Nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của Công ty Dệt may Hà Nội trên thị trường EU

Lời mở đầu Kể từ khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường đến nay đã được hơn 15 năm. Trong khoảng thời gian đó, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển kinh tế, trong đó có hoạt động xuất khẩu. Từ chỗ chỉ đơn thuần xuất khẩu một vài loại nguyên liệu thô chưa qua chế biến như than đá, thiếc, gỗ tròn và một số sản phẩm thủ công mỹ nghệ đơn giản, chủng loại hàng hoá xuất khẩu tới nay đã đa dạng hơn, trong đó có những mặt hàng đạt giá trị kim ngạch xu

doc115 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1085 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của Công ty Dệt may Hà Nội trên thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất khẩu cao vào hàng thứ hai, thứ ba trên thế giới như gạo và cà phê. Cơ cấu hàng xuất khẩu và cơ cấu thị trường xuất khẩu cũng có những thay đổi tích cực. Tỷ trọng hàng đã qua chế biến tăng khá nhanh, thị trường xuất khẩu được mở rộng và đa dạng hơn. Đặc biệt, trong nhiều năm liền, xuất khẩu trở thành động lực chính của tăng trưởng GDP và góp phần không nhỏ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Tuy đạt được những thành tựu nổi bật nhưng cho đến nay xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn khá nhỏ bé so với các nước trong khu vực. Nguyên nhân chính là sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam còn yếu, chưa tạo được niềm tin đối với khách hàng, thị trường không ổn định (trừ một số mặt hàng chủ lực), chất lượng không cao, giá cả thấp. Công ty dệt may Hà Nội là một trong những công ty đầu đàn của Tổng công ty dệt may Việt Nam, được thành lập từ năm 1978 có nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may. Đến nay, Công ty đã hoạt động được hơn hai chục năm và trong khoảng thời gian này công ty đã đạt được rất nhiều thành tựu trong hoạt động xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu ngày càng đa dạng và phong phú, thị trường xuất khẩu đã được mở rộng, công ty đã có quan hệ bạn hàng với hơn hai chục nước, trong đó chủ yếu là EU, Nhật Bản. Tuy nhiên, cũng giống như các doanh nghiệp Việt Nam khác, hoạt động xuất khẩu của công ty có một vấn đề nổi cộm đó là sức cạnh tranh các mặt hàng kém, nhất là trên thị trường EU- thị trường chính của công ty. Từ thực tế này, sau một thời gian thực tập ở công ty Hanoisimex, em đã quyết định lựa chọn đề tài: Một số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của công ty Dệt may Hà Nội trên thị trường may mặc EU. Mục đích nghiên cứu: Luận giải cơ sở của sức cạnh tranh, phân tích sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường EU của công ty, đánh giá tồn tại và đề ra một số giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường EU trong thời gian tới. Qua đó, đề xuất mốt số ý kiến để công ty có thể tham khảo trong quá trình hoạt động. Phương pháp nghiên cứu: Để có thể thu thập thông tin làm cơ sở đưa ra những giải pháp, em đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp đọc tài liệu, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích kinh doanh, phương pháp dự báo. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu về thực trạng sức cạnh tranh hàng may mặc cuả Công ty Hanosimex trên thị trường EU trong thời gian qua và một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của công ty trên thị trường may mặc EU trong thời gian tới. Nội dung của chuyên đề gồm có ba phần chính sau: Chương I: Lý luận về cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. Chương II: Thực trạng sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty Hanoisimex trên thị trường EU. Chương III: Các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho hàng dệt may xuất khẩu của công ty Hanoisimex vào thị trường EU. Chương I Lý luận cơ bản về sức cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. I. Cạnh tranh và các hình thức cạnh tranh. Các doanh nghiệp hiện nay không còn muốn bó hẹp hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình trong phạm vi một quốc gia mà họ luôn tìm cách hướng ra thị trường nước ngoài. Vì những lợi ích do hoạt động xuất khẩu mang lại. Có nhiều mục đích và động cơ thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ vào hoạt động thương mại quốc tế, có thể là để mở rộng khả năng cung ứng hay tiêu thụ hàng hoá, để tìm kiếm các nguồn lực ở nước ngoài, để đa dạng hoá hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, tất cả đều nhằm mục đích là tối đa hoá lợi nhuận và ổn định lợi nhuận. Vì vậy, sự thành công hay thất bại của các nhà kinh doanh quốc tế phụ thuộc cơ bản vào nguồn lực ở nước ngoài, vào mức tiêu thụ hàng hoá, vào giá cả hàng hoá và quan trọng là khả năng cạnh tranh với các đối thủ quốc tế. Hoạt động kinh doanh quốc tế hiện nay bao gồm thương mại hàng hoá hữu hình, thương mại hàng hoá vô hình, hoạt động gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công, hoạt động tái xuất khẩu, chuyển khẩu và xuất khẩu tại chỗ. Tuỳ theo đặc điểm, tính chất từng loại hình kinh doanh quốc tế mà các doanh nghiệp đưa ra những cách thức nghiên cứu, phân tích và đánh giá chính xác mọi thông tin phục vụ cho việc xây dựng một chiến lược cạnh tranh thích hợp, trước hết là việc xác định chính xác hình thức và chiến lược cạnh tranh tối ưu cho doanh nghiệp của mình. 1. Khái niệm cạnh tranh. Cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Để đơn giản hoá, có thể hiểu cạnh tranh là một sự ganh đua giữa một (hoặc một nhóm) người mà sự nâng cao vị thế của người này sẽ làm giảm vị thế của những người tham gia còn lại. Trong kinh tế, khái niệm cạnh tranh thường được sử dụng rất nhiều, tuy nhiên cho đén nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất, cụ thể và rão ràng. Theo Karl Maxr thì "Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm đạt được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch". ở đây, tác giả chỉ đề cập đến cạnh tranh trong một không gian bó hẹp, đó là xã hội tư bản chủ nghĩa, là chế độ chiếm hữu về tư liệu sản xuất. Chế độ tư bản sinh ra cạnh tranh, cạnh tranh được nhìn nhận là " cá lớn nuốt các bé", cạnh tranh là lấn át lẫn nhau, chèn ép lẫn nhau để tồn tại. Như vậy cạnh tranh được nhìn nhận dưới góc độ tiêu cực. Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là môi trường và động lực của sự phát triển mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tạo động lực cho sự phát triển. Do đó quan điểm đầy đủ về cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các nhà kinh doanh trong việc giành một nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường. Cạnh tranh trong kinh tế là cuộc chạy "Marathon kinh tế" nhưng không có đích cuối cùng, ai cảm nhận thấy đích thị người đó trở thành nhịp cầu cho các đối thủ cạnh tranh khác vượt lên phía trước. 2. Phân loại cạnh tranh. 2.1. Căn cứ vào mức độ, tính chất của cạnh tranh trên thị trường: Các nhà kinh tế học thường phân loại thị trường thành: 2.1.1. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo : Cạnh tranh hoàn hảo xảy ra khi có một số lớn doanh nghiệp nhỏ sản xuất và bán ra một loại hàng hoá, dịch vụ giống hệt nhau và với số lượng của từng doanh nghiệp qúa nhỏ so với tổng số hàng hoá có trên thị trường. Thị trường này có một số đặc điểm : Có rất nhiều người sản xuất và bán hàng hoá giống hệt nhau, song không ai có ưu thế trong việc cung ứng và mua sản phẩm để có thể làm thay đổi giá cả. Người bán có thể bán toàn bộ hàng hoá của mình với giá thị trường. Như vậy họ phải chấp nhận giá thị trường có sẵn và dù họ có tăng giảm lượng hàng hoá bán ra thì cũng không có tác động gì đến giá cả thị trường. Không có trở lực gì quan trọng ảnh hưởng đến việc gia nhập vào một thị trường hàng hoá, nói cách khác là không có sự cấm đoán do luật lệ quy định hoặc do tính chất của sản phẩm đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật cao, mức đầu tư quá lớn. Theo thị trường này mỗi doanh nghiệp chỉ là một phần tử trong tổng thể vì vậy các quyết định của doanh nghiệp không ảnh hưởng đến thị trường. Mặt khác việc định giá của doanh nghiệp không cách nào khác hơn là phải tự thích ứng với giá cả hiện có trên thị trường. Muốn có lãi doanh nghiệp phải giảm thấp chi phí sản xuất. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo sẽ có tác dụng thúc đảy các doanh nghiệp không ngừng cải tiến cơ cấu sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng nhưng đồng thời phải tìm cách giảm chi phí sản xuất xuống mức thấp nhất có thể để phục vụ người tiêu dùng những sản phẩm tốt nhất với giá rẻ nhất. Khi đó doanh nghiệp mới có khả năng tồn tại được trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế thế giới hiện nay rất khó tìm thấy hình thái này. 2.1.2. Cạnh tranh không hoàn hảo. Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là tình trạng cạnh tranh bình thường vì nó phổ biến trong điều kiện hiện nay. Đây là thị trường mà phần lớn các sản phẩm là không đồng nhất. Cùng sản phẩm có thể chia làm nhiều thứ loại, nhiều chất lượng...Sản phẩm tương tự có thể được bán với nhiều nhãn hiệu khác nhau, mỗi nhãn hiệu đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau. Mặc dù, sự khác biệt giữa các sản phẩm không đáng kể (sự khác biệt mang ý nghĩa quan niệm, tâm lý là chính): các điều kiện mua bán hàng hoá cũng là khác nhau. Người bán có thể có uy tín độc đáo riêng biệt đối với người mua do nhiều lý do khác nhau: khách hàng quen, gây được lòng tin...hay các cách thức quảng cáo cũng có thể ảnh hưởng tới người mua, làm người mua thích mua của một nhà cung ứng này hơn của một nhà cung ứng khác. Đường cầu của thị trường là đường không co dãn. Việc mua và bán sản phẩm được thực hiện trong bầu không khí có tính chất giao thương rất lớn, điều này khác hẳn với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Người bán có thể thu hút khách hàng bởi nhiều cách: quảng cáo, khuyến mại, phương thức bán hàng, cung cấp dịch vụ, tín dụng, hoặc có nhiều điều khoản ưu đãi...Do đó, trong giá có sự phân biệt, xuất hiện hiện tượng nhiều giá. Có thể nói giá cả nên xuấng thất thường tuỳ khu vực, tuỳ nguồn cung ứng, tùy người mua. 2.1.3. Cạnh tranh độc quyền. ă Cạnh tranh độc quyền: Trong thị trường cạnh tranh độc quyền, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau bằng việc bán sản phẩm phân biệt, các sản phẩm có thể thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng không phải là thay thế hoàn hảo. Nghĩa là độ co dãn của cầu là cao chứ không phải là vô cùng.Vì những lý do khác nhau (chất lượng, hình dáng, danh tiếng...) người tiêu dùng coi mặt hàng của mỗi doanh nghiệp khác với của các doanh nghiệp khác. Do đó một số khách hàng sẵn sàng trả giá cao hơn cho sản phẩm mình thích, trong ngắn hạn khó ra nhập thị trường nhưng dài hạn thì có thể . Nhà sản xuất định giá nhưng không thể tăng giá một cách bất hợp lý, về dài hạn thì không thể trở thành thị trường độc quyền được. Cạnh tranh độc quyền sử dụng các hình thức cạnh tranh phi giá như quảng cáo, phân biệt sản phẩm . ă Độc quyền tập đoàn: Trong thị trường độc quyền tập đoàn, sản phẩm có thể giống nhau hoặc khác nhau và chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hay hầu hết toàn bộ tổng sản lượng.Tính phụ thuộc giữa các doanh nghiệp là lớn, hành vi của doanh nghiệp này ảnh hưởng tới doanh nghiệp khác. Nếu một doanh nghiệp giảm giá sẽ dẫn đến tình trạng phá giá do các doanh nghiệp dễ kết cấu với nhau. Nhưng vì cạnh tranh bằng giá không có lợi do vậy người ta chuyển sang cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm. Trong thị trường độc quyền tập đoàn, một số hoặc tất cả các doanh nghiệp đều thu hút được lợi nhuận đáng kể trong dài hạn thì có các hàng rào ra nhập làm cho các doanh nghiệp mới không thể hoặc khó mà ra nhập thị trường. Về dài hạn có thể dẫn đến độc quyền. Trong độc quyền tập đoàn, các nhà sản xuất cũng sử dụng nhiều hình thức cạnh tranh phi giá như quảng cáo hoặc phân biệt sản phẩm giống như trong cạnh tranh độc quyền. 