Năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay, vấn đề kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước là một yêu cầu khách quan. Mục đích đặt ra là làm cho các cơ quan nhà nước ở Trung ương cũng như ở địa phương thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Điều 119 Hiến p

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
háp năm 1992 sửa đổi quy định: "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên"[25, tr.67]. Như vậy, Hội đồng nhân dân (HĐND) vừa là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Bởi vậy, xây dựng HĐND các cấp có thực quyền để đảm đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức thiết hiện nay. HĐND có 2 chức năng cơ bản: chức năng quyết định và chức năng giám sát. Trong hai chức năng đó, chức năng quyết định làm nổi bật vị trí của HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Thực hiện tốt chức năng quyết định là điều kiện đảm bảo để HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Vì vậy, không ít người cho rằng chức năng cơ bản của HĐND là thay mặt nhân dân địa phương quyết định những vấn đề có liên quan đến đời sống của nhân dân địa phương. Mặc dù hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về tính chất của HĐND, nhưng theo quy định của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi thì HĐND vừa là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Để HĐND thực hiện tốt các chức năng của mình, điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó yếu tố năng lực của đại biểu HĐND là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động nói chung của HĐND và đặc biệt nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng các nghị quyết do HĐND ban hành. Thực hiện những chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND, trong 20 năm đổi mới vừa qua tổ chức và hoạt động của HĐND đã có những chuyển biến rõ nét, đóng góp tích cực vào sự nghiệp chung của công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều báo cáo chính thức, tổ chức và hoạt động của HĐND ở các cấp vẫn còn biểu hiện hình thức, chưa thực hiện tốt vai trò chức năng luật định; hiệu lực hiệu quả còn thấp, thậm chí trong dư luận xã hội còn có ý kiến cho rằng HĐND chưa có thực quyền. Xuất phát từ yêu cầu phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; xuất phát từ những yếu kém tồn tại trong tổ chức, hoạt động của HĐND với định hướng làm thế nào để HĐND thực hiện được đúng vai trò chức năng của mình, đòi hỏi cần có sự nghiên cứu toàn diện các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến tổ chức, hoạt động của HĐND. Hoạt động của HĐND có đạt chất lượng, hiệu quả hay không điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, yếu tố năng lực của đại biểu đóng vai trò quan trọng, bởi hoạt động của HĐND chính là hoạt động của bản thân các đại biểu. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi chúng ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, người đại biểu nhân dân ngoài phẩm chất đạo đức tốt còn phải là người có năng lực, có hiểu biết về pháp luật, có trình độ nhất định về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Có như vậy, họ mới có điều kiện thực hiện tốt chức năng của mình, đặc biệt khi tham gia thực hiện chức năng quyết định. Trong các cấp HĐND thì HĐND cấp tỉnh có vị trí, vai trò quan trọng nổi bật. ở cấp này hoạt động của HĐND được thể hiện một cách bao quát và đầy đủ trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội ở địa phương. Vì vậy, nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong đó có yếu tố năng lực của đại biểu HĐND trong tham gia thực hiện chức năng quyết định sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tìm hiểu vấn đề này của HĐND ở các cấp khác. Vì không đủ điều kiện thời gian nghiên cứu vấn đề này trên phạm vi cả nước nên tác giả lựa chọn nghiên cứu năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh ở một địa phương cụ thể trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. Hà Tĩnh là một tỉnh miền trung thuộc diện tỉnh nghèo của Việt Nam. Tỉnh Hà Tĩnh được tái lập từ năm 1991(tách từ tỉnh Nghệ Tĩnh cũ) trong bối cảnh cả nước bước vào thời kỳ đổi mới, chủ trương của Đảng và nhà nước là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chuyển từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn rất mới mẻ. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Hà Tĩnh vẫn còn phải đương đầu với những khó khăn, thách thức đáng kể: Cơ sở vật chất thiếu thốn, sản xuất chậm phát triển, tư tưởng tiểu nông trong cán bộ và nhân dân còn nặng, đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành đã yếu lại thiếu trầm trọng, mất cân đối, không đồng bộ giữa các lĩnh vực… Đó là những thách thức lớn đặt ra cho Hà Tĩnh để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi vậy, những quyết sách đúng đắn, sáng suốt, khoa học của HĐND là một trong những yếu tố hàng đầu góp phần đưa tỉnh nhà phát triển đi lên theo kịp xu thế phát triển chung của cả nước. Việc xây dựng một đội ngũ cán bộ nói chung và đại biểu HĐND nói riêng thực sự có năng lực và tâm huyết với sự phát triển của tỉnh nhà càng trở nên bức thiết. Bởi vậy, việc phân tích thực trạng năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định và tìm ra các giải pháp tối ưu nhằm nâng cao năng lực hoạt động của họ lại càng có ý nghĩa thiết thực, góp phần vào sự hoạt động có hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước ở địa phương, đưa Hà Tĩnh sớm thoát khỏi tỉnh nghèo vươn lên giàu mạnh. Việc nghiên cứu này vừa góp phần đề ra các giải pháp nâng cao năng lực thực hiện chức năng quyết định của đại biểu HĐND cũng như nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND ở địa phương đồng thời có thể rút ra những vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND các cấp trên phạm vi cả nước nói chung, đặc biệt trong thực hiện chức năng quyết định. Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả chọn đề tài: "Năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định" làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của HĐND các cấp và vấn đề nâng cao chất lượng đại biểu HĐND các cấp ở nước ta đã được đề cập nhiều trên các sách báo, tạp chí, các diễn đàn khoa học. Nhưng các công trình nghiên cứu này chủ yếu quan tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của HĐND nói chung hoặc chỉ đề cập một cách chung chung đến vấn đề tính chất của HĐND hay vấn đề chất lượng của đại biểu HĐND như: - Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND và UBND các cấp, Tạp chí Tổ chức nhà nước số 6/2002. - Đinh Ngọc Quang, Về đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp nhiệm kỳ 2004-2009, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 2/2005. - Bùi Huyền Mai, Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND thành phố Hà Nội, luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, 2004. - Lê Minh Thông, Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/1999. - Vũ Đức Đán, Vấn đề bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động của đại biểu HĐND, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 2/2005. - Bùi Thế Vĩnh, Phương thức và kỹ năng hoạt động của đại biểu HĐND, trong chương trình tập huấn đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 1999-2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. - Hồ Thị Hưng, Nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, 2006. Các công trình trên chủ yếu tiếp cận HĐND từ góc độ tổ chức và hoạt động một cách chung chung hoặc là bàn về tính chất của HĐND hoặc là đi sâu nghiên cứu chức năng giám sát của HĐND mà ít đề cập đến vấn đề năng lực của đại biểu HĐND. Đặc biệt vấn đề năng lực của đại biểu HĐND trong tham gia thực hiện chức năng quyết định thì hầu như chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu. Đặc biệt sau khi Luật Tổ chức HĐND và Uỷ ban nhân dân (UBND) năm 2003, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND năm 2004 được ban hành thì hoạt động quyết định của HĐND cấp tỉnh đã có nhiều vấn đề mới được đặt ra cả về lý luận và thực tiễn, trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến năng lực của đại biểu HĐND nhưng chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về vấn đề này. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định ở Việt Nam nói chung và ở Hà Tĩnh nói riêng là một yêu cầu thiết thực hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích nghiên cứu: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. * Nhiệm vụ nghiên cứu: - Làm rõ khái niệm chức năng quyết định của HĐND, phân tích đặc điểm, nội dung và hình thức thực hiện chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh. - Làm rõ khái niệm chất lượng của các nghị quyết do HĐND ban hành, các yếu tố đảm bảo và các tiêu chí đánh giá chất lượng hiệu quả của các nghị quyết đó. - Làm rõ khái niệm năng lực của đại biểu HĐND trong tham gia thực hiện chức năng quyết định, các yếu tố cấu thành, các yếu tố đảm bảo năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. - Phân tích thực trạng việc thực hiện chức năng quyết định của HĐND cũng như năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong hiện chức năng quyết định, qua đó đánh giá chất lượng hoạt động thực hiện chức năng quyết định của HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. - Xác định những quan điểm, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh ở Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định, góp phần đưa các quyết định của HĐND tỉnh Hà Tĩnh đạt tính khả thi cao trong thực tế, đảm bảo dân chủ, đảm bảo để HĐND tỉnh Hà Tĩnh thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận chung về chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh, năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định; đánh giá thực trạng năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định qua nhiệm kỳ 1999 - 2004 và từ 2004 đến nay, từ đó tìm ra nguyên nhân của những hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn * Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về nhà nước kiểu mới, về HĐND, chức năng quyết định của HĐND; về vấn đề năng lực, vị trí, vai trò của đại biểu HĐND trong bộ máy nhà nước. * Phương pháp nghiên cứu: Ngoài phương pháp luận của triết học Mác-Lênin, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, phương pháp chuyên gia, khảo sát điều tra xã hội. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu về năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định, bởi vậy luận văn có những điểm mới sau đây: - Khái quát những nét cơ bản về chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh. - Làm rõ khái niệm năng lực của đại biểu HĐND, khái niệm năng lực của đại biểu HĐND trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. - Đánh giá một cách toàn diện, có hệ thống thực trạng về năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh nhiệm kỳ 1999 - 2004 và từ 2004 đến nay trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. - Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. Trên cơ sở đó có thể nhân rộng mô hình này cho đại biểu HĐND cấp tỉnh ở các địa phương khác trên phạm vi cả nước. 7. Kết cấu của luận văn Với mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra và giới hạn đối tượng, phạm vi nghiên cứu như trình bày trên đây luận văn được kết cấu như sau: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết. Chương 1 Cơ sở lý luận về năng lực của đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong thực hiện chức năng quyết định 1.1. Vị trí, vai trò của đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong thực hiện chức năng quyết định 1.1.1. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong bộ máy nhà nước Theo quy định tại Điều 2, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…” [25, tr.13]. Với khẳng định trên, ở nước ta, quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân. “Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua các cơ quan đại diện đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương”[25, tr.15]. Như vậy, trong bộ máy nhà nước, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương đó. HĐND có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trong lịch sử phát triển của mình, HĐND đã làm được nhiều việc ích nước lợi dân, đã thể hiện được vai trò là cơ quan đại biểu của nhân dân, là chỗ dựa vững chắc để xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng ngày càng lớn mạnh. Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn, chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng mô hình từng cấp và tổng kết kinh nghiệm trong hoạt động của HĐND. Vì thế, trên thực tế cả về mặt tổ chức cũng như hoạt động của HĐND các cấp vẫn còn là một trong những khâu yếu kém của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng cần bỏ HĐND, hay nói cách khác, sự tồn tại của HĐND là không cần thiết, bởi hoạt động của nó rất hình thức, làm cho bộ máy nhà nước thêm cồng kềnh, tốn kém. Đó là quan điểm hoàn toàn sai lầm vì nó trái với bản chất của Nhà nước ta - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; theo đó phải có cơ quan đại diện của nhân dân ở trung ương cũng như ở địa phương, cơ sở để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là phải củng cố, kiện toàn HĐND để HĐND hoạt động thực chất hơn và ngày càng có hiệu lực, hiệu quả tương xứng với vị trí, vai trò của HĐND như Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định. Vị trí, vai trò của HĐND trong bộ máy nhà nước ta được khẳng định dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây: - Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, HĐND các cấp đã khẳng định được vị trí, vai trò, và trách nhiệm của mình. Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho nhân dân địa phương, HĐND có khả năng đoàn kết, tập hợp, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng, động viên được mọi nguồn lực vật chất và tinh thần của mỗi địa phương góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng. - Sự hiện diện của HĐND các cấp dưới sự lãnh đạo của Đảng có vai trò to lớn trong việc hình thành nhà nước kiểu mới ở nước ta, thể hiện được tính giai cấp sâu sắc, tính giai cấp thực sự của nhà nước, tạo niềm tin vững chắc cho nhân dân về một chính quyền của dân, do dân, vì dân. - HĐND các cấp đã trở thành trường học về quyền làm chủ của nhân dân. Những người có đủ năng lực, phẩm chất sẽ tham gia vào HĐND và thông qua họ, HĐND trở thành diễn đàn để người dân lao động thực hiện quyền làm chủ Nhà nước và xã hội của mình. Thực tiễn hoạt động của HĐND từ khi ra đời cho đến nay thực sự là tài sản và kinh nghiệm quý báu cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. - HĐND là cầu nối giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương; vừa bảo đảm sự tập trung thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước trên phạm vi toàn quốc, vừa đảm bảo phát huy được nội lực từng địa phương, cơ sở. Thông qua Quốc hội và HĐND các cấp, bằng quyền dân chủ trực tiếp của mình, nhân dân thực hiện được quyền làm chủ trên phạm vi cả nước và trước hết làm chủ ở ngay địa phương, cơ sở. Trên những cơ sở thực tiễn và lý luận đó, Điều 119 Hiến pháp năm 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đều xác định: “HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên” [25, tr.67]. Hiến pháp cũng quy định thẩm quyền rộng rãi cho HĐND, đảm bảo để HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm và toàn quyền quyết định những vấn đề trọng đại của địa phương trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và Pháp luật. Điều 120 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 ghi nhận: Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, HĐND ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước [25, tr.120]. Như vậy, Hiến Pháp và pháp luật hiện hành quy định chung về vị trí, vai trò của HĐND các cấp.Từ những quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, có thể khái quát vị trí, vai trò của HĐND cấp tỉnh trên các mặt sau đây: Thứ nhất, HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương. ở địa phương, HĐND là cơ quan duy nhất được thành lập bằng một cuộc bầu cử do cử tri địa phương trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, bỏ phiếu kín; hình thức hoạt động của HĐND chủ yếu thông qua kỳ họp toàn thể. Mọi quyết định của HĐND được thông qua bằng việc biểu quyết theo nguyên tắc đa số tương đối hoặc đa số tuyệt đối. Tính chất đại diện của HĐND về mặt hình thức được thể hiện rõ nét nhất ở việc cơ cấu đại biểu trong Hội đồng. Mỗi địa phương căn cứ vào số lượng dân cư, có một số lượng đại biểu nhất định đại diện cho nữ giới, người dân tộc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, các cơ quan nhà nước và các khu vực dân cư. Điều này có nghĩa, HĐND không đại diện cho một đảng phái, tổ chức nào mà đại diện cho toàn thể nhân dân. Thành phần trong HĐND thể hiện khối đại đoàn kết của toàn dân sống trên địa bàn địa phương. Tính chất đại diện của HĐND khác với tính chất đại diện của Quốc hội. Hiến pháp năm 1992 xác định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân (Điều 83); đại biểu Quốc hội là đại diện cho nhân dân cả nước (Điều 97). Còn HĐND là cơ quan chỉ đại diện cho nhân dân địa phương bầu ra mình, đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương đó và cơ quan nhà nước cấp trên. Tuy nhiên, về mặt lý luận cũng như thực tiễn, cách thành lập HĐND, cơ cấu đại biểu, hình thức hoạt động…mới chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức, còn hiệu quả hoạt động trong thực tế mới là cơ sở phản ánh đầy đủ nhất tính chất đại diện của HĐND. Song hiệu quả hoạt động thực tế hiện nay của HĐND chưa thực sự đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân, mà mới chỉ phản ánh được phần nào bản chất dân chủ của chế độ nhà nước ta. Thứ hai, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thể hiện ở các mặt sau đây: + Được thành lập bởi các đại biểu do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. + Có quyền căn cứ vào pháp luật bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức danh của UBND là cơ quan chấp hành của mình; bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân cùng cấp; cũng như có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do HĐND bầu ra. + Có quyền căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật ra nghị quyết để triển khai các mặt công tác ở địa phương. + Có quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương đồng thời chịu sự giám sát, hướng dẫn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và hướng dẫn, kiểm tra của Chính phủ. Như vậy, tính chất quyền lực của HĐND được thể hiện trên nhiều phương diện, nhưng xét về mặt địa vị pháp lý không giống với Quốc hội. Quốc hội được Hiến pháp ghi nhận là cơ quan quyền lực cao nhất của cả nước về phạm vi, cấp độ cũng như thẩm quyền, đặc biệt là quyền ban hành Hiến pháp, pháp luật. ở nước ta, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. HĐND cũng là cơ quan quyền lực nhà nước nhưng chỉ có quyền ban hành Nghị quyết - là loại văn bản dưới luật, phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên. Tóm lại, xét về mặt hình thức cũng như nội dung hoạt động, thiết chế HĐND ở nước ta thực sự là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương. Quyền lực của HĐND được xác định trong Hiến pháp về bản chất cũng là quyền lực của nhân dân. Vấn đề đặt ra là, bằng cách nào để HĐND thực hiện được quyền lực của mình trên thực tiễn là mục đích hướng tới của công cuộc đổi mới và hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung và HĐND nói riêng. 1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh Chức năng của HĐND là những phương diện hoạt động chủ yếu của HĐND nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của HĐND. Căn cứ vào Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, HĐND các cấp đều có 2 chức năng cơ bản là chức năng quyết định và chức năng giám sát. 1.1.2.1. Chức năng quyết định Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ghi nhận như sau: HĐND quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước [31, tr.29]. Để có cơ sở pháp lý cho HĐND cấp tỉnh thực hiện tốt chức năng này, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã xác định cụ thể nội dung những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND bao gồm: + Quyết định về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Điều 11). + Quyết định về phát triển giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao (Điều 12). + Quyết định về phát triển khoa học - công nghệ, tài nguyên và môi trường (Điều 13). + Quyết định về quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội (Điều 14). + Quyết định về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo (Điều 15). + Quyết định về việc thi hành pháp luật (Điều 16). + Quyết định việc xây dựng chính quyền địa phương (Điều 17) Như vậy, nội dung, chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh rất rộng, bao gồm tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học, quốc phòng, an ninh. Điều này một lần nữa khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò và tầm quan trọng của HĐND trong chính quyền địa phương. Mặt khác, đây cũng là những căn cứ pháp lý để tạo ra môi trường thuận lợi cho chính quyền địa phương khai thác hết mọi tiềm năng, nội lực sẵn có của mình, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ đối với cử tri và cấp trên giao cho. ở đây chúng ta cần lưu ý, theo quy định của pháp luật, trong chức năng quyết định, HĐND có thẩm quyền rất lớn đối với sự phát triển toàn diện của địa phương. Vì vậy, khi