Nâng cao năng lực tài chính Của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong xu thế hội nhập

Tài liệu Nâng cao năng lực tài chính Của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong xu thế hội nhập: ... Ebook Nâng cao năng lực tài chính Của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong xu thế hội nhập

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1582 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực tài chính Của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong xu thế hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o ng©n hµng Nhµ n­íc ViÖt Nam häc viÖn ng©n hµng ------------***------------- Lª thanh thuû Gi¶I ph¸p n©ng cao n¨ng lùc tµi chÝnh Cña ng©n hµng ®Çu t­ vµ ph¸t triÓn viÖt nam trong xu thÕ héi nhËp Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ Tµi chÝnh, Ng©n hµng M· sè: 60.31.12 luËn v¨n th¹c sü kinh tÕ Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: TS. Hoµng huy hµ Hµ Néi - 2008 MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Ngày nay, toàn cầu hoá là xu thế khách quan đang thu hút các quốc gia vào quỹ đạo này. Hệ quả tất yếu của xu thế đó là tự do hoá thị trường tài chính, tự do hoá thị trường tiền tệ. Tiến trình hội nhập chủ động của Việt Nam được đánh dấu bởi một chuỗi các sự kiện như: gia nhập ASEAN; tham gia AFTA, APEC; ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ, Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản…Đặc biệt tháng 11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Hội nhập quốc tế đã đang và sẽ tạo ra những cơ hội thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít thách thức, đòi hỏi mỗi ngân hàng phải tự thân vận động mạnh mẽ để phát triển, vươn lên, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. Việc các ngân hàng trong nước phải đối mặt với những thách thức cũng như nắm bắt những cơ hội có được từ xu hướng này ra sao là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của chính bản thân các ngân hàng. Bên cạnh đó, tác động của quá trình tự do hóa thương mại, mở cửa thị trường tài chính với sức ép cạnh tranh ngày càng tăng khi triển khai thực thi các cam kết theo lộ trình đã ký kết với tổ chức thương mại thế giới WTO cũng như trong Hiệp định thương mại Việt Mĩ GAST, một lần nữa đặt ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam nói riêng phải có sự đổi mới không ngừng để có một nền tài chính vững mạnh, không chỉ để tồn tại mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập quốc tế. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong xu thế hội nhập” cho luận văn thạc sĩ kinh tế của mình. Dựa trên các cơ sở căn cứ khoa học, tham khảo kinh nghiệm của các ngân hàng thương mại trong nước và trên thế giới cũng như từ thực trạng của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, luận văn xin đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm giải quyết vấn đề mang tính thời sự này. Tuy nhiên, đây là một đề tài rộng, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, đóng góp của nhiều nhà khoa học cũng như những người hoạt động thực tiễn. Với khả năng và trình độ có hạn, mong muốn của tác giả chỉ là đóng góp những ý kiến nhỏ bé từ nghiên cứu của bản thân vào vấn đề rộng lớn này. Mục đích nghiên cứu của luận văn - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực tài chính của ngân hàng thương mại, xác định sự cần thiết của việc nâng cao năng lực tài chính ngân hàng thương mại trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. - Nghiên cứu thực trạng nâng cao năng lực tài chính Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam từ năm từ 2004 đến năm 2007, qua đó rút ra được thành công cũng như hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế đó. - Thiết lập các giải pháp nâng cao năng lực tài chính Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là năng lực tài chính của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam thông qua các chỉ tiêu phản ánh vốn chủ sở hữu, chất lượng tài sản- nguồn vốn, khả năng sinh lời, khả năng đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh. Ngoài ra đề tài cũng đề cập đến những nhân tố tạo thành cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tài chính của NHTM. Phạm vi nghiên cứu luận văn: Tập trung nghiên cứu thực trạng nâng cao năng lực tài chính của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam từ năm 2004 đến năm 2007 thông qua một số chỉ tiêu tài chính cơ bản. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu, thu thập tài liệu thông tin có liên quan, trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và so sánh để làm rõ nội dung nghiên cứu mà đề tài đặt ra. Kết cấu của luận văn Luận văn được kết cấu gồm 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực tài chính của NHTM Chương 2: Thực trạng về năng lực tài chính của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam từ năm 2004 đến năm 2007 Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong thời gian tới (đến năm 2010) CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Tổng quan về tài chính của ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm và hoạt động của ngân hàng thương mại 1.1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam năm 1997 quy định: “ NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động NH và các hoạt động khác có liên quan”. Theo Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của Luật các tổ chức tín dụng (năm 2004) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “ NH là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động NH và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình NH gồm: NHTM, NH phát triển, NH đầu tư, NH chính sách, NH hợp tác và các loại hình NH khác. NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ mà nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. 1.1.1.2. Hoạt động của ngân hàng thương mại Chương III của Luật tổ chức tín dụng nêu ra các hoạt động của tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là NHTM, bao gồm: Huy động vốn Nghiệp vụ huy động vốn là hoạt động đặc trưng cho quá trình kinh doanh của NHTM, là sự khởi đầu tạo cơ sở cho hoạt động kinh doanh của NH. Hoạt động huy động vốn của NH bao gồm: *. Nhận tiền gửi: Là hoạt động đặc trưng của NHTM mà các tổ chức tài chính phi NH không có. Tại điều 45, luật các tổ chức tín dụng có ghi “NH được nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các TCTD khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác”.. *. Đi vay trên thị trường tiền tệ: Khi có sự gia tăng nhu cầu tín dụng và nguồn tiền gửi tăng chậm, khoản mục này trở nên quan trọng đối với các NHTM. NHTM có thể đi vay từ các nguồn sau: Vay NHTW, vay các tổ chức tài chính khác, vay công chúng. Hoạt động tín dụng và đầu tư *. Hoạt động tín dụng: NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN Cho vay: Đối với các NHTMVN, cho vay là hoạt động tạo khả năng sinh lời lớn nhất, đem lại nguồn thu chủ yếu cho NH. Bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh NH khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Chiết khấu: NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các TCTD khác. Cho thuê tài chính: NHTM được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. *. Hoạt động đầu tư: NHTM được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các TCTD khác trong nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, NHTM còn được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với NH nước ngoài để thành lập NH liên doanh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ Để thực hiện dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua NH, NHTM được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước. Để thực hiện thanh toán giữa các NH với nhau thông qua NHNN, NHTM phải mở tài khoản tiền gửi tại NHNN nơi NHTM đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo qui định. Ngoài ra, chi nhánh của NHTM được mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM bao gồm các hoạt động: Cung cấp các phương tiện thanh toán, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng, thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ, thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh toán khác khi được NHNN cho phép, thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng, tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên NH trong nước, tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép. Các hoạt động cung cấp dịch vụ khác Ngoài các hoạt động chính như: Huy động tiền gửi, cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, NHTM có thể thực hiện một số hoạt động khác, bao gồm: góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vàng, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ và bảo hiểm, nghiệp vụ ủy thác và đại lý, dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động NH. Mặc dù hoạt động NH rất đa dạng và phong phú nhưng các NH chỉ được thực hiện các hoạt động được nêu trong giấy phép của họ. Những chức năng này sẽ do NHTW quyết định theo từng trường hợp cụ thể. 1.1.2. Tài chính của ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Quan niệm về tài chính NHTM Tài chính là phạm trù kinh tế có tác động đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Theo từ điển kinh tế học hiện đại, tài chính biểu thị vốn dưới các dạng tiền tệ, nghĩa là ở dạng các khoản có thể vay mượn hay đóng góp vốn thông qua thị trường tài chính hay các định chế tài chính. Nói cách khác tài chính phản ánh hoạt động mà các cá nhân, công ty và tổ chức tạo lập tiền tệ và sử dụng nguồn tiền tệ để đáp ứng những nhu cầu phát triển khác nhau. Như vậy, tài chính có đặc điểm là: - Tài chính được đặc trưng không chỉ bao gồm các nguồn lực dưới dạng tiền mặt hay các khoản tiền gửi mà còn dưới dạng các loại tài sản tài chính như: cổ phiếu, trái phiếu hay các công cụ nợ trao đổi hay chuyển tải giá trị. - Tài chính liên quan đến việc chuyển giao các nguồn tài chính giữa các chủ thể với nhau, từ các chủ thể có nguồn vốn tiết kiệm đến các chủ thể cần vốn. Ở mức độ vĩ mô, mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư biểu thị sự chuyển giao nguồn lực giữa các cá nhân, doanh nghiệp, Chính phủ trong tổng thể nền kinh tế. Với cách tiếp cận trên, khái niệm tài chính có thể hiểu một cách tổng quát: Tài chính là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội, nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội. Tài chính NHTM NHTM là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Như vậy, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh quyền sử dụng hàng hoá tiền tệ, thực hiện các chức năng: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Hoạt động kinh doanh: đi vay (mua vốn) và cho vay (bán vốn) của NHTM để tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất đã làm xuất hiện các luồng tiền tệ đi vào và đi ra khỏi NH, tạo thành sự vận động của các luồng tài chính trong NHTM. Chính sự vận động của các luồng tiền tệ trong NH đã làm nảy sinh các mối quan hệ kinh tế trong kinh doanh gắn liền với việc tạo lập, phân phối và sử dụng các quĩ tiền tệ của NH. Các quan hệ kinh tế đó là: - Quan hệ giữa NHTM với Nhà nước, thể hiện thông qua việc Nhà nước cấp vốn cho các NHTMNN để hoạt động và NHTM thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước như nộp thuế, phí… - Quan hệ giữa NHTM với NHNN, thể hiện qua các nghiệp vụ dự trữ bắt buộc, thanh toán, cho vay tái chiết khấu. - Quan hệ giữa NHTM với NHTM, thể hiện qua các nghiệp vụ trên thị trường liên ngân hàng. - Quan hệ giữa NHTM với các doanh nghiệp và cá nhân như: Quan hệ về thanh toán trong