2.2. Căn cứ vào các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường: ă Cạnh tranh giữa người bán và người mua : Là cuộc cạnh tranh giữa người bán và người mua diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt trên thị trường.Người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất, ngược lại người mua muốn mua với giá thấp nhất. Giá cuối cùng là giá thống nhất giữa người mua và người bán sau một quá trình mặc cả với nhau mà theo đó hoạt động mua bán được thực hiện. ă Cạnh tranh giữa những người mua với nhau : Là cuộc cạnh tranh xảy ra khi cung nhỏ hơn cầu. Khi lượng cung một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó quá thấp so với nhu cầu tiêu dùng thì cuộc cạnh tranh giữa những người mua sẽ trở nên quyết liệt. Lúc đó giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ tăng vọt nhưng do hàng hoá khan hiếm nên người mua vẫnsẵn sàng trả giá cao cho hàng hoá mình cần. Kết qủa là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua thì bị thiệt. Đây là cuộc cạnh tranh mà theo đó những người mua sẽ bị thiệt còn những người bán được lợi . ă Cạnh tranh giữa những người bán với nhau : Đây là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất, chiếm đa số trên thị trường.Thực tế cho thấy khi sản xuất hàng hoá càng phát triển càng có nhiều người bán dẫn đến cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên nhiều phương diện và nhiều hình thức đa dạng khác nhau. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật một mặt tác động đến các nhà sản xuất, một mặt làm thay đổi nhu cầu của người mua, do đó nó dần làm biến đổi vị trí của các yếu tố cạnh tranh. Một cách chung nhất cạnh tranh là sự ganh đua ở các giác độ : chât lượng, giá cả, nghệ thuật tổ chức tiêu thụ và thời gian. Giá là yếu tố thứ nhất của cạnh tranh, đây là hình thức cạnh tranh được sử dụng nhiều nhất. Khi nhu cầu con người phát triển cao hơn thì yếu tố chất lượng sản phẩm chiếm vị trí chính yếu. Đến nay vào những năm cuối của thế kỷ 21 thì với các doanh nghiệp lớn họ có với nhau sự cân bằng về giá cả thì yếu tố thời gian và tổ chức tiêu thụ sản phẩm là quan trọng nhất. 3. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp. 3.1. Cạnh tranh bằng giá cả. Theo lý thuyết về cung cầu, giá cả được hình thành bởi sự gặp gỡ của cung và cầu, nhưng doanh nghiệp hoàn toàn có thể định giá cho sản phẩm của mình tuỳ theo mục đích kinh doanh cụ thể, chỉ cần mức giá đó bù đắp được chi phí sản xuất và có lãi. Do vậy, doanh nghiệp thường chọn giá cả làm công cụ cạnh tranh của mình. Trong kinh doanh nói chung và kinh doanh quốc tế nói riêng- để giành được phần thắng trong cuộc chạy đua kinh tế thì các doanh nghiệp thường đưa ra một mức giá thấp hơn giá của các đối thủ cạnh tranh nhằm lôi cuốn khách hàng, qua đó tiêu thụ nhiều hơn hàng hoá và dich vụ. Các đối thủ cũng hoàn toàn có thể phản ứng lại bằng cách hạ giá thấp hơn. Phương thức cạnh tranh này khi đã trở nên gay gắt thì nó sẽ biến thành cuộc chiến tranh về giá cả giữa các doanh nghiệp. 3.2. Cạnh tranh bằng chất lượng. Khi thu nhập và đời sống của dân cư ngày càng cao thì phương thức cạnh tranh bằng giá xem ra không có hiệu quả. Chất lượng của sản phẩm và dịch vụ là mối quan tâm của khách hàng, nên nếu như hàng hoá có chất lượng thấp thì dù có bán giá rẻ cũng không tiêu thụ được. Để nâng cao khả năng cạnh tranh bằng hàng hoá và dịch vụ, doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Chất lượng được thể hiện qua nhiều yếu tố của sản phẩm, nếu doanh nghiệp không đủ điều kiện phát triển mọi yếu tố chất lượng thì vẫn có thể đi sâu khai thác thế mạnh một hoặc một vài yếu tố nào đó. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và kỹ thuật cũng như sự bành trướng của các công ty đa quốc gia, thì vấn đề cạnh tranh bằng chất lượng trở nên gay gắt khi các sản phẩm đưa ra thị trường đều đảm bảo chất lượng cao. Chính vì vậy, đối với các quốc gia có trình độ sản xuất còn nhiều hạn chế sẽ rất khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 3.3. Cạnh tranh bằng dịch vụ. Ngoài phương thức cạnh tranh bằng giá cả, cạnh tranh chất lượng thì trên thực tế các doanh nghiệp còn cạnh tranh với nhau bằng dịch vụ. Đây là phương thức cạnh tranh hết sức phổ biến trên thị trường quốc tế- đó có thể là dịch vụ trước khi bán hàng, dịch vụ bán hàng tận nơi cho khách, dịch vụ sau khi bán hàng. Các phương thức dịch vụ ngày càng được sử dụng rộng rãi và đa dạng hơn, nhất là khi lĩnh vực dịch vụ đang tăng dần tỷ trọng trong cơ cấu nền kinh tế. Cạnh tranh bằng dịch vụ có hiệu quả rất cao vì khi đó khách hàng thấy mình được tôn trọng hơn và do đó họ sẽ có cảm tình với sản phẩm và doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể sử dụng các phương thức kết hợp hoặc biến tấu dựa trên các phương thức cơ bản. Các phương thức về marketing (chiêu hàng, tiếp thị, quảng cáo, nghiên cứu và phân tích thị trường) cũng được sử dụng như một công cụ cạnh tranh, bởi nó ảnh hưởng lớn tới hiệu quả việc tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp. 4. Mô hình cạnh tranh của M. Porter. Theo quan điểm của M.Porter, các nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hàng hoá có thể tổng hợp 5 nhóm nhân tố cơ bản và được coi là 5 sức mạnh tác động đến sức cạnh tranh của nó trên thị trường . Hình 1: Mô hình năm nhân tố cạnh tranh của M.Porter Những đối thủ tiềm tàng. Các đối thủ cạnh tranh trong nội bộ ngành. Người cung cấp. Người mua. Các sản phẩm thay thế. 4.1. Sự đe doạ của những đối thủ cạnh tranh trong nội bộ ngành. Sự hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng vì các đối thủ cạnh tranh sẽ quyết định tính chất và mức độ tranh đua. Nếu các đối thủ này yếu doanh nghiệp có cơ hội để tăng giá bán và kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Ngược lại, khi các đối thủ cạnh tranh hiện tại mạnh thì sự cạnh tranh về giá là không đáng kể, mọi cuộc cạnh tranh về giá cả đều dẫn tới tổn hại cho các bên. Bàn về cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong một ngành sản xuất ta thường nói tới những nội dung chủ yếu như: cơ cấu cạnh tranh ngành, thực trạng cầu của ngành và các hàng rào lối ra. + Cơ cấu cạnh tranh của ngành dựa vào số liệu và khả năng phân phối sản phẩm của doanh nghiệp trong ngành sản xuất. Cơ cấu cạnh tranh thay đổi từ ngành sản xuất phân tán tới ngành sản xuất tập trung. Bản chất và mức độ cạnh tranh đối với các ngành tập trung là rất khó phân tích và dự đoán. + Tình trạng cầu của một ngành là một yếu tố quyết định khác về tính mãnh liệt trong cạnh tranh nội bộ ngành. Thông thường, cầu tăng tạo cho doanh nghiệp một cơ hội lớn để mở rộng hoạt động. Ngược lại, cầu giảm dẫn đến cạnh tranh khốc liệt để các doanh nghiệp giữ được phần thị trường đã chiếm lĩnh. + Hàng rào lối ra là mối đe doạ cạnh tranh nghiêm trọng khi cầu của ngành giảm mạnh. Đó là kinh tế, chiến lược và là quan hệ tình cảm giữ doanh nghiệp trụ lại. Nếu hàng rào lối ra cao, các doanh nghiệp có thể bị khoá chặt trong một ngành sản xuất không ưa thích. Hàng rào lối ra thường bao gồm: Đầu tư nhà xưởng và thiết bị, chi phí trực tiếp cho việc rời bỏ ngành là cao, quan hệ chiến lược giữa các đơn vị chiến lược kinh doanh, hay đó là chi phí xã hội khi thay đổi như khó khăn về sự sa thải nhân công, chi phí đào tạo lại. Do vậy nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính xác khả năng của những đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là những đối thủ chính để xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường chung. 4.2. Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn: Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện tại chưa cạnh tranh trong cùng một ngành sản xuất, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ lựa chọn và quyết định gia nhập ngành. Đây là đe doạ cho các doanh nghiệp hiện tại. Các doanh nghiệp hiện tại cố gắng ngăn cản các đối thủ tiềm ẩn muốn ra nhập ngành vì càng nhiều doanh nghiệp có trong một ngành sản xuất thì cạnh tranh càng khốc liệt hơn. Với sự mong muốn chiếm lĩnh một thị phần nào đó các đối thủ mới có thể làm giá bán bị kéo xuống hoặc chi phí của các công ty đi trước có thể bị tăng lên và kết quả làm giảm mức lợi nhuận. Sự xâm nhập vào một ngành, với dự định xây dựng một vị trí trên thị trường kiểu đó có lẽ cần được coi như một sự nhập cuộc của đối thủ mới. Việc tạo ra hàng rào hợp pháp ngăn cản sự xâm nhập từ bên ngoài hoặc sự phản ứng khôn khéo của các doanh nghiệp đang cạnh tranh sẽ làm giảm bớt mối hiểm hoạ hoặc do doanh nghiệp mới xâm nhập gây ra. Những rào cản chủ yếu được xác định là: + Những ưu thế tuyệt đối về chi phí: Có thể đó là ưu thế về các sáng chế, việc làm chủ một công nghệ riêng đặc thù hoặc có một nguồn nhân lực chuyên nghiệp, làm chủ được nguồn nguyên vật liệu cũng như kinh nghiệm cho phép có được các chi phí thấp hơn. + Hoặc đó có thể là lợi thế về chi phí cố định vì các đối thủ cạnh tranh hiện tại thường có những lợi thế chi phí mà các đối thủ mới không thể nào có được, lợi thế này không phụ thuộc vào quy mô doanh nghiệp như: Bản quyền về công nghệ và sản phẩm, lợi thế về nguồn cung cấp nguyên vật liệu, lợi thế về vị trí địa lý, hay kinh nghiệm và kĩ năng trong sản xuất. + Ngoài ra có thể kể đến những loại chi phí khác như chi phí đặt cọc, tiền cược. Đây là một khoản tiền lúc đầu buộc khách hàng mua sản phẩm của một doanh nghiệp lúc đầu phải trả nếu họ không mua sản phẩm của ngành đó nữa và chuyển sang mua sản phẩm của một doanh nghiệp khác hay là chi phí phạt do thay đổi hãng hợp đồng tiêu thụ hoặc cung cấp vật tư. Hầu hết các khách hàng đều phải thực hiện việc bồi thường trừ phi các nhà cung cấp mới những cải tiến có lợi về chi phí và thực hiện. + Sự khác biệt hoá của sản phẩm khiến cho khách hàng trung thành với nhãn hiệu sản phẩm của các doanh nghiệp có vị thế uy tín vững vàng hoặc đã đứng vững.Thường các doanh nghiệp này có ưu thế cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, về dịch vụ hậu mãi hoặc về khả năng chuyên biệt hoá sản phẩm... Sự trung thành với nhãn hiệu là nguồn rào cản khiến cho các doanh nghiệp mới tham gia khó lòng giành giật thị phần trên thương trường. Các doanh nghiệp có tiềm năng hẳn phải tốn kém rất nhiều để bẻ gãy lòng ưu ái đã được củng cố của khách hàng với các nhãn hiệu đã có uy tín trước đó. + Kinh tế quy mô hay còn gọi là kinh tế bậc thang: Các chi phí về sản xuất, phân phối, bán, quảng cáo, dịch vụ nghiên cưú sẽ giảm bớt với sự gia tăng của số lượng bán. Hay nói cách khác số lượng sản xuất và bán tăng lên thì chi phí cho một đơn vị sản phẩm càng giảm đi. + Kênh phân phối chủ yếu đã được thiết lập của các doanh nghiệp hiện tại cũng là một vật cản đối với các doanh nghiệp muốn nhảy vào chia sẻ thị trường. Để tham gia vào mạng lưới phân phối đã được thiết lập các doanh nghiệp mới thông thường phải chia sẻ các chi phí quảng cáo hoặc hỗ trợ bán hàng. Mọi chi phí này sẽ làm giảm lợi nhuận của các đối thủ mới; Trong khi đó các đối thủ cạnh tranh hiện tại có thể giữ chặt các các kênh phân phối dựa trên cơ sở các mối quan hệ lâu dài, chất lượng phục vụ cao ... Như vậy buộc doanh nghiệp mới phải tạo ra một mạng lưới phân phối mới và đó là một cản trở đáng kể. + Phản ứng lại của các doanh nghiệp hiện tại trong lĩnh vực kinh doanh. Nếu việc phản ứng lại tích cực và khôn khéo một lối vào trong lĩnh vực đó là có thể được. Nhưng nếu phản ứng lại bằng một cuộc chiến tranh giá cả thì