Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam khi hội nhập tổ chức thương mại thế giới WTO

Lời nói đầu Cạnh tranh là động lực của sự phát triển. Nền kinh tế nào có môi trường cạnh tranh tốt, lành mạnh, kinh tế đất nước đó phát triển bền vững. Bước sang giai đoạn mới - giai đoạn hội nhập và phát triển - Nền kinh tế nước ta đã và đang có sự chuyển đổi lớn - mang diện mạo của cơ chế mở, tự do cạnh tranh. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nhiệp phải chủ động trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình, nâng cao năng lực cạnh tranh ở phạm vi ngành, phạm vi quiốc gia và trên trường

doc46 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam khi hội nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quốc tế. Đặc biệt, khi Việt Nam đã chính thức là thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO, việc tham gia vào sân chơi chung cua thế giới mở ra nhiều cơ hội song cũng không ít thách thức đối với nền kinh tế của Việt Nam. Trong đó việc phải bắt buộc tuân thủ những luật chơi chung với sự cạnh tranh rất khốc liệt của tất cả các nền kinh tế Quốc tế. Chính vì thế, trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao năng lực cạnh tranh đối với tất cả các loại hàng hoá "Made in Viêt Nam", chú trọng vào các mặt hàng thế mạnh, đang là vấn đề cấp thiết được đặt ra đối với mỗi ngành và toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên so với nhiều nước trong khu vực, năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam chưa cao, cần có giải pháp phát triển, cải thiện theo hướng hiệu quả nhất để phát huy được những ưu thế, tiềm năng của nước ta. Đó cũng chính là lí do tôi chọn đề tài: "Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO" Kết cấu đề tài gồm 2 phần lớn: A. Khái quát về tổ chức thương mại thế giới WTO: I. Tổng quan về WTO. II. Quá trình gia nhập WTO của Việt Nam. B. Một số vấn đề về năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam: I. Lý luận về cạnh tranh và kinh nghiệm của một số nước (ASEAN và Trung Quốc). II. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hoá khi gia nhập WTO của Việt Nam. A. KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO. I. Tổng quan về WTO: WTO (World Trade Oganization) là tổ chức thương mại thế giới được thành lập vào năm 1995, tiền thân là hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT (General Agreement on Tariffs and Trade) bắt đầu chính thức có hiệu lực từ năm 1948. WTO là một tổ chức kinh tế nhiều bên có quy tắc kinh tế thương mại quốc tế chuẩn mực hiện nay. WTO cùng Quỹ tiền tệ thế giới và ngân hàng thế giới được coi là ba trụ cột lớn của kinh tế thế giới. Sau đại chiến thế giới GATT và WTO đã phát huy tác dụng quan trọng trong việc mở cửa thị trường thương mại quốc tế, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, thu hút đông đảo các nước phát triển tham gia thương mại nhiều bên, thúc đẩy phát triển kinh tế thế giới. Từ khi thành lập (1948), số thành viên của tổ chức này chỉ là 23, con số này không ngừng tăng lên qua các năm. Đến nay đã có 150 quốc gia trên toàn thế giới thm gia vào WTO. 1. Tôn chỉ: Nâng cao mức sống, bảo đảm có việc làm đầy đủ và thu nhập thực tế, nhu cầu có hiệu quả được nâng cao với biên độ ổn định lớn; mở rộng sản xuất và thương mại về hàng hoá và dịch vụ nhằm mục đích phát triển bền vững, mở rộng việc lợi dụng đầy đủ tài nguyên thế giới, bảo vệ môi trường; cần phải cố gắng tích cực đảm bảo các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước chậm phát triển nhận được phần tương ứng phát triển kinh tế của họ trong sự tăng trưởng thương mại Quốc tế; thông qua sự sắp xếp cùng nhau có lợi, giảm thấp thiết thực thuế quan và hàng rào thương mại khác trong quan hệ thương mại quốc tế, loại bỏ sự phân biệt thương mại đối sử, xây dựng một hệ thống thương mại nhiều bên hoàn chỉnh, càng có sức sống và lâu dài, quyết tâm duy trì nguyên tắc cơ bản của thể chế thương mại, những thành quả cố gắng tự do hoá thương mại trước vòng đàm phán Uruguay (1995) tiến đến tăng cường thực hiện mục tiêu của thể chế này. 2. Chức năng cơ bản và địa vị pháp luật: a. Chức năng: • Quản lý và thực hiện hiệp định thương mại nhiều bên và hiệp định thương mại các bên cùng cấu tạo nên quy tắc WTO. • Là trụ sở và diễn đàn đàm phán thương mại nhiều bên đồng thời cung cấp khuôn khổ cho kết quả đàm phán thương mại nhiều bên. • Giải quyết tranh chấp theo cơ chế tranh chấp, tránh hạn chế sự cọ sát chiến tranh thương mại, có lợi cho cân đối và phát triển công bằng thương mại. • Giám sát và xem xét chính sách và cơ chế thương mại của các nước thành viên. • Điều hoà mối quan hệ với các tổ chức kinh tế có ảnh hưởng đến chính sách thương mại như Tổ Chức Quỹ Tiền Tệ Thế Giới và Ngân Hàng Thế Giới, nhằm đảm bảo tính thống nhất của quyết sách kinh tế toàn cầu. b. Địa vị pháp luật: WTO có tư cách pháp nhân, khi thực hiện chức trách có liên quan, có độc quyền cần thiết và quyền miễn trừ. Đây không phải là cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc, thành viên của nó gồm các quốc gia có chủ quyền, cũng bao gồm khu vực thuế quan riêng lẻ. 3. Cơ cấu tổ chức: - Hội nghị bộ trưởng (MC) :là cơ quan quyền lực cao nhất của WTO, ít nhất 2 năm họp một lần. + Thực hiện chức năng của WTO, nêu lên quyết định đối với đối với bất kì việc gì trong hiệp định thương mạ nhiều bên. + Gồm: Các bộ trưởng, quan chức cấp thứ trưởng chuyên về công tác kinh tế tài chính nước thành viên hoặc đại diện toàn quyền các nước thành viên. - Đại hội đồng (GC) : + Thực hiện các chức năng của MC. Ngoài ra thực hiện chức năng hiệp định WTO chỉ định, đặt ra quy tắc trình tự của mình. + Gồm: Tất cả các đại diện của các nước thành viên. - Uỷ ban chuyên môn và các cơ quan chuyên trách: Dưới MC. 4. Nguyên tắc: 6 nguyên tắc: 1. Kinh tế thị trường và tự do cạnh tranh: Mở cửa thị trường, tự do hoá thương mại. Đòi hỏi các nước gia nhập phải thực hiện kinh tế thị trường, lấy kinh tế thị trường làm nền tảng. 2. Không phân biệt đối sử: Ưu đãi và hạn chế đòi hỏi hai bên thành viên phải thực hiện, là hòn đá tảng và cốt lõi của WTO. 3. Sự ràng buộc thuế quan và cắt giảm thuế quan: Cơ sở ưu đãi sau các cuộc đàm phán nhiều bên có sức ràng buộc các thành viên. 4. Nguyên tắc loại bỏ sự hạn chế số lượng nói chung: Bất kì là nước kí hiệp địmh nào ngoài thuế, các khoản lệ phí khác ra, không được lập và duy trì hạn ngạch, giấy cho phép xuất nhập khẩu hoặc các biện pháp khác nhằm hạn chế hoặc ngăn chặn nhập. 5. Nguyên tắc thương mại cộng đồng: Chủ yếu nhằm chống lại sự bán phá giá và chống sự trợ giá. 6. Nguyên tắc minh bạch: Hải quan nước kí kết hiệp định thực hiện có hiệu quả về phân loại và tin giá đối với sản phẩm, tỷ xuất thu thuế đối với các loại lệ phí khác, về hàng hoá xuất nhập khẩu và các quy chế ngăn cấmvề chuyển khoản thanh toán. 5. Quyền và nghĩa vụ của các thành viên: a. Đối với các thành viên nói chung: • Quyền lợi và nghĩa vụ: Các mặt như hàng hoá, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ theo hiệp nghị GAAT/WTO hưởng thụ đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia về điều kiện nhiều bên, lâu dài, ổn định. Sử dụng các cơ quan giải quyết tranh chấp WTO, đồng thời tiếp nhân sự giám sát của cơ quna giải quyết tranh chấp đối với mình, giải quyết công bằng, các tranh chấp thương mại. Tham gia đàm phán tập thể và hoạt động của thể chế thương mại nhiều bên để có quyền chế định và quyền quyết định các quy luật kinh tế thương mại quốc tế. Được hưởng hiến pháp ngoại tệ, tự vệ nhằm đảm bảo an toàn kinh tế và ổn định xã hội của nước mình, đồng thời không được lạm dụng những nguyên tắc này để thực hiện chủ nghĩa độc quyền về thực chất. • Sự ràng buộc: Tự ràng buộc mình: Tuân theo cam kết của mình, đặc biệt đảm bảo luật pháp trong nước không trái hiệp định, nguyên tắc của WTO. Ràng buộc tập thể: Giám sát việc chấp hành hiệp