặt chẽ vốn cố định bao gồm hệ thống nhà xưởng, kho tàng, cửa hàng, văn phòng Công ty ...Tiết kiệm chi phí văn phòng, chỗ làm việc sắp xếp khoa học các cửa hàng, sử dụng có hiệu quả nhà xưởng kho tàng. Quản lý có hiệu quả vốn cố định sẽ giảm 10% khoản chi phí này cho Công ty . - Quản lý vốn lưu động, công tác kế hoạch thu mua và dự trữ hàng hoá một cách khoa học, vừa tiết kiệm chi phí lưu kho đồng thời đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng cần nhanh chóng giải quyết các khoản phải thu. Tuy chính sách cung cấp tín dụng cho khách hàng cũng là biện pháp tài chính của công ty để đẩy nhanh tiêu thụ hàng hoá. Nhưng với tỷ lệ khoản phải thu rất lớn hiện nay (chiếm 10% doanh thu thuần) trong đó 70% là phải thu từ khách hàng, đã làm giảm kỳ luân chuyển vốn, giảm hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh và vòng quay vốn lưu động. Vì vậy công ty cần có biện pháp tích cực vận động nhằm giảm khoản phải thu xuống 5% doanh thu thuần. 5. Hoàn thiện dây chuyền lắp ráp xe máy IKD. Nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá bán là yếu tố cơ bản nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay công ty TODIMAX có hai dây chuyền lắp ráp xe máy IKD tại Gia lâm Hà nội, được đưa vào sử dụng từ năm 1997 với tổng giá trị đầu tư là 300 tỷ đồng (đã khấu hao 90 tỷ đồng với công suất thiết kế 13.000 xe máy/1 dây chuyền - 1năm. Nhưng hiện nay mới chỉ đạt 50% công suất, với lượng tiêu thụ xe máy tăng nhanh trong 2 năm 1999, 2000. Công ty đã thuê một số cơ sở lắp ráp khác tại Hà Giang và Lạng sơn, điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng cũng như hoạt động tiêu thụ mặt hàng xe máy công ty hơn nữa đây đang là mặt hàng chỉ tạo ra phần lớn thu nhập và lợi nhuận . Vì vậy hoàn thiện dây chuyền lắp ráp IKD đang là vấn đề bức bách cần giải quyết, muốn vậy công ty cần: - Quản lý chặt chẽ các công đoạn quá trình lắp ráp xe máy để tìm nguyên nhân làm giảm công suất hoạt động dây chuyền và có biện pháp xử lý kịp thời. - Nâng cao trình độ kĩ thuật cho công nhân có thể mời chuyên gia nước ngoài làm tư vấn. - Đảm bảo kịp thời các nguyên liệu đầu vào và linh kiện xe máy nhập khẩu đảm bảo qúa trình sản xuất diễn ra liên tục. - Cải tiến trang thiết bị máy móc, có biện pháp xử lý kịp thời khi có sự cố kỹ thuật xảy ra. Theo ước tính của các chuyên gia nếu đảm bảo cả yếu tố vừa nêu công suất thực hiện sẽ đạt 80% công suất thiết kế (tức đạt khoảng 20.000 xe máy một năm cả hai dây chuyền ) và như vậy sẽ đảm bảo số lượng chất lượng sản phẩm hàng hoá xe máy cho tiêu thụ trong những năm tới. 6. Hoàn thiện bộ máy quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động : Đối với mỗi công ty tổ chức bộ máy quản lý đóng vai trò quyết định sự thành công trong kinh doanh. Đây chính là bộ phận đề ra và theo dõi chỉ đạo các kế hoạch, chiến lược kinh doanh. Không ngừng cải tiến và hoàn thiện bộ máy quản lý là cơ sở cho sự phát triển lâu dài của công ty. Nhìn chung cơ cấu quản lý phòng ban Công ty là hợp lý. Các phòng ban chức năng sắp xếp phù hợp với các lĩnh vực chuyên môn như phòng Kế toán tài chính ; phòng kinh doanh ; phòng tổ chức hành chính. Phòng kinh doanh được tách riêng thành 3 phòng độc lập nhằm quản lý tốt hơn hoạt động kinh doanh của từng nhóm hàng; ngành hàng ,như phòng kinh doanh xe đạp xe máy ; phòng kinh doanh Điện máy ; phòng kinh doanh vật tư. Các chi nhánh cửa hàng của Công ty hoạt động một cách độc lập, tự chịu trách nhiệm kết quả kinh doanh của đơn vị mình. Đây ưu thế mà Công ty cần phát huy hơn nữa trong thời gian tới, bên cạnh đó cần tăng cường quản lý giám sát các phòng ban, đơn vị trực thuộc; các đơn vị này đặt dưới sự quản lý chung của ban Giám đốc nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh trong các đơn vị kinh doanh. Công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên. Hiện nay Công ty có 640 cán bộ, nhân viên chỉ có 70% được đào tạo chuyên nghiệp, trong đó 87% đào tạo trong cơ chế cũ, chưa đáp ứng được nhiệm vụ kinh doanh Công ty mặt khác trong những năm qua, hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn kinh phí đào tạo còn eo hẹp. Vì vậy, thời gian tới Công ty cần chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ kinh tế và quản trị kinh doanh cho nhân viên Công ty với phương châm nhân viên tự bỏ kinh phí là chính cùng với sự hỗ trợ của công ty. Cần tinh giảm bộ máy quản lý, giảm chi phí gián tiếp. Hiện nay lao động gián tiếp chiếm 30% tổng số lao động Công ty song hiệu quả lao động thấp, theo đánh giá của ban lãnh đạo Công ty chỉ cần 1/2 số lượng nhân viên gián tiếp này cũng có thể hoàn thành tốt khối lượng công việc của Công ty. Do đó Công ty cần tích cực vận động cán bộ, nhân viên đủ tiêu chuẩn về nghỉ theo chế độ. Tuy nhiên đây là công việc không đơn giản, muốn thực hiện thành công cần quan tâm tới lợi ích thoả đáng người lao động khi về nghỉ như : Trợ cấp hưu trí, trơ cấp khó khăn... Cổ phần hoá Công ty, chuyển sang hình thức công ty cổ phần, đây là hình thức khá phổ biến trên thế giới và đã phát huy những ưu điểm của nó như nâng cao hiệu quả quản lý, huy động thêm vốn cho công ty ...Mặt khác, đây cũng vấn đề nằm trong chính sách tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước của Nhà nước ; Do đó nếu công ty tiến hành cổ phần hoá sẽ được hưởng chính sách ưu đãi của nhà nước. Tuy nhiên, đây cũng không phải là công việc đơn giản bởi lẽ công ty sẽ gặp phải những khó khăn như : Đánh giá lại TSCĐ, xác định lại giá trị công ty. Hơn nữa hoạt động kinh doanh của công ty đang gặp khó khăn nên việc bán cổ phiếu ra ngoài công ty sẽ là không đáng kể mà may chăng chỉ có người lao động trong công ty mua. III. Một số kiến nghị : Sau khi nghiên cứu về thực trạng hoạt động của công ty tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau. 1. Kiến nghị Nhà nước. Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ bản quyết định sự phát triển của nền kinh tế và sự thành công hay thất bại của nó có ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Công ty TODIMAX là một doanh nghiệp Nhà nước cũng như bao doanh nghiệp Nhà nước khác khi bước sang hạch toán kinh doanh độc lập sẽ gặp phải những vấn đề khó khăn nhất định, đặc biệt là vấn đề "Vốn". Thực tế là trong những năm gần đây vốn ngân sách cấp bổ sung là rất ít, hiện nay công ty đang có dự án hoàn thiện dây chuyền lắp ráp xe máy IKD, đây là dây chuyền có tính kỹ thuật cao khi hoàn thành sẽ mang lại lợi ích cho công ty, nhưng cần có sự hỗ trợ vốn kịp thời từ phía Nhà nước. Thêm vào đó Bộ tài chính cần có chính sách giảm mức thuế nhập khẩu một số mặt hàng như : Tủ lạnh, Điều hoà, Linh kiện xe máy. Đặc biệt khâu nhập khẩu linh kiện xe máy IKD với thuế nhập khẩu hiện nay là 60% và VAT 20% là quá cao. Bên cạnh đó, cơ quan Hải Quan cũng cần tăng cường kiểm soát chặt chẽ các hoạt động buôn lậu, nhập khẩu xe máy trái phép theo thống kê của cơ quan thuế, các hoạt động này chiếm 25% thị phần xe máy Trung Quốc tại Việt Nam, và nó ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của công ty. Vấn đề công chứng tài sản thế chấp của mình còn gặp phải rất nhiều phiền hà, đề nghị Nhà nưóc xem xét giảm bớt một số thủ tục rườm rà không cần thiết. Hiện nay, nguồn vốn ngân sách cung cấp cho doanh nghiệp rất ít, mặt khác khoản nợ của công ty lớn, công ty muốn huy động thêm vốn để tài trợ thêm cho hoạt động kinh doanh cần phải có tài sản thế chấp. Xuất phát từ thực trạng công ty, ta thấy tài sản mà công ty có thể đem thế chấp là quyền sử dụng đất, tuy nhiên do thủ tục hành chính còn nhiều rườm rà, việc công chứng quyền sử dụng đất gặp nhiều khó khăn do vậy công ty chưa phát huy hết tiềm lực về vốn của mình. 2. Kiến nghị với Bộ Thương mại: Công ty TODIMAX là một trong những doanh nghiệp trực thuộc Bộ Thương mại và chịu sự quản lý chung cuả ngành. Kết quả kinh doanh của công ty sẽ ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của cả ngành Thương mại. Bởi vậy tôi xin đề xuất một số ý kiến với Bộ Thương mại như sau: Bộ Thương mại cần có biện pháp hữu hiệu giúp đỡ công ty trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đặc biệt là hỗ trợ về vốn, mở rộng kinh doanh, ký kết các hợp đồng kinh tế với bạn hàng. Bộ Thương mại có thể nhân danh cấp chủ quản đứng ra bảo lãnh cho Công ty vay vốn từ ngân hàng giải quyết khó khăn về vốn kinh doanh. Thống nhất quản lý chế độ tài chính-kế toán trong toàn ngành giải quyết sòng phẳng vốn trong thanh toán nội bộ. Thời gian vừa qua tình trạng nợ đọng chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các đơn vị khá phổ biến. Riêng công ty TODIMAX, khoản phải thu từ các đơn vị trong nghành chiếm tới 50% khoản phải thu của Công ty. Tạo điều kiện cho các đơn vị trong việc tìm đối tác kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các đơn vị trong nghành. Kết luận Chúng ta không thể phủ nhận vai trò cũng như những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường với những quy luật của nó đã trở thành các động lực thôi thúc các doanh nghiệp phải thích nghi nếu không doanh nghiệp tự đánh bật mình ra khỏi thị trường. Tức là hoạt động kinh doanh phải có lợi nhuận và không những thế lợi nhuận phải tăng qua các năm. Tăng lợi nhuận không chỉ là định hướng kinh doanh của doanh nghiệp mà nó chính là cái đích mà mọi doanh nghiệp đều phải hướng tới. Song cho tới nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau trong việc nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Sau thời gian thực tập tại công ty Điện máy-Xe đạp-Xe máy, cơ sở tiếp xúc với thực tế cùng với những kiến thức được trang bị trong nhà trường và đặc biệt là được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Trần Thuý Sửu và các cô chú trong cơ quan đã tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Thông qua những nội dung được trình bày ở các chương, chuyên đề này đi sâu vào giải quyết một số vấn đề sau: Phần 1: Các khái niệm về lợi nhuận, nguồn gốc của lợi nhuận, các phương pháp xác định và từ đó nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận cho Công ty. Phần 2: Chuyên đề đi sâu vào phân tích tình hình tài chính của công ty, tình hình biến động lợi nhuận và các chỉ tiêu doanh lợi trong thời kỳ 1998-2000, phân tích hai mảng chính ảnh hưởng tới lợi nhuận là tình hình thực hiện doanh thu và chi phí của công ty. Trên cơ sở đó đưa ra các nhận xét đánh giá về kết quả thu được, những hạn chế và nguyên nhân của chủ yếu của nó, làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp ở chương sau: Phần cuối : Tập trung đưa ra các biện pháp nâng cao lợi nhuận cho công ty và đưa ra một số kiến nghị với Nhà nước và Bộ Thương mại. Chuyên đề đã được hoàn thành song do thời gian và trình độ chuyên môn còn hạn chế, nên vẫn còn một số vấn đề phân tích chưa được sâu sắc triệt để, rất mong sự đóng góp của thầy cô và bạn đọc. Một lần nữa em xin chân thành cám ơn cô giáo Trần Thuý Sửu, các cô, chú phòng Tài chính - kế toán Công ty Điện máy-Xe đạp-Xe máy (TODIMAX) đã giúp đỡ tận tình em trong quá trình thực tập cũng như trong qúa trình hoàn thành chuyên đề này. Tài liệu tham khảo 1.NXB Khoa học và kỹ thuật-1998. Giáo trình hiệu quả và quản lý dự án Nhà nước -Chủ biên GS. TS Mai Văn Bưu 2. NXB Giáo dục-1999. Quản trị tài chính -Trường ĐHTCKT 3. NXB Giáo dục-1997. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh 4.NXB Tài chính. Lý thuyết và thực hành kế toán tài -Chủ biên TS. Nguyễn Văn Công 5. Tạp chí tài chính 1999, 2000, 2001. 6. NXB Thống kê Hà nội -1994. Nghệ thuật kinh doanh - Trần Hữu Thực 7. NXB Giáo dục-1997. Phân tích báo cáo tài chính và hoạt động kinh doanh 8. NXB Giáo dục-1996. Kinh tế chính trị Mác-Lênin. 9. NXB Giáo dục-1999. Lịch sử các học thuyết kinh tế 10. NXB Tài chính Hà nội-1995. Hệ thống kế toán doanh nghiệp  Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I : Tổng quan về lợi nhuận doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 3 I. Lợi nhuận của doanh nghiệp 3 1. Khái niệm, nguồn gốc lợi nhuận doanh nghiệp 3 2. Tỷ suất lợi nhuận 4 2.1. Tỷ suất lợi nhuận vốn 5 2.2. Tỷ suất lợi nhuận giá thành 5 2.3. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu 5 3. ý nghĩa, vai trò của lợi nhuận 6 3.1. ý nghĩa của việc nghiên cứu lợi nhuận 6 3.2. Vai trò của lợi nhuận 7 II. Phương pháp xác định lợi nhuận và các chỉ tiêu tài chính đánh giá tình hình thực hiện lợi nhuận ở doanh nghiệp 9 1. Phương pháp xác định 9 1.1. Các bộ phận cấu thành lợi nhuận của doanh nghiệp 9 1.2. Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp 11 2. Các chỉ tiêu tài chính đánh giá tình hình lợi nhuận của doanh nghiệp 15 2.1. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm 16 2.2. Doanh lợi vốn 16 2.3. Doanh lợi vốn tự có 17 2.4. Phương pháp phân tích tài chính DUPONT 18 2.5. Phân tích điểm hoà vốn 20 III. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp 23 1. Các nhân tố bên trong 23 1.1. Chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá 23 1.2. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá 26 1.3. Công tác tổ chức quản lý quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 27 2. Các nhân tố bên ngoài 28 2.1. Môi trường kinh tế 28 2.2. Thị trường tiêu thụ sản phẩm 28 2.3. Chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước 39 IV. Các biện pháp nâng cao lợi nhuận doanh nghiệp 30 1. Các biện pháp tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm 30 1.1. Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường 30 1.2. Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng 31 1.3. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh 31 2. Các biện pháp giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm 31 2.1. Tăng năng suất lao động 31 2.2. Giảm chi phí trực tiếp 32 2.3. Giảm chi phí gián tiếp 32 3. Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý 33 Chương II : Phân tích tình hình lợi nhuận tại công ty điện máy -xe đạp, xe máy 34 I. Giới thiệu sơ lược về công ty 34 1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty 34 2. Chức năng nhiệm vụ của Công ty 35 3. Cơ cấu bộ máy Công ty TODIMAX 36 4. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty 39 II. Phân tích khái quát tình hình tài chính của Công ty điện máy xe đạp xe máy 40 1. Tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn 41 1.1. Tình hình nguồn vốn của Công ty 41 1.2. Tình hình sử dụng nguồn vốn 45 2. Khả năng thanh toán của Công ty 48 III. Phân tích tình hình lợi nhuận Công ty điện máy xe đạp, xe máy 49 1. Cơ cấu lợi nhuận của công ty 49 2. Phân tích chung tình hình lợi nhuận Công ty điện máy xe máy 50 3. Đánh giá mức doanh lợi của Công ty 57 4. Phân tích tình hình thực hiện doanh thu và chi phí của Công ty điện máy xe đạp xe máy 59 4.1. Tình hình thực hiện doanh thu tiêu thụ hàng hoá 59 4.2. Tình hình thực hiện chi phí của Công ty 61 5. Đánh giá chung tình hình lợi nhuận của Công ty 62 5.1. Những kết quả đạt được 62 5.2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân 64 Chương III : Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận cho Công ty điện máy xe đạp, xe máy 67 I. Định hướng phát triển kinh doanh của Công ty trong thời gian tới 67 II. Một số biện pháp nâng cao lợi nhuận cho Công ty TODIMAX 68 1. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh 68 2. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá 70 3. Sử dụng tiết kiệm chi phí kinh doanh 72 4. Xây dựng cơ cấu vốn tối ưu và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn 72 5. Hoàn thiện dây truyền lắp ráp xe máy IKD 74 6. Hoàn thiện bộ máy quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động 75 III. Một số kiến nghị 77 1. Kiến nghị Nhà nước 77 2. Kiến nghị với Bộ thương mại 78 Kết luận 78 Tài liệu tham khảo 80 Bản kê Một số từ viết tắt DTBH = Doanh thu bán hàng. TSCĐ = Tài sản cố định. QLDN = Quản lý doanh nghiệp. SPDD = Sản phẩm dở dang. KHTSCĐ = Khấu hao tài sản cố định. LN = Lợi nhuận Lnkd = Lợi nhuận kinh doanh ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4597.doc
Tài liệu liên quan