cái giá phải trả là quá đắt để nhập ngành bởi các đối thủ cạnh tranh hiện tại phản ứng quyết liệt, liên kết lại với nhau để đối phó. 4.3. Khách hàng (người mua). Khách hàng hay người mua hàng là một bộ phận không thể tách rời trong môi trường cạnh tranh.Khách hàng tác động đến doanh nghiệp thể hiện mối tương quan về thế lực nếu nghiêng về phía nào thì phía đó có lợi.Các doanh nghiệp cần phải làm chủ mối tương quan này, thiết lập được mối quan hệ với khách hàng để giữ khách hàng (thông qua số lượng, chất lượng, giá cả, điều kiện giao nhận và dịch vụ sau bán hàng). Khách hàng có ưu thế là có thể làm cho lợi nhuận của ngành hàng giảm bằng cách ép giá xuống hoặc đòi hỏi chất lượng cao hơn và phải làm nhiều công việc dịch vụ hơn. Khách hàng có thể được xem như một sự đe dọa cạnh tranh khi họ buộc daonh nghiệp phải giảm giá hoặc có nhu cầu chất lượng cao và dịch vụ tốt hơn. Ngược lại khi người mua (khách hàng) yếu sẽ mang đến cho doanh nghiệp cơ hội để tăng giá kiếm được lợi nhuận nhiều hơn. Người mua gồm: Người tiêu dùng cuối cùng, các nhà phân phối (bán buôn, bán lẻ) và các nhà mua công nghiệp. áp lực của họ thường được thể hiện trong những trường hợp sau: + Nhiều nhà cung ứng có quy mô vừa và nhỏ trong ngành cung cấp .Trong khi đó người mua là số ít và có quy mô lớn, nó cho phép người mua chi phối các công ty cung cấp. + Khách hàng mua một khối lượng lớn sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp và sử dụng đó làm lợi thế để mặc cả cho sự giảm giá không hợp lý. + Khách hàng có thể vận dụng chiến lược liên kết dọc, tức là họ có xu hướng khép kín sản xuất, tự sản xuất , gia công các bộ phận chi tiết, bán sản phẩm cho mình. + Khách hàng có đầu đủ các thông tin về thị trường như nhu cầu, giá cả của các nhà cung cấp thì áp lực mặc cả của họ càng lớn. + Để nâng cao khả năng cao khả năng cạnh tranh thì doanh nghiệp phải giảm tối đa sức ép trên và tạo môi trường với các khách hàng qua các chính sách giá, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, biến họ trở thành người cộng tác tốt. 4.4. Người cung ứng. Đó là những nhà cung cấp nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, tiền vốn, lao động đôi khi gây đe doạ khi họ có khả năng tăng giá bán đầu vào hoặc giảm chất lượng các sản phẩm dịch vụ mà họ cung cấp. Qua đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Họ thường gây sức ép trong những tình huống như: - Họ độc quyền cung cấp vật tư. - Khi các vật tư dược cung cấp không có khả năng thay thế - Không có điều khoản ràng buộc hoặc bảo đảm trong các hợp đồng kinh tế đã kí kết. - Khi vật tư đó quan trọng, quyết định trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp - Khi họ có khả năng khép kín sản xuất. Vì vậy, doanh nghiệp cần thiết lập quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp và đưa ra các biện pháp rõ ràng buộc với nhà vật tư để giảm bớt các ràng buộc họ có thể gây nên với mình. 4.5. Sản phẩm thay thế. Sự ra đời của các sản phẩm thay thế là một tất yếu nhằm đáp ứng sự biến động của nhu cầu thị trường theo hướng ngày càng đa dạng hơn, phong phú và cao cấp hơn, và chính nó lại làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm bị thay thế. Một doanh nghiệp có thể hoạt động thu được nhiều lợi nhuận khi trong ngành kinh doanh đó có các các cản trở xâm nhập cao, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có là thấp, không có sản phẩm thay thế, thế lực khách hàng yếu và thế lực nhà cung cấp cũng yếu. Ngược lại, một doanh nghiệp tiến hành kinh doanh trong một ngành hàng có các cản trở xâm nhập thấp, cạnh tranh mạnh mẽ, có một số sản phẩm thay thế, thế lực và của khách hàng và nhà cung cấp mạnh thì kinh doanh của doanh nghiệp sẽ chật vật và lợi nhuận thấp. Các nhà quản lý cần phải phân tích và hiểu rõ được các thế lực trong môi trường cạnh tranh, từ đó tận dụng cơ hội và tìm vị trí có lợi nhất cho doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhận xét về mô hình M.Porter: Đây là mô hình được nhiều nhà nghiên cứu và quản lý vận dụng để phân tích khả năng cạnh tranh của một công ty hoặc một ngành công nghiệp. Qua đó, các nhà quản lý có thể đánh giá được khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường, khả năng của ngành mà công ty đang tham gia cũng như khả năng của công ty hay ngành của một thị trường nào đó mà công ty muốn thâm nhập. Công ty có thể dùng mô hình cạnh tranh của M.Porter để xác định và đánh giá "hàng rào" ngăn cản sự thâm nhập của công ty đồng thời phân tích đánh được đối thủ cạnh tranh khi công ty thâm nhập thị trường mới. Bên cạnh đó, công ty cũng có thể dự đoán những yếu tố ảnh hưởng tới lực lượng cạnh tranh, từ đó đề ra những đối sách phù hợp với thế cân bằng cạnh tranh mới. II. Sức cạnh tranh và các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh 1. Khái niệm sức cạnh tranh. Ngày nay, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt, một doanh nghiệp muốn có vị trí vững chắc trên thị trường thì phải có tiềm lực đủ mạnh và sử dụng các nguồn lực đang có hiệu quả để có thể cạnh tranh được trên thị trường, đó chính là sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Như vậy, sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường và tiếp tục phát triển bền vững, thực hiện được các mục tiêu đề ra. 2. Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá. Để đánh giá sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp, ta phải xem xét các chỉ tiêu biểu hiện khả năng cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp, cụ thể: 2.1. Các chỉ tiêu định lượng. 2.1.1 Thị phần của doanh nghiệp: Có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá sức cạnh tranh của mặt hàng này so với mặt hàng khác. Trong đó thị phần là chỉ tiêu hay được dùng đẻ đánh giá nhất. Thị phần là phần trăm thị trường mà một mặt hàng chiếm lĩnh được. Thị phần được xác định bởi công thức: Thị phần của doanh nghiệp = Doanh thu tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiêp Tổng doanh thu tiêu thụ trên thị trường .100% Độ lớn của chỉ tiêu này chỉ nói nên mức độ lớn của thị trường và vai trò, vị trí của doanh nghiệp nếu một mặt hàng có được thị phần đáng kể hoặc tốc độ tăng trưởng thị phần cao tức là mặt hàng đó đáp ứng được yêu cầu của một số lượng khách hàng. Điều đó chứng tỏ mặt hàng đó có sức cạnh tranh cao, tiềm năng cạnh tranh lớn. Một mặt hàng có thị phần nhỏ hay thị phần giảm sút thường là những mặt hàng có sức cạnh tranh kém, do đó ta phải xem xét hoặc là cải tiến mặt hàng để nâng cao sức tiêu thụ hoặc là cải tiến lại măt hàng đế nâng cao sức tiêu thụ hoặc là dừng sản xuất. Khi xem xét người ta hay xem xét các thị phần sau: + Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường: Đây là tỷ lệ phần trăm doanh số của công ty so với doanh số của toàn ngành. Trên thị trường thế giới nói chung thường có rất nhiều các doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh một mặt hàng. Những hãng lớn thường có thị phần lớn hơn và ngược lại. Thị phần cho ta biết khả năng chấp nhận của thị trường với mặt hàng doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh thế nào. Thị phần lớn hơn chứng tỏ nó được khách hàng ưa chuộng và đánh giá cao hơn, điều đó có nghĩa là nó có khả năng đánh bại đối thủ cạnh tranh và phục vụ tốt các nhu cầu khách hàng. + Thị phần của công ty so với đoạn thị trường mà nó phục vụ: Đó là tỷ lệ phần trăm giữa doanh số của công ty so với doanh thu của toàn khúc thị trường. Do các nguồn lực có hạn và nhu cầu của khách hàng thì hết sức đa dạng, nhu cầu của người này thì không giống nhu cầu của người kia và nhu cầu của nhóm khách hàng ở các quốc gia khác nhau cũng thường không giống nhau. Do các đặc điểm văn hoá, thói quen tiêu dùng. Nên để có thể kinh doanh thành công các doanh nghiệp thường phải xác định cho mình một thị trường mục tiêu phù hợp với tiềm lực của chính mình.Trên thị trường mục tiêu của doanh nghiệp đôi khi cũng có rất nhiều đối thủ cạnh tranh, thị phần của công ty so với phần khúc mà nó phục vụ cũng phản ánh sức cạnh tranh của sản phẩm công ty so với đối thủ cạnh tranh. Nếu thị phần của công ty lớn hơn chứng tỏ sản phẩm của công ty đ._.ược khách hàng chấp nhận, được ưa thích so với đối thủ cạnh tranh. + Thị phần tương đối: Đó là tỷ lệ so sánh về doanh số của công ty với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của sản phẩm trong cạnh tranh trên thị trường như thế nào. 2.1.2. Doanh thu tiêu thụ của mặt hàng. Đây cũng là một chỉ tiêu đo lường sức cạnh tranh của một mặt hàng. Một măt hàng được coi là tiêu thụ khi nó được chấp nhận thanh toán hoặc đã nhận được tiền bán hàng. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ thể hiện mức độ đáp ứng nhu cầu hay thoả mãn lợi ích của khách hàng về mặt đó. Một mặt hàng tiêu thụ nhanh chóng, với khối lượng lớn đồng nghĩa với việc mặt hàng đó có chất lượng tốt, đáp ứng thị hiếu, giá thành hạ đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Nếu sản lượng hàng hoá tăng cao qua các năm chứng tỏ hàng hoá duy trì và giữ vững được thị phần. Sản lượng tiêu thụ của một mặt hàng phụ thuộc vào các nguyên nhân sau: - Từ phía doanh nghiệp: + Chất lượng mặt hàng. + Giá bán. + Quá trính tổ chức tiêu thụ. - Từ phía khách hàng khách hàng: khối lượng sản phẩm tiêu thụ phụ thuộc vào nhu cầu, mức thu nhập, phong tục tập quán và thói quen của người tiêu dùng. - Từ phía Nhà nước: Các chính sách vĩ mô của Nhà nước như chính sách về tiền lương, thuế cũng ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng tiêu thụ của mặt hàng. 2.1.3. .Số lượng khách hàng của mặt hàng. Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường, khách hàng (người mua) là thượng đế, khách hàng chính là người tiêu thụ mặt hàng cho doanh nghiệp, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, bình thường. Một mặt hàng có nhiều khách hàng tiêu thụ là một mặt hàng đã dành được sự tin cậy của thị trường, đáp ứng được phần lớn sự đòi hỏi của từng đoạn, từng khu vực thị trường, chứng tỏ năng lực cạnh tranh của mặt hàng đó cao và ngược lại. Nếu như chỉ tiêu thị phần chỉ cho ta biết phần trăm của khối lượng hàng hoá tiêu thụ trên thị trường thì chỉ tiêu số lượng khách hàng cho ta biết có bao nhiêu người mua nó. Một mặt hàng có thị phần lớn nhưng số lượng khách hàng ít chưa chắc đã là một mặt hàng có sức cạnh tranh cao. Số lượng khách hàng tiêu thụ của một mặt hàng càng nhiều càng thể hiện việc đáp ứng nhu cầu của mặt hàng đó càng đa dạng, phong phú cũng như tiềm lực cạnh tranh, tiềm lực kinh doanh nơi sản xuất ra mặt hàng đó. 2.1.4. Giá thành và giá cả của sản phẩm. Giá thành của sản phẩm là giá trị của tất cả các yếu tố đầu vào hình thành nên sản phẩm như: nguyên vật liêu, nhân công, công nghệ sản xuất. Từ giá thành của sản phẩm, sẽ xác định được giá bán trên thị trường. Do vậy, muốn có giá bán sản phẩm thấp thì doanh nghiệp phải hạ giá thành sản phẩm tức là phải tận dụng và sử dụng hợp lý các nguồn lực sẵn có như tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lực dồi dào, đồng thời đổi mới thiết bị và công nghệ sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý có như vậy mới hạ được giá thành sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Giá cả của một sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ cung cầu tức là thông qua sự thoả thuận giữa người mua và người bán để đi tới mức giá mà cả hai bên đều thấy có lợi và chấp nhận được. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thì khách hàng có quyền lực chọn cho mình sản phẩm tốt nhất và cùng một loại sản phẩm thì chắc chắn họ sẽ lựa chọn sản phẩm có giá bán thấp hơn. Vì vậy, giá cả là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường. Doanh nghiệp có thể định giá thấp, bằng, hoặc cao hơn giá thị trường. Để chiếm ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn các chính sách thích hợp cho từng loại sản phẩm, từng giai đoạn trong chu kỳ sản phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường. 2.2. Các chỉ tiêu định tính. 2.2.1. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm. Đây cũng là một chỉ tiêu phản ánh sức cạnh tranh của hàng hoá doanh nghiệp. Một doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị trường có thể với một sản phẩm hoặc nhiều sản phẩm. Nếu sản phẩm và cơ cấu nó phù hợp với nhu cầu thị trường thì sẽ làm tăng sức cạnh tranh các mặt hàng của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải luôn hoàn thiện sản phẩm bằng cách nâng cao chất lượng, cải tiến mấu mã, đồng thời doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu các sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. Đa dạng hoá sản phẩm không chỉ là để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu thị trường, thu nhiều lợi nhuận mà còn là biện pháp phân tán rủi ro trong kinh doanh khi trên thị trường ngày càng khốc liệt. Do vậy, sản phẩm và cơ cấu sản phẩm tối ưu là một trong những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, đồng thời cũng quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. 2.2.2. Chất lượng của hàng hoá. Khi thu nhập và đời sống của dân cư càng cao thì cạnh tranh bằng giá cả xem ra không hiệu quả. Chất lượng của sản phẩm và dịch vụ sẽ là mối quan tâm của khách hàng, nên nếu như hàng hóa có chất lượng thấp thì dù giá có bán rẻ cũng không tiêu thụ được. Do đó để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ không còn cách nào khác là phải nâng cao chất lượng của sản phẩm và dịch vụ. Chất lượng của sản phẩm được thể hiện qua nhiều yếu tố, nếu doanh nghiệp không đủ điều kiện phát triển mọi yếu tố chất lượng thì vẫn có thể đi sâu khai thác thế mạnh một hoặc một vài yếu tố nào đó. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và kỹ thuật cũng như sự bành trướng của các công ty đa quốc gia, thì vấn đề cạnh tranh bằng chất lượng càngtrở nên gay gắt khi các sản phẩm đưa ra thị trường đều đảm bảo chất lượng cao. Chính vì vậy đối với các quốc gia có trình độ xản xuất còn nhiều hạn chế sẽ rất khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 2.2.3. Các dịch vụ. Dịch vụ cũng là một chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm này so với sản phẩm khác. Dịch vụ là một công cụ cạnh tranh hết sức phổ biến trên thị trường quốc tế, đó có thể là dịch vụ trước khi bán, dịch vụ bán hàng tận nơi cho khách hàng, dịch vụ sau bán ... Cạnh tranh bằng dịch vụ ngày càng được sử dụng rộng rãi và đa dạng hơn, nhất là khi lĩnh vực dịch vụ đang tăng dần tỷ trọng trong cơ cấu nền kinh tế. Cạnh tranh bằng dịch vụ có hiệu quả rất cao vì khi đó khách hàng thấy mình được tôn trọng hơn và do đó họ sẽ có cảm tình với sản phẩm và doanh nghiệp. 2.2.4. Uy tín của doanh nghiệp. Uy tín của doanh nghiệp được xây dựng dựa trên chất lượng, giá trị sử dụng của sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng, thời gian giap hàng, quy mô của doanh nghiệp... Một doanh nghiệp có uy tín với khách hàng thì đồng nghĩa với việc nó có được lợi thế trong cạnh tranh. Khách hàng khi đó sẽ tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng cao, dịch vụ sau bán hàng tốt,... Do đó sản phẩm của doanh nghiệp khi đưa ra thị trường có thể nhanh chóng thu hút được người tiêu dùng. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp giảm được một phần chi phí cho việc thu hút khách hàng, khách hàng sẽ trung thành với doanh nghịp hơn, như vậy đối thủ cạnh tranh sẽ phải mất đi một khoản chi phí lớn cho việc lôi kéo khách hàng của doanh nghiệp. 2.2.5. Hình ảnh nơi sản xuất mặt hàng. Là ấn tượng, suy nghĩ của người tiêu dùngvề nơi sản xuất mặt hàng đó. Hình ảnh đó là sự tổng hợp các thuụoc tính như: Chất lượng sản phẩm, phong cách phục vụ, phong cách quảng cáo, uy tín nơi sản xuất,... Hình ảnh của nớỉan xuất mặt hàng có thể là hình ảnh tốt hoặc xấu. Nhiều khi việc nhận thức hình ảnh nơi sản xuất còn phụ thuộc vào nền văn hoá từng nước cũng như văn hoá của từng tầng lớp xã hội của quốc gia đó. Tạo dựng hình ảnh là một quá trình lâu dài với sự nỗ lực không ngừng của doanh nghiệp. Ngày nay, hình ảnh nơi sản xuất còn là một công cụ cạnh tranh rất mạnh, nhiều khi hình ảnh nơi sản xuất trở thành sự khẳng định chất lượng, giá trị của sản phẩm. Vì vậy một mặt hàng có sức cạnh tranh cao là một mặt hàng đã để lại hình ảnh tốt ở nơi khách hàng và để tăng cường năng lực cạnh tranh của một mặt hàng thì việc xây dựng hình ảnh nơi sản xuất là điều hết sức cần thiết. Hình ảnh của doanh nghiệp được xây dựng trên uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng. Nếu uy tín của doanh nghiệp đảm bảo chất lượng hàng hóa và các dịch vụ khác tốt, khách hàng sẽ tin tưởng chọn mua sản phẩm của doanh nghiệp. Như vậy là h nghiệp có lợi thế hơn trong cạnh tranh các đối thủ khác nếu muốn lôi kéo các khách hàng này thì họ cần có thời gian chi phí. Hình ảnh của doanh nghiệp rất quan trọng trong cạnh tranh, nó giúp doanh nghiệp duy trì và giữ vững thị trường, chống sự lôi kéo khách hàng của đối thủ cạnh tranh và hình ảnh doanh nghiệp là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp có chất lượng và giá cả vừa phải, thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng. 3. Các nhân tố tác động đến sức cạnh tranh của hàng hoá. 3.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp. 3.1.1.Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực được coi là vấn đề có ý nghĩa sống còn với mọi tổ chức trong tương lai. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp được chia làm 3 cấp: + Quản trị viên cấp cao: Gồm ban giám đốc và các trưởng phó phòng ban. Đâylà đội ngũ có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh.Nếu họ có trình độ quản lý cao, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường, có khả năng đánh giá và quan hệ đối ngoại tốt thì doanh nghiệp đó sẽ có sức cạnh tranh cao và ngược lại. + Quản trị viên cấp trung gian: Đây là đội ngũ trực tiếp quản lý phân xưởng sản xuất sản phẩm đòi hỏi phải có có kinh nghiệm công tác, khả năng ra quyết định và diều hành công tác. + Đội ngũ quản trị viên cấp cơ sở: Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phần nào cũng chịu sự chi phối của đội ngũ này thông qua các yếu tố như: năng suất lao động, trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm, kỷ luật lao động và sự sáng tạo của họ... bởi vì các yếu tố này chi phối việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm cũng như tạo thêm tính ưu việt, độc đáo mới lạ của sản phẩm. Chất lượng nguồn nhân lực còn được thể hiện ở trình độ quản lý của đội ngũ quản trị của doanh nghiệp. Trình độ tổ chức quản lý: Trình độ tổ chức quản lý được thể hiện thông qua cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị, hệ thống thông tin quản lý, bầu không khí và đặc biệt là nề nếp hoạt động của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp biết tập hợp sức mạnh đơn lẻ của các thành viên và biến thành sức mạnh tổng hợp thông qua tổ chức doanh nghiệp đó sẽ tận dụng được những lợi thế tiềm ẩn của tổ chức mình. Đây là một đòi hỏi đối vớic các nhà quản trị cấp cao. Không thể nói doanh nghiệp có được một cấu trúc tốt nếu không có một sự nhất quán trong cách nhìn nhận về cơ cấu doanh nghiệp. Một cơ cấu tốt đồng nghĩa với việc có được một cơ cấu phòng ban hợp lý, quyền hạn và trách nhiệm được xác định rõ ràng. Bên cạnh đó ở mỗi phòng ban việc thực hiện tốt nề nếp tổ chức cũng ảnh hưởng rất lớn tới phương thức thông qua quyết định của nhà quản trị, quan điểm của họ đối với các chiến lược và điều kiện môi trường của doanh nghiệp. Một nề nếp tốt có thể dẫn dắt mọi người tích cực hơn trong công việc và lôi cuốn họ vào quá trình đạt tới những mục tiêu chung của doanh nghiệp. 3.1.2 Nguồn lực về tài chính: Khả năng tài chính có ảnh hưởng rất lớn tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Khả năng tài chính được hiểu là quy mô tài chính của doanh nghiệp và tình hình hoạt động, các chỉ tiêu tài chính hàng năm như tỷ lệ thu hồi vốn, khả năng thanh toán...Nếu một doanh nghiệp có tình trạng tài chính tốt, khả năng huy động vốn là lớn sẽ cho phép doanh nghiệp có nhiều vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ và mấy móc thiết bị, đồng thời tăng khả năng hợp tác đầu tư về liên doanh liên kết.Tình hình sử dụng vốn cũng sẽ quyết định chi phí về vốn của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. 3.1.3. Nguồn lực về vật chất kỹ thuật: Thông thường nguồn lực vật chất kỹ thuật thể hiện ở: + Trình độ kỹ thuật công nghệ hiện tại của doanh nghiệp và khả năng có được các công nghệ tiên tiến. + Quy mô và năng lực sản xuất: Quy mô và năng lực sản xuất lớn giúp doanh nghiệp tạo ra khối lượng sản phẩm lớn hơn, nhờ đó hạ được giá thành sản phẩm, hơn nữa nó tạo ra nhiều cơ hội tiếp xúc với khách hàng hơn,giúp doanh nghiệp hiểu rõ khách hàng từ đó có thể chiếm lĩnh hoặc giữ vững thị trường trên nhiều lĩnh vực khác nhau, tránh sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh. + Tuy nhiên để đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp phải có quy mô sản xuất và mức sử dụng công suất ít nhất phải gần bằng công suất thiết kế. Nếu sử dụng công suất thấp sẽ gây lãng phí và lúc đó chi phí cố định vào giá thành sản phẩm cao làm cho khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp giảm. Nguồn vật chất là nhân tố bên trong có ảnh hưởng đến sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường Thế giới. Bởi nếu doanh nghiệp cơ sở vật chất hiện đại, doanh nghiệp sẽ nâng cao năng suất lao động do đó mà giá thành sản phẩm sẽ hạ, cùng với đó chất lượng sản phẩm cũng được nâng lên. 3.2. Các nhân tố bên ngoài tác động đến sức cạnh tranh của hàng hoá. Doanh nghiệp hoạt động gắn liền với môi trường kinh doanh của mình, do đó doanh nghiệp chịu sự tác động chi phối của nhân tố thuộc môi trường kinh doanh. Có rất nhiều nhân tố khác nhau thuộc môi trường kinh doanh tác động đến sức cạnh tranh của hàng hoá của doanh nghiệp nhưng có một số nhân tố điển hình như môi trường kinh tế, chính trị, pháp luật, khoa học- công nghệ, tự nhiên, văn hoá xã hội, môi trường cạnh tranh. 3.2.1 Môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế của một quốc gia ổn định hay bất ổn định có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó tác động đến sức cạnh tranh hàng hoá nên có thế nói đây là nhân tố quan trọng nhất. Tính ổn định về kinh tế, trước hét và chủ yếu là ổn định nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát. Đây là điều các doanh nghiệp kinh doanh rất quan tâm và ái ngại vì nó liên quan trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, còn một số nhân tố quan trọng khác ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp như lãi suất cho vay, tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ với một số đồng ngoại tệ mạnh, tiền công lao động. Các nhân tố này ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính không mạnh. Tuy nhiên, khi nền kinh tế ổn định và tăng trưởng cao thì tỷ suất lợi nhuận tăng sẽ dẫn đến số lượng các doanh nghiệp tham gia vào thị trường tăng lên nhanh chóng và cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt. Ngược lại, khi nền kinh tế bất ổn và suy thoái thì sức mua người tiêu dùng giảm, những điều kiện thuận lợi của nền kinh tế không còn nữa thì các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để duy trì sản xuất kinh doanh, giữ khách hàng do đó sự cạnh tranh trên thị trường cũng sẽ ác liệt hơn. Do vậy, doanh nghiệp nào có khả năng nắm bắt tình hình để có những chiến lược kinh doanh đúng đắn và tận dụng được lợi thế của mình thì sẽ giành được thắng lợi trong cạnh tranh thị trường. 