nghị thương mại nhiều bên. Ràng buộc trả đũa: Nguyên tắc cùng có lợi và ưu đãi lẫn nhau. Đối phương thường muợn cớ người khác vi phạm, nhưng cuối cùng cả hai đều đạt được thoả hiệp, theo đúng nguyên tắc bình thường của tổ chức. b. Đối với các nước đang phát triển (các nước chưa hoàn thành công nghiệp hoá và đang trong giai đoạn phát triển) Quy định các thành viên nước phát triển cung cấp viện trợ, kĩ thuật và mở cửa toàn diện, đơn phương thị trường hàng hoá và dịch vụ đối với các nước đang phát triển. • Hiệp định chống bán phá giá quy định: Các nước đang phát triển khi thực hiện bán phá giá cần xem xét đặc biệt trong tình hình đặc thù đối với các sản phẩm của các nước đang phát triển xuất khẩu. • Hiệp nghị về cho phép xuất khẩu: Những cục kí và cấp giấy phép cần đặc biệt xem xét giấp phép phân phối đặc biệt đối với những nhà buôn của các nước đang phát triển và chậm phát triển. • Hiệp định hàng rào kĩ thuật cản trở thương mại: Sự đãi ngộ đặc biệt, không cản trở các nước này xuất khẩu. • Hiệp nghị về biện pháp y tế và kiểm dịch: Các nước không áp dụng biện pháp kiểm dịch để hạn chế xuất khẩu của các nước đang phát triển. II. Quá trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO của Việt Nam 1. Bước đường gia nhập WTO: Theo thời báo kinh tế Việt Nam số Tết Đinh Hợi 2007 đã nhận xét: "Việt Nam là thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Quá trình đàm phán 11 năm đã khép lại với bao kỉ niệm, những linh hoạt và trí tuệ , những kiên trì và nỗ lực của Việt Nam đã đơm hoa thơm, kết trái ngọt". Các cột mốc đáng nhớ: - Tháng 01/1995: Việt Nam chính thức gửi đơn xin gia nhập WTO. - Ngày 31/01/1995: Ban xem xét công tác gia nhập (WP) của Việt Nam được thành lập. - Đầu năm 2002: Việt Nam gửi bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ tới WTO và bắt đầu tiến hành song phương đối với một số thành viên. - Ngày 09/10/2004: Việt Nam và EU đạt được thoả thuận song phương. - Ngày 09/06/2005: Việt Nam và Nhật Bản đạt được thoả thuận song phương cơ bản. - Ngày 18/07/2005: Việt Nam và Trung Quốc đạt được thoả thuận xong phương. - Ngày 31/05/2006: Kí thoả thuận kết thúc đàm phám song phương bằng thoả thuận song phương với Mỹ. - Ngày 13/10/2006: Việt Nam hoàn tất đàm phán đa phương. Cuộc đàm phán trước đó diễn ra căng thẳng và tưởng chừng không kết thúc được cho đến phút chót. - Ngày 07/11/2006: Phiên họp đặc biệt của đại hội đồng WTO đã thông qua quyết định kết nạp WTO. Bộ trưởng Trương Đình Tuyển thay mặt chính phủ Việt Nam kí nghị định thư gia nhập. Theo quy định 30 ngầy sau khi ban thư kí WTO nhận được văn bản phê chuẩn, quy chế chính thức có hiệu lực. - Ngày 29/11/2006: Quốc hội Việt Nam phê chuẩn kết quả thoả thuận. - Ngày 06/12/2006: Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết kí lệnh công bố nghị quyết phê chuẩn nghị định thư. - Ngày 11/12/2006: Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ ngoại giao Phạm Gia Khiêm gửi ban thư kí WTO thông báo hoàn tất thủ tục phê chuẩn. Cùng ngày Đại diện Thương mại Việt Nam bên cạnh WTO tại Geneva chuyển tới chủ tịch đại hội đồng WTO. - Ngày 11/01/2007: Quy chế thành viên chính thức có hiệu lực. 2. Tác động của hội nhập WTO với Việt Nam: Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu: Trong bối cảnh toàn cầu hoá, sự mở cửa các nền kinh tế nội địa, sự tăng cường các thể chế kinh tế quốc tế và quyền lực của các công ty xuyên quốc gia đã đóng gáp vào việc thúc đẩy cấu trúc thị trường được hội nhập trên phạm vi toàn cầu. Thực tế không thể phát triển chỉ nhờ lợi thế so sánh, nó không phải chìa khoá vàng dẫn các nước đến sự thịnh vượng. Điều quan trọng là phải nắm bắt được lợi thế cạnh tranh qua tri thức, đổi mới, nguồn vốn để đạt được những chỉ tiêu tăng trưởng bền vững. a. Thuận lợi: • Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu (do áp dụng việc cắt giảm hàng rào thuế quan) với nguồn tài nguyên phong phú và chi phí lao động rẻ. Hiện nay, hàng xuất khẩu của Việt Nam phải chịu mức thuế quan phi tối huệ quốc(Non-MFN) vào khoảng 40%,mức cao hơn nhiều so với tỷ lệ thuế quan trong WTO. VD: Thuế quan đánh vào dệt may Việt Nam vào Mỹ hiện tại cao gấp 3 lần mức thuế quan nếu như Việt Nam là thành viên của WTO. • Thu hút nhiều vốn đầu tư trưc tiếp FDI, môi trường đầu tư lành mạnh, hệ thống pháp luật thuận lợi, hoàn chỉnh, gọn gàng. • Bảo vệ được quyền lợi hợp pháp dựa vào cơ quan giải quyết tranh chấp WTO, những vụ kiện thương mại. Trong những năm qua, Việt Nam phải chịu nhiều tổn thất trong thương mại quốc tế với các đối tác nước ngoài vì Việt Nam không phải là thành viên của WTO, để có thể dựa vào hệ thống này nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng. VD: Việc sản phẩm cá Basa của Việt Nam phải chịu mức thuế bán phá giá của Mĩ (bán dưới mức chi phí thị trường, làm tổn hại đến các nhà sản xuất Mĩ. Do chưa gia nhập, việc đàm phán để duy trì xuất khẩu cá Basa sang Mĩ chỉ trên cơ sở của hiệp định-Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kì.Và kết quả không thể ngăn Mĩ thực hiện hàng bán phá giá vào sản phẩm cá Basa. • Cơ hội việc làm: Đối với các ngành cần nhiều lao động (dệt may thuỷ sản, hàng thủ công và nông nghiệp). b. Thách thức: Thách thức lớn nhất là việc đảm bảo khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp, từng ngành nói riêng và toàn quốc gia nói chung. Việc mở cửa tạo ra môi trường thuận lợi cho kimh doanh sẽ làm cho doanh nhân nước ngoài có sự tiếp cận rộng gơn với thị trường Việt Nam. Nhiều ngành dịch vụ rơi vào bất lợi. VD: Tại vòng đàm phán Đoha đã đạt được những yêu cầu khó khăn hơn đối với nghành nông nghiệp của các thành viên như: Xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu, thực hiện chuẩn quốc tế về đảm bảo an toàn thực phẩm, xoấ bỏ hàng rào thuế quan. (Những vấn đề cụ thể sẽ được đề cập đến trong phần sau) B. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO. I. Lý luận về cạnh tranh và kinh nghiệm của một số nước (Trung Quốc và các nước Asean). 1. Lý luận về cạnh tranh: a. Quan niệm về cạnh tranh của kinh tế chính trị Mác-Lênin: • Khái niệm: Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hoá nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể diễn ra giữa những người sản xuất với người tiêu dùng. VD:Người sản xuất muốn bán được hàng hoá với giá cao còn người tiêu dùng thì lại muốn mua với giá rẻ; hoặc giữa những người tiêu dùng để mua những hàng hoá rẻ hơn, chất lượng hơn; hoặc giữa những người sản xuất với người sản xuất nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, như điều kiện về vốn lao động, nguồn nguyên liệu thị trường, giành giật nơi đầu tư có lợi... để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Trong cuộc cạnh tranh này người ta có thể dung nhiều biện pháp khác nhau. Chẳng hạn để gình giật thị trường tiêu thụ, họcó thể dùng biện pháp cạnh tranh giá cả như giảm giá cả hàng hoá để đánh bại đối thủ, hoặc cạnh tranh phi giá cả như dùng thông tin, quảng cáo sản phẩm, quảng cáo dây truyền sản xuất để kích thích tiêu dùng. Vai trò của cạnh tranh: • Mặt tích cực: Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc ngươi sản xuất phải thường xuyên năng động, nhạy bén, thường xuyên cải tiến kĩ thuật, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao tay nghề, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Đó chính là cạnh tranh lành mạnh. Thực tế cho thấy, ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì ở đó thường trì trệ bảo thủ, kém phát triển. • Mặt tiêu cực: Đó chính là cạnh tranh không lành mạnh như dùng những thủ đoạn vi phạm đạo đức hoặc vi phạm pháp luật nhằm thu được nhiều lợi ích nhất cho mình, gây hai cho tập thể, cộng đồng, xã hội như làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, ăn cắp bản quyền, tung tin phá hoại đối thủ, hoặc cạnh tranh làm phân hoá giầu nghèo hoặc tổn hại đối vơíu môi trường sinh