việc vay, cho vay, đầu tư vốn, mua bán tài sản… - Quan hệ trong nội bộ NHTM như: Thanh toán tiền lương, tiền công, tiền thưởng, tiền phạt đối với nhân viên trong việc phân phối lợi nhuận sau thuế và hình thành các quỹ của NH. Các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị, nảy sinh trong quá trình phân phối nhằm tạo lập hoặc sử dụng các quĩ tiền tệ của NH để phục vụ cho kinh doanh chính là các quan hệ tài chính của NH. Từ đó có thể hiểu tài chính NHTM là sự vận động của các luồng tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quĩ tiền tệ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của NH. 1.1.2.2. Đặc điểm tài chính của NHTM Đặc điểm kinh doanh của NHTM đã quyết định đến đặc điểm tài chính của NHTM như sau: Một là: Tài chính NHTM có tính nhạy cảm cao phụ thuộc môi trường kinh doanh. Yếu tố đầu vào và đầu ra của hoạt động kinh doanh NH đều là tiền. Đó là dòng tiền phát sinh từ các nghiệp vụ tài chính thuần tuý: vay hoặc cho vay trong NHTM. Đây là dòng tiền vận động độc lập, không có đối trọng với dòng hàng hoá dịch vụ. Sự vận động này rất nhạy cảm, phụ thuộc vào khách hàng của quá trình kinh doanh. Khách hàng có gửi tiền vào NH thì NH mới huy động được vốn (đầu vào tài chính) và mới có nguồn vốn để cho vay. Khách hàng muốn vay vốn của NH thì NH mới có thể cho vay (đầu ra tài chính). Khi luồng tiền vận động liên tục thì NHTM mới có thể tồn tại và thực hiện chức năng trung gian của mình. Hai là: Tài chính NHTM phụ thuộc vào khả năng tạo tiền của NHTM Xuất phát từ chức năng tạo tiền là chức năng riêng có của NHTM mà tài chính NHTM có khả năng làm tăng lượng tiền (cho vay không bằng tiền mặt) hoặc có thể làm giảm lượng tiền (thu nợ không bằng tiền mặt) nhằm cung cấp phương tiện thanh toán cho nền kinh tế đồng thời tạo ra nguồn vốn quan trọng nhất phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. NHTM tạo tiền bằng cách tạo ra bút tệ (tiền ghi sổ), khả năng tạo tiền này chỉ có thể thực hiện được nếu vốn mà NHTM huy động được dưới hình thức tiền gửi đã cho vay được và số tiền cho vay đó phải luân chuyển trong hệ thống NH. Việc tạo tiền được phát sinh sau khi NHTM cho vay bằng chuyển khoản trong cùng một hệ thống NHTM. Đơn vị vay vốn được ghi nợ tài khoản cho vay, đơn vị cung ứng hàng hoá hoặc dịch vụ cho đơn vị cho vay được ghi có vào tài khoản tiền gửi tại một NH. Như vậy trong trường hợp cho vay như trên, không có nguồn vốn nhưng NHTM vẫn có thể cho vay được. Đó là bản chất việc tạo tiền ghi sổ của NHTM. Các bút tệ thực sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên cơ sở nguồn tiền gửi mới do hệ thống NH tạo ra. Ba là: Tài chính NHTM có kết cấu vốn đặc thù Để có vốn hoạt động, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sử dụng nguồn vốn tự có là chính, vì vậy tỷ trọng vốn tự có tối thiểu phải đạt được 30% trong tổng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, là trung gian tài chính, NH chủ yếu huy động vốn từ các thành phần kinh tế, vì vậy nợ là phần vốn chiếm tỷ lệ lớn nhất, thường từ 80-90% tổng vốn kinh doanh còn vốn tự có của NH lại chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (<10%). Như vậy, về phương diện vốn hoạt động, NHTM kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác mà NH không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng với những điều kiện ràng buộc nhất định. Bốn là: Một số hoạt động cơ bản của NH gắn liền với doanh nghiệp Khách hàng là đối tượng chính trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Nếu khách hàng có tiềm lực tài chính lớn thì đó là điều kiện để NH huy động được nhiều, đồng thời việc cho vay đầu tư sẽ có hiệu quả. Thông qua chức năng huy động vốn và phân phối vốn của mình, tài chính NHTM đã điều tiết vốn, chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh bình thường không bị gián đoạn. Chính vì vậy, tư cách, năng lực hoạt động và sức mạnh tài chính của doanh nghiệp sẽ là yếu tố quyết định đến năng lực và sức mạnh tài chính của NHTM. Nếu doanh nghiệp đầu tư bị thua lỗ, tài sản nợ tài chính gia tăng, kết quả là các khoản tín dụng không thu hồi được sẽ kéo theo tình trạng tài chính của NH không lành mạnh. Năm là: Tài chính NHTM luôn tiềm ẩn rủi ro lớn Xuất phát từ phương thức “đi vay để cho vay”, NHTM tiến hành các hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy động của khách hàng. Điều này đồng nghĩa với việc tài chính NHTM có thể sẽ phải gánh chịu những rủi ro rất lớn từ cả hai phía: người cho NH vay và người đi vay của NH. Nếu huy động được vốn mà không cho vay được sẽ gây nên tình trạng ứ đọng vốn, chi phí kinh doanh cao vì NH vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền. Dòng tiền không vận động sẽ không tạo ra lợi nhuận cho NH, thậm chí có thể lỗ. Hoặc nếu cho vay mà không thu hồi được nợ thì không những vốn tự có của NH mất mà NH còn có nguy cơ không hoàn trả được số tiền đã huy động của khách hàng dẫn đến mất khả năng thanh toán. Như vậy nếu khách hàng gặp rủi ro tài chính thì lập tức tài chính NHTM sẽ phải gánh chịu. Điều quan trọng là rủi ro tài chính NHTM có ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, có nguy cơ lây lan làm suy giảm đến cả hệ thống NH, đẩy nền kinh tế vào suy thoái. 1.2. Năng lực tài chính của ngân hàng thương mại 1.2.1. Quan niệm về năng lực tài chính của ngân hàng thương mại “Tài chính NHTM” là sự vận động của các luồng tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quĩ tiền tệ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của NH. Như vậy, “Năng lực tài chính của NHTM” chính là khả năng tài chính để NH thực hiện và phát triển các hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả. Năng lực tài chính của NH không chỉ là nguồn lực tài chính đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của NH mà còn là khả năng khai thác, quản lý và sử dụng các nguồn lực đó phục vụ hiệu quả cho hoạt động kinh doanh. Năng lực tài chính không chỉ thể hiện sức mạnh hiện tại mà còn thể hiện sức mạnh tài chính tiềm năng, triển vọng và xu hướng phát triển trong tương lai của NH đó. 1.2.2. Các tiêu chí phản ánh năng lực tài chính của NHTM trong xu thế hội nhập Năng lực tài chính của một NH chính là việc dùng khả năng tài chính để tạo ra lợi nhuận ổn định cao hơn các đối thủ khác hoặc cao hơn mức bình quân của ngành, hoạt động an toàn và đạt được vị thế tốt hơn trên thương trường. Vì hoạt động của NHTM gồm: Huy động vốn, tín dụng, đầu tư, hoạt động thanh toán nên năng lực tài chính của NHTM được thể hiện ở hiệu quả hoạt động kinh doanh trong các mặt hoạt động trên. Yêu cầu đặt ra đối với hệ thống chỉ tiêu phản ánh năng lực tài chính là: i/ Phản ánh đúng bản chất của khái niệm năng lực tài chính của NHTM là khả năng về tài chính để giúp NH thực hiện các hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả không chỉ trong ngắn hạn mà cả tiềm năng và xu hướng có tính dài hạn bền vững; ii/ Đáp ứng được mục đích của việc đánh giá là xác định đúng năng lực tài chính và vị thế so sánh của một TCTD so với các TCTD trên thị trường tài chính trong và ngoài nước; iii/ Có thể thu thập số liệu thống kê, kế toán và tính toán được; iv/ Phải phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong hoạt động tài chính – tiền tệ – NH và hạch toán, kế toán, thống kê. 1.1.3.1. Vốn chủ sở hữu lớn Vốn chủ sở hữu của NHTM là toàn bộ nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ NH, của các thành viên trong đối tác liên doanh hoặc các cổ đông trong NH, kinh phí quản lý do các đơn vị trực thuộc nộp lên… Vốn chủ sở hữu bao gồm hai bộ phận: Vốn của chủ sở hữu ban đầu và vốn của chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động. Vốn chủ sở hữu ban đầu đối với các NHTM chính là vốn do ngân sách Nhà nước cấp khi mới thành lập (đối với các NHTMNN), do cổ đông góp thông qua việc mua cổ phần hoặc cổ phiếu (đối với các NHTMCP) bao gồm cổ phần thường và các cổ phần ưu đãi. Mức vốn này phải đảm bảo bằng mức vốn pháp định. Vốn của chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động (Vốn chủ sở hữu bổ sung) do cổ phần phát hành thêm hoặc do ngân sách Nhà nước cấp bổ sung trong quá trình hoạt động, do chuyển một phần lợi nhuận tích lũy, các quỹ dự trữ, quỹ đầu tư, bổ sung vốn điều lệ, phát hành giấy nợ dài hạn… Trên bảng cân đối của NHTM, vốn chủ sở hữu bao gồm các khoản mục cơ bản: Vốn điều lệ, lợi nhuận chưa phân phối và các quỹ. Trong đó, vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ NH, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nguồn vốn chủ sở hữu và có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Trong trường hợp NH phá sản hoặc ngừng hoạt động thì nghĩa vụ thanh toán nợ sẽ được thanh toán theo thứ tự: các khoản tiền gửi của khách hàng, nghĩa vụ với Chính phủ và người lao động, các khoản vay và cuối cùng mới đến phần các chủ sở hữu. Nếu quy mô vốn chủ sở hữu càng lớn thì người gửi tiền và người cho vay càng cảm thấy an tâm về NH (với các điều kiện khác là như nhau). Do đó, vốn của chủ sở hữu được coi là cơ sở tạo niềm tin cho khách hàng. Đồng thời, vốn chủ sở hữu còn thể hiện khả năng tài chính, năng lực hoạt động của một NH. Vốn chủ sở hữu ảnh hưởng tới quy mô mở rộng mạng lưới kinh doanh cũng như quy mô hoạt động của NHTM: Khả năng huy động vốn, khả năng mở rộng tín dụng, dịch vụ, khả năng đầu tư tài chính, trình độ trang bị công nghệ. Phần lớn vốn chủ sở hữu là không sinh lời trực tiếp, chúng được ưu tiên tài trợ cho xây dựng trụ sở, phương tiện làm việc, đầu tư công nghệ. Phần còn lại của vốn chủ sở hữu tham gia vào quá trình kinh doanh của NH. Vốn chủ sở hữu lớn cho phép NH thành lập các công ty con và tham gia hoạt động đầu tư, liên doanh liên kết với các đối tác chiến lược, hùn vốn vào các công ty và có thể thôn tính các NH khác theo qui định không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ. Tiêu chuẩn quốc tế quy định NH không được cho vay quá 15% vốn và thặng dư vốn đối với một khách hàng. Đối với các khoản vay được đảm bảo an toàn thì giới hạn này là 25%. Với mức vốn lớn đồng nghĩa với việc NH được phép cho vay những dự án lớn, từ đó làm tăng qui mô tín dụng và tăng qui mô tổng tài sản. Vốn chủ sở hữu tác động đến khả năng huy động vốn thông qua chỉ tiêu Hệ số đòn bẩy. Tổng tài sản nợ bình quân Hệ số đòn bẩy = Vốn chủ sở hữu bình quân Tỷ lệ này tối đa là 12,5 lần. Vốn chủ sở hữu tác động đến khả năng mở rộng mạng lưới. Số lượng sở giao dịch, chi nhánh của NHTM được mở tối đa xác định theo công thức: Trong đó: n: Số sở giao dịch, chi nhánh tối đa NHTM được mở C: Số vốn điều lệ hiện có của NHTM Co: Mức vốn pháp định của NHTMCP tối thiểu phải có theo quy định tại thời điểm xin mở sở giao dịch, chi nhánh (tỷ đồng) 20 tỷ là số vốn phải tăng thêm để mở một sở giao dịch, chi nhánh. Hệ thống sở giao dịch, chi nhánh của NHTM là kênh trực tiếp cung cấp các dịch vụ NH đến khách hàng. NHTM có mạng lưới rộng sẽ giúp cho khách hàng tiếp cận được với các sản phẩm dịch vụ NH được thuận tiện hơn, giúp NH mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, tạo hình ảnh vị thế của NH. Từ đó tăng doanh thu, lợi nhuận và tăng năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh cho NH. Theo quy định trên thì NHTM có vốn điều lệ càng cao và khả năng mở rộng vốn chủ sở hữu lớn thì số lượng mạng lưới mở càng nhiều và ngược lại. Ngoài ra, nếu NH có tỷ lệ an toàn vốn cao sẽ cho phép đầu tư vào những lĩnh vực tương đối rủi ro để thoả mãn nhu cầu sinh lời và an toàn. Khả năng mở rộng vốn chủ sở hữu lệ thuộc vào triển vọng tăng vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh của NH. Quy mô vốn chủ sở hữu thường được tính toán theo quy ước quốc tế. Bảo đảm an toàn và phát triển vốn là nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt trong hoạt động kinh doanh của TCTD. Để đảm bảo an toàn cho phần tài sản có chứa đựng rủi ro, NH cần duy trì một mức vốn tự có cần thiết được đo bằng tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu. Theo quy định của hiệp ước (BASEL), hệ số an toàn vốn (viết tắt là CAR), thể hiện ở 2 cấp độ: Tổng số vốn loại 1 (1) Tỷ lệ an toàn vốn = (CAR I) (Tổng tài sản có điều chỉnh theo mức độ rủi ro) Tổng số vốn (loại 1 và loại 2) (2) Tỷ lệ an toàn vốn = (CAR II) (Tổng tài sản có điều chỉnh theo mức độ rủi ro) Ở cấp độ (1) tỷ lệ phải 4%; Ở cấp độ (2) tỷ lệ phải 8% Vốn loại 1 là vốn chủ sở hữu chỉ bao gồm: Vốn tự có (vốn góp, vốn cấp), lợi nhuận không chia, thu nhập từ công ty con, tài sản vô hình. Vốn loại 2 là vốn được sử dụng ổn định, bao gồm: Các khoản dự phòng tổn thất, các khoản nợ cho phép chuyển thành vốn chủ sở hữu, nợ thứ cấp (nợ có tính chất dài hạn). Thông thường khi nhắc đến hệ số CAR, hệ số này được hiểu là CAR ở cấp độ 2. Nếu các NH có qui mô vốn nhỏ mà vẫn mở rộng hoạt động của mình đến mức làm cho tỷ lệ an toàn vốn bị thấp hơn mức tối thiểu 8% thì rủi ro đối với hoạt động của NH sẽ là rất lớn. Các cơ quan quản lý NH và thị trường tài chính thường đòi hỏi vốn NH phải phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và những tài sản rủi ro khác. Với những ý nghĩa quan trọng đó có thể nói một NH có mức vốn chủ sở hữu lớn là yếu tố đảm bảo cho NH hoạt động an toàn, đồng thời thể hiện sức mạnh tài chính của bản thân NH. 1.1.3.2. Nhóm chỉ tiêu về qui mô và tăng trưởng tài sản NH kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Vì vậy để tăng trưởng tổng tài sản sẽ không chỉ phụ thuộc vào sự tăng trưởng của tài sản có mà còn phụ thuộc vào sự tăng trưởng của tài sản nợ của NH. Tài sản có Nội dung hoạt động chủ yếu của một NH thể hiện ở phía tài sản. Quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản có sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của NHTM. Tài sản có bao gồm tài sản sinh lời (chiếm từ 80-90% tổng tài sản có) và tài sản không sinh lời (chiếm từ 10-20% tổng tài sản có). Khi nói đến tăng trưởng của tổng tài sản là nói đến qui mô của hoạt động tín dụng và hoạt động đầu tư. Chất lượng tài sản là một chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về tài chính, năng lực quản lý của một NHTM. Đánh giá qui mô, chất lượng tài sản được thể hiện qua các chỉ tiêu: Tốc độ tăng trưởng của tổng tài sản, tính đa dạng hoá trong tài sản, tổng dư nợ, tốc độ tăng trưởng của dư nợ, tỷ trọng dư nợ trên tổng tài sản có, tỷ lệ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu, tình hình đảm bảo tiền vay… Bên cạnh hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư cũng góp phần tăng qui mô tổng tài sản của NH. Các khoản đầu tư trên bảng cân đối kế toán gồm các khoản mục: Chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu tư và góp vốn đầu tư dài hạn. Hoạt động đầu tư được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như: qui mô, tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ dự phòng giảm giá chứng khoán… Trong điều kiện hội nhập quốc tế, các yếu tố về biến động chính trị, sự thay đổi của chính sách và luật pháp của nước ngoài, sự biến động của các đồng tiền quốc gia… sẽ ảnh hưởng đến tình hình sử dụng tài sản ở nước ngoài, mối tương quan giữa tài sản nước ngoài và tài sản ngoại tệ trong tổng tài sản của NH. Nguồn vốn Khi qui mô huy động vốn càng tăng cũng làm tăng tổng tài sản. Qui mô, chất lượng nguồn vốn được thể hiện ở tổng nguồn vốn mà NH huy động được với chí phí thấp, tính ổn định cao và có cơ cấu hợp lý, đáp ứng được yêu cầu về cho vay, đầu tư. Nâng cao chất lượng nguồn vốn có thể hiểu là các hoạt động liên quan đến việc cung cấp cho các nhu cầu về tín dụng, đầu tư, thanh khoản với các nguồn vốn phù hợp về kỳ hạn và lãi suất. Điều này đòi hỏi NH phải cân nhắc các rủi ro, sự ổn định của nguồn vốn để có thể đầu tư vào các dự án có thời gian dài cũng như sự chênh lệch giữa chi phí vay vốn với mức lợi nhuận có thể thu được khi vốn được đầu tư vào tín dụng và giấy tờ có giá…Các chỉ tiêu để đánh giá qui mô, chất lượng nguồn vốn như: Tổng nguồn vốn, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, cơ cấu nguồn vốn, thị phần huy động vốn, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn trên tài sản ngắn hạn, lãi suất huy động bình quân… Muốn tăng trưởng tổng tài sản bền vững đòi hỏi phải nghiên cứu mối tương quan giữa cơ cấu tài sản và nguồn vốn. Qua mối tương quan này sẽ đánh giá được tính tối ưu trong cơ cấu tài sản- nguồn vốn, khả năng phản ứng của NH trước những hiện tượng bất thường của môi trường kinh doanh và đáp ứng yêu cầu rút tiền của công chúng. Sự phối hợp hiệu quả sẽ giúp NH tối đa hoá thu nhập đồng thời kiểm soát chặt chẽ các rủi ro. 1.1.3.3.Khả năng sinh lời cao và ổn định Khả năng sinh lời phản ánh kết quả hoạt động, đánh giá hiệu quả kinh doanh và mức độ phát triển của một NHTM. Đứng trên góc độ từ NHTM, thì một NHTM có khả năng sinh lời cao sẽ có khả năng tích luỹ cao, sẽ có điều kiện trang bị, đầu tư công nghệ, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ thu hút khách hàng; mặt khác đứng trên góc độ nhà đầu tư, người gửi tiền sẽ quyết định giao dịch khi nhìn thấy NHTM đó có thể an toàn do có thể bù đắp rủi ro, từ đó tạo điều kiện tăng trưởng tổng tài sản. Theo thông lệ quốc tế người ta thường đo lường khả năng sinh lời của NHTM bằng các chỉ tiêu định lượng: giá trị tuyệt đối của lợi nhuận sau thuế, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, cơ cấu của lợi nhuận (cho biết lợi nhuận được hình thành từ nguồn nào) và đặc biệt là các chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận ròng trên vốn tự có (ROE), lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA), thu nhập lãi cận biên (NIM)… (1) Tỷ lệ thu nhập/tổng tài sản có (ROA – Return on Assets) Lợi nhuận sau thuế ROA = x 100 (%) Tổng tài sản có Tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản (ROA) thể hiện khả năng của đơn vị trong việc sử dụng các tài sản của mình để tạo ra lợi nhuận. ROA càng cao thể hiện khả năng quản lý của Ban quản trị NH trong việc chuyển tài sản của NH thành lợi nhuận ròng. Thể hiện hiệu quả kinh doanh cao của NH với cơ cấu tài sản sinh lời và không sinh lời khá hợp lý. Tuy nhiên, ROA quá cao không phải là tín hiệu tốt đối với các NH vì trong tình huống đó, NH đang rơi vào tình trạng rủi ro cao do lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro có mối quan hệ thuận chiều. (2) Tỷ lệ thu nhập/Vốn chủ sở hữu (ROE – Return on Equity) Tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu thể hiện 1 đồng vốn chủ sở hữu của NH sẽ mang về bao nhiêu đồng lợi nhuận trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm). Lợi nhuận sau thuế ROE = x 100 (%) Vốn chủ sở hữu Nói cách khác, ROE đánh giá lợi ích mà cổ đông (chủ sở hữu NH) có được từ nguồn vốn bỏ ra. Tỷ lệ này càng cao thể hiện việc sử dụng vốn của NH trong đầu tư, cho vay càng hiệu quả. Các nhà quản trị NH luôn muốn tăng ROE để thoả mãn yêu cầu của cổ đông thông qua nhiều biện pháp như kiểm soát rủi ro có hiệu quả, hạn chế khoản vay xấu… Các chỉ tiêu ROA, ROE thường được các nhà quản trị, các nhà đầu tư quan tâm, sử dụng khi đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của NH, chúng thể hiện khả năng, thời hạn thu hồi vốn đầu tư của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của NH càng cao là cơ sở để NH tăng quy mô vốn cũng như năng lực tài chính của mình. (3) Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên ròng (NI._.M) Tổng thu nhập từ lãi – Tổng chi phí từ lãi NIM = x 100 (%) Tổng tài sản có sinh lời (hoặc tổng tài sản có) Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên ròng (NIM) đo lường khả năng sinh lời cơ bản từ hoạt động cho vay của đơn vị theo mức tài sản có sinh lời bình quân. (4) Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên ròng (NOM) Tổng thu nhập phi lãi – Tổng chi phí phi lãi NOM = x 100 (%) Tổng tài sản có Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên ròng đo lường khả năng sinh lời của các sản phẩm phi tín dụng của đơn vị theo mức tài sản có sinh lời bình quân. (5) Hệ số thu nhập hoạt động cận biên Hệ số thu nhập Tổng doanh thu hoạt động – Tổng chi phí hoạt động hoạt động = x 100 cận biên(%) Tổng tài sản có Sử dụng các chỉ tiêu trên đây để so sánh giữa các thời kỳ, so sánh với các NHTM khác, so sánh với mức bình quân hoặc so sánh với dự kiến sẽ cho thấy khả năng sinh lời cao hay thấp, năng lực tài chính ở mức độ nào. Khả năng sinh lời phụ thuộc rất nhiều vào mức độ nợ xấu của NHTM theo chiều hướng nghịch. 1.1.3.4.Đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh Chất lượng hoạt động kinh doanh và năng lực tài chính của một NHTM không chỉ được thể hiện ở chất lượng tài sản có sinh lời, khả năng quản lý và kiểm soát được các rủi ro trong hoạt động tín dụng, chất lượng nguồn vốn, mà còn được biểu hiện thông qua khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của NH đó. Cụ thể: - Đảm bảo khả năng thanh khoản: Khả năng thanh khoản của một NH là khả năng sẵn sàng chi trả, thanh toán cho khách hàng và bù đắp những tổn thất khi xảy ra rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Đây là một tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng và sự an toàn trong quá trình hoạt động của một NH. Rủi ro thanh khoản xảy ra khi NHTM không đáp ứng được nhu cầu cho vay và đầu tư hoặc không đáp ứng được khả năng thanh toán của khách hàng. Rủi ro này xuất phát từ chênh lệch kỳ hạn huy động vốn và sử dụng vốn, dùng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn quá nhiều, không cân đối được kỳ hạn thu hồi vốn đầu tư với kỳ hạn phải thanh toán, trong khi nhu cầu thanh toán của khách hàng không thể trì hoãn được. Nếu NHTM lâm vào tình trạng này mà không xử lý được kịp thời sẽ rất nguy hiểm, làm mất lòng tin của khách hàng sẽ dẫn đến rút tiền ồ ạt làm tình trạng mất khả năng thanh toán của NH càng trầm trọng hơn, có thể dẫn tới phá sản NH. Khả năng thanh khoản của một NH thể hiện qua chỉ tiêu định lượng: Khả năng thanh toán tức thì, khả năng thanh toán nhanh, chỉ tiêu thanh khoản (cho biết tỷ trọng tài sản thanh khoản (dưới 1 năm) trên tổng tài sản), và chỉ tiêu đánh giá định tính về năng lực quản lý thanh khoản của NHTM và đặc biệt là khả năng quản lý rủi ro thanh khoản của NH đó. Theo thông lệ quốc tế, chỉ tiêu thanh khoản đạt 30% được coi là an toàn, đảm bảo cho NH có thể đáp ứng được nhu cầu rút tiền hay thanh toán tức thời với số lượng lớn. - Khả năng bù đắp khi xảy ra rủi ro: Rủi ro là khả năng xảy ra rổn thất ngoài dự kiến trong quá trình hoạt động kinh doanh, gây nên những thiệt hại cho NH. Khả năng bù đắp rủi ro là khả năng tài chính bù đắp tổn thất khi xảy ra rủi ro, NHTM thực hiện trích DPRR vào chi phí hoạt động thông qua việc trích lập dự phòng cho phần giá trị tài sản "có" có khả năng không thể thu hồi được. Dự phòng rủi ro là các khoản dự trữ được trích lập dự phòng để bù đắp cho những rủi ro mà NHTM có thể gặp phải trong tương lai. Vì vốn tự có của NH chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với tổng nguồn vốn của NH, do vậy nguồn DPRR của NH đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn và vững chắc cho hoạt động của NH, là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng chống đỡ rủi ro, khả năng cạnh tranh của NH. Việc trích lập và sử dụng DPRR ở mỗi nước có qui định khác nhau. Tuy nhiên việc trích lập DPRR đều được trích lập từ chi phí hoặc trích lập từ lợi nhuận sau thuế hoặc bằng cả