3.2.2. Môi trường chính trị. Môi trường chính trị đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh đặc biệt là đối với các hoạt động kinh doanh quốc tế định là nền tảng cho ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh hoá xã hội để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường. Một quốc gia có chính trị ổn định là môt trường thuận lợi đảm bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và thu được kết quả. Sự ổn định về chính trị được biểu hiện ở chỗ: thể chế, quan điểm chính trị có được đa số nhân dân đồng tình hay không, hệ thống chính trị đặc biệt là Đảng cầm quyền có đủ uy tín và độ tin cậy đối với nhân dân, các doanh nghiệp trong và ngoài nước không. Chính vì vậy, khi tham gia kinh doanh quốc tế, doanh nghiệp phải am hiểu môi trường chính trị ở các quốc gia, các nước trong khu vực mà doanh nghiệp muốn hoạt động kinh doanh. 3.2.3. Môi trường pháp luật. Môi trường luật pháp là cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên thị trường. Luật pháp quy định rõ những lĩnh vực, những hình thức nào mà doanh nghiệp có thể thực hiện kinh doanh và lĩnh vực, hình thức nào mà doanh nghiệp không được phép hoạt động. Hệ thống luật pháp nghiêm minh, chặt chẽ rõ ràng không phức tạp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bình đẳng để nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của mình. Thực tế trong những năm qua chỉ ra rằng cùng với sự xuất hiện các liên minh kinh tế, liên minh chính trị, liên minh thuế quan đã xuất hiện những thoả thuận mới song phương hoặc đa phương tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh buôn bán trong khu vực, quốc tế. Vì vậy, có thể khẳng định rằng chỉ trên cơ sở nắm vững hệ thống luật pháp của từng quốc gia và hiệp định giữa các nước, mới cho phép các doanh nghiệp đưa ra những quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn quốc gia, khu vực kinh doanh, hình thức kinh doanh để tăng lợi nhuận và hạn chế rủi ro. 3.2.3. Môi trường Văn hoá- Xã hội. Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho doanh nghiệp trong cạnh tranh. Vị trí địa lý thuận lợi ở những thành phố lớn, hay trên các trục giao thông quan trọng cùng với nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp phát triển, giảm chi phí, thu được nhiều lợi nhuận. Song, mức độ cạnh tranh tại những nơi này hết sức gay gắt buộc các doanh nghiệp phải luôn nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá để tồn tại và phát triển. Phong tục, tập quán, lối sống, thị hiếu, trình độ văn hoá tác động một cách gián tiếp tới khả năng cạnh tranh của hàng hoá doanh nghiệp thông qua khách hàng và cơ cấu của thị trường. Thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng còn ảnh hưởng rất lớn tới nhu cầu vì nếu hàng hoá có chất lượng tốt nhưng không hợp "gu" của người tiêu dùng thì họ cũng không chấp nhận. ở từng khu vực thị trường, từng vùng khác nhau thì lối sống cũng như sở thích, thị hiếu, phong tục của người dân khác nhau dẫn đến nhu cầu của họ về các sản phẩm cũng khác nhau. Tôn giáo cũng có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động hàng ngày của các cá nhân và các tổ chức trong xã hội. Vì vậy, doanh nghiệp cần am hiểu các loại tôn giáo và vai trò của chúng trong xã hội để giúp cho việc kinh doanh được tiến hành thuận lợi. 3.2.4. Môi trường công nghệ Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá vì kỹ thuật, công nghệ sản xuất quyết định chất lượng, bao bì, hình dáng và giá thành sản phẩm. Bất kỳ sản phẩm nào sản xuất ra cũng gắn liền với một công ty nhất định do đó uy tín của công ty phụ thuộc nhiều vào kỹ thuật và công nghệ. Khoa học công nghệ hiện đại cũng giúp các doanh nghiệp thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền đạt thông tin một cách chính xác và có hiệu quả, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay. Để cạnh tranh trong thời đại ngày nay thì doanh nghiệp không chỉ cần có đủ các nguồn lực mà còn phải có đủ và chính xác thông tin về thị trường, đối thủ cạnh tranh trực tiếp, đối thủ cạnh tranh tiềm tàng và biết cách xử lý thông tin có hiệu quả. Khoa học công nghệ sẽ tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như từng doanh nghiệp nói riêng, đây là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng cao khă năng cạnh tranh của sản phẩm. Nói tóm lại, có rất nhiều các nhân tố khác nhau thuộc môi trường kinh doanh tác động đến sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp và các nhân tố này ở các quốc gia khác nhau thì cũng khác nhau. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải hiểu biết rõ về các nhân tố này, từ đó đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm của mình. 4. Vai trò của việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. 4.1. Vai trò của cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế Việc khuyến khích và thúc đẩy một môi trường cạng tranh lành mạnh luôn là vấn đề cần ưu tiên hàng đầu trong các chính sách kinh tế, thương mại của các quốc gia trên thế giới. lý luận kinh tế học đã chỉ rõ cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế nếu bị hạn chế sẽ gây lãng phí rất nhiều nguồn lực của nền kinh tế thế giới. Hạn chế cạnh tranh là làm giảm tính năng động, sáng tạo của mỗi con người cũng như toàn xã hội, nền sản xuất xã hội sẽ không còn có hiệu quả: Do đó, cạnh tranh là một hiện tượng tự nhiên, là quy luật phổ biến của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế người thiếu khả năng bằng người có đầu óc, thay thế doanh nghiệp sử dụng lãng phí các nguồn lực xã hội bằng các doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn, thay thế sự đáp ứng nhu cầu xã hội không đầy đủ bằng sự đáp ứng ngày một tốt hơn. Mức độ cạnh tranh là sự phản ánh rõ rệt nhất về trình độ của nền kinh tế nói riêng và với nền kinh tế thế giới nói chung. Cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế được định nghĩa là sự đua tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế nhằm giành ưu thế trên cùng một loại khách hàng về phía mình. Trong kinh doanh nói chung và kinh doanh quốc tế nói riêng, cạnh tranh giữ vai trò làm cho giá cả hàng hoá giảm xuống, chất lượng hàng hoá, dịch vụ ngày càng nâng cao. Chính vì vậy cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế là động lực thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc tế thế giới. 4.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế quốc dân. Ngày nay, hầu hết nền kinh tế các nước đều đi theo hướng kinh tế thị trường mà nói tới thị trường là nói tới cạnh tranh. Mặt tích cực của thị trường cũng là mặt tích cực của cạnh tranh, mặt tiêu cực của thị trường cũng là mặt tiêu cực của cạnh tranh. ý đồ tạo lập thị trường không có cạnh tranh đã sụp đổ hoàn toàn vì nó không tạo ra được cơ chế phân phối tối ưu các nguồn lực của xã hội. Triệt tiêu đi cạnh tranh là mất đi tính năng động, sáng tạo của mỗi người cũng như toàn xã hội, nền sản xuất xã hội sẽ không còn hiệu quả, hạn chế sự phát triển của đất nước. Từ thế kỷ 19, cạnh tranh kinh tế vẫn thường được tiến hành tập trung vào bốn trọng điểm mà ngày nay vẫn là vấn đề thời sự. Bảo hộ mậu dịch đánh cắp công nghệ, chinh phục lãnh thổ và chiến tranh giá cả. Cuộc cạnh tranh đa quốc gia đầu tiên thuộc về mặt hàng bông rồi đến dầu mỏ, lương thực. Và gần đây là ô tô, điện tử và đang đi đến các sản phẩm công nghệ cao. Điều đó cho thấy tính liên tục không ngừng của cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Lý luận kinh tế học đã chỉ rõ tình trạng ngăn sông cấm chợ, hạn chế cạnh tranh trong một số quốc gia sẽ gây thiệt hại lớn, lãng phí các nguồn lực. Hạn chế cạnh tranh kinh tế quốc tế, thực hiện dưới mọi chế độ hình thức khác nhau cũng sẽ gây thiệt hại to lớn, lãng phí nhiều hơn cho nền kinh tế thế giới. Vì vậy, bất cức một quốc gia nào, một doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường thế giới đều phải cạnh tranh và chấp nhận cạnh tranh. Mỗi doanh nghiệp không thể lẩn tránh cạnh tranh vì nếu làm như vậy là cầm chắc sự phá sản. Vì thế cần phải cạnh tranh, coi cạnh tranh như là công cụ là bàn đạp để vươn lên. Trong cơ chế thị trường và trong kinh doanh quốc tế, cạnh tranh giữ vai trò làm cho giá cả hàng hoá giảm xuống, chất lượng hàng hoá cao, dịch vụ ngày càng tốt. Trước hết, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của sản xuất, phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất. Chỉ có như vậy, các doanh nghiệp hay các quốc gia mới có khả năng giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Như vậy các doanh nghiệp mới có khả năng chiến thắng để giành giật thị trường và khách hàng. Trên thực tế, ngày nay hầu hết các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường thế giới đều giành một phần lợi nhuận đáng kể để hiện đại hoá công nghệ sản xuất, đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật. Nhờ có cạnh tranh nên hàng hoá trong trao đổi quốc tế ngày càng phong phú và đa dạng chủng loại, bao bì, mẫu mã và đặc biệt chất lượng ngày càng cao, giá thành ngày càng hạ. Bất kỳ hàng hoá nào cũng muốn tham gia vào thị trường thế giới đều phải qua kiểm tra chất lượng. Chính cạnh tranh là công cụ để tước quyền thống trị kinh tế trong lịch sử. Ngày nay, khi cạnh tranh ngày càng gay gắt thì vai trò cũng như vị thế của các công ty đa quốc gia, các cường quốc kinh tế ngày càng giảm. Không một công ty, một doanh nghiệp nào có thể độc lập chi phí về giá cả, số lượng hàng hoá và dịch vụ cạnh tranh buộc tất cả các quốc gia đều phải tuân thủ các luật chơi chung, giảm dần tình trạng bị phân biệt đối xử và bị chèn ép trong kinh doanh quốc tế. Cũng nhờ có cạnh tranh mà người tiêu dùng được tiêu dùng hàng hoá có chất lượng cao với giá cả phải chăng. Nhu cầu của người tiêu dùng được đáp ứng tốt hơn. Vì vậy, có thể nói nâng cao sức cạnh tranh là điều kiện để phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế thành công. 4.3. Vai trò của việc nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá. Cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp đều phải được điều chỉnh chiến lược hoạt động của mình: tập trung và huy động nguồn lực, phát huy các lợi thế cạnh tranh trong tình hình mới. Doanh nghiệp phải luôn chuẩn bị và đoán trước xu thế cạnh tranh, sẵn sàng linh hoạt sử dụng vũ khí cạnh tranh hữu hiệu. Sức cạnh tranh của sản phẩm thể hiện ở nhiều khía cạnh, có thể bởi thế mạnh của chất lượng, bởi sự hấp dẫn của hình thức, bởi giá cả phải chăng hoặc vì thoả mãn nhu cầu tâm lý, địa vị của khách hàng, trong trường hợp doanh nghiệp tiến hành kinh doanh tiêu thụ trên thị trường thế giới, trước hết sẽ đem lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp vì sản phẩm đã giành được sự quan tâm, ưu ái của khách hàng, sau là nâng cao mặt bằng chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và những đòi hỏi ngày càng khắt khe của người tiêu dùng. Khi tiến hành kinh doanh trên thị trường nước ngoài, doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp. Không đơn giản như sản xuất kinh doanh trong nước, việc sản xuất nếu không có điều kiện tổ chức tại nước ngoài, doanh nghiệp phải chịu rất nhiều khoản chi phí chuyên trở, cũng như những rủi ro có thể gặp trên đường. Hơn nữa doanh nghiệp có thể không có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nước ngoài, như vậy họ không thể nắm bắt được kịp thời nhu cầu của khách hàng. Để thu được nhiều lợi nhuận trong kinh doanh, nhà kinh doanh quốc tế không còn cách nào khác là phải tìm mọi cách để hoàn thiện sản phẩm của mình, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm giữa muôn ngàn sản phẩm cùng loại cũng đang tràn ngập trên thị trường thế giới. Như đã nói, doanh nghiệp có thể tăng khả năng cạnh tranh của mình qua các biện pháp nhấn mạnh chi phí hoặc khác biệt hoá sản phẩm, hoặc kết hợp cả hai trong phạm vi có thể. Tuy nhiên mỗi loại chiến lược cạnh tranh đều có những ưu nhược điểm nhất định, phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Doanh nghiệp phải đánh giá đúng tiềm lực của mình và xu hướng tiêu dùng sản phẩm để sử dụng hợp lý và hiệu quả chiến lược cạnh tranh. III. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU. 1. Vị trí của thị trường may mặc EU trên thị trường may mặc Thế giới. Theo thống kê của cơ quan Thống kê Châu Âu (EUROSTART), thị phần may mặc của EU trên thế giới là 26% với kim ngạch xuất khẩu hàng năm 60 tỷ USD, đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Trung Quốc. Trong số 15 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu hàng may mặc có 6 nước thuộc Eu, trong đó Italia đứng đầu EU và đứng thứ ba thế giới với kim ngạch năm 1998 đạt 16,07 tỷ USD, chiếm 9,8% kim ngạch xuất khẩu của thế giới, 31,45 kim ngạch toàn EU. tiếp theo là Đức, Pháp, Anh, Bỉ, Bồ Đào Nha. Các mặt hàng may mặc xuất khẩu chính của các nước này là các sản phẩm da cao cấp, quần áo thời trang dạ hội, hàng Jean, áo lông thú. Như vậy, là các nước EU chỉ quan tâm đến nhưng sản phẩm may mặc cao cấp và bỏ ngỏ thị trường sản phẩm may mặc đại trà phục vụ nhu cầu ăn mặc thông thường. Ngoài ra, EU cũng là một trong những thị trường nhập khẩu hàng may mặc lớn trên thế giới chiếm 45% trong tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu thế giới với giá trị nhập khẩu hàng năm khoảng 75 tỷ USD. Các nước trong EU nhập khẩu hàng may mặc lớn là: Đức 25 tỷ USD, Pháp 10 tỷ USD, Anh 8,1 tỷ USD…Trong cơ cấu mậu dịch 43,5 % khối lượng sản phẩm may mặc được trao đổi trong nội bộ các nước EU; 17,5% là từ các nước Châu á xuất sang. Có thể thấy rằng, Eu là một thị trường đông dân, lại có, mức tiêu dùng vải rất cao (17kg/người/năm). Yêu cầu về hàng dệt may của người tiêu dùng đặc biệt cao, trong đó nhu cầu về mặc để bảo vệ thân thể chỉ chiếm 10-15%, còn 85-90% là theo mốt nên chất xám của sản phẩm may mặc có ảnh hưởng quan trọng nhất tới quyết định mua của người tiêu dùng. Nhu cầu về sản phẩm may mặc của người tiêu dùng Châu Âu đòi hỏi yếu tố nguyên liệu phải có tỷ lệ cotton nhiều hơn và ngày càng giảm tỷ lệ pha sợi tổng hợp. Thị trường dệt may EU rất đa dạng và phong phú là trung tâm thời trang của thế giới do vậy các mẫu mốt thay đổi thường xuyên. Mặt khác các khách hàng EU nổi tiếng là khó tính về mẫu mốt thị hiếu, yêu cầu chất lượng và thời gian giao hàng. Hiện nay, có rất nhiều nước và khu vực xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường EU. Những quốc gia có kim ngạch xuất khẩu lớn sang thị trường này là: Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Loan, ấn Độ, Mexico, Inđonexia, Thái Lan, với cơ cấu hàng dệt may nhập khẩu vào EU chủ yếu là T-shirt, Poloshirt, áo len, quần áo thể thao, áo somi nữ, sơmi nam, áo jacket, quần áo trẻ em, quần áo dệt kim, sợi tổng hợp, quần áo âu, quần áo cao cấp. Sự tham gia xuất khẩu của các nước trên vào EU đã tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt về lĩnh vực may mặc, và tạo ra rất nhiều thách thức với các nước mới thâm nhập vào thị trường này. Như vậy, có thể nói thị trường may mặc EU đã và đang chiếm một tỷ trọng lớn trong giá trị buôn bán hàng may mặc của thế giới, là một trong những thị trường xuất khẩu và tiêu thụ hàng may mặc quan trọng bậc nhất của thế giới. 2. Việt Nam có nhiều lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may nhưng chưa được khai thác tốt. Theo xu hướng chung, các nước mới tiến hành CNH-HĐH đều theo đuổi chiến lược sản xuất hướng theo xuất khẩu để phát triển kinh tế đất nước và các nước này thường bắt đầu với ngành công nghiệp dệt may, bởi đặc điểm của ngành công nghiệp này đòi hỏi vốn đầu tư ít mà khả năng thu hồi vốn lại nhanh. Việt Nam là nước đang trong giai đoạn đầu của quá trì._.ho các hoạt động khác của công ty như hoạt động Marketing... Tầm quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường là không thể phủ định, thế nhưng hiện nay Công ty lại chưa có bộ phận chuyên nghiên cứu về thị trường EU để có thể nắm bắt kịp thời các thông tin về thị trường may mặc này. Nên các mẫu sản phẩm của Công ty chủ yếu dựa vào mẫu theo đơn đặt hàng của các công ty Thương mại hay các giá cả của các sản phẩm của Công ty đưa là giá tham khảo của các giai đoạn trước, đôi khi mức giá này thường là không phù hợp với các chiến lược cạnh tranh về giá với các đối thủ cạnh tranh, dẫn đến làm yếu đi sức cạnh tranh sản phẩm của Công ty. Để khắc phục hạn chế này, Công ty cần nhanh chóng xây dựng một bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường,bộ phận này nên được tổ chức thành một phòng chức năng, có thể là phong Marketing. Nhiệm vụ của phòng này sẽ là: - Thu thập các thông tin quan trọng về thị trường EU- thông tin về sản phẩm, thị hiếu tiêu dùng, sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, các thông tin về chiến lược cạnh tranh của đối thủ, đặc biệt là thông tin về các kênh phân phối mà công ty có thể tiếp cận để đưa hàng vào thị trường EU. - Cập nhập các thông tin về thị trường may mặc EU thường xuyên để từ đó định kỳ phân tích và đánh giá sức cạnh tranh hàng may mặc của Công ty để từ đó đưa ra các giải pháp giúp Công ty khác phục các tồn tại trong cuộc cạnh tranh của mình. - Bộ phận này cũng là nơi nghiên cứu để xây dựng các chiến lược, kế hoạch, phương hướng, giải pháp cạnh tranh cho hàng của Công ty trên thị trường EU. Như vậy, nếu tổ chức tốt bộ phận này, Công ty sẽ không phải đối mặt với nỗi lo sản phẩm của mình không đáp ứng thị hiếu may mặc EU, hay sợ sản phẩm lạc hậu so với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Ngược lại, bộ phận này sẽ giúp Công ty phản ứng nhanh với các nhu cầu thậm chí còn có thể đi trước các đối thủ cạnh tranh một bước và dành lấy thị phần cao trên thị trường may mặc EU. 1.6. Nâng cao hiệu quả của hoạt động xúc tiến thương mại trên thị trường EU. Đây là phương pháp thường được áp dụng để nâng cao sức cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh hiện hữu trên thị trường. Vì vậy, nếu Công ty xây dựng được chính sách xúc tiến hợp lý cho việc tăng cường hoạt động xuất khẩu sản phẩm của mình trên thị trường EU thì Công ty sẽ tăng được khả năng cạnh tranh so với các đối thủ. Muốn vậy Công ty phải làm tốt các mặt sau: Quảng cáo: Để xây dựng được chương trình quảng cáo có hiệu quả nhất trên thị trường EU Công ty cần xây dựng một chiến lược về phương tiện truyền thông có hiệu quả cao và phù hợp với khả năng của Công ty. Công ty có thể kết hợp quảng cáo trên các phương tiện như: Quảng cáo qua Internet, qua các tạp chí chuyên ngành, các catalog và ấn phẩm của Công ty. Do đặc điểm của hàng may mặc là hàng tiêu dùng có tính thường xuyên nên Công ty cần chú trọng tới các phương tiện quảng cáo, có tính khuyếch đại lớn như quảng cáo qua mạng và quảng cáo trên các tạp chí chuyên ngành. Việc sử dụng hính thức quảng cáo nào còn phải bảo đảm có sự thồng nhất và hài hoà với phương thức xuất khẩu của Công ty. Ngoài ra việc thiết kế thông điệp quảng cáo của công ty cùng cần có sự phù hợp với môi trường Văn Hoá, tâm lý tiêu dùng hàng may mặc của người EU. Các công tác xúc tiến bán hàng: Công ty cần duy trì và phát huy tác dụng của hoạt động xúc tiến bán hàng thông qua các hội chợ thời trang tiêu dùng quốc tế đặc biệt là các hội chợ hàng tiêu dùng được tổ chức ở các nước EU bằng những mẫu mã luôn thay đổi, phong phú nhưng thích hợp với thị hiếu tiêu dùng từng thời kỳ. Hoạt động này thực sự có ý nghĩa đối với công ty trong việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm của mình trên thị trường EU, vì thị trường hàng may mặc đang có sức cạnh tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất, các sản phẩm tương đối giống nhau về chất lượng giá cả, khối lượng hàng bán lại phụ thuộc vào mức độ quen biết giữa công ty với khách hàng. Các hình thức chủ yếu của xúc tiến bán hàng là thay đổi hình thức mẫu mã sản phẩm, khuyến khích mua hàng (giảm giá, tặng quà, bán trả góp...), trưng bày catalogue tại điểm bán hàng. Ngoài ra các của hàng bán lẻ của công ty phải được trang hoàng đẹp, đầy đủ về mẫu mã, việc thử hoặc đổi hàng phải được tạo điều kiện thuận lợi nhất. Khi đã có đủ tiềm lực về tài chính, ngoài việc tham gia trình diễn thời trang hay các cuộc giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ, công ty có thể tự tổ chức địng kỳ các buổi trình diễn thời trang trong nước và tại các hội chợ trong và ngoài nước để tạo ra phong cách và ấn tượng riêng của công ty và sản phẩm. Về mặt phân phối: Việc tạo lập một hệ thống phân phối hợp lý sẽ giúp Công ty tăng cường khả năng xuất khẩu và thu thập được nhiều thông tin về nhu cầu loại sản phẩm mà Công ty đang kinh doanh trên thị trường EU. Hiện tại kênh phân phối sản phẩm của Công ty xuất khẩu trên thị trường EU chỉ có một thành viên là các Công ty thương mại vì vậy để thực hiện tốt việc phân phối sản phẩm của mình Công ty cần phải thu thập thông tin về các Công ty thương mại, từ đó chú trọng và thiết lập quan hệ làm ăn lâu dài với những Công ty thương mại có uy tín trong lĩnh vực phân phối sản phẩm may mặc. Đặc biệt Công ty cần quan tâm hơn tới việc tìm kiếm và thiết lập mối quan hệ kinh doanh với các Công ty thương mại thuộc thuộc các quốc gia EU. Đây có thể xem là giải pháp hợp lý nhất đối với việc nâng cao uy tín sản phẩm của Công ty và thực hiện chủ động hơn các hoạt động trên thị trường may mặc EU. Các Công ty thương mại này phải có uy tín trong lĩnh vực phân phối đối với người tiêu dùng EU, phương thức này cho phép sản phẩm của Công ty thâm nhập vào thị trường EU mà không bị các yếu tố môi trường cản trở đáng kể. Hơn nữa, hàng may mặc của Công ty vẫn chưa có một thương hiệu riêng mà phải sử dụng nhãn hiệu của các nhà phân phối, nên việc lựa chon các Công ty thương mại có uy tín trên EU sẽ có tác dụng tăng uy tín sản phẩm của Công ty. Tuy nhiên về lâu dài khi đã có đủ tiềm lực và kinh nghiệm, Công ty cũng nên tự thiết lập cho mình một kênh phân phối riêng trên thị trường EU để phân phối trực tiếp sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Có như vậy Công ty mới có thể nắm bắt kịp thời được nhu cầu đang thay đổi trên thị trường EU và từ đó có thể đưa ra các sản phẩm phù hợp trước các đối thủ cạnh tranh của mình. Muốn vậy ngay từ bây giờ Công đã ty phải có kế hoạch thiết lập một kênh phân phối và từng bước thực hiện nó. 1.7. Nâng cao năng lực sản xuất để tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh. Một trong những nguyên nhân sâu sa làm cho sản phẩm của Công ty chưa có sức cạnh tranh cao với các sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh đó là năng lực sản xuất của Công ty còn rất yếu. Do vậy, để nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc trên thị trường EU, Công ty cần phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và đổi mới công nghệ bằng các biện pháp sau: ă Khai thác tối đa công suất hiện có của các nhà máy may. ă Đầu tư dây chuyền sản xuất mới đồng bộ từ khâu cắt đến khi hoàn thành sản phẩm may cuối cùng. ă Xây dựng các chương trình tu sửa nhà xưởng đạt chất lượng cao. ă Công ty nên nâng cấp các phòng kiểm tra chất lượng tại nhà máy có cùng điều kiện vật chất với phòng KCS trung tâm, và phòng khớp màu dưới sự quản lý của phòng kiểm tra chất lượng. Đi đôi với việc tăng cường cơ sở vật chất Công ty cần phải tăng tốc đầu tư công nghệ mới. Công ty có lợi thế là rất am hiểu về công nghệ mới của các thiết bị sản xuất, đây là thuận lợi để công ty có thể