thái v.v... b. Quan điểm về cạnh tranh dựa trên mô hình năm lực lượng của Michael Porter: • Khách hàng: Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thì sự tín nhiệm của khách hàng có thể được coi như là một phần thưởng vô giá của doanh nghiệp. Sự tín nhiệm đó được có được là do doanh nghiệp đã cung cáp những sản phẩm phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Trong trường hợp nhà cung cấp giữ vị trí độc quyền thì khách hàng lệ thuộc hoàn toàn vào nhà cumg cấp. Chính vì vậy trong nền kinh tế thị trường, chúng ta cần có luật chống độc quyền. • Các đối thủ cạnh tranh theo nghành: Mức độ căng thẳng của sự cạmh tranh của các đối thủ không phải là biến số dễ dàng đo được. Trong một số ngành cạnh tranh có thể là "bóp nghẹt", trong khi đó ở một số ngành khác mối quan hệ giữa các doanh nghiệp lại được coi là "lịch sử" hay "có trật tự", các yếu tố xác định mức độ tranh giành: Tăng trưởng của ngành, chi phí cố định hoặc chi phí lưu kho, sự vượt công suất không liên tục, những khác biệt về sản phẩm, sự xác định của các nhãn hàng và chi phí chuyển của khách hàng, số doanh nghiệp và quy mô tương ứng của chúng, sự đa dạng của các đối thủ cạnh tranh, lợi ích của công ty, hàng rào rút khơi cao. Trong thực tế các nhà đầu tư đặc biệt không thích những cuộc chiến cạnh tranh thông qua giá cả vì nó sẽ làm giảm lợi nhuận co cả ngành. • Các nhà cung cấp: Những nhà cugn cấp vật tư nguyên vật liệu thiết bị cho doanh nghiệp có thể làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp bằng việc tăng giá, giảm chất lượng vật tư cung cấp hoặc giảm các dịch vụ đi kèm sẽ có thể gây áp lực cho các doanh nghiệp khi số lượng các nhà cung cấp ít, không có loại thay thế khi chi phí cho việc chuyển sang các nhà cung cấp khác rất tốn kém. • Các doanh nghiệp sẽ tham gia thị trường (đối thủ tiềm ẩn): Các đói thủ tiềm ẩn thường xuất hiện ở khu vực mới hình thành bởi vì khu vực này nhu cầu lớn, lợi nhuận cao thì khách hàgn chưa kịp làm quen với những sản phẩm có uy tín. Mối đe doạ này phụ thuộc vào ba nhân tố: Độ hấp dẫn của khu vực, độ lớn của các rào chắn vào khu vực, phản ứng từ phía các nhà sản xuất trong khu vực đối với đối thủ mới. Quy mô rào cản ở các khu vực bao gồm quy mô sản xuất của một doanh nghiệp ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, quy mô càng lớn thì gái thành càng thấp. Chính vì vậy mà một daonh nghiệp mới nhảy vào khu vực thì quy mô doanh nghiệp mới cần vượt qua ngưỡng: Giá thành sản phẩm cần thấp hơn giá mà thị trường chấp nhận, có quy mô phải vượt ngưỡng quy mô của các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực. Nhân tố quyết định quy mô rào cản đầu vào cũng chính là khả năng liên kết của doanh nghiệp đối với hệ thống kênh tiêu thụ. Một doanh nghiệp mới tham gia khu vực để cho hệ thống kênh tiêu thụ sản phẩm cho mình phải dùng biện pháp giảm giá hoặc ưu đãi khác. Quyết định quy mô rào cản đầu vào bao gồm cả hệ thống chính sách; thủ tục cấp giấy phép, thủ tục đăng kí chất lượng sản phẩm nhãn mác và đó là một rào cản; chính sách thuế xuất nhập khẩu. • Các sản phẩm thay thế: Nếu các sản phẩm thay thế cho các sản phẩm của ngành là sẵn có thì khách hàng có thể chuyển sang các sản phẩm thay thế đó nếu các doanh nghịêp đang tồn tại đạt giá cao. Vì thế mối đe doạ của các sản phẩm thay thế là một lực lượng thị trường quan trọng tạo ra giới hạn đối với các mức mà giá mà các doanh nghiệp đã đặt ra. Tầm quan trọng của mối đe doạ này phụ thuộc vào ba yếu tố: giá và công dụng của các sản phẩm thay thế, chi phí chuyển đổi đối với khách hàng, khuynh hướng thay thế của người mua, khả năng sản phẩm thay thế tăng lên cùng sự già cõi, sự lạc hậu của sản phẩm trong khu vực (khu vực đang trong gai đoạn suy thoái) bên cạnh đó do tiến bộ của khoa học công nghệ, xuất hiện sản phẩm mới đáp ứng tốt hơn nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. c. Thực tế cạnh tranh: Môi trường thường xuyên biến động của thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh cho thấy không có một môi trường nào ở trạng thái cạnh tranh hoàn hảo hoặc hoàn toàn độc quyền, nó chỉ có ý nghĩa tương đối vì năng lực thực tế, điều kiện củ quan và kể cả "cơ may" của các doanh nghiệp không thể đồng nhất. Mọi nền kinh tế thị trường đều có trạng thái cạnh tranh không hoàn hảo, ở đâu đó giữa hai cực này. Cả hai lực lượng độc quyền và cạnh tranh kết hợp với nhau trong việc xác định phần lớn giá cả. Vì thế càng khẳng định rõ hơn: Xác định một nền kinh tế là có tính cạnh tranh hay độc quyền trở nên có ý nghĩa tương đối. Tuy nhiên cũng không phải là vì tính tương đối và sự phức tạp cảu vấn đề mà không thể phân biệt rạch ròi giữa tình trạng độc quyền và tính cạnh tranh về nguyên tắc, người ta có thể coi một nền kinh tế có nhiều yếu tố cản trở sự cạnh tranh là một nền kinh tế thiếu cạnh tranh và ngược lại. Cạnh trnanh là hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, do đó cạnh tranh chỉ xuất hiện dưới những tiền đề kinh tế và pháp lý cụ thể. Ngày nay nền kinh tế thị trường được khẳng định là một sựphát triển tất yếu là động lực phát triển nội tại của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh cũng chỉ thẹc sự diễn ra khi pháp luật thừa nhận và bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu, khi tự do thương mại theo đó là tự do kinh doanh. Cạnh tranh cũng chỉ thực sự diễn ra khi không có bất kì một quy định hay hành vi nào ngăn cản sự nhập cuộc của các daonh nghiệp tiềm năng - những doanh nghiệp chuẩn bị gia nhập thị trường. Điều đó có nghĩa là cạnh tranh chỉ xuất hiện được khi không có độc quyền dưới bất cứ hình thức nào. Ngày nay nhu cầu năng cao hơn nữa hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế đang đòi hỏi phải tạo ra cơ sở pháp lý cho tự do kinh tế. Có thể có nhiều định nghĩa khác nhau cạnh tranh song nhìn chung, cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua hay ganh đua của một thành viên của một thị trường hàng hoá, sản phẩm cụ thể nhằm mục đích lôi kéo về phía mình ngày càng nhiều khách hàng, thị trường và thị phần của thị trường. Như vậy về phương diện kinh tế, cạnh tranh được hình thành trên cơ sở của tiền đề là: Có sự hiện diện của các thành viên thương trường có ự chạy đua vì mục tiêu kinh tế của các thành viên và chúng đều diễn ra trên một thị trường hàng hoá cụ thể. Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của công quyền và đời sống kinh tế, người ta phân thị trường thành hai hình thái: Cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết. Cạnh tranh tự do là hiện tượng không thể có trong thế giới hiện đại vì kinh tế thị trường hiện đại luôn có nhu cầu được điều tiết và nhà nước nào cũng có chính sách kinh tế riêng và vì thế luôn tìm cách hướng các hạot động kinh tế vào mục tỉêu kinh tế (vĩ mô) của mình. căn cứ vào mục đích tính chất của các phơưng thức cạnh tranh người ta phân nhóm các hành vi cạnh tranh dựa trên các hình thái kin tế thị trờng gồm hai loại: Cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, vì được bảo hộ bởi các nguyên tắc về quyền tự do kinh doanh, tự do thế ước và tự do lập hội và sự giục giã của lợi nhuận nên thực trạng của thương trường luôn diễn ra theo hướng không lành mạnh. d. Các yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh ngành: • Tác động cảu môi trường quốc tế: Môi trường quốc tế ảnh hưởng rất lớn đến cạnh tranh của ngành. Ngày nay xu thế khu vực hoá và quốc tế hoá nền kinh tế thế giới là xu hướng có tính khách quan. Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng mở cửa và hội nhập. Nền kinh tế quốc dân nước ta trở thành một phân hệ mở cửa của một hệ thống lớn là khu vực và thế giới. Hoạt động kinh doanh của nhiều doang nghiệp phụ thuộc vào sự thay đổi chính trị trên trường quốc tế, các quy định pháp luật của các quốc gia, luật pháp và các thông lệ quốc tế, ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế quốc tế. Mức độ thịnh vượng, khủng hoảng, những thay đổi trong qunn hệ buôn bán quốc tế, các yếu tố kĩ thuật công nghệ văn hoá xã hội...tất cả đều ảnh hưởng đến hạot động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có thể tạo cơ hội cũng như thách thức đối với sự tồn tại và phát triển cảu ngành. • Tác động của môi trường kinh tế quốc dân: Môi trường kinh tế quốc dân bao gồm mọi nhân tố cảu nền kinh tế quốc dân nằm ngoài môi trường cạnh tranh nội bộ ngành tác động trực tiếp hoặc gaínn tiếp đến hoạt động kinh doanh cảu các doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế có vai trò quan trọng hàng đầu và ảnh hưởng có tính quyết định đến hoạt động kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng mạnh đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thường là trạng thái phát triển cảu nền kinh tế. Tăng trưởng, ổn định hay sinh thái. Việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh hay không lành mạnh hay không hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố luật pháp và quản lí nhà nước về mặt kinh tế.Việc ban hành hệ thống luật pháp có chất lượng và đưa vào đời sống là điều kiện đầu tiên đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, tạo điều kiện cho mọi daonh nghiệp có cơ hội cạnh tranh lành mạnh cùng hệ thống luật pháp, quản lí nhà nước về mặt kinh tế là nhân tố tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Các chính sách đầu tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu...sẽ tạo ra sự ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành, tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thuộc ngành kinh tế nhất định. Trình độ kĩ thuật công nghệ, nhân tố văn hoá xã hội, nhân tố tự nhiên ảnh hưởng rất lớn, đòi hỏi phải nghiên cứu, ứng dụng phù hợp nhất. • Tác động của môi trường bên trong doanh nghiệp: ∙ Chất lượng hoạt động Marketing nhằm xác định nhu cầu của khách hàng, thị hiếu cảu khách hàng để trên cơ sở đó hoạch định các chính sách kích thích tiêu thụ. Chất lượng hoạt động Marketing của doanh nghiệp ngày càng cao, phạm vi càng rộng thì càng góp phần giúp cho doanh nghiệp có lợi thế cho cạnh tranh. ∙ Khả năng sản xuất nghiên cứu và phát triển khả năng này thể hiện ở doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm có chất lương cao hơn, giá thành thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Khả năng nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng, nó có thể giúp cho daonh nghiệp có vai trò quan trọng, nó có thể giúp cho các doanh nghiệp vẫn giữ được vị trí hàng đầu trong khu vực cạnh tranh hoặc có thể làm cho doanh nghiệp tụt hậu trong khu vực. ∙ Nguồn nhân lực: Là năng lực trình độ cán bộ quản lý, trình độ tay nghề đạo đức của người lao động, giá trị của các mối quan hệ trong lao động trong doanh nghiệp đối với các đối thủ cạnh tranh. ∙ Tình hình tài chính: Điều kiện tài chính thường được xem là phương pháp đánh giá vị trí cạnh tranh tốt nhất cho các doanh nghiệp so với đối thủ và điều kiện tài chính của doanh nghiệp thường được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như khả năng thanh toán của doanh nghiệp, can nợ, vốn luôn chuyển, lượng tiền mặt, tỉ xuất lợi nhuận,... ∙ Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp: Quản trị doanh nghiệp tác động mạnh mẽ đến hoạt động lao động sáng tạo của đội ngũ lao động, đến sự đảm bảo cân bằng giữa doanh nghiệp với môi trường bên ngoài cũng như cân đối có hiệu quả các bộ phận bên trong doanh nghiệp, quan hệ nhân quả giữa hia hoạt động này ảnh hưởng đến hiệu quả cơ cấu tổ chức thông qua các chỉ tiêu tốc độ giao thiết bị, tính kịp thời, độ chính xác của các quyết định. 2. Kinh nghiệm của một số nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hoá (một số nước ASEAN và Trung Quốc): a. Đối với Thái Lan: Mặc dù Thái Lan là một trong 5 nước sáng lập ra ASEAN (8/1967), khối kinh tế khu vực được coi là phát triển năng động nhất hiện nay, đồng thời, Thái lan còn là thành viên của Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công (gồm Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam, ký ngày 17/9/1957), nhưng quá trình hội nhập thực sự của Thái Lan với nền kinh tế thế giới bắt đầu thể hiện rõ nét vào cuối những năm 80 thế kỷ XX, khi kinh tế Thái Lan rơi vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Vào thời kỳ này, Chính phủ Thái Lan thực hiện 2 cuộc cải cách quan trọng: Khu vực kinh tế tư nhân được chính thức thừa nhận là động lực phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước khuyến khích khu vực kinh tế này đi đầu trong lĩnh vực đầu tư vì khu vực kinh tế quốc doanh gặp nhiều khó khăn trong lĩnh vực tài chính. Kinh doanh được tự do triệt để, do vậy, khu vực kinh tế tư nhân đã phát huy được những lợi thế của kinh tế thị trường; Chính phủ Thái Lan đã ban hành những chính sách ưu đãi đặc biệt cho ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời, Bộ Thương mại Thái Lan từng bước hoàn thiện hệ thống các công cụ hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu. Bộ Tài chính Thái Lan thực thi việc giảm thuế xuất nhập khẩu, nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động kinh tế đối ngoại. Hai cải cách kinh tế nêu trên đã đánh dấu quá trình hội nhập thực sự của nền kinh tế Thái Lan với nền kinh tế thế giới và khu vực. Từ giữa thập kỷ 90 thế kỷ trước trở lại đây, nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Thái Lan nói riêng đã có những biến đổi sâu sắc. Vì vậy, Thái Lan đã tự đánh giá và điều chỉnh để đưa ra chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp với tình hình mới. Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế gồm 4 nội dung chủ yếu: Đào tạo nguồn nhân lực; tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu và tăng cường thâm nhập vào các nước mới mở cửa. • Đào tạo nguồn nhân lực Các công trình nghiên cứu về các yếu tố của sự phát triển, cho thấy có mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa GDP tính theo đầu người và tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông cũng như đại học. Tuy nhiên, ở Thái Lan, mối quan hệ đó diễn ra không hoàn toàn như vậy. Khi GDP tính theo đầu người ở mức 1000 USD/năm, tỷ lệ học sinh vào trung học phổ thông so với lứa tuổi tại Thái Lan, Hàn Quốc và Braxin lần lượt là 9%, 27% và 11%. Khi GDP tính theo đầu người tại nhóm nước này tăng lên tới 2000 USD/năm, tỷ lệ đó lần lượt là 26%, 52% và 21%. GDP tính theo đầu người tiếp tục tăng lên tới mức 3000 USD/năm, tỷ lệ đó hầu như không đổi tại Thái Lan, trong khi tại Hàn Quốc là 85% và tại Braxin là 35%. Trong tình hình hiện nay, khi Thái Lan đang nỗ lực thay đổi cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hướng sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao, từng bước thay thế những sản phẩm xuất khẩu có chi phí lao động cao, nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực của sự giảm sút khả năng cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu, thì nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực trở nên thực sự cần thiết. Do đó, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội lần thứ 8 (1997 - 2001) của Thái Lan đã khẳng định, nguồn nhân lực có học vấn cao thực sự là nhân tố thiết yếu cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Trên cơ sở đó, mục tiêu đề ra cho năm 2020 của Thái Lan là nâng tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học so với lứa tuổi lên khoảng 40%, tương đương với tỷ lệ của Hàn Quốc và Nhật Bản hiện nay. Đồng thời, phát triển hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật, nhằm tạo thêm cơ hội học tập cho thế hệ thanh niên hiện nay. Đây là nhân tố quan trọng nhất để biến mục tiêu đạt mức GDP trên đầu người khoảng 12.000 USD vào năm 2020 trở thành hiện thực. • Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài Trong cuộc chạy đua quyết liệt nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu vực Đông á, ngay sau khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, Thái Lan đã thay đổi những chính sách của mình để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn hơn so với các nước trong khu vực. Cụ thể: nâng mức sở hữu nước ._.ngoài lên 49% đối với các dự án thông thường, 100% đối với các dự án có trên 80% sản phẩm xuất khẩu. Ngoài ra, đối tác nước ngoài còn được phép điều chỉnh tỷ lệ sở hữu lên trên 51% trong trường hợp đối tác Thái Lan gặp khó khăn về tài chính. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính Thái Lan hủy bỏ quy định phải có 30% sản phẩm xuất khẩu trở lên, mới được hưởng miễn giảm thuế trong các ngành công nghiệp chế tạo. Hiện nay, khi quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực đang tiếp tục được thúc đẩy, để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, Thái Lan nhất thiết phải thu hút FDI cho các ngành sử dụng công nghệ cao. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, Thái Lan cần phải phát triển mạng lưới ngành công nghiệp hỗ trợ một cách thích ứng (mạng lưới công nghiệp hỗ trợ của Thái Lan được coi là khâu yếu nhất trong thu hút FDI). Vì những đòi hỏi đó, Thái Lan quyết tâm xây dựng một cơ cấu công nghiệp đa dạng (gồm 14 ngành), mà nòng cốt là các công ty đầu tư đến từ các nước công nghiệp phát triển, đặc biệt là các công ty từ Nhật Bản và Mỹ. Trong nước, Chính phủ Thái Lan cố gắng đảm bảo sự ổn định về chính trị, đầu tư vào việc xây dựng cơ cở hạ tầng một mức thích ứng, ngăn chặn sự gia tăng tiền lương, đảm bảo nguồn cung về nhân viên kỹ thuật và đội ngũ công nhân tay nghề cao, cũng như các yếu tố đầu vào cho các ngành công nghiệp. Theo họ, một cơ cấu công nghiệp hỗ trợ đa dạng được phát triển tốt sẽ là yếu tố tốt nhất để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. •Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Một số sản phẩm xuất khẩu với chí phí lao động cao của Thái Lan đã mất dần khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Phần lớn trong số đó (như các sản phẩm dệt may, giầy dép, thực phẩm đóng hộp…) là những sản phẩm xuất khẩu truyền thống của Thái Lan. Mặt khác, phần giá trị gia tăng trong các sản phẩm xuất khẩu của Thái Lan rất thấp (chẳng hạn tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá thành của máy tính, thiết bị bán dẫn, điện dân dụng, dệt may và ô tô lần lượt là 36%, 28%, 60%, 50% và 47%). Để khắc phục thực trạng đó, trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện nay, Chính phủ Thái Lan đã đưa ra chương trình nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, nhằm tiếp tục duy trì và phát triển những lợi thế so sánh của mình. Chương trình đó được chia thành hai nội dung chính: Thứ nhất, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp từ chi phí lao động cao sang sử dụng hàm lượng công nghệ cao; Thứ hai, khuyến khích sự phát triển và áp dụng công nghệ hiện đại nhằm làm tăng phần giá trị gia tăng trong các ngành công nghiệp sử dụng chi phí lao động cao. Nội dung thứ nhất của chương trình trên thực sự là một cuộc cách mạng công nghiệp. Các ngành công nghiệp như chế tạo ô tô và xe máy, công nghiệp điện máy và điện tử sẽ là những ngành công nghiệp dẫn đầu của nền kinh tế Thái Lan trong tương lai không xa. Liên quan đến nội dung thứ hai, hai ngành công nghiệp được ưu tiên đầu tư là công nghiệp Dệt may và công nghiệp Thực phẩm. Sự đổi mới công nghệ trong các ngành này sẽ được Quỹ Phát triển xuất khẩu hỗ trợ về mặt tài chính. Chính phủ Thái Lan hy vọng sự đổi mới công nghệ đó sẽ cắt giảm chi phí cho từng đơn vị sản phẩm, đồng thời làm tăng thêm giá trị cho hàng xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Để đảm bảo thực hiện tốt chương trình nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, Cơ quan Quản lý đầu tư Thái Lan (BOI) đã cụ thể hóa thành 4 nhiệm vụ sau: Khuyến khích đầu tư công nghệ, nhằm làm tăng giá trị hàng hóa trong các ngành công nghiệp truyền thống (dệt may, đồ chơi, giầy dép và một số ngành công nghiệp nhẹ); Hỗ trợ hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) các sản phẩm mới và nâng cao chất lượng sản phẩm trong những ngành vốn đã có khả năng cạnh tranh mạnh (chế biến nông sản, hải sản); Đầu tư nâng cao năng suất lao động, tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp có nhiều tiềm năng (sản xuất phụ tùng ô tô, các ngành sử dụng công nghệ cao như IC, bán dẫn và màng silicon); Giảm chi phí sản xuất trong các ngành công nghiệp nói chung, đặc biệt là những ngành công nghiệp còn non trẻ. Như vậy, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Thái Lan không chỉ mang lại sự thành công trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, mà còn hứa hẹn một sự thành công trong việc phát triển nền công nghiệp hiện đại và hiệu quả cho đất nước này. •Tăng cường thâm nhập vào các nước mới mở cửa Trong những năm gần đây, mục tiêu quan trọng trong chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế của Thái Lan là tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, đặc biệt là thâm nhập vào các nước mới mở cửa như Campuchia, Lào, Trung Quốc và Việt Nam, là những nước láng giềng của họ. Sự gần gũi về mặt địa lý đã tạo cho Thái Lan những lợi thế nhất định so với các chủ đầu tư khác. Thái Lan đã ký kết hợp tác kinh tế với tất cả các nước láng giềng, chẳng hạn như: Tam giác kinh tế phía Nam, tứ giác kinh tế phía Bắc, lục giác kinh tế sông Mê Công.  • Thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Thái Lan luôn duy trì được tỷ lệ tăng trường GDP thực tế khoảng 9% trong suốt thời kỳ từ 1984 - 1994 (cũng trong thời kỳ này, tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế bình quân của các nước đang phát triển khoảng 5%). Giai đoạn tiếp theo, mặc dù xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, mà Thái Lan là một trong năm nước phải chịu hậu quả nặng nề nhất, tỷ lệ đó vẫn còn khoảng 5%. Thái Lan đã thiết lập được những mối quan hệ kinh tế gắn bó với nhiều nền kinh tế của các nước và khu vực trên thế giới. Thái Lan là nước thành công nhất trong khối ASEAN về việc thu hút FDI, bình quân hàng năm thu hút được trên 6,5 tỷ USD vốn FDI (cao hơn mức kỷ lục của Malaixia và Xingapo). Để đẩy mạnh quá trình hội nhập, Thái Lan đã sớm trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)… Chính vì vậy, Thái Lan đã nhận được sự hỗ trợ quý báu của IMF để vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á. Đồng thời, là thành viên của WTO, Thái Lan có nghĩa vụ phải thúc đẩy nhanh quá trình tự do hóa thương mại, nghĩa vụ này đồng thời là nội dung quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Thái Lan. ( Theo Nguyễn Thắng/TCCN kì I tháng 7/2006, trang 45 ) b. Đối với Trung Quốc: · Một số cảI cách: Cơ sở xuất khẩu của Trung Quốc đã được đa dạng hoá nhờ vào hàng dệt may và công nghiệp nhẹ. Đầu những năm 1990, hàng công nghiệp nhẹ chiếm hơn 40% xuất khẩu của Trung Quốc. các sản phẩm này chủ yếu là giày dép, quần áo, đồ chơi và hàng tạp phẩm khác. Một phần lớn hàng xuất khẩu còn lại là hàng hoá đã chế tạo (chủ yếu là hàng dệt may) và máy móc và vận tải (điện tử nhỏ). Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc xuất khẩu các mặt hàng khác như các mặt hàng điện tử tinh vi (máy móc văn phòng và các trang thiết bị chế biến số liệu tự động, truyền thông, các trang thiết bị âm thanh và máy móc điện), hàng gia dụng, hàng hoá du lịch và các sản phẩm công nghiệp. Ví dụ như, một phần xuất khẩu của Trung Quốc về máy móc và vận tải (bao gồm cả đồ điện) tăng từ 17% năm 1993 lên 41%năm 2003, trong khi đó sự sản xuất hàng hoá linh tinh khác giảm từ 42% xuống còn 28%. Những thống kê về sự phân tán giải thích cho sự đa dạng hoá xuất khẩu nhìn chung là ngày càng tăng. Số liệu chi tiết về xuất khẩu của Trung Quốc ở cấp độ hai con số theo tiêu chuẩn phân loại thương mại quốc tế (SITS) chỉ có thể tìm được từ năm 1994. Cả hai chỉ số Herfindahl và hệ số của mức độ biến đổi (với phạm vi thay đổi trong sự phân tán của xuất khẩu thông qua các loại hàng xuất khẩu) đều cho thấy một sự tăng đáng kể trong sự đa dạng hoá của xuất khẩu tới Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu và Nhật Bản. Ví dụ như, số liệu chi tiết về nhập khẩu của Hoa Kỳ cho thấy dựa trên những thay đổi trong tỉ lệ nhập khẩu của Trung Quốc vào Hoa Kỳ , vẫn có một sự tăng đáng kể trong sự đa dạng hoá từ năm 1990 đến năm 2000 ở cả mức độ 2 con số và 3 con số (bảng 6). Thành phần cấu tạo của nhập khẩu cho thấy sự chuyên môn hoá theo chiều dọc của sản xuất trong khu vực Châu Á. Điều này có thể thấy được từ một số thông số. Đầu tiên là một tỷ lệ nhập khẩu cao các mặt hàng để gia công đã được tính trong xuất khẩu của Trung Quốc. Tỷ lệ này tăng từ 30% của nhập khẩu trong đầu những năm 90 lên khoảng 50% năm 1997 và vẫn tiếp tục duy trì ở mức độ độ đó cho đến nay. Tương tự như vậy, nhập khẩu cho gia công cũng được tính trong hơn 40% xuất khẩu của Trung Quốc. Tác động của sự chuyên môn hoá theo chiều dọc có thể thấy rõ trước tiên là qua sự tăng nhanh trong nhập khẩu các mạch điện tử tích hợp và vi mạch - những thành phần chủ chốt được sử dụng trong việc lắp ráp các các sản phẩm điện (biểu đồ 3). Thứ hai, dòng đầu tư trực tiếp mạnh đổ vào Trung Quốc chủ yếu là từ các nước công nghiệp, và đặc biệt là các nền kinh tế công nghiệp mới của Châu Á. Trong suốt giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2001, những nền kinh tế công nghiệp mới này cùng với Nhật Bản chiếm hơn 60% đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc, còn Hoa Kỳ và Châu Âu chiếm khoảng 20%. Cuối cùng, mô hình của thương mại đã thay đổi đáng kể, đó là nhập khẩu từ Châu Á tăng và xuất khẩu đang chuyển sang các nước phát triển, chủ yếu là Hoa Kỳ và Châu Âu. · Một vài thành tựu: Thương mại Trung Quốc đã tăng nhanh chóng với nhập khẩu từ hầu hết các đối tác thương mại đều tăng với tốc độ gấp đôi. Nhập khẩu từ châu Á tính bằng USD tăng lên 43% năm 2003, trong khi nhập khẩu từ châu Âu và Mỹ tăng lần lượt là 31% và 24%. Về xuất khẩu, những con số này gần như đảo ngược lại với thứ tự của con số nhập khẩu trong đó xuất khẩu sang Mỹ và châu Âu tăng tương ứng là 32% và 49%, và xuất khẩu sang châu Á là 31%. Nhập khẩu của Trung Quốc từ các quốc gia khác trên thế giới cũng tăng rất nhanh trong giai đoạn này. Ví dụ, nhập khẩu từ châu Mỹ Latinh tăng 81% và từ châu Phi tăng 54%, Trung Quốc ngày nay là nhà nhập khẩu lớn thứ 3 hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển sau Mỹ và Liên minh châu Âu. Trong những năm gần đây, trong khi cán cân thương mại của Trung Quốc nhìn chung chẳng thay đổi là bao thì những thay đổi này trong mô hình khu vực của thương mại lại là nguyên nhân của sự thay đổi đáng kể trong các cán cân thương mại song phương. Thặng dư thương mại của Trung Quốc với Mỹ và Liên minh châu Âu tăng đáng kể từ năm 1997 đến năm 2002, nhưng việc này lại bù lại bởi thâm hụt thương mại với các nước châu Á còn lại tăng. Những xu hướng này tiếp tục trong năm 2003 khi thâm hụt với các quốc gia châu Á tiếp tục tăng, tạo ra một sự giảm sút nhanh chóng trong toàn bộ thặng dư thương mại của Trung Quốc, giảm xuống còn 25 tỷ USD so với 30 tỷ năm 2002 (bảng 7). Việc điều chỉnh một lượng lớn thương mại của Trung Quốc qua Hồng Kông không làm thay đổi kết luận này2. Những thay đổi trong chuyên môn hoá khu vực ở Châu Á cũng có thể thấy rõ từ thống kê thương mại của Hoa Kỳ. Thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ với Trung Quốc thực tế là tăng trong hơn hai năm qua, nhưng toàn bộ thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ đối với khu vực Châu Á chỉ tăng với một lượng nhỏ. Ví dụ trong khi nhập khẩu hàng hoá chế biến từ Trung Quốc của Hoa Kỳ tăng về thực chất thì điều này được bù lại phần nào bởi sự giảm nhập khẩu từ các nước Châu Á khác (hình 4). Trong khi khu vực Châu Á vẫn còn phụ thuộc vào xuất khẩu tới thị trường các nước nhóm G7, thì việc chuyên môn hoá ngày càng tăng cũng như tiêu dùng nội địa của riêng Trung Quốc ngày càng tăng đang cung cấp những lợi ích thiết thực cho khu vực3. Các quốc gia có thể thu được lợi ích lớn nhất từ sự hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới của Trung Quốc, đó là họ sẽ trở thành những nhà xuất khẩu các sản phẩm cần nhiều tài nguyên và vốn của Châu Á. Những ảnh hưởng tiềm năng này sẽ được thảo luận kỹ hơn ở phần tiếp theo. II. Thực trạng và gải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam: Từ nhiều năm, tiến sĩ Lê Đăng Doanh được biết đến như một nhà nghiên cứu kinh tế tầm cỡ, có những đánh giá, nhận định sâu sắc về bức tranh kinh tế VN sau khi mở hội nhập: "Cạnh tranh là hợp tác chứ không phải đối đầu". Hiện với tư cách thành viên Tổ chuyên gia cao cấp Bộ Kế hoạch- Đầu tư, ông vẫn thường xuyên có các tham luận tại các hội thảo lớn của quốc gia và quốc tế về nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Và chủ đề ông trăn trở và tâm huyết vẫn không nằm ngoài sự kiện VN chính thức gia nhập tổ chức WTO. VN gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ngày 7.11.2006 trở thành thành viên thứ 150 là chậm, gia nhập sau Campuchia và Trung Quốc là chậm. Nếu như chúng ta có nỗ lực cao, có những quyết sách sớm hơn thì chúng ta có thể gia nhập WTO sớm hơn vì càng vào chậm thì yêu cầu đối với nước gia nhập càng cao hơn và khó khăn hơn. Song bây giờ không phải là lúc xem xét lại là sớm hay muộn, vì đối với người đã bắt đầu không bao giờ là muộn cả. Điều quan trọng lúc này là từ cả Chính phủ, doanh nghiệp phải tập trung nỗ lực cao nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ cũng như các quyền lợi của VN với tư cách là một thành viên WTO. Gia nhập WTO, thuận lợi là hàng hoá của ta sẽ xâm nhập vào thị trường của các nước khác, thuế sẽ giảm đi, các hạn chế định lượng sẽ bị bãi bỏ và cơ hội để chúng ta có thể tăng được XK là lớn. Để đổi lại, chúng ta cũng phải giảm thuế, mở cửa thị trường. Thương mại luôn luôn là con đường hai chiều, luôn luôn có quyền lợi và nghĩa vụ, cơ hội và thách thức. Chúng ta có cơ hội lớn hơn ở các mặt hàng công nghiệp, mặt hàng chế tác do những mặt hàng này được giảm thuế một cách mạnh mẽ. Nhưng các mặt hàng nông sản có mức độ giảm thuế thấp. Thêm vào đó, hiện nay vòng đàm phán Doha của WTO đang lâm vào bế tắc. Các nước Mỹ và Liên minh Châu Âu (EU) không chịu từ bỏ việc trợ cấp nông nghiệp. Các nước này lại là những cường quốc nông nghiệp không từ bỏ trợ cấp nông nghiệp, yêu cầu giữ giá lúa mì và các sản phẩm nông nghiệp khác (sữa, thịt bò, v.v...) ở mức thấp, cộng với năng suất thu hoạch của họ rất cao làm cho mặt bằng giá nông sản trên thế giới luôn giữ ở mức thấp. Vì vậy, tất cả các nước đang phát triển XK nông sản bị thiệt, trong đó có VN. Đó là điều giải thích tại sao mặc dù giá xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu tăng lên mà giá nông sản không tăng tương ứng. Lợi thế lớn nhất khi vào WTO là mọi DN đều phải cạnh tranh, coi cạnh tranh là nguyên lý, là lẽ sống. Cạnh tranh sẽ gây áp lực để mỗi DN nâng cao hiệu quả, giảm bớt giá thành. Còn những DN nào không cạnh tranh được thì sẽ bị phá sản để những DN giỏi họ đến, họ sử dụng nhà xưởng, lao động, máy móc, tiền vốn hiệu quả hơn. Vì vậy, "phá sản"được coi là "một sự tàn phá sáng tạo", chứ không phải là tàn phá tuyệt đối. Tôi cho rằng DN VN cần thay đổi cách tư duy, nhìn nhận việc gia nhập WTO trên khía cạnh hợp tác và phát triển chứ không phải"đối đầu".  Trong cạnh tranh sẽ có sự đào thải và DN VN phải biết chấp nhận cạnh tranh, thậm chí chấp nhận thất bại nhưng thất bại không phải là ngày tận thế mà chúng ta sẽ vươn lên .