hai phương pháp sau: - Trích lập DPRR vào chi phí hoạt động cho phần giá trị tài sản “Có” có khả năng thu của NH. - Trích lập quĩ dự phòng tài chính từ lợi nhuận sau thuế bằng 10% lợi nhuận còn lại sau khi đã trích lập quĩ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, bù khoản lỗ của các năm trước, trừ các khoản tiền phạt vi phạm pháp. Số dư được trích của quĩ này không vượt quá 25% vốn điều lệ của NHTM. Quĩ này được dùng để bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã được bù đắp bằng tiền bồi thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất, của tổ chức bảo hiểm và sử dụng dự phòng trích lập trong chi phí. - Ngoài ra, NHTM được trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, giảm giá chứng khoán vào chi phí theo qui. Quy mô DPRR đến mức độ nào phụ thuộc vào quy mô nợ xấu. Nếu nợ xấu tăng lên thì DPRR cũng phải tăng lên để bù đắp rủi ro, có nghĩa là khả năng tài chính cho phép sử dụng để bù đắp tổn thất có thể xẩy ra. Ngược lại, nợ xấu tăng (hoặc không tăng) nhưng dự phòng không đủ để bù đắp có nghĩa là tình trạng tài chính xấu và năng lực bù đắp bởi chi phí bị hạn hẹp. Mức độ DPRR được tính: Tổng mức dự phòng nợ xấu Mức độ DPRR = X 100 (%) Tổng số nợ xấu 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của NHTM Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của NHTM có vai trò quan trọng trong việc tìm ra các giải pháp nâng cao năng lực tài chính. Trong phạm vi bản luận văn này chỉ đưa ra một vài nhân tố ảnh hưởng chính là: Chính sách về tài chính của Chính phủ, Sự phát triển của hệ thống tài chính, Chính sách chiến lược kinh doanh của một NH và khả năng quản trị của NH. 1.2.3.1. Chính sách về tài chính của Chính phủ Vai trò của Chính phủ là một yếu tố mang tính xúc tác rất quan trọng đối với sự phát triển của bất kỳ ngành nào ở một nước, nhất là lĩnh vực NH. Chính phủ tác động đến ngành NH với vai trò là người quản lý và giám sát của toàn hệ thống thông qua vai trò của NHTW, với tư cách là chủ sở hữu, là con nợ và chủ nợ lớn nhất của các NHTM. Chính phủ cũng đồng thời là người hoạch định đường lối phát triển chung của toàn ngành và điều phối nỗ lực chung của toàn bộ hệ thống NH. Chính phủ có thể có những chính sách tác động đến cung, cầu, đến ổn định kinh tế vĩ mô, đến sự phát triển của thị trường chứng khoán, đến các điều kiện nhân tố sản xuất, các ngành liên quan và phụ trợ của ngành NH để tạo thuận lợi hay kìm hãm sự phát triển của ngành NH. Trong giai đoạn hiện nay, sự nỗ lực của Chính phủ trong việc thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các NHTM sẽ góp phần thay đổi hay kìm hãm kế hoạch nâng cao năng lực tài chính, cũng như chiến lược kinh doanh của các NHTM. Vì vậy, khi xây dựng chiến lược kinh doanh các NHTM phải xem xét đến sự tác động của qui định pháp luật, đường lối chiến lược và mức độ ảnh hưởng của các chính sách kinh tế vĩ mô đến xu hướng hoạt động của hệ thống NHTM trong nền kinh tế. 1.2.3.2. Sự phát triển của hệ thống tài chính Sự phát triển của hệ thống tài chính được thể hiện qua một số mặt cơ bản như: Sự phát triển các công cụ thị trường tài chính và sự hoàn thiện cơ chế hoạt động của thị trường tài chính. *. Sự phát triển các công cụ thị trường tài chính Với sự phát triển của các công cụ tài chính sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể trong nền kinh tế khi cần vốn có thể huy động từ các nguồn như: Phát hành cổ phiếu (Công ty, NHTM), trái phiếu (Kho bạc, NH, Công ty). Tạo điều kiện cho NHTM tăng vốn chủ sở hữu bằng phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu chuyển đổi. Mặt khác, người có tiền có cơ hội lựa chọn đầu tư ngoài gửi vào NHTM, từ đó làm thu hẹp thị phần huy động và cho vay của các NHTM dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận và việc nâng cao năng lực tài chính của NHTMVN. *. Cơ chế hoạt động của thị trường tài chính Chính sách tiền tệ Việc NHNN sử dụng chính sách tiền tệ mang tính thị trường- gián tiếp hay sử dụng các công cụ kiểm soát và điều hành trực tiếp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng và điều hoà vốn khả dụng của các NHTM, đến sự ổn định tiền tệ, môi trường cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh của các NHTM. Hoạt động thị trường tiền tệ liên NH Hoạt động của thị trường tiền tệ liên NH cho phép các NHTM vay mượn lẫn nhau, cạnh tranh với nhau thông qua việc mời chào lãi suất, thời hạn vay, mượn và các điều kiện vay. Hoạt động thị trường tiền tệ liên NH phát triển sẽ hỗ trợ rất tốt cho các NHTM trong việc đảm bảo các tỷ lệ an toàn cũng như khả năng thanh khoản. Chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối Với chính sách tỷ giá theo hướng tự do hoá sẽ tạo quyền chủ động cho các NHTM, giúp các NHTM có thể cạnh tranh trong việc thu hút nguồn ngoại tệ vào hệ thống NH và đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Quản lý lãi suất Việc quản lý lãi suất theo cơ chế lãi suất thoả thuận, NHNN chỉ thông báo lãi suất cơ bản còn các NHTM sẽ tham khảo và tự nghiên cứu chủ động quyết định lãi suất huy động, lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường để đảm bảo bù đắp chi phí và sức cạnh tranh với các NHTM cũng như các chủ thể khác trên thị trường tài chính. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Sự phát triển của thị trường chứng khoán sẽ tạo sân chơi cho đối thủ cạnh tranh với các NHTM, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM thực hiện phát hành cổ phiếu ra công chúng để tăng vốn chủ sở hữu và nâng cao năng lực tài chính của mình. *. Cơ chế hoạt động của các NHTM Với cơ chế hoạt động thông thoáng cho các NHTM được phép: Đa dạng hoá các dịch vụ; Tăng quyền chủ động trong kinh doanh: Không còn bị giới hạn về phạm vi kinh doanh; chủ động tuyển dụng lao động; chủ động tìm kiếm dự án có hiệu quả; Tự chủ, tự chịu trách nhiệm với các khoản vay; Tự xác định giá trị tài sản đảm bảo theo giá thị trường, sẽ tạo động lực cho các NH chủ động cạnh tranh, nâng cao năng lực tài chính. *. Sự hội nhập thị trường tài chính của Việt Nam Thông qua hội nhập đã tạo tiền đề cho các tổ chức tài chính, NH nước ngoài vào kinh doanh tại Việt Nam, tác động đến việc gia tăng đối tác cạnh tranh với các NHTMVN đến từ bên ngoài nền kinh tế, ngược lại thông qua hội nhập cũng tạo tiền đề cho các NHTMVN phát triển thị trường, hội nhập vào thị trường tài chính toàn cầu. Như vậy, khả năng nâng cao năng lực tài chính của các NHTM phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của thị trường tài chính. 1.2.3.3. Chính sách chiến lược kinh doanh của một NH, khả năng quản trị của NH. Chiến lược kinh doanh của một NH là một chương trình hoạt động tổng thể và dài hạn nhằm tạo ra một bước phát triển nhất định của NH, là sự cam kết trước về các mục tiêu cơ bản, toàn diện mà một NH cần phải đạt được và sự phân bổ các nguồn lực quan trọng để đạt các mục tiêu đó trong môi trường hoạt động tương lai. Như vậy, chiến lược kinh doanh của NH được xây dựng phải dựa trên cơ sở Chính sách về tài chính của Chính phủ, sự phát triển của hệ thống tài chính và thực tế hoạt động kinh doanh của NH để đảm bảo tính kế thừa, phải dễ dàng thay đổi để thích ứng với những thay đổi của thị trường theo từng giai đoạn, từng thời kỳ cụ thể. Nội dung của chiến lược phải đảm bảo đầy đủ, rõ ràng, có tính thuyết phục và khả thi cao. Khi một mục tiêu được đưa vào chiến lược kinh doanh của NH điều này có ý nghĩa: Thể hiện mục tiêu này đã được Ban lãnh đạo NH định hướng trong dài hạn; NH sẽ phải chuẩn bị yếu tố nguồn lực phù hợp với điều kiện và môi trường kinh doanh để đảm bảo mục tiêu được thực hiện; Chiến lược kinh doanh không phải những đường hướng vô định mà luôn hướng đến mục đích, mục tiêu nhất định với ý nghĩa là kết quả chung, khái quát nhất của quá trình kinh doanh mà NH cần đạt được trong tương lai. Vì vậy khi mục tiêu nâng cao năng lực tài chính được thể hiện trong chiến lược kinh doanh của NH là một đảm bảo chắc chắn cho sự thành công. 1.2.4. Đánh giá năng lực tài chính của NHTM 1.2.4.1. Các chuẩn mực để đánh giá năng lực tài chính của NHTM (Theo tiêu chuẩn Moody’s) 1.2.4.1.1. Vài nét về tổ chức xếp hạng Moody’s Từ công ty xếp hạng đầu tiên do John Moody sáng lập năm 1909, trên thế giới hiện có khá nhiều công ty cung cấp dịch vụ này và ba tên tuổi lớn nhất trong số đó là Moody’s, Standard&Poors và Fitch. Moody’s là công ty được niêm yết độc lập trên Thị trường chứng khoán New York. Hiện nay tổ chức này có 2.500 nhân viên với mạng lưới văn phòng trên khắp thế giới. Công ty đã tiến hành xếp hạng hơn 750 định chế tài chính chỉ riêng tại khu vực châu Á còn trên phạm vi toàn cầu là gần 1.000 NH. Việc đánh giá, xếp hạng các NHTM của các tổ chức xếp hạng độc lập giúp các NH thấy rõ hơn những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của mình. Với cùng một hệ thống xếp hạng, các thang bậc xếp hạng thống nhất các NH có thể thấy rõ hơn vị trí của mình trên thị trường, khả năng của mình so với các đối thủ cạnh tranh, từ đó đưa ra được những giải pháp phù hợp. Quan trọng hơn hết, việc đánh giá, xếp hạng tín nhiệm NHTM là một trong những biện pháp góp phần làm minh bạch thị trường tài chính và để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tài chính NH vì trước hết đối tượng của việc đánh giá, xếp hạng này là đo lường những rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động của NH. Xếp hạng tín nhiệm NH của Moody’s bao gồm hai nhóm xếp hạng chính: Xếp hạng Năng lực Tài chính của Ngân hàng và Xếp hạng Tiền Gửi Ngân hàng. Trong đó, xếp hạng Năng lực tài chính (BFRS) phản ánh mức độ an toàn và sự lành mạnh của NH, nhưng ngoại trừ một số rủi ro tín dụng nhất định từ bên ngoài và các nhân tố hỗ trợ tín dụng. BFRS chỉ đo lường năng lực tài chính của ngân hàng Trả lời câu hỏi: “Liệu Ngân hàng có cần hỗ trợ của bên thứ 3 tại một thời điểm nào đó trong tương lai không?” Sử dụng thang xếp hạng từ A đến E. Có thể sử dụng chỉ số điều chỉnh “+” cho các mức B, C, D, E. (Các ký hiệu xếp hạng và chi tiết thang xếp hạng của Moody’s xin xem tại Phụ lục 1, 2) 1.2.4.1.2. Chuẩn mực đánh giá năng lực tài chính của Moody’s a. Qui mô vốn chủ sở hữu Để thích ứng với xu thế hội nhập quốc tế, để tạo điều kiện có thể thu được lợi nhuận đạt mức trên trung bình của ngành đòi hỏi vốn chủ sở hữu của NH phải tương đương với mức vốn chủ sở hữu của một NH khá trong khu vực. Mức vốn chủ sở hữu khoảng: 22.000 tỷ đồng VND tương đương 1,3 tỷ USD. b. Khả năng thanh khoản Chỉ tiêu thanh khoản (đo bằng tỷ trọng tài sản thanh khoản (dưới 1 năm) trên tổng tài sản) phải đạt 30%. Có chiến lược quản lý rủi ro thanh khoản hiệu quả. c. Qui mô và chất lượng tài sản- nguồn vốn Nhóm mục tiêu về tăng trưởng: Tổng tài sản đạt khoảng 300.000 -350.000 tỷ VND (18-20 tỷ USD) Tốc độ tăng trưởng bình quân: Tổng tài sản: 25%/năm; Nguồn vốn: 23%/năm; Tín dụng: 15%/năm; Đầu tư: 31%/năm Nhóm mục tiêu về chất lượng và cơ cấu: Hệ số CAR =12%. Nợ xấu < 2% tổng dư nợ. Tăng trưởng Lợi nhuận trước thuế bình quân: 60%/năm Khả năng sinh lời: ROA ≥1%; ROE ≥12-15% Cơ cấu dư nợ/Tài sản có ≤ 60% Cơ cấu đầu tư/Tài sản có ≥ 24% Cơ cấu thu dịch vụ ròng/Lợi nhuận trước thuế ≥ 60%/năm Xếp hạng năng lực tài chính (BFSR): B 1.2.4.