tăng tốc đầu tư công nghệ mới. Công ty có thể thực hiện theo các hướng sau: ă Ký hợp đồng với các chuyên gia quốc tế để tự giúp việc mua săm các công nghệ phù hợp cho Công ty, đảm bảo triển khai sử dụng đúng và có hiệu quả nhất nhà xưởng và thiết bị mới. ă Triển khai một chương trình đầu tư có mục tiêu để mua công nghệ thông tin sãn có mới nhất đặc biệt là các hệ thống thông tin quản lý. Với hệ thống công nghệ thông tin này sẽ giúp Công ty thực hiện việc giao hàng một cách đáng tin cậy trong thời gian ngắn nhất với giá cạnh tranh nhất, chất lượng tốt nhất đến với khách hàng. Công nghệ này còn giúp công ty đánh giá chinh xác hiệu quả đối với đầu tư, việc ra quyêt định một cách có hiệu quả nhất trong việc mua hàng và cung cấp nhờ đó mà chi phí tồn kho có thể duy trì ở mức hợp lý. Việc đổi mới công nghệ của Công ty cần hướng tới các mục tiêu: + Nâng cao chất lượng sản phẩm hiện có. + Giảm giá bán của sản phẩm. + Đa dạng hoá sản phẩm, khai thác tốt nhất những sản phẩm là thế mạnh của Công ty như: các loại áo dệt kim Poloshirt, Tshirt... Khi thực hiện đổi mới công nghệ Công ty cần phải nghiên cứu thị trường công nghệ trong và ngoài nước, đánh giá phân tích kỹ lưỡng dây chuyền sản xuất mà mình dự định sẽ mua để có thể tiếp nhận được công nghệ tiên tiến. Để có nguồn vốn đầu tư đối mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất Công ty có thể huy đồng bằng nguồn vốn tự có, vay ngân hàng, hợp tác với các đối tác nước ngoài. Hiện nay lãi suất ngân hàng đã giảm nhiều so với trước nhưng tỷ lệ cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ thấp nên các doanh nghiệp không có điều kiện vay vốn để đầu tư chiều sâu. Các khoản vay tín dụng ưu đãi của nhà nước hay nước ngoài với lãi xuất thấp lại không dễ dàng có được nên khả năng đầu tư đổi mới công nghệ dệt may là rất hạn chế. Có nhiều doanh nghiệp vì không có nguồn vay dài hạn đã phải vay trung hạn và ngắn hạn để đầu tư, lãi không kịp trả dẫn đến tình trạng nợ lớn có nguy cơ phá sản. Như vậy, huy động vốn từ nguồn đi vay là không mấy khả thi đối với các doanh nghiệp dệt may. Một nguồn vốn khác có thể huy động là vốn tự có của doanh nghiệp được tích luỹ từ lãi của hoạt động sản xuất kinh doanh thì cũng còn nhỏ, chỉ có thể cải tiến, nâng cấp điều kiện lao động chứ để đầu tư chiều sâu là khó. Để huy động nội lực, công ty có thể tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp song công ty chưa có kế hoạch thực hiện kế hoạch này mà hiện nay việc huy động vốn của công ty vẫn chủ yếu là đi vay. Công ty cũng có thể huy động vốn bằng cách hợp tác với người nước ngoài. Đầu tư nước ngoài trực tiếp sẽ mang lại không chỉ vốn mà kèm theo đó còn là công nghệ tiên tiến và công nghệ quản lý hiện đại, hứa hẹn một sự phát triển vượt bậc nếu theo hướng đầu tư này. 1.8. Chăm lo hơn nữa tới công tác đạo tạo nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là yếu tố cốt lõi của hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong bất cứ một cuộc cạnh tranh nào. Một doanh nghiệp có nguồn nhân lực có trình độ cao, được chuyên môn hoá, hăng say làm việc, chắc chắn sẽ sớm nâng cao được vị thế và sức cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước và quốc tế. Hiện nay, điều mà các doanh nghiệp nói chung và Công ty Hanosimex nói riêng thiếu nhất là đội ngũ lao động có trình độ, năng lực thực sự và bộ máy quản lý hoạt động có hiệu quả. Nêu các doanh nghiệp làm tốt điều này sẽ góp phần làm cho hoạt động xuất khẩu được trôi chảy, nhịp nhàng hơn và do đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Vì vậy, Công ty Hanosimex cần phải chú trọng nâng cao trình độ đội ngũ lao động: Đối với những người làm công tác xuất nhập khẩu ở công ty hiện nay còn tồn tại một nghịch lý là những người làm việc lâu năm có kinh nghiệm chuyên môn vững vàng thì lại yếu về ngoại ngữ, trong khi những người trẻ giỏi về ngoại ngữ lại thiếu kinh nghiệm sử lý công tác chuyên môn. Do vậy, trong thời gian tới, công ty phải thường xuyên gửi các cán bộ trẻ đi đào tạo nhằm nâng cao kiến thức về kinh doanh quốc tế, củng cố nghiệp vụ xuất nhập khẩu tại các trường đại học ở trong và ngoài nước. Đồng thời có kế hoạch đào tạo lại số cán bộ ở phòng Xuất nhập khẩu để họ có điều kiện nâng cao nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ. Đối với đội ngũ công nhân trực tiếp sản xuất là những người ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm của công ty, do đó công ty cần có kế hoạch nâng cao tay nghề cho đội ngũ này. Công ty có thể gửi những công nhân trẻ, tay nghề thấp đi đào tạo tại các trung tâm dạy nghề hoặc các trường đào tạo chuyên ngành dệt may. Hoặc có thể đào tạo tại chỗ bằng cách tổ chức các lớp học thuê các chuyên gia kỹ thuật đến giảng dạy, công ty có thể nâng cao tay nghề cho các lao động trẻ bằng các cử các công nhân kỹ thuật bậc cao kèm cặp, hướng dẫn ngay tại nơi làm việc, điều này có thể giúp cho người có tay nghề thấp nhanh chóng tiến bộ. 1.9 Xây dựng một thương hiệu quốc tế cho hàng hoá trên thị trường may mặc EU để tăng sức cạnh tranh của Công ty. Khi đã có được những sản phẩm có chất lượng, mẫu mã đa dạng, giá cả thấp thì làm thế nào để các công ty Thương mại và người tiêu dùng EU biết đến sản phẩm của Công ty. Công ty nên tạo cho sản phẩm của mình một hình ảnh và một uy tín, khi đã có được một uy tín nhất định trên thị trường EU thì sức cạnh tranh của Công ty cũng được nâng lên. Hiện nay, Công ty chưa làm được điều này, người tiêu dùng biết đến sản phẩm của Công ty không phải bằng thương hiệu của chính Công ty mà bằng thương hiệu của các hàng nước ngoài. Việc sản xuất gia công và gắn tên, mác nước ngoài đem lại thuận lợi cho công ty không phải lo lắng trong khâu tiêu thụ trực tiếp với người tiêu dùng, nhưng có bất lợi là về lâu dài công ty không khẳng định được mình trên thị trường. Tuy nhiên, điểm bất lợi này có thể được khắc phục trong ngày một ngày hai. Để thâm nhập vào thị trường nước ngoài, nhất là thị trường các nước công nghiệp phát triển, việc tạo uy tín qua nhãn hiệu hàng hoá sẽ gặp phải những khó khăn nhất định và công ty cần phải khắc phục những khó khăn đó trong phạm vi có thể. Trước mắt, các việc cần làm để xây dựng thương hiệu là: Kỹ thuật: hàng hoá đã đăng ký nhãn hiệu phải đảm bảo chất lượng ổn định, công ty không nên để tính chất lao động thủ công ảnh hưởng tới chất lượng của sản phẩm. Tài chính: chi phí cho các hoạt động quảng cáo, xúc tiến ...là rất cao, do đó công ty cần sử dụng và kết hợp chi tiêu một cách hợp lý và có hiệu quả. Cung cấp: sản phẩm đã có nhãn hiệu phải đảm bảo lúc nào cũng cung cấp đủ nhu cầu thị trường, nếu chỉ vắng bóng trên thị trường một thời gian vì một lý do nào đó sẽ bị lu mờ và bị sản phẩm khác thế chỗ. Vị trí của những người đến sau thường thấp và không có được thị phần lớn. Nhưng khi đã có đủ điều kiện, công ty cần mạnh dạn gắn nhãn mác riêng của mình lên sản phẩm, bước đầu có thể gặp khó khăn do chưa được người mua tin tưởng, song nếu không có bước đầu đó công ty sẽ không bao giờ đến được với khách hàng bằng chính tên tuổi của mình. 2. Các kiến nghị với Nhà nước. Để nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá của công ty trên thị trường EU thì chỉ những nỗ lực từ phía công ty thôi chưa đủ mà phải có sự trợ giúp từ phía Nhà nước. Sau đây em xin nêu ra một số kiến nghị đối với Nhà nước để góp phần nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá của Công ty Hanoisimex nói riêng và hàng hoá Việt Nam nói chung trên thị trường EU. 2.1. Phát triển nguồn nguyên liệu trong nước nhằm giúp các doanh nghiệp chủ động trong khâu nguyên liệu để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường may mặc. Như đã phân tích ở chương II, một trong những nguyên nhân của chất lượng sản phẩm may mặc Việt Nam kém, giá thành sản phẩm cao là do nguồn nguyên liệu dệt may trong nước kém phát triển dẫn đến sức cạnh tranh kém trên thị trường thế giới. Nguyên liệu dành cho ngành công nghiệp dệt may được chia thành 2 loại: một loại có nguồn gốc từ thiên nhiên như bông, đay, tơ tằm...; một loại có nguồn gốc từ các quá trình hoá học như sợi tổng hợp, nhân tạo. Trên thế giới, nhiều nước đã biết phát huy lợi thế về từng chủng loại nguyên liệu để phát triển ngành công nghiệp dệt may của mình như Nhật, Trung quốc...là những nước phải nhập khẩu gần như toàn bộ số nguyên liệu thiên nhiên nhưng nhờ tự túc dược nguồn nguyên liệu hoá học nên công nghiệp dệt may cũng hết sức phát triển. Ngược lại, nhiều quốc gia trên thế giới là các nước xuất khẩu bông nhưng công nghiệp dệt may lại kém phát triển như: Pakisttan, Uzbekistan...Do vậy, có thể thấy rằng có được nguồn nguyên liệu chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ để phát triển ngành dệt may. Việt Nam thuận lợi về điều kiện tự nhiên để phát triển nguồn nguyên liệu thiên nhiên nhưng để phát triển ổn định và bền vững cần có những điều kiện sau: ă Chính phủ phê duyệt quy hoạch vùng nguyên liệu các loại sơ thiên nhiên cho ngành dệt may bao gồm vùng trồng bông, vùng trồng dâu nuôi tằm, vùng trồng đay...Từ đó, có các chính sách hợp lý trong việc bảo đảm cung cấp lương thực và các nhu yếu phẩm khác cho nông dân các vùng này, đồng thời có cơ chế thích hợp trong việc khai thác, bảo toàn và phát triển vùng nguyên liệu lâu dài. ă Cho phép trích tỷ lệ % trong doanh thu để lấy nguồn bù đắp cho quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu. Giảm hoặc miễn thuế GTGT đối với sản phẩm được sản xuất từ nguyên liệu trong nước ( bông, đay, tơ tằm) để ngành dệt may dùng số tiền đó đầu tư cho các hộ cung cấp nguyên liệu. ă Đẩy nhanh qua trình xây dựng các khu công nghiệp hoá dầu, làm tiền đề cho việc sản xuất các loại sơ sợi tổng hợp, góp phần tạo thế chủ động về nguyên liệu cho ngành. 2.2. Cải thiện chính công nghệ nhằm nâng cao khả năng công nghệ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Thực trạng công nghệ yếu kém và lạc hậu trong các doanh nghiệp Việt Nam đã được nêu ra tại nhiều hội nghị, diễn đàn. Nhưng tình hình này chậm được cải thiện nên đã ảnh hưởng đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới như thị trường EU. Việc xây dựng một chính sách công nghệ hợp lý có thể khắc phục được những nhược điểm này, muốn vậy nhà nước phải thực hiện một số biện pháp sau: ă Cho phép các thành phần kinh tế được tham gia trực tiếp và bình đẳng vào hoạt động nhập khẩu công nghệ. Bởi vì vấn đề lãng phí trong nhập khẩu công nghệ chỉ tồn tại ở khu vực quốc doanh do việc qui định trách nhiệm chưa rõ ràng còn các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì ít khi mắc phải sai lầm trong nhập khẩu thiết bị do phải quan tâm đến hiệu quả đầu tư. Thực hiện điều này buộc các doanh nghiệp quốc doanh vì mục tiêu sống còn cũng phải vươn lên để cạnh tranh với họ, nhưng lưu ý hơn đến hiệu quả đầu tư từ đó cải tiến công nghệ và nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ. ă Chú trọng nhập khẩu công nghệ đòi hỏi xuất đầu tư thấp thu hồi vốn nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp. Việc hiện đại hoá công nghệ là cần thiết nhưng phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn. Việc nhập khẩu thiết bị tiên tiến và hiện đại cho mọi ngành sản xuất nhiều khi lại là sự lãng phí vì không phù hợp với khả năng quản lý và vận hành của cơ sở sử dụng thiết bị. Các thiết bị công nghệ cao thường sử dụng ít lao động, không tận dụng được thế mạnh lao động rẻ. Giá thiết bị cao còn làm tăng giá thành và làm suy yếu sức cạnh tranh của hàng hoá. Vì lý do đó, nhập khẩu thiết bị tiên tiến cần được tính toán ký về mặt hiệu quả, tập trung vào một số ngành then chốt như năng lượng, tin học, điện tử, viễn thông. Còn những ngành còn lại cần tận dụng các loại công nghệ có trình độ vừa phải sử dung nhiều lao động, phù hợp với trình độ phát triển của ta. ă Nhà nước đầu tư thành lập Ngân hàng dữ liệu công nghệ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp. Việc này đã được làm nhưng qui mô còn nhỏ, tới đây nên tiến hành đầu tư một cách bài bản hơn cho lĩnh vực này, đồng thời tăng cường phổ biến tới các doanh nhân để họ biết và cố điều kiẹn tham khảo trước khi ra quyết định đầu tư. ă Tạo lập thị trường công nghệ để các sản phẩm khoa học công nghệ được trả giá đúng mức và lưu thông bình thường như một hàng hoá đặc biệt. Thi hành nghiêm túc các qui định của luật pháp về bảo hộ quyền sở hữu công nghệ cũng là biẹn pháp quan trọng để khuyến khích đầu tư khoa học phục vụ cho công cuộc đổi mới và cải tiến công nghệ. ă áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với các hàng xuất khẩu để vừa thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn đến vấn đề công nghệ (đặc biệt là công nghệ sạch), vừa nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. 