( Theo báo Lao Động Cuối tuần số 14 Ngày 12/11/2006 Cập nhật: 5:29 AM, 12/11/2006) 1. Đối với nông sản Việt Nam: Các chuyên gia Australia, những người tham gia tư vấn và soạn thảo bộ khung tiêu chuẩn chung của các nước ASEAN về sản xuất nông nghiệp an toàn (ASEAN GAP) nhận định, WTO mang lại cho Việt Nam một “sân chơi” khổng lồ, với hơn 5 tỷ người tiêu thụ, 95% giá trị thương mại thế giới và kim ngạch nhập khẩu trị giá 635 tỷ USD/năm. Nhưng thách thức từ “sân chơi” này còn lớn hơn, nhất là ngành nông nghiệp. a. Thực trạng: • Chưa đồng bộ giữa vị thế và trình độ Việt Nam đã đi tắt đón đầu khá thành công nhờ ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật thế giới để xây dựng và phát triển nền nông nghiệp và trở thành quốc gia hàng đầu về xuất khẩu nông sản: hồ tiêu (thứ nhất), gạo và cà phê (thứ 2), hạt điều (năm 2006 Việt Nam vượt qua Ấn Độ có lượng xuất khẩu nhiều nhất)... Nhưng tại buổi hội thảo do Câu lạc bộ Xây dựng thương hiệu nông - thủy sản Việt Nam tổ chức, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Vọng (chuyên viên Bộ Nông nghiệp bang New South Wales, Australia) cho rằng, tay nghề của bà con nông dân - lực lượng sản xuất chiếm đa số lại chưa ngang tầm với những vị thế trên, hàm lượng chất xám tạo nên giá trị gia tăng trong nông sản làm ra chưa nhiều, chủ yếu vẫn còn xuất thô. Vì vậy, dù là quốc gia hàng đầu về xuất khẩu nông sản, nhưng đời sống của nông dân vẫn còn thấp. Và điều quan trọng, tính bền vững trong nông nghiệp còn rất bấp bênh, bộc lộ nhiều lỗ hổng lớn trong chuỗi sản xuất, từ giống, chăm sóc... cho đến sau thu hoạch, thể hiện qua việc sản xuất theo phong trào. Trong khi đó, xét về mặt kinh tế và hiệu quả sử dụng đất, việc định vị cây trồng và quy hoạch sản xuất nông nghiệp chưa hợp lý. Điều này thấy rõ giữa cơ cấu cây lúa (giá trị trên một đơn vị diện tích thấp hơn nhiều lần so với các loại cây trồng khác), diện tích trồng khoảng 7 triệu ha so với hơn 1,4 triệu ha cây ăn trái, trong khi nhu cầu nhập khẩu của các nước trong tổ chức WTO hằng năm có đến gần 103 tỷ USD rau quả so với khoảng 10 tỷ USD lúa gạo... Vì vậy, thu nhập từ người trồng lúa bao giờ cũng thấp hơn các loại cây khác, nhất là cây ăn trái. Tiến sĩ Nguyễn Quốc vọng cho rằng “sân chơi” WTO quy định 4 “luật chơi” cũng chính là 4 thách thức trong sản xuất nông sản mà chúng ta đang thiếu: Đó là luật chơi về số lượng với yêu cầu hàng hóa phải lớn về số lượng, đồng bộ về kích cỡ, màu sắc, bao bì và thời gian giao hàng chính xác. Hai là luật chơi về chất lượng với chứng chỉ xác nhận về nguồn gốc giống, chất lượng sản phẩm... để chứng minh mặt hàng bảo đảm về chất lượng. Ba là, giá rẻ để có thể cạnh tranh, yếu tố quyết định như một thứ luật bất thành văn của bất cứ quốc gia nào muốn tham gia “cuộc chơi” này. Và cuối cùng là luật chơi về an toàn thực phẩm, với yêu cầu hàng hóa phải có chứng chỉ nông nghiệp an toàn hay còn gọi là nông nghiệp tốt (GAP - Good Agricultural Practices) để bảo đảm tính vệ sinh và an toàn sản phẩm. • Tổ chức lại sản xuất là nhu cầu bức bách: Theo nhận định của các chuyên gia, để đáp ứng các luật chơi này, việc tổ chức lại sản xuất là yêu cầu bức bách, trong đó GAP - chương trình kiểm tra an toàn thực phẩm xuyên suốt từ khâu chuẩn bị sản xuất đến trước và sau thu hoạch, kể cả các yếu tố liên quan khác như môi trường, thuốc bảo vệ thực vật, bao bì và ngay cả điều kiện làm việc, phúc lợi người lao động, là khó khăn nhất. Tiến sĩ Joseph Ekman (chuyên viên Bộ Nông nghiệp bang New South Wales - Australia) cho biết, các nước trong WTO đều đặt ra những yêu cầu riêng về an toàn thực phẩm như EU có EuroGAP, Australia có Fresh Care... nhằm bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng và là rào cản kỹ thuật mà các nước sử dụng để hạn chế lượng hàng nhập khẩu nào đó. Vì vậy, Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng quy trình VietGAP dựa trên bộ ASEAN GAP – một quy trình GAP chính thức cho các nước thành viên ASEAN vừa được công bố đầu tháng 11-2006, cùng với sự tham khảo các yêu cầu của EuroGAP. Xây dựng chiến lược phát triển mạnh ngành cây ăn trái, rau quả, kể cả hoa; nhanh chóng hoàn thành bộ VietGAP và có chương trình tập huấn rộng khắp về VietGAP cho nông dân là cách để nhà nước giúp bà con tham gia vào “cuộc chơi” WTO. Có như thế mới nói đến khả năng xuất khẩu nông sản, nhất là rau quả, đồng thời sử dụng VietGAP như một rào cản kỹ thuật, bắt buộc những mặt hàng nông sản các nước muốn xuất khẩu vào Việt Nam phải đáp ứng yêu cầu này. • Nông nghiệp 2006: Thắng lợi trong thử thách (Theo trang Việt Nam trên đường hội nhập-Cổng phát triển Việt Nam.16/05/2007) Năm 2006 là một năm đầy thử thách đối với mặt trận sản xuất nông nghiệp, dù chưa được như ý muốn, nhưng kết quả vẫn khả quan, nhất là xuất khẩu nông sản. Việt Nam đã gia nhập WTO, sản xuất nông nghiệp sẽ phải cơ cấu lại để đạt hiệu quả tốt hơn; phù hợp với xu thế hội nhập. Những mặt hàng có thế mạnh sẽ được ưu tiên phát triển và không sản xuất mặt hàng kém cạnh tranh. - Đối mặt với thiên tai và dịch họa Thử thách lớn nhất đối với mặt trận sản xuất nông nghiệp năm 2006 là dịch rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá xảy ra ở chính ngay vựa lúa của cả nước - ĐBSCL. Tháng 10/2006, trong một buổi họp giao ban bàn biện pháp phòng, chống dịch hại lúa ở các tỉnh phía Nam, Bộ trưởng Bộ NN& PTNT, Cao Đức Phát, đã nhấn mạnh: dịch rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá là mối quan tâm hàng đầu của ngành nông nghiệp, hơn cả dịch cúm gia cầm, lở mồm long móng, vì nó ảnh hưởng tới thu nhập của người nông dân và an ninh lương thực quốc gia. Quả đúng như vậy, đến cuối vụ hè thu và thu đông, diện tích lúa bị dịch bệnh phá hại đã lên tới trên 100.000ha, để lại hậu quả nặng nề. Sản lượng lúa hè thu, thu đông của ĐBSCL chỉ đạt gần 18,6 triệu tấn, giảm khoảng 700.000 tấn so với năm 2005. Với giá lúa 2.500 đ/kg, bà con nông dân bị thiệt hại trên 1.500 tỷ đồng. Đó là chưa kể tới chi phí thuốc bảo vệ thực vật, công nhà nông, các địa phương bỏ ra trên 46 tỷ đồng cho công tác dập dịch. Điều nguy hại ở chỗ, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá là bệnh do vi rút gây ra, được lây lan bởi vật trung gian là rầy nâu, hiện chưa có thuốc đặc trị. Vì vậy, “dịch hoạ” đang là mối đe doạ trực tiếp vụ đông-xuân 2006-2007, vụ sản xuất chính ở ĐBSCL. Điều rút ra được qua công tác phòng, chống dịch phá hại lúa là sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL thiếu bền vững. Lâu nay, các địa phương cùng bà con nông dân chạy theo sản lượng, số lượng phục vụ cho công tác xuất khẩu nên quanh năm gieo sạ, quanh năm thu hoạch, liên tục làm 3 vụ lúa/năm, thậm chí có nơi làm 7 vụ lúa/2 năm, không cho đất nghỉ, tạo môi trường cho dịch bệnh phát triển. Tìm thấy cái được trong cái mất, từ nhà khoa học đến người làm công tác quản lý ở vùng đất Chín Rồng đều có tiếng nói thống nhất trong năm 2006 rằng, “thủ phạm” gây ra dịch rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá là sản xuất lúa vụ 3. Cần phải "cắt" lúa vụ 3 để tạo ra môi trường sạch giữa 2 vụ lúa đông xuân và hè thu. Nhưng, theo tập quán sản xuất, nhà nông đặt câu hỏi: Giữa 2 vụ lúa, nông dân làm gì? Và, trồng cây gì để có hiệu quả hơn lúa vụ 3? Kể cả ngành nông nghiệp và chính quyền địa phương vẫn đang lúng túng, chưa tìm được câu trả lời (!) Dịch hoạ chưa qua, thiên tai đã tới. Năm nay, Việt Nam có tới 10 cơn bão. Trong đó, cơn bão số 9 (Durian) xảy ra ngày 5/12 đã gây thiệt hại nặng nề về người và của cho các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long. ở các tỉnh phía Bắc, năm nay không có mưa to, bão lớn, nhưng bất chợt, vào thượng tuần tháng 11/2006 có ngay mưa đá ở nhiều nơi. Thời gian mưa không dài, nhưng thiệt hại cũng không nhỏ. Thời tiết thất thường đã và đang tiếp tục gây ra những khó khăn lớn cho sản xuất nông nghiệp, trước mắt, hạn hán đang đe doạ vụ đông xuân ở các tỉnh phía Bắc và các tỉnh Bắc miền Trung. - Xuất khẩu được mùa nhờ giá tăng Gạo là nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, năm 2005, xuất khẩu được 5,2 triệu tấn, đạt kim ngạch 1,4 tỷ USD. Năm nay, các hợp đồng xuất khẩu gạo dừng lại ở mức 4,8 triệu tấn. So với kế hoạch (5 triệu tấn) thì chưa đạt, nhưng điều quan trọng hơn không phải ở chỗ chúng ta xuất khẩu được bao nhiêu tấn, mà là được bao nhiêu tiền. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, năm 2006, xuất khẩu gạo được giá, bình quân 259 USD/ tấn, tăng 8 USD/tấn so với những năm trước, đạt kim ngạch 1,38 tỷ USD. Sau 17 năm tham gia thị trường thế giới, phẩm cấp và giá gạo nước ta có tiến bộ rõ rệt. Từ chỗ gạo cùng phẩm cấp, nhưng giá gạo Việt Nam thấp hơn của Thái Lan 20 USD/tấn, thậm chí 40 USD/tấn, năm nay chỉ còn thấp hơn bình quân 5-10 USD/tấn. Sau gạo là cao su. Năm 2005, cả nước xuất khẩu được 587.000 tấn, đạt kim ngạch 772 triệu USD. Năm nay, cao su luôn đứng đầu bảng về tốc độ tăng trưởng, xuất khẩu khoảng 822.000 tấn, tăng hơn năm ngoái 235.000 tấn, đạt kim ngạch 1,3 tỷ USD, vượt 500 triệu USD so với kế hoạch. Theo Bộ Thương mại, năm 2006 có 8 ngành hàng xuất khẩu vượt 1 tỷ USD, trong đó, xuất khẩu nông sản chiếm 3 là gạo, cao su và sản xuất đồ gỗ. Sau bao năm ảm đạm, người trồng cà phê Tây Nguyên lại bước vào một mùa náo nức. Năm 2005, nước ta xuất khẩu được 803.647 tấn cà phê, với giá 789,2 USD/tấn, đạt kim ngạch 634,2 triệu USD. Năm 2006, mới tính đến đầu tháng 12, xuất khẩu được 787.000 tấn, kim ngạch ước đạt 950 triệu USD. Giá cà phê xuất khẩu trung bình từ đầu năm đến nay tăng trên 40% so với năm trước. Giá xuất khẩu tăng, kéo theo giá cà phê trong nước tăng theo. Tại Lâm Đồng, tỉnh có diện tích cà phê nhiều thứ 2 cả nước, trên 100.000ha, lúc cao nhất giá cà phê Robusta (mua xô) 22.800 đ/kg, thấp nhất 20.800 đ/kg. Bà con nông dân cho biết, đây là giá cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Hồ tiêu vẫn giữ ngôi vị số 1 thế giới. Năm 2005, xuất khẩu 102.000 tấn, kim ngạch 15 triệu USD. Năm 2006, xuất khẩu 120.000 tấn, thu về 200 triệu USD, cao nhất từ trước tới nay cả về số lượng và giá trị. Hạt điều thì ngược lại. Theo trung tâm thông tin Bộ Thương mại, ước tính xuất khẩu điều cả năm đạt khoảng 400 triệu USD, giảm 86 triệu USD so với năm 2005. Do giá xuống, mua nguyên liệu đắt, chất lượng sản phẩm kém... năm 2005, ngành điều xuất khẩu lỗ 100 tỷ, năm nay dự đoán lỗ khoảng 300 tỷ. Như vậy, năm nay, trong số 5 mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta, trừ ngành điều làm ăn thua lỗ, còn lại đều được mùa xuất khẩu. Nguyên nhân chủ yếu nhờ giá cả thị trường thế giới tăng cao. Trong niềm vui, cũng không ít người lo. Vì giá cả không bao giờ ổn định, phụ thuộc vào giá không phải là con đường phát triển sản xuất bền vững, nhất là lúc Việt Nam đã vào chợ toàn cầu. - Nỗi lo WTO Mặc dù đã đạt được những tiến bộ rõ rệt, gạo Việt Nam vẫn không có thương hiệu trên thương trường quốc tế. Cũng do chạy theo số lượng, bán hàng thô là chính, cà phê Robusta xuất khẩu của Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về số lượng, nhưng lại đứng thứ 5 về kim ngạch. Năm 2006, tăng trưởng về kim ngạch chủ yếu nhờ giá cà phê thế giới tăng cao, còn sự gia tăng về chất lượng mang lại rất ít, thậm chí ngược lại. Trong một cuộc hội thảo về: "Nâng cao chất lượng cà phê Tây Nguyên", Hiệp hội Cà phê & ca cao Việt Nam đã đưa ra con số cảnh báo "nóng" về sự suy thoái chất lượng. Hàng năm, lượng cà phê kém chất lượng (dưới loại 3, 4) của nước ta bị loại bỏ ở thị trường LIFFE chiếm tỷ trọng cao trên trên thế giới. Cụ thể, năm 2005, cà phê Robusta Việt Nam bị loại bỏ 89% (tương đương 1,65 triệu bao). Trong 6 tháng, từ tháng 10/2005 đến tháng 3/2006, tỷ lệ bị loại bỏ là 88% (tăng 19% so với cùng kỳ năm trước). Việc kinh doanh cà phê trên thế giới giao dịch chủ yếu qua 2 thị trường kỳ hạn lớn LIFFE (London, Anh) và NYBOT (New York, Mỹ). Hai năm nay, các doanh nghiệp kinh doanh cà phê Việt Nam chập chững bước vào sàn giao dịch LIFFE. Và, "học phí" thương trường phải trả không nhỏ. Đầu tháng 8/2006, khi giá cà phê giao kỳ hạn tháng 1/2007 trên thị trường LIFFE tăng lên 1.300 USD/tấn, nhiều doanh nghiệp cà phê ở Đăklăk cho răng đã tột đỉnh và chốt giá bán hàng loạt (có một số công ty bán tới vài chục ngàn tấn). Nhưng, trớ trêu, đến tháng 11/2006, giá cà phê đạt mức 1.650 USD/tấn. Nhiều doanh nghiệp khốn đốn, lỗ đậm vì đã trót "nhỡ ký" bán hàng giá thấp. Trước đó, nhiều doanh nghiệp và tư nhân ở Đăklăk cũng đã thua tiền tỷ vì buôn bán cà phê trên mạng. Nhiều người lo lắng khi gia nhập WTO, nông nghiệp, nông dân và nông thôn là lĩnh vực nhạy cảm, dễ bị tổn thương nhất? Nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan cho biết: Gia nhập WTO, những trợ cấp về nông nghiệp Chính phủ vẫn tiếp tục duy trì, đặc biệt là những công trình thuỷ lợi. Trong trái phiếu Chính phủ, dành cho giao thông 70% và 30% cho thuỷ lợi. Về chương trình giống, Chính phủ đã dành 3.000 tỷ đồng để nghiên cứu giống cho nông nghiệp. Trước đây, Chính phủ trợ cấp cho các doanh nghiệp, nhưng không hiệu quả, nay chuyển hướng trợ cấp cho người nông dân. Ông Vũ Khoan nhấn mạnh: "Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ có những hành động cụ thể. Bà con nông dân hãy tin Chính phủ sẽ có những chương trình đổi mới trợ cấp nông nghiệp và hãy tin rằng, trước sau gì thì lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn sẽ vẫn là ưu tiên cao nhất"!./. b. Cơ hội và thách thức: Ở Việt Nam, nông nghiệp đang là nguồn sinh kế chính của hơn 60% dân số cả nước, có ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 2/3 hộ gia đình làm nông nghiệp trong đó có 44% số hộ thuộc diện khó khăn và có nguy cơ tiềm ẩn tái nghèo. Với vị trí quan trọng như vậy nông nghiệp là chìa khoá của sự ổn định và phát triển đối với người dân. Trong bối cảnh hội nhập WTO, nông nghiệp nước ta có thể có thêm nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có không ít những tác động ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của nông nghiệp, ảnh hưởng đến an ninh lương thực cho người nông dân, đặc biệt là người nông dân nghèo.Khi Việt Nam gia nhập WTO, những lợi ích tiềm năng bao gồm như mở rộng thị trường cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống nông nghiệp và thuỷ sản, đồng thời chúng ta có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO giúp tránh được những vụ kiện vô lý như là cá ba sa giữa Việt Nam và Mỹ.Khi là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ tiếp tục thu hút được đầu tư nước ngoài đồng thời cũng có tiếng nói cùng với 149 nước khác khi WTO thảo luận các quy chế mới của WTO. Tuy nhiên, thách thức đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn, đặc biệt là đối với xoá đói giảm nghèo là rất lớn. • Cắt giảm trợ cấp xuất khẩu và thuế quan Việt Nam là một nước 69% lực lượng lao động vẫn thuộc lĩnh vực nông nghiệp và 45% dân số sống tại nông thôn sống dưới mức nghèo. Những thách thức lớn như là mức độ cạnh tranh thấp, hay phải đương đầu với trợ cấp xuất khẩu của các nước giàu, năng lực của Việt Nam thực thi các điều khoản cam kết, việc cắt giảm thuế quan và các trợ cấp nông nghiệp, việc Việt Nam không được tiếp cận đối với cơ chế tự vệ đặc biệt cho các sản phẩm chăn nuôi... Hiện tại, Việt Nam đang là một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trong khu vực và thế giới với nhiều sản phẩm đặc trưng như cà phê, điều, hồ tiêu, chè, gạo. Thế nhưng khả năng chuyển từ sản xuất thô lên chế biến của các doanh nghiệp nội địa có thương hiệu riêng, tăng giá trị gia tăng trong sản phẩm đang là một quá trình chậm chạp, khó khăn. Theo chuyên gia WTO của tổ chức Oxfam, Lê Kim Dung, Việt Nam đã cam kết cắt giảm trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp ngay sau khi hội nhập, trong đó có 5 năm quá độ cho việc cắt giảm trợ cấp xuất khẩu d._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35876.doc
Tài liệu liên quan