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực tài chính của NHTM Việt Nam trong xu thế hội nhập Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Dù ở cấp độ nào các nước đều dựa trên những nguyên tắc cơ bản của WTO như: Tối huệ quốc (MFN), Đối xử quốc gia, Mở cửa thị trường, Áp dụng các hành động khẩn cấp. Riêng trong lĩnh vực tài chính-NH, một số nguyên tắc, chuẩn mực cơ bản để đánh giá một NH có hiệu quả, an toàn của Basel được các nước hội nhập áp dụng là: Tuân thủ thiết lập các chỉ tiêu và cung cấp hệ thống thông tin để giám sát NH nhất là chuẩn mực về an toàn vốn, trích DPRR, chuẩn mực về kế toán, thống kê, báo cáo. Vì vậy, để tồn tại và phát triển trong xu thế hội nhập đòi hỏi các NHTM phải nhận thức được đầy đủ sự cần thiết của việc nâng cao năng lực tài chính, cụ thể: 1.2.4.2.1. Đáp ứng yêu cầu tối đa hóa lợi nhuận và đạt mục tiêu tăng trưởng Các NHTM cần nâng cao năng lực tài chính để đảm bảo đạt hiệu quả cao sử dụng vốn kinh doanh nhằm tối đa hoá lợi nhuận và mục tiêu tăng trưởng. Cụ thể: - Đảm bảo đủ vốn cho kinh doanh với chi phí hợp lý Các NHTM muốn tiến hành kinh doanh thì trước hết phải có đủ vốn hay tiềm lực tài chính để duy trì hoạt động và phát triển. Nâng cao năng lực tài chính sẽ giúp NH có mức vốn đầy đủ. Qui mô vốn sẽ quyết định qui mô nguồn tiền gửi, qui mô cho vay tối đa đối với một hoặc một nhóm khách hàng, nắm giữ cổ phiếu của công ty khác, mở chi nhánh, mua sắm TSCĐ, thành lập công ty con…Như vậy, qui mô và cấu trúc hoạt động của NH được điều chỉnh theo qui mô vốn của NH. Với phương thức kinh doanh “đi vay để cho vay”, đòi hỏi NH phải xác định được nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động, lựa chọn được hình thức huy động vốn phong phú để có thể tập trung vốn kịp thời, thoả mãn nhu cầu kinh doanh có hiệu quả. - Sử dụng vốn kinh doanh hợp lý, hiệu quả Sử dụng vốn hiệu quả tức là đồng vốn kinh doanh của NH phải tạo ra lợi nhuận cao. Sự cạnh tranh về lãi suất buộc các NHTM phải tiết kiệm để hạ thấp mức lãi suất. Nếu quản lý khéo léo lãi suất tiền gửi, lãi suất tiền vay, từ đó có thể làm thay đổi cả về qui mô lẫn chủng loại nguồn tiền mà NH có thể thu hút. Nâng cao năng lực tài chính là một biện pháp quan trọng để đối phó với những thay đổi trong lãi suất thị trường, nhằm kiểm soát và bảo vệ nguồn thu từ lãi, chi phí trả lãi, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên, giá trị tài sản của NH. - Đảm bảo an toàn trong sử dụng vốn Vốn được coi là tấm đệm chống đỡ những rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh. Vốn lớn sẽ tạo được uy tín lớn cho NH trên thị trường, tạo điều kiện mở rộng qui mô và phát triển. Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của NH phải từ 8% trở lên. Nếu tỷ lệ này không đảm bảo, NHTM sẽ không đủ khả năng mở rộng hoạt động, thậm chí còn đứng trước nguy cơ phá sản. Nâng cao năng lực tài chính sẽ giúp NH thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an toàn vốn trong hoạt động, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại có thể sảy ra đối với NH. 1.2.4.2.2. Đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng dịch vụ ngày càng cao của khách hàng trong nền kinh tế thị trường. Trong môi trường kinh doanh hiện đại, các khách hàng có đầy đủ thông tin và đòi hỏi chất lượng dịch vụ cao hơn, sản phẩm dịch vụ đa dạng hơn với mức giá cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, sự trung thành của khách hàng lại giảm đi, họ sẵn sàng thay đổi mối quan hệ NH hơn trước đây vì lợi ích kinh tế. Khi nhu cầu khách hàng thay đổi đòi hỏi NH phải có sự đầu tư, điều chỉnh để đáp ứng tốt nhất các nhu cầu mới của khách hàng cả hiện tại và tương lai. Chính vì vậy chỉ có nâng cao năng lực tài chính thì NH mới có khả năng đáp ứng nhu cầu đối với các dịch vụ NH hiện đại ngày càng cao của khách hàng. 1.2.4.2.3. Đáp ứng yêu cầu của hội nhập tài chính quốc tế. Hội nhập quốc tế nói chung và tài chính NH nói riêng đều mang lại những cơ hội và không ít rủi ro. Cơ hội mang lại đó là nguồn lực tài chính để phát triển, công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Những rủi ro có thể sảy ra đối với nền kinh tế là những rối loạn tài chính tiền tệ nếu thị trường tài chính kém phát triển, hệ thống NH yếu kém sẽ dễ đổ vỡ. Mà bản chất của hội nhập quốc tế về tài chính tiền tệ là quá trình các quốc gia, các khu vực thực hiện việc mở cửa cho sự tham gia lẫn nhau vào lĩnh vực tài chính tiền tệ thể hiện bằng những cam kết đã được đặt ra trong Lộ trình mở cửa hệ thống NH. Vì vậy, các NH trong nước không còn cách nào khác là phải tự “cải tổ” mình nhằm nâng cao năng lực tài chính để có thể cạnh tranh trong bối cảnh mới. Áp lực cạnh tranh đóng một vai trò như một động lực thúc đẩy các NH ngày càng phải nâng cao năng lực của mình. 1.2.4.2.4. Do yêu cầu hiện đại hóa công nghệ trong môi trường cạnh tranh Đổi mới công nghệ NH đã trở thành chủ đề được quan tâm hơn bao giờ hết trong những năm gần đây. Cùng với sự phát triển của xã hội, ngày nay có thể khẳng định hoạt động NH không thể tách rời sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Những thay đổi của công nghệ thông tin có tác động mạnh mẽ tới công nghệ NH, góp phần nâng cao năng lực tài chính của NH. Năng lực công nghệ NH được đánh giá thông qua mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý và kinh doanh của NH nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, khả năng cung cấp các sản phẩm, dịch vụ NH hiện đại cũng như chất lượng các sản phẩm NH, qua đó tiết kiệm được chi phí lao động và quản lý, tăng năng suất lao động, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi nhuận cho NH. Tuy nhiên việc đầu tư cho công nghệ, trang thiết bị hiện đại để cung cấp các dịch vụ chính xác, tiện ích lại rất tốn kém, thời gian thu hồi vốn lâu nên thường đòi hỏi những khoản đầu tư lớn từ nguồn vốn của chính bản thân NH. Một NH có mức vốn nhỏ bé sẽ gặp khó khăn trong việc đầu tư cho lĩnh vực hiện đại hóa công nghệ và như vậy sẽ làm giảm năng lực tài chính của NH. 1.3. Kinh nghiệm về nâng cao năng lực tài chính của một số NHTM trên thế giới và bài học rút ra đối với Việt Nam 1.3.1. Kinh nghiệm của một số NH trên thế giới về nâng cao năng lực tài chính Xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng đã trở thành áp lực buộc các nước đang phát triển phải có những biện pháp tích cực nhanh chóng nâng cao năng lực của các NHTM trong nước. Từ những năm 90 trở lại đây, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở Đông Nam Á thì các NHTM ở Đông Nam Á, Trung Quốc và kể cả Nhật Bản đã bộc lộ những yếu kém về năng lực tài chính của mình như: Nợ quá hạn cao, các tỷ lệ an toàn thấp, công nghệ lạc hậu…Chính vì thế việc nâng cao năng lực tài chính đã trở thành một trào lưu trong những năm qua và không chỉ diễn ra đối với các NHTM của các nước đang phát triển mà cả các nước phát triển với các NHTM mạnh. Đây là một vấn đề cần được đánh giá để rút ra những bài học kinh nghiệm cho hoạt động NH VN. - Tự do hoá thị trường tài chính Tự do hoá thị trường tài chính là một trong những điều kiện tiền đề cho quá trình hội nhập, hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển như các nước khu vực Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, có nhiều năm kinh nghiệm trong quá trình hội nhập. Các nước này đã thực hiện tự do hoá thị trường tài chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển các luồng vốn từ nước này sang nước khác bằng việc thả nổi các giao dịch ngoại hối; thả nổi lãi suất, lãi suất được xác định trên cơ sở cung cầu trên thị trường, Nhà Nước chỉ tham gia với vai trò điều tiết vĩ mô mà không can thiệp trực tiếp. Kinh nghiệm rút ra từ một báo cáo của WB cho thấy “tự do hoá tài chính cần phải tiến hành song song với cải cách kinh tế vĩ mô, những cố gắng tự do hoá tài chính trước khi thực hiện những cải cách sẽ phải chịu tác động của các hiện tượng như: dòng vốn không ổn định, tỷ lệ lãi suất cao và công ty bị khốn đốn”. - Đặt mục tiêu nâng cao năng lực tài chính diễn ra mạnh mẽ tại từng NH, đặc biệt là những NHTMNN, các NHTMQD ở Trung Quốc đặt mục tiêu trong chiến lược củng cố sức cạnh tranh của mình như: + Xây dựng cơ chế NH tự chịu trách nhiệm đầu tư, tự quản lý các khoản vay của mình, tăng cường tính minh bạch và giảm nợ xấu. Đồng thời, tăng cường khả năng quản lý giám sát nội bộ của các NHTM, thực hiện tinh giảm biên chế và nâng cao hiệu quả trong các NH. + Cải thiện cơ sở hạ tầng thông tin để trở thành một NH toàn cầu có khả năng quản lý vốn tầm cỡ quốc tế (NH xây dựng Trung Quốc). Nâng cao khả năng sử dụng NH điện tử của các tổ chức, phát triển phần mềm để giúp cho việc thẩm định và đánh giá rủi ro tín dụng (NH Công thương Trung Quốc). - Cấp thêm vốn và cổ phần hoá các NHTM Nhà nước Chính phủ Trung Quốc quyết định bỏ ra 45 tỷ USD từ quĩ dự trữ ngoại hối quốc gia để hiện đại hoá hai NH quốc doanh là Bank of China và NH xây dựng với mục đích chính là tăng cường các chỉ số phản ánh năng lực cân đối về vốn, cũng như chuyển đổi từ hình thức quốc doanh sang cổ phần. - Cơ cấu lại NH Việc cơ cấu lại NH ở các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước Đông Nam Á, Nhật Bản và Trung Quốc, sau khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 nhằm tăng năng lực cạnh tranh của các NHTM trong nước với nhiều giải pháp như: + Quyết tâm xử lý triệt để các khoản nợ xấu: Các nước đều thành lập các Công ty mua bán nợ hay công ty khai thác tài sản (Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản…) có nhiệm vụ mua lại nợ của các NHTM với mục tiêu đẩy nhanh quá trình lành mạnh hoá tài chính. Đồng thời thực hiện cải cách quản lý nợ và phân loại nợ thành 5 cấp dựa trên mức độ rủi ro nhằm tạo điều kiện cho các NH thi hành các biện pháp cần thiết. Kết quả là NH Trung Quốc đã xử lý được 108,4 tỷ NDT nợ khó đòi và bán được 149,8 tỷ NDT nợ khó đòi, góp phần giảm tỷ lệ nợ khó đòi từ 16,29% xuống còn 5,46% năm 2004. Bán đấu giá nợ xấu cho NH nước ngoài để các NHTMNN thu hồi một phần vốn từ tài sản có không sinh lời, nâng cao tiềm lực tài chính. Chính phủ Trung Quốc cho phép Tập đoàn tài chính Morgan Stanley của Mỹ và Deutsche Bank của Đức mua số nợ xấu với giá 171 triệu (chỉ bằng 1/3 khoản nợ ban đầu). Hàn Quốc đã bán 51% Korea Firt Bank cho New Bridge Bank (Mỹ). + Trích lập dự phòng đầy đủ: Đa số các nước đều áp dụng hệ thống phân loại tín dụng dựa trên yếu tố rủi ro. Theo cách phân loại này, khoản cho vay được phân chia thành 2 loại: Khoản cho vay ở mức độ chấp nhận được gọi là khoản cho vay có hiệu quả, được trích dự phòng ở tỷ lệ chung. Khoản cho vay liệt kê vào danh sách theo dõi gồm: Khoản cho vay có dấu hiệu rủi ro (thể hiện ở khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp không hợp lý, trì hoãn trả nợ…); Khoản vay bị nghi ngờ khó thu hồi (các tiêu thức trên là xác thực và có xu hướng xấu đi); Khoản vay khó thu hồi được và có khả năng phải xoá nợ. Dựa vào mức độ rủi ro của các khoản vay, các NH sẽ có tỷ lệ dự phòng phù hợp. Tỷ lệ trích sẽ tăng cao hơn khi khoản vay càng có dấu hiệu khó thu hồi. - Việc sáp nhập NH + Việc sáp nhập NH để trở thành tập đoàn tài chính NH có số vốn lớn với sức cạnh tranh cao như: Năm 1999 hai NH Pháp là BNP và Paribas- Societé- Génerale tiến hành hợp nhất trị giá 37,7 tỷ USD; Deusche Bank của Đức mua lại Banker Trust của Mỹ; Ở Nhật có UFJ Holdings và Mitsubishi-Tokyo Financial Group (MTFG) kết hợp lại thành một, trên thực tế có thể nhìn nhận UFJ Holdings đã bị MTFG thôn tính vì MTFG được đánh giá là NH có khả năng quản lý tài sản tốt nhất còn UFJ là một NH có tỷ lệ NPL (Non Performing Loan) rất cao. Tập đoàn tài chính này đã đem lại cho ngành NH cũng như nền kinh tế Nhật Bản một động lực mới để phát triển và cạnh tranh. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, xu hướng sáp nhập làm thay đổi sâu sắc quan niệm về sức mạnh kinh tế và thực tế đã đem lại lợi ích to lớn đối với những NH sáp nhập. Việc sáp nhập đã tạo ra những thể chế NH với tổng số vốn hàng trăm tỷ USD, có khả năng huy động vốn cũng như đầu tư vào các công trình có qui mô lớn, lợi nhuận lớn hơn nhiều. Các cuộc sáp nhập làm tăng khả năng hỗ trợ giữa các bên, loại bỏ được nguy cơ đối đầu cạnh tranh, tạo ra những cơ hội mới đối với các tập đoàn, NH thành viên về khả năng mở rộng thị trường, giảm chi phí, tận dụng những lợi thế về khoa học công nghệ để đánh bại những NH có năng lực yếu hơn. - Cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài mua cổ phần hạn chế trong một số NHTMNN: Trung Quốc trong tiến trình cổ phần hoá các NHTMNN đã cho phép một số tập đoàn tài chính nước ngoài mua cổ phần hạn chế tại một số NHTM sau cổ phần hoá. Cuối tháng 1/2006, cùng một lúc, ba tập đoàn tài chính lớn là Goldman Sachs Inc. (Mỹ), Allianzn AG (Đức) và American Express (Mỹ) đã đầu tư tổng cộng 3,78 tỷ USD để mua 10% cổ phần của NH Công Thương Trung Quốc, NHTM quốc doanh lớn nhất Trung Quốc. - Xoá bỏ chi nhánh làm ăn thua lỗ, mở chi nhánh đến khu vực đang phát triển Việc xoá bỏ những chi nhánh kinh doanh thua lỗ sẽ giúp NH cắt giảm chi phí, tập trung nguồn lực vào những hoạt động có ích có khả năng tạo ra lợi nhuận cho. Việc mở chi nhánh đến các khu vực đang phát triển là xu hướng ngược lại với việc xoá bỏ những chi nhánh làm ăn thua lỗ. Một NH có thể thực hiện theo cả 2 hướng ngược chiều này, nhờ có việc phát triển chính sách này mà đến nay đã hình thành những tập đoàn tài chính có mạng lưới khắp toàn cầu như: Citibank, Morgan, FujiBank, Deuche bank…Việc phát triển chi nhánh đã tạo ra thị trường tiềm năng rộng lớn, mang tính toàn cầu, mặt khác tránh được rủi ro tập trung vào nền kinh tế. - Chính phủ các nước hỗ trợ quá trình cơ cấu lại NH bằng nhiều cách như: Hoàn thiện các Bộ Luật, văn bản pháp qui về tiền tệ, NH; cung cấp vốn cho công ty bảo hiểm tiền gửi từ nguồn vốn ngân sách để công ty này trực tiếp hỗ trợ NH; thành lập uỷ ban cơ cấu lại NH hoặc thành lập một tổ chức (công ty) quản lý tài sản NH được giao đặc quyền xử lý các vấn đề của NH, sử dụng trái phiếu Chính phủ để tái cấp vốn cho các NH hoặc xử lý nợ… 1.3.2. Bài học đối với Việt Nam. Từ thực tế tại Việt Nam và kinh nghiệm nâng cao năng lực tài chính của NH các nước, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm về các giải pháp nâng cao năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam để có thể phát triển ổn định bền vững và hội nhập quốc tế. - Một là, các NHTM phải nhận thức được những yêu cầu và thách thức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó mỗi NHTM phải có lộ trình và bước đi cụ thể để không ngừng nâng cao năng lực trên cơ sở tận dụng những lợi thế cạnh tranh sẵn có. Các giải pháp nâng cao năng lực tài chính NHTM: + Cần quan tâm đầu tư thích đáng về công nghệ hiện đại, tin học, đào tạo nguồn nhân lực gắn với công nghệ và các sản phẩm dịch vụ hiện đại theo thông lệ. Lấy trang bị công nghệ và sản phẩm dịch vụ hiện đại làm bước đột phá để tạo đà cho sự phát triển hoạt động NH. + Giữ vững trạng thái hoạt động ổn định thông qua việc giám sát và quản lý rủi ro hệ thống bởi việc tuân thủ các chỉ số hoạt động đã được xác định về giới hạn an toàn theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. + Điều hành hoạt động NH, ngoài nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội theo đường lối của Đảng và Nhà nước, chấp hành và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia nhưng phải lấy hiệu quả làm mục tiêu hướng tới trong hoạt động kinh doanh để từng bước phát triển ổn định, bền vững tiến tới hội nhập trong nước và quốc tế. + Tăng sức mạnh, sức cạnh tranh để phát triển là cần thiết song không phải vì thế mà bất chấp chi phí và làm giảm sút khả năng sinh lời mà phải ._.hỉ còn 2 chức năng cơ bản: Marketing và tác nghiệp (Operations), các chức năng khác như: Tổ chức cán bộ, kinh doanh tiền tệ, cân đối nguồn vốn, tài trợ thương mại, công nghệ thông tin, kiểm tra nội bộ, tín dụng bán buôn (doanh nghiệp)... sẽ chuyển cho Hội sở chính. Nói tóm lại, việc đổi mới mô hình tổ chức là việc rất quan trọng và ảnh hưởng đến hoạt động của toàn NH. BIDV sẽ coi đây là giải pháp để nhanh chóng trở thành NH hiện đại, đáp ứng chuẩn mực quốc tế tốt nhất. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân sự quản lý Để nâng cao năng lực quản lý của các NH thì bên cạnh việc hoàn thiện mô hình tổ chức thì việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhân sự quản lý là vấn đề rất quan trọng. Để nâng cao chất lượng đội ngũ nhân sự quản lý thì NH cần xây dựng cơ chế lựa chọn nhân sự quản lý công khai và minh bạch. Việc lựa chọn này cũng phải kết hợp với việc đánh giá nhân viên hàng năm, theo đúng các mức độ tiến bộ về các mặt theo các tiêu thức khung năng lực toàn diện. Ngoài ra, NH cũng cần xây dựng kế hoạch nhân sự quản lý, có kế hoạch bồi dưỡng cán bộ nguồn để đảm bảo tính kế thừa liên tục, tránh gây ra những xáo trộn không cần thiết khi có những biến động về nhân sự quản lý. Một điểm yếu của đội ngũ lãnh đạo BIDV nói riêng cũng như các NH Việt Nam nói chung là kinh nghiệm quản lý các nghiệp vụ NH hiện đại cũng như kinh nghiệm sử dụng các công cụ hiện đại đặc biệt là kinh nghiệm trong công tác quản trị rủi ro. Để khắc phục yếu điểm này, bên cạnh việc tích luỹ kinh nghiệm thì bản thân các lãnh đạo NH cần phải tích cực học hỏi, tự nghiên cứu để trang bị thêm cho mình những kiến thức và kỹ năng cần thiết. BIDV có thể tổ chức những khoá đào tạo riêng biệt cho cán bộ quản lý cấp cao và hợp tác với các tổ chức đào tạo có uy tín, các ngân hàng nước ngoài để tập huấn ở nước ngoài. BIDV cũng có thể xem xét giải pháp thuê nhân sự quản lý cấp cao nước ngoài sau khi cổ phần hoá. Việc thuê nhân sự quản lý giỏi nước ngoài sẽ là cách thức nhanh nhất để BIDV có thể tiếp cận kinh nghiệm quản lý của các ngân hàng hiện đại trên thế giới, từ đó nâng cao năng lực chung của toàn bộ đội ngũ quản lý của NH. 3.2.5.2. Giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Nhân tố con người luôn luôn là nhân tố quan trọng nhất đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Vì vậy, NH cần phải quan tâm đến công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực một cách thường xuyên và mang tính chiến lược lâu dài. Đội ngũ nhân viên NH là những người trực tiếp tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm và cung ứng sản phẩm. Vì vậy công tác đào tạo nghiệp vụ cần được đặt lên hàng đầu. NH cần xây dựng được một đội ngũ nhân viên năng động sáng tạo, mang tính chuyên nghiệp cao và mang bản sắc văn hoá riêng của NH. BIDV có thể thực hiện những nội dung lớn sau: Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá nhân viên Đến nay BIDV chưa xây dựng được tiêu chí đáng giá năng lực nghề nghiệp của nhân viên một cách minh bạch và khoa học. Năng lực nghề nghiệp tổng thể là một hệ thống những phẩm chất, năng lực của nhân viên phản ánh hiệu quả làm việc có thể quan sát được bao gồm kiến thức chuyên môn, kỹ năng quan điểm và những hành vi của các cá nhân cũng như là những năng lực tổ chức, quy trình của một tập thể nhằm tạo ra cho doanh nghiệp hay tổ chức những lợi thế cạnh tranh bền vững. Bên cạnh khả năng chuyên môn vững vàng, các cán bộ NH cần phải có các phẩm chất tốt như là khả năng giao tiếp, khả năng tổ chức, quản lý, khả năng chịu áp lực trong công việc và các kỹ năng ứng xử linh hoạt. NH cần phải xây dựng được hệ thống chỉ tiêu đánh giá năng lực nhân viên của mình. Hệ thống chỉ tiêu này cần được định lượng hoá bằng thang điểm. Định kỳ hàng quý hoặc hàng năm, NH cần tiến hành tổng kết đánh giá năng lực nhân viên và xét khen thưởng đối với các nhân viên có năng lực cao. Xây dựng cơ chế đãi ngộ minh bạch Hiện nay, cạnh tranh thu hút nguồn nhân lực trong lĩnh vực tài chính – NH đang trở thành vấn đề thời sự ở nước ta. Trước yêu cầu phát triển, cạnh tranh và hội nhập, các tổ chức trung gian tài chính, đặc biệt là NHTMCP đang mở rộng màng lưới kinh doanh, chi nhánh, phòng giao dịch…Hàng loạt các NHTMCP đô thị cách đây 3-4 năm cũng chỉ có 300-500 cán bộ nhân viên, nay cũng tăng lên tới 2000-3000 người. Bên cạnh đó, hàng loạt các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư đã được cấp giấy phép thành lập, các NH nước ngoài và NH TMCP chuẩn bị được thành lập là địa chỉ thu hút nguồn nhân lực rất quan trọng. Chính vì vậy, để khuyến khích nhân tài và giảm thiểu rủi ro, NH cần phải có cơ chế đãi ngộ minh bạch. Với tình trạng chảy máu chất xám của các NHTMNN đang xảy ra phổ biến, để có thể thu hút và giữ chân các nhân tài, NH cần có chính sách đãi ngộ thoả đáng nhất là khi có sự tham gia cạnh tranh của các NH nước ngoài. Trên cơ sở hệ thống đánh giá năng lực của nhân viên, NH có thể xét thưởng nhằm tạo động lực khuyến khích các nhân viên học tập và rèn luyện, nâng cao năng lực và đạo đức nghề nghiệp. Với cơ chế trả lương dựa trên cơ sở lợi nhuận hoạt động, việc các NH phải thận trọng hơn trong kinh doanh để giảm thiểu rủi ro cho mình khiến cho quy mô mạng lưới bị thu hẹp. Vì vậy lợi nhuận tạo ra cần phải được phân tích trong mối tương quan với mức nợ không sinh lời và các rủi ro tiềm ẩn khác. Nâng cao chất lượng của công tác đào tạo và tuyển dụng Công tác đào tạo: Để đáp ứng nhu cầu mới, NH cần phải tiến hành đào tạo bồi dưỡng, đào tạo lại các cán bộ nghiệp vụ. Công tác đào tạo phải từng bước được kế hoạch hoá giúp cho việc xây dựng và thực hiện nội dung, chương trình đào tạo bám sát và phục vụ kịp thời cho việc thực hiện những mục tiêu hoạt động của BIDV trong từng thời kỳ, đặc biệt trong quá trình triển khai thực hiện các dự án chuyển đổi và hiện đại hoá NH; đào tạo tập trung cho phát triển kỹ năng, gắn đào tạo với mục tiêu phục vụ, đáp ứng cho yêu cầu của thực tiễn trước mắt là phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế; Nội dung, chương trình đào tạo cần liên tục đổi mới, hệ thống và chuẩn hoá phù hợp cho từng đối tượng cán bộ: cán bộ mới, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ và đội ngũ cán bộ quản lý các cấp hướng theo chất lượng và chuẩn mực của các NH tiên tiến; Áp dụng và phát triển các hình thức và phương pháp đào tạo thích hợp (đào tạo trong giờ, ngoài giờ; đào tạo tập trung theo lớp của hệ thống BIDV và đào tạo riêng đối với từng đơn vị, từng khu vực); BIDV cũng nên xem xét việc liên kết hợp tác với các trường đại học để xây dựng các chương trình đào tạo cũng như biên soạn các tài liệu đào tạo đảm bảo tính hệ thống, tính kịp thời và cập nhật được các thực tiễn và công nghệ NH mới nhất. Tuỳ theo nhu cầu mà việc đào tạo có thể được thực hiện ngay tại các cơ sở của NH và cũng có thể được thực hiện tại các trường đại học chuyên ngành. Về công tác tuyển dụng: Cần xây dựng chính sách tuyển dụng đúng đắn, xem xét nhu cầu tuyển dụng và yêu cầu tuyển dụng cụ thể đối với từng vị trí công việc của các phòng ban không chỉ hiện tại mà còn xét cả nhu cầu trong tương lai. Nội dung và hình thức tuyển dụng cần phải được kết hợp giữa các phương pháp truyền thống và các phương pháp hiện đại để có khả đánh giá hết được khả năng tiềm tàng của người dự tuyển. Trong điều kiện hội nhập, NH bên cạnh yêu cầu về khả năng chuyên môn đối với người dự tuyển còn phải đòi hỏi các kỹ năng về quản lý và giải quyết tình huống. Hình thức thi viết sẽ không thể đánh giá được hết khả năng của người dự tuyển, do vậy cần đưa thêm các hình thức như là thảo luận tập thể và thực hành tình huống. 3.2.5.3. Giải pháp phát triển công nghệ thông tin Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam, hạ tầng công nghệ thông tin NH được coi là yếu tố có ý nghĩa quyết định khả năng cạnh tranh với các NH trong khu vực và thế giới. Nhưng hiện tại công nghệ thông tin NH của BIDV còn chưa đủ mạnh. Có thể đưa ra một số giải pháp mang tính định hướng như sau: Để phát huy tối đa hiệu quả của công nghệ hiện đại và không ngừng nâng cao năng lực công nghệ, BIDV cần xây dựng được cho mình một chiến lược công nghệ dài hạn trên cơ sở chiến lược kinh doanh. Một chiến lược công nghệ dài hạn là công cụ thiết yếu để các NH thống nhất quản lý những nỗ lực cải tiến công nghệ của mình, tránh đầu tư manh mún, tuỳ tiện gây lãng phí. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, BIDV cần xây dựng các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực công nghệ như sau: - Phát triển hệ thống công nghệ thanh toán tiên tiến và hệ thống giao dịch tự động, giao dịch một cửa. Đảm bảo các hoạt động giao dịch NH được thực hiện trên một nền kỹ thuật công nghệ hiện đại, có các chương trình, dịch vụ ngân hàng tiên tiến đáp ứng kịp thời các nhu cầu khách hàng và vận hành an toàn; Tiếp tục đầu tư phát triển mở rộng và nâng cao trình độ công nghệ đáp ứng nhu cầu thị trường, đảm bảo duy trì năng lực cạnh tranh, năng lực thể chế để phát triển ổn định và bền vững. - Triển khai thực hiện dự án bảo mật mạng máy tính nhằm nâng cao độ an toàn, phát hiện ngăn chặn các hành vi thâm nhập mạng máy tính trái phép, xác thực đa yếu tố đối với người sử dụng để kiểm soát nội bộ chặt chẽ và đảm bảo an toàn cho giao dịch của khách hàng đến mức tối đa. - Xây dựng được hệ thống thông tin quản lý (MIS) phục vụ cho công tác quản trị điều hành ở các cấp. - Xây dựng và phát triển hệ thống hạ tầng mở - kết nối với các ngân hàng, các định chế tài chính và các doanh nghiệp để phát huy và sử dụng các lợi thế. Sử dụng và phát triển mạnh các hoạt động qua hệ thống Internet. - Có kế hoạch và giải pháp thích hợp để đảm bảo tuân thủ luật bản quyền và các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO trong vấn đề sử dụng bản quyền các phần mềm và các tài sản công nghệ thông tin thuộc diện điều chỉnh của luật và các văn bản pháp lý hiện hành. 3.3. Một số kiến nghị Nhằm hiện thực hoá các giải pháp nâng cao năng lực tài chính của BIDV trong xu thế hội nhập hiện nay, nếu như chỉ có nỗ lực bản thân BIDV thì chưa đủ mà nhất thiết phải có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ, cơ quan Nhà nước và NHNN như sau: 3.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ và cơ quan Nhà nước 3.3.1.1. Xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý có hiệu quả, hiệu lực và tin cậy Để hoàn thiện môi trường pháp lý, xin đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật NH như sau: Chính phủ và các cơ quan hữu quan cần nhanh chóng sửa đổi Luật NHNN, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp, Luật phá sản và các văn bản pháp luật khác có liên quan để đảm bảo NHNN Việt Nam trở thành NHTW hiện đại, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các TCTD trong hoạt động kinh doanh. Xây dựng, chỉnh sửa, bổ sung các quy định pháp luật NH về cấp phép hiện diện thương mại, về tổ chức, hoạt động, quản trị, điều hành của các TCTD cả trong và ngoài nước hướng tới nguyên tắc không phân biệt đối xử, phù hợp với các cam kết và lộ trình gia nhập WTO, các quy định pháp luật cần tuân thủ nguyên tắc minh bạch hoá và có thể dự báo. Nghiên cứu xây dựng khung pháp lý cho các mô hình TCTD mới, các tổ chức có hoạt động mang tính chất hỗ trợ cho hoạt động của các TCTD (công ty xếp hạng tín dụng, công ty môi giới tiền tệ) nhằm phát triển hệ thống các TCTD. Nghiên cứu, hoàn thiện quy định về các nghiệp vụ và dịch vụ NH mới (quản lý ngân quỹ, quản lý danh mục đầu tư, các dịch vụ uỷ thác, các sản phẩm phái sinh, dịch vụ NH điện tử, dịch vụ thuê mua tài chính…). 3.3.1.2. Hỗ trợ tài chính và thúc đẩy quá trình cải cách, cơ cấu lại DNNN Việc thực hiện đổi mới, sắp xếp lại DNNN nhằm tạo điều kiện để hoạt động có hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu hội nhập. Đồng thời, nhanh chóng thực hiện cải cách DNNN góp phần vào việc giải quyết các khoản nợ tồn đọng của khu vực NH. Cải cách NH phải gắn với cải cách kinh tế toàn diện, mà trước hết là đẩy nhanh lộ trình sắp xếp lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả DNNN. Bởi vì hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM chính là bức tranh phản chiếu tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Các NHTM sẽ không thể lành mạnh hoá tình hình tài chính nếu các doanh nghiệp - khách hàng và là người bạn đồng hành của họ làm ăn thua lỗ triền miên. Rộng hơn, cải cách khu vực NH khó có thể thành công nếu các khu vực khác của nền kinh tế không được đổi mới một cách đồng thời. Do đó, cần đặt cải cách khu vực NH trong chương trình cải cách kinh tế toàn diện. Cải cách NH phải tiến hành song song với tiến trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô, cải cách bộ máy quản lý nhà nước đi đôi với cải cách khu vực chi tiêu công, chủ động và kiểm soát quá trình hợp tác quốc tế, cải cách và tăng cường tính hiệu lực của hệ thống pháp luật. Khi đó, những biện pháp mở cửa, hội nhập NH theo Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, cam kết với WTO mới tạo ra được cơ sở cho sự phát triển và thúc đẩy các ngành kinh tế tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế. 3.3.1.3. Hỗ trợ, giúp đỡ BIDV trong quá trình cổ phần hóa Hiện nay quá trình cổ phần BIDV đang gặp khó khăn vì thị trường chứng khoán Việt Nam từ đầu năm 2007 đến nay ngày càng mất dần tính thanh khoản, chỉ số VNIndex liên tục giảm, giá trị giao dịch thấp, các nhà đầu tư đang mất lòng tin. Với tình hình thị trường chứng khoán như vậy thì BIDV nói riêng và NHTMNN nói chung rất khó tiến hành IPO lần đầu ra công chúng đúng với lộ trình cổ phần hoá của Đề án phát triển ngành NH Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Cũng như Chính phủ cũng sẽ khó hoàn thành được mục tiêu cổ phần hoá các doanh nghiệp trước năm 2010. Chính phủ với vai trò là người quản lý và giám sát của toàn hệ thống NH nên chăng có những chính sách tác động đến cung, cầu, đến ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững thị trường chứng khoán, các ngành liên quan và phụ trợ của ngành NH thể hiện các nỗ lực của Chính phủ trong việc thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các NHTM. 3.3.1.4. Tăng cường vai trò của công ty mua bán nợ quốc gia trực thuộc Bộ Tài chính Chính phủ đã cho thành lập một Công ty mua bán nợ tồn đọng của các doanh nghiệp, tuy nhiên vai trò của Công ty này rất hạn chế. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy trong việc xử lý nợ xấu cần thiết thành lập một tổ chức mua bán nợ - một tổ chức tài chính – tín dụng đặc thù có trách nhiệm xử lý nợ. Mô hình này đã được ngành NH xem xét áp dụng và có cam kết với WB và IMF. Tuy nhiên, tổ chức này phải đóng vai trò chủ đạo trong việc điều tiết thị trường và thực hiện các nhiệm vụ vượt ngoài tầm các AMC khác. Ưu điểm của giải pháp này là tập trung toàn bộ khoản nợ của khách hàng tại nhiều NH vào một đầu mối để xử lý; mặt khác dư nợ còn lại NHTM là những khoản nợ trung bình và tốt, tạo điều kiện để NH hoạt động hiệu quả, lành mạnh theo đúng thông lệ quốc tế, nâng cao năng lực tài chính của mỗi NH. 3.3.1.5. Hỗ trợ cho quá trình cơ cấu lại, hiện đại hoá hệ thống NH Để cho Đề án cơ cấu lại và hiện đại hoá hệ thống NH có thể tiến hành được nhanh chóng, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước về tài chính và kỹ thuật. Trong điều kiện nguồn ngân sách có hạn và kinh nghiệm còn thiếu, việc huy động các nguồn lực từ bên ngoài thông qua các khoản viện trợ, vay nợ và tranh thủ sự giúp đỡ của các chuyên gia từ các tổ chức quốc tế, của các nước là hết sức cần thiết. Có thể coi đây là một khoản đầu tư dài hạn cơ bản và quan trọng, Chính phủ cần dành cho NH sự ưu tiên đầu tư thích đáng để thực hiện các đề án một cách thuận lợi. Để giải quyết vấn đề vốn chủ sở hữu theo lộ trình cơ cấu lại NHTM, Nhà nước cần có kế hoạch cấp đủ số vốn còn thiếu theo đề án. Mặt khác, tỷ lệ thuế suất đánh vào lợi nhuận NH khá cao cũng là khó khăn trong việc tăng vốn chủ sở hữu từ lợi nhuận giữ lại, nên chăng tỷ lệ này cần được xem xét để giảm thấp một cách hợp lý. Chính phủ có thể xem xét hoãn thu thuế NH thì có thể bổ sung được vốn cho NH. Đề nghị Chính phủ, Bộ tài chính điều chỉnh lãi của 1.350 tỷ đồng trái phiếu đặc biệt theo lãi suất thị trường hoặc thay thế bằng tiền mặt cho BIDV để đảm bảo an toàn vốn. 3.3.1.6. Bộ Tài Chính ban hành các quy định hướng dẫn việc hạch toán theo chuẩn mực kế toán quốc tế Do hệ thống kế toán áp dụng đối với các TCTD Việt Nam mới chỉ tuân thủ khoảng 50% chuẩn mực kế toán quốc tế nên kết quả kiểm toán theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) có sự khác biệt về một số chỉ tiêu như số liệu DPRR tín dụng phải trích lập, nguồn vốn chủ sở hữu… Để tránh cho các NHTMVN phải thực hiện kiểm toán theo cả 2 chuẩn mực VAS và IAS, Bộ Tài chính cần phải khẩn trương ban hành các chuẩn mực kế toán Việt Nam về việc trình bày, ghi nhận và đo lường công cụ tài chính phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế. Việc các NH phải thực hiện kiểm toán theo cả 2 chuẩn mực kế toán Việt Nam và kế toán quốc tế không những gây tốn kém mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng hội nhập quốc tế của hệ thống ngân hàng Việt Nam 3.3.2. Kiến nghị với NHNN Một là, nâng cao năng lực của NHNN về điều hành chính sách tiền tệ, cụ thể: - Hoàn thiện các cơ chế điều hành các công cụ CSTT nhằm nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của từng công cụ, tăng cường vai trò chủ đạo của nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành CSTT; gắn điều hành tỷ giá với lãi suất; gắn điều hành nội tệ với điều hành ngoại tệ; nghiên cứu, lựa chọn lãi suất chủ đạo của NHNN để định hướng và điều tiết lãi suất thị trường; - Hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ ngành theo hướng hiện đại hoá, đảm bảo nắm bắt kịp thời, đầy đủ, chính xác thông tin về tiền tệ, tín dụng, tăng cường phối hợp trao đổi thông tin với các Bộ, Ngành để phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ; - Tăng cường vai trò công tác thống kê, nâng cao năng lực thu thập tổng hợp thông tin trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động NH và cán cân thanh toán phục vụ xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia; - Đổi mới một cách căn bản công tác dự báo và xây dựng CSTT hàng năm theo hướng áp dụng mô hình kinh tế lượng vào phân tích dự báo và lượng hóa các mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Hai là, nâng cao năng lực của NHNN về thanh tra, giám sát NH, cụ thể: - Cấu trúc lại mô hình tổ chức và chức năng hệ thống thanh tra theo chiều dọc gồm cả 4 khâu: cấp phép và các quy định về an toàn hoạt động NH, giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ, xử lý vi phạm; - Hoàn thiện quy định về an toàn hoạt động NH phù hợp với thông lệ quốc tế (Basel1), đồng thời đảm bảo việc tuân thủ các quy định này; - Tăng cường vai trò và năng lực hoạt động của Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam và Trung tâm Thông tin Tín dụng trong việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin tín dụng nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh của các TCTD và hoạt động giám sát rủi ro của NHNN đối với các TCTD. KẾT LUẬN Tăng năng lực tài chính của các doanh nghiệp Việt nam nói chung, NHTM nói riêng là vấn đề được mọi quốc gia đặt lên hàng đầu. Khi nền kinh tế ngày càng bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tiến trình hội nhập, tăng khả năng tài chính từ đó tăng khả năng cạnh tranh là con đường dẫn tới thành công của bất cứ ngân hàng nào. Với thời gian và phạm vi nghiên cứu nhất định, đề tài: “Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam trong xu thế hội nhập” đã đóng góp được một số kết quả sau: Thứ nhất: Hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản về tài chính của NHTM. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các tiêu chí đánh giá, nhân tố ảnh hưởng và các chuẩn mực đánh giá về năng lực tài chính của NHTM. Đồng thời luận văn đã nghiên cứu kinh nghiệm nâng cao năng lực tài chính của một số NHTM trên thế giới và rút ra bài học đối với NHTMVN. Đây là cơ sở lý thuyết cho các phân tích, đánh giá thực tế trong phần tiếp theo. Thứ hai: Giới thiệu những nét chính về Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng năng lực tài chính của BIDV thông qua các tiêu chí: Tăng vốn chủ sở hữu, qui mô, tốc độ tăng trưởng và chất lượng tổng tài sản, khả năng sinh lời, khả năng đảm bảo an toàn. Qua đó đánh giá những kết quả về nâng cao năng lực tài chính mà BIDV đã đạt được trong thời gian qua, đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân, làm cơ sở để đưa ra các giải pháp kiến nghị. Thứ ba: Trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển của BIDV và tầm nhìn đến 2015, đề tài đưa ra hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của BIDV. Các giải pháp chính gồm: Tăng vốn chủ sở hữu, nâng cao chất lượng tài sản, khả năng sinh lời và khả năng thanh khoản. Đề tài đề xuất các kiến nghị với Chính Phủ, cơ quan Nhà nước và Ngân hàng nhà nước nhằm tăng cường năng lực tài chính của ngân hàng. Đây là đề tài rộng và phức tạp nên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp của Quý Thầy cô giáo, các anh chị đồng nghiệp và toàn thể các bạn quan tâm đến lĩnh vực này. Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Hoàng Huy Hà, các thầy, cô giáo trường Học viện NH, gia đình và các đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Agribank : Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam BHTGVN : Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam BIDV : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam CAR : Hệ số an toàn vốn DATC : Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước DPRR : Dự phòng rủi ro IAS : Tiêu chuẩn kế toán quốc tế. ICB : Ngân hàng công thương Việt nam IFRS : Chuẩn mực lập và trình bày báo cáo tài chính quốc tế NH : Ngân hàng NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHTMVN : Ngân hàng thương mại Việt Nam ROA : Tỷ lệ sinh lời trên tài sản ROE : Tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu Sacombank : Ngân hàng cổ phần Sài Gòn- Thương Tín TCTD : Tổ chức tín dụng TSĐB : Tài sản đảm bảo VAS : Hệ thống kế toán Việt Nam VCB : Ngân hàng cổ phần ngoại thương Việt Nam WB : Ngân hàng Thế giới DANH MỤC CÁC BẢNG DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu 2.1………………………………………………………………………………. 42 Biểu 2.2………………………………………………………………………………. 45 Biểu 2.3………………………………………………………………………………. 45 Biểu 2.4………………………………………………………………………………. 46 Biểu 2.5………………………………………………………………………………. 47 Biểu 2.6………………………………………………………………………………. 51 Biểu 2.7………………………………………………………………………………. 53 Biểu 2.8………………………………………………………………………………. 55 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 2 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 4 VỀ NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA NHTM 4 1.1. Tổng quan về tài chính của ngân hàng thương mại 4 1.1.1. Khái niệm và hoạt động của ngân hàng thương mại 4 1.1.2. Tài chính của ngân hàng thương mại 6 1.2. Năng lực tài chính của ngân hàng thương mại 10 1.2.1. Quan niệm về năng lực tài chính của ngân hàng thương mại 10 1.2.2. Các tiêu chí phản ánh năng lực tài chính của NHTM trong xu thế hội nhập 11 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của NHTM 19 1.2.4. Đánh giá năng lực tài chính của NHTM 22 1.3. Kinh nghiệm về nâng cao năng lực tài chính của một số NHTM trên thế giới và bài học rút ra đối với Việt Nam 27 1.3.1. Kinh nghiệm của một số NH trên thế giới về nâng cao năng lực tài chính 27 1.3.2. Bài học đối với Việt Nam. 30 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TÀI CHÍNH 35 CỦA NHĐT&PT VIỆT NAM 35 2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển NHĐT&PT Việt Nam. 35 2.2. Thực trạng nâng cao năng lực tài chính của NHĐT&PT Việt Nam. 39 2.2.1. Tăng vốn chủ sở hữu 39 2.2.2. Qui mô, tốc độ tăng trưởng và chất lượng tổng tài sản 43 2.2.3. Khả năng sinh lời 55 2.2.4. Khả năng đảm bảo an toàn 61 2.3. Đánh giá chung về nâng cao năng lực tài chính của NHĐT&PT Việt Nam. 63 2.3.1. Những kết quả đạt được 63 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 66 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC TÀI CHÍNH 71 CỦA NHĐT&PT VIỆT NAM 71 3.1. Mục tiêu nâng cao năng lực tài chính của BIDV 71 3.1.1. Cơ hội và thách thức đối với BIDV trong xu thế hội nhập 71 3.1.2. Mục tiêu nâng cao năng lực tài chính của BIDV 73 3.2. Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của NHĐT&PT Việt Nam. 75 3.2.1. Giải pháp tăng vốn chủ sở hữu 75 3.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tài sản 79 3.2.3. Giải pháp nâng cao khả năng sinh lời. 81 3.2.4. Giải pháp nâng cao khả năng thanh khoản 81 3.2.5. Nhóm giải pháp phụ trợ 82 3.3. Một số kiến nghị 89 3.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ và cơ quan Nhà nước 89 3.3.2. Kiến nghị với NHNN 93 KẾT LUẬN……………………………………………………………………. . 90 Phụ lục: 01 Phụ lục: 01 Phụ lục: 02 TÀI LIỆU THAM KHẢO Ferderic S.Mishkin, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1994 Phan Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Thu Thảo (2002), Ngân hàng thương mại - Quản trị và nghiệp vụ, NXB Thống Kê, Hà Nội. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2006), Các cam kết của Việt Nam và ngân hàng Việt Nam tham gia WTO, Hà ội Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2005-2006), Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ Học viện ngân hàng (2006-2007), Tạp chí Khoa học đào tạo Ngân hàng Học viện ngân hàng(2001), Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, Nxb Chính trị quốc gia. Học viện ngân hàng(2001), Quản trị ngân hàng, Nxb Thống kê. Lê Minh Hưng (2007), “Hệ thống ngân hàng Việt Nam bước vào triển khai thực hiện các cam kết gia nhập WTO - Những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Ngân hàng. Ngân hàng Công thương Việt Nam (2004-2006), Báo cáo thường niên, Hà Nội Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2004-2007), Báo cáo kiểm toán, Hà Nội Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2003-2007), Báo cáo thường niên, Hà Nội Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2004-2007), Tài liệu Hội nghị giám đốc, Hà Nội Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2008), Tài liệu tổng kết Hội sở chính năm 2007 và triển khai nhiệm vụ năm 2008, Hà Nội Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2006-2007), Tài liệu xếp hạng tín nhiệm BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2006-2007), Tạp chí Đầu tư – phát triển Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (2001-2005), Báo cáo thường niên, Hà Nội Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2001-2005), Báo cáo thường niên, Hà nội. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), “Định hướng và giải pháp phát triển ngành Ngân hàng giai đoạn 2006-2010 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng”, Tạp chí Ngân hàng, (21), tr. 1-8 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1998), Hệ thống hoá văn bản pháp luật về Ngân hàng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học ngành ngân hàng, NXB Văn hóa- thông tin, Hà Nội Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam (2007), “Lộ trình mở cửa của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong cam kết gia nhập WTO”, Tạp chí Ngân hàng, (1), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1997), Luật các tổ chức tín dụng, NXB Thống Kê, Hà Nội Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2004), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng, NXB Thống Kê, Hà Nội Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 về việc ban hành “Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng”. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2007), Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 về việc bổ sung,chỉnh sửa Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2008), Quyết định số: 06/2008/QĐ-NHNN ngày 12/3/2008 về việc ban hành Quy định xếp loại NHTMCP Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (2001-2005), Báo cáo thường niên, Hà Nội Nguyễn Thị Quy (2005), NLCT của các Ngân hàng thương mại trong xu thế hội nhập, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội. Thủ tướng chính phủ (2006), Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24  tháng 5  năm 2006 về việc phê duyệt Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Phụ lục 1: CÁC KÝ HIỆU XẾP HẠNG CỦA MOODY’S Tiền gửi/nợ dài hạn Tiền gửi/nợ ngắn hạn Xếp hạng năng lực Tài chính Aaa Prime-1 A Aa 1,2,3 Prime-2 B A 1,2,3 Prime-3 C Baa 1,2,3 Not Prime D Ba 1,2,3 E B 1,2,3 Caa 1,2,3 Ca C *Ghi chú: Xếp hạng dài hạn: Ngoại trừ xếp hạng bậc Aaa, Ca, C, các xếp hạng khác đều có thể có những chỉ số điều chỉnh “1,2,3”. Vì vậy Aa1 thì an toàn hơn Aa2, Aa2 an toàn hơn Aa3. Mức xếp hạng từ Baa3 trở lên là mức đầu tư. Xếp hạng ngắn hạn: Xếp hạng ngắn hạn được áp dụng đối với những công cụ tài chính có kỳ hạn từ 1 năm trở xuống. Ngoại trừ xếp hạng Not-Prime, các mức xếp hạng khác là các mức để đầu tư Xếp hạng năng lực tài chính: “A” là mức cao nhất, “E” là mức thấp nhất. Có thể có chỉ số điều chỉnh “+” đối với những mức xếp hạng dưới A. Không áp dụng khái niệm các mức để đầu tư và mức dưới đầu tư đối với Xếp hạng năng lực tài chính. Phụ lục 2: CHI TIẾT CÁC THANG XẾP HẠNG CỦA MOODY’S 1. Xếp hạng Tiền gửi Dài hạn Ngắn hạn Giải thích ý nghĩa Aaa P-1 Là mức xếp hạng cao nhất, khả năng trả nợ rất cao, ngay cả trong các điều kiện môi trường không thuận lợi. Aa P-2 Khả năng trả nợ rất cao, chỉ kém mức cao nhất một chút. A P-3 Khả năng trả nợ cao, tuy nhiên có thể gặp khó khăn khi môi trường diễn biến bất lợi Baa NP Đủ khả năng trả nợ. Tuy nhiên nếu môi trường diễn biến bất lợi, việc trả nợ dễ gặp khó khăn. Ba Từ hạng này trở xuống, các khoản nợ có độ mạo hiểm cao. Hiện tại có khả năng trả nợ, nhưng khó đảm bảo trong tương lai, đặc biệt trong diễn biến bất lợi của môi trường B Hiện tại đã có dấu hiệu của việc không trả được nợ, và khả năng trả nợ trong tương lai phụ thuộc vào diễn biến thuận lợi của môi trường. Caa Ngay trong hiện tại khả năng trả nợ đã là ít, và trong tương lai chỉ có thể trả được nợ nếu môi trường diễn biến thuận lợi Ca Khả năng vỡ nợ là cao C Khả năng vỡ nợ rất cao, thường là các tình huống con nợ đã đệ đơn xin phá sản mặc dù vẫn còn tiếp tục thanh toán nợ nần. 2. Xếp hạng năng lực tài chính của Ngân hàng: A B C D E Tình trạng tài chính tối ưu; Giá trị hoạt động doanh nghiệp và khả năng tự bảo vệ ở mức cao; Môi trường hoạt động ổn định và có tính dự báo cao Năng lực tài chính khá; các yếu tố tài chính cơ bản tốt; Thương hiệu có khả năng tự bảo vệ; Môi trường hoạt động ổn định và có thể dự báo Năng lực tài chính phù hợp; các cơ sở chấp nhận được; Thương hiệu vẫn vòn giá trị nhưng hạn chế Môi trường hoạt động kém ổn định và kém tính dự báo Năng lực tài chính vừa phải; có khả năng cần các sự hỗ trợ từ bên ngoài; Các hạn chế có thể bao gồm: thương hiệu kém, các nền tảng tài chính không hiệu quả, hay môi trường hoạt động không thể dự báo Năng lực tài chính rất hạn chế; rất có thể có các hỗ trợ định kỳ từ bên ngoài; Các hạn chế: thương hiệu và nền tảng kém, môi trường bất ổn. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCH-0934.doc
Tài liệu liên quan