2.3. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Hiện nay, Việt Nam chưa thành lập được quỹ bảo hiểm xuất khẩu cũng như quỹ hỗ trợ xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn tham gia hoạt động này, nhất là trong điều kiện thị trường thế giới đầy biến động. Các doanh nghiệp nhỏ, vốn ít vẫn không giám mạo hiểm bán hàng theo phương thức bán trả chậm, trả góp...mặc dù đủ điều kiện ký kết hợp đồng xuất khẩu. Vẫn chưa có hiệp hội ngành may mặc xuất khẩu để hỗ trợ trong việc nghiên cứu thị trường, hỗ trợ về giá cả...Tuy nhiên, đã có quỹ thưởng xuất khẩu. Vừa qua, bộ thương mại đã ban hành quy chế quản lý và sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu nhằm khen thưởng, động viên và khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có thành tích xuất sắc và đạt hiêụ quả cao trong hoạt động xuất khẩu. Để hỗ trợ tích cực hơn nữa trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nnghiệp, nhà nước cần sớm thực hiện các giải pháp sau: ă Thành lập quỹ bảo hiểm và quỹ hỗ trợ xuất khẩu chung cho cả nước và cho phép công ty doanh nghiệp Hà Nội thành lập quỹ hỗ trợ khi giá cả thị trường thế giới có nhiều biến động, gặp nhiều rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng ngoại thương, trong quá trình vận chuyển hàng xuất khẩu. ă Chính Phủ sớm ra quyết định thành lập hiệp hội dệt may Việt Nam nhằm tập hợp và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu. Đồng thời nhanh chóng xúc tiến việc thành lập cơ quan xúc tiến thương mại chuyên về thị trường xuất khẩu, trong đó có thị trường hàng may mặc. ă Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu như: hỗ trợ vốn, cho vay vốn với lãi xuất thấp đối với các doanh nghiệp thiếu vốn để sản xuất hoặc thực hiện hợp đồng khi đã có thị trường và đối tác để xuất khẩu hoặc doanh nghiệp mở rộng hoặc tham gia vào thị trường mới... ă Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các vệ tinh cung ứng dịch vụ, nguyên phụ liệu cho hàng dệt may xuất khẩu: chính sách cho vay vốn, trợ giúp về mặt kỹ thuật. 2.4. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin về thị trường may mặc EU cho các doanh nghiệp. Thực tế quan hệ buôn bán Việt Nam- EU cho thấy các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam rất thiếu thông tin về thị trường EU bởi vì họ không chịu bỏ tiền hoặc không có khả năng bỏ tiền ra cho những chuyến đi nghiên cứu, thăm dò thị trường hay tổ chức các cuộc hội thảo tại thị trường EU. Vì vậy, họ rất cần sự giúp đỡ của nhà nước. Trong thời gian tới nhà nước cần thực hiện một số biện pháp sau: ă Đứng ra tổ chức và đài thọ kinh phí những chuyến đi thăm dò thị trường cho doanh nghiệp Việt Nam và các tổ chức trưng bày sản phẩm Việt Nam tại EU. ă Thành lập đại diện các công ty dịch vụ và xuất nhập khẩu Việt Nam tại EU do bộ thương mại trực tiếp chỉ đạo thông qua nghiệp vụ kinh doanh ngay trên thị trường EU, cơ quan đại diện sẽ là đơn vị cùng với Thương vụ cung cấp các thông tin kinh tế thương mại, đặc biệt là những thông tin nghiệp vụ cho Bộ cũng như các công ty và tổ chức xuất nhập khẩu trong nước. ă Sớm thành lập Cục xúc tiến thương mại để làm cầu nối giữa Bộ thương mại, Thương vụ tại các nước với các doanh nghiệp Việt Nam cũng như nước ngoài trong việc trao đổi, thu thập và phổ biến các thông tin về thị trường nước ngoài. Về lâu dài chính phủ cần thành lập một ngân hàng dữ liệu về thị trường EU để sẵn sàng cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp khi họ cần. 2.5. Tăng cường hơn nữa quan hệ Thương mại với EU và các tổ chức kinh tế Thế giới. Chính phủ Việt Nam cần đẩy mạnh các công tác ngoại giao, thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với chính phủ các quốc gia thuộc EU, khối EU và các tổ chức kinh tế thế giới, nhằm giành được các ưu đãi tối huệ quốc, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty Hanoisimex nói riêng có thể xuất khẩu vào thị trường này một cách thuận lợi nhất, giảm tối thiểu các hạn chế kinh doanh để họ đủ tự tin và khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trên thế giới. Nhà nước có thể thực hiện các biện pháp cụ thể sau: ă Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Thương Mại cần xây dựng được tiến trình gia nhập WTO có hiệu quả. ă Nhà nước tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực để Việt Nam nhanh chóng trở thành thành viên của WTO. ă Quan hệ tốt với các thị trường EU nhằm tạo dựng được khuôn khổ pháp lý tốt đối với các thị trường này để sản xuất hàng tiêu dùng Việt Nam nói chung và hàng dệt may nối riêng được hưởng các ưu đãi đặc biệt như hạn ngạch, tối huệ quốc... và có điều kiện để xuất khẩu với khối lượng lớn. ă Tạo điều kiện cho ngành dệt may tham gia vào các hoạt động quốc tế, các diễn đàn chuyên ngành của khu vực để có điều kiện tham gia vào sự phân công lao động quốc tế. ă Thực hiện nghiêm túc công ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ công nghiệp để các sản phẩm dệt may có chất lượng cao mang nhãn hiệu " made in Việt Nam" giữ được uy tín ,trên thị trường. Có quy chế phù hợp (bao gồm trách nhiệm và quyền lợi) về hoạt động của các nhân viên thương vụ của các đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài trong việc cung, cấp thông tin, giúp ngành dệt may mở rộng thị trường. Ngoài ra các biện pháp trên, Nhà nước cũng cần cải cách lại thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá. Các cải cách này có thể hướng vào việc hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, bãi bỏ các thủ tục không cần thiết, có thể làm lỡ các cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu. Song song với đó, Nhà nước cũng nên hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, giúp cho các doanh nghiệp có thể yên tâm sản xuất và xuất khẩu. Hy vọng trong thời gian tới, với những hỗ trợ tích cực từ phía chính phủ các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam và Công ty Hanoisimex có thể nâng cao được sức cạnh tranh hàng hoá của mình trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng. Kết luận. Trước xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, ngành dệt may Việt Nam với những lợi thế về nhân công rẻ, môi trường chính trị ổn định đã và đang dần dần tạo cho mình một chỗ đứng trên thị trường may mặc thế giới. Tuy nhiên, đánh giá một cách toàn diện thì hàng may mặc của ta còn yếu thế trong sức cạnh tranh với các đối thủ như Trung Quốc, Kồng Kông, Inđônêxia. Những sản phẩm may mặc của Việt Nam xuất ra thị trường thế giới còn nghèo nàn về chủng loại, đơn giản về mẫu mã, chất lượng chưa cao, giá cả sản phẩm chưa tạo ra được sức cạnh tranh, do đó mức độ chấp nhận của khách hàng chưa cao. Vì vậy trong thời gian tới, may mặc Việt Nam cần phải không ngừng nỗ lực không ngừng nhằm tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình trên thị trường thế giới, đặc biệt là các thị trường truyền thống như EU, Nhật Bản. Thị trường may mặc EU là một thị trường nhập khẩu lớn của thế giới và là thị trường xuất khẩu quan trọng của may mặc Việt Nam nói chung và Công ty Hanoisimex nói riêng. Tuy nhiên, sự cạnh tranh trên thị trường này ngày càng diễn ra gay gắt do có nhiều quốc gia lớn cùng tham gia xuất khẩu vào. Vấn đề đặt ra là làm phải nâng cao được sức cạnh tranh hàng may của Việt Nam và của Công ty Hanoisimex thì mới có thể có được một chỗ đứng vững chắc trên thị trường này. Muốn vậy trong thời gian tới Công ty Hanoisimex cần phải đẩy nhanh sản xuất hàng hoá, đổi mới công nghệ, nâng cao chát lượng sản phẩm, tập trung nghiên cứu thị trường và thực hiện tốt công tác tiếp thị. Đề tài “Một số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty HANOSIMEX trên thị trường EU” đã đánh giá được một cách khái quát những ưu điểm và yếu điểm còn tồn tại trong quả trình xuất khẩu hàng may sang thị trường EU, để phân tích thực trạng cạnh tranh sản phẩm của Công ty trên thị trường này trong điều kiện thương mại nhát định. Qua đó, em cũng xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiên đóng góp với Công ty và Nhà nước, nhằm góp phần vào quá trình nghiên cứu, cải thiện và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm Công ty Hanoisimex nói riêng và ngành may mặc Việt Nam nói chung trên thị trường thế giới. Một lần nữa em xin được cảm ơn sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, đặc biệt là PGS.TS Nguyễn thị Hường đã giúp em hoàn thành đề tài này. Lời cảm ơn. Trong quá trình hoàn thành bài luận văn này, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ phía nhà trường, đặc biệt là các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, cũng như các càn bộ công nhân viên ở Công ty Hanosimex. Nhân đây, cho phép em xin được đặc biệt gửi những lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến: - PGS.PTS Nguyễn thị Hường- Chủ nhiệm bộ môn Kinh doanh quốc tế, trường Đại học Kinh tế quốc dân cùng TH.S Mai Thế Cường đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn em hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này. - Các cán bộ công nhân viên Công ty Hanosimex đặc biệt là các cô chú và anh chị phòng Xuất nhập khẩu của Công ty đã hướng dẫn và cung cấp các thông tin về Công ty giúp em viết bài luận văn này. Danh sách các tài liệu tham khảo I. Sách: 1. TS Nguyễn thị Hường: Giáo trình Kinh doanh quốc tế-NXBTK, năm 2001. 2. TS Nguyễn Văn Cao: Giáo trình Marketing Quốc tế- NXBGD, năm 2000. 3. Michael Porter: Chiến lược cạnh tranh- NXBHN, năm 1999. 4. J. shaw: Chiến lược thị trường- NXBHN, năm 1997. II. Tạp chí: 1. Tạp chí Dệt may: số 140 năm 2001; số 25, 27, 50 năm 2002. 2. Tạp chí Kinh tế và Dự Báo: Số7/2000- Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam. 3. Tạp chí Kinh tế và Phát triển: Số31/2000- Nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm xuất khảu Việt Nam trong TMQT. Số 33/2000- Hàng dệt may Việt Nam- Thực trạng và giải pháp. 4. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu: Số 1/2001- Ngành công nghiệp dệt may của liên minh EU. 5. Tạp chí Thương Mại: Số 2+3/2001- Nâng cao khả năng cạnh tranh Của sản phẩm. 6. Tạp chí Tài chính: Số 11/2000- Chặn đà tụt hậu và chiến lược khuyến khích cạnh tranh xuất khẩu. III. Các tài liệu khác: 1. Chiến lược dệt tăng tốc hàng dệt may của tổng công ty dệt may Việt Nam. 2. Các báo cáo tổng kết của Tổng công ty Dệt may Việt Nam (năm 2002) 3. Hiệp định thương mại dệt may giữa Việt Nam và EU 4. Báo cáo kết quả hoạt động của công ty dệt may Hà Nội các năm1999, 2000, 2001, 2002. + Báo cáo xuất khẩu của công ty dệt may Hà Nội. + Báo cáo chuẩn đoán của công ty dệt may Hà Nội. 5. Một số trang webside:vnecomomy.com.vn; vineseek.com, mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0061.doc
Tài liệu liên quan