đưa ra các quyết định đó phải đảm bảo tính dân chủ và tính khả thi trên thực tế, tránh tình trạng mọi vấn đề được quyết định trước, đến kỳ họp HĐND, đại biểu chỉ giơ tay biểu quyết một cách hình thức, không có sự bàn bạc, thảo luận. Thực hiện thảo luận và biểu quyết dân chủ là điều kiện đảm bảo chất lượng đối với các quyết định của Hội đồng. Để thực hiện chức năng quyết định, HĐND thông qua các kỳ họp ra các nghị quyết dựa trên nguyên tắc biểu quyết theo đa số. Để ban hành các nghị quyết quyết định các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, HĐND phải tiến hành các kỳ họp để lấy ý kiến của tập thể đại biểu. Kỳ họp chỉ được coi là hợp lệ khi có ít nhất 2/3 số đại biểu tham dự và các nghị quyết được coi là hợp pháp khi có tối thiểu quá nửa số đại biểu dự họp tham gia biểu quyết (trừ trường hợp bãi nhiệm đại biểu HĐND). Như vậy, để ban hành các nghị quyết, HĐND phải phát huy vai trò trí tuệ tập thể, phải được sự thống nhất ý chí của các đại biểu và phải đạt được sự đồng thuận với ý chí, nguyện vọng của cử tri và nhân dân địa phương. Bởi vậy, để các nghị quyết đạt được tính khả thi cao trong thực tế đòi hỏi các đại biểu phải thực sự có năng lực, có kỹ năng hoạt động tốt. Các đại biểu phải là những người thực sự có đức, có tài, tâm huyết với nhân dân, với sự nghiệp phát triển đi lên của địa phương và đất nước. Người đại biểu HĐND phải là người biết gần dân, biết tôn trọng nhân dân, biết lắng nghe và tiếp thu các ý kiến từ nhân dân. Đồng thời, người đại biểu phải thực sự có khả năng nắm bắt, xử lý thông tin, phải có khả năng đánh giá tình hình phát triển của địa phương. Có như thế, tại các kỳ họp họ mới có thể đưa ra các ý kiến thảo luận thực sự đúng đắn, khoa học, phù hợp sát thực với tình hình thực tiễn của địa phương. Trên cơ sở đó góp phần để HĐND đưa ra các nghị quyết phù hợp với điều kiện địa phương và đạt tính khả thi cao trên thực tế. Chất lượng, hiệu quả của các quyết định do HĐND thể hiện trong các nghị quyết được đánh giá thông qua tính hiệu quả của các nghị quyết đó khi được triển khai thực hiện trên thực tế. Cụ thể là, nghị quyết đó sau khi được ban hành có được triển khai thực hiện hay không, kết quả triển khai thực hiện cao hay thấp, đạt được bao nhiêu phần trăm so với kế hoạch ban đầu, hiệu quả kinh tế như thế nào, việc thực hiện nghị quyết đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân địa phương, góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nước đến đâu… Như vậy, nội dung chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh rất rộng, hình thức thực hiện thông qua các nghị quyết, các tiêu chí để đánh giá chất lượng các quyết định đó chỉ mang tính chung chung. Bởi vậy, trên thực tế ở rất nhiều địa phương, công tác đánh giá chất lượng các quyết định đó đã không được tiến hành hoặc chỉ tiến hành một cách hình thức, không đưa ra được các kết luận cụ thể để rút ra các kinh nghiệm khi đưa ra các quyết định mới. Thậm chí, một số nghị quyết đang trong quá trình triển khai đã bộc lộ tính kém hiệu quả, thậm chí thất bại ngay khi chưa triển khai xong. Nhưng do không có sự đánh giá khách quan cần thiết nên vẫn cứ tiến hành theo kế hoạch dẫn đến hậu quả không đáng có. Một số các dự án, công trình sau khi được HĐND tỉnh ra nghị quyết quyết định triển khai đã để lại hậu quả kinh tế, xã hội nặng nề cho địa phương, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền và cán bộ công chức nhà nước. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải làm thế nào để HĐND tỉnh thực hiện tốt chức năng quyết định, góp phần giải quyết tốt các vấn đề đặt ra đối với từng địa phương, nâng cao đời sống cho nhân dân, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.1.2.2. Chức năng giám sát Đoạn 3 Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: HĐND thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của thường trực HĐND, UBND,TAND,VKSND cùng cấp; giám sát việc thực hiện nghị quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương [31, tr.10]. Qua quá trình phát triển, vai trò, chức năng giám sát của HĐND ngày càng được hoàn thiện. Đặc biệt, với sự ra đời của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã đánh dấu một bước phát triển mới về chức năng giám sát của HĐND cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn, nâng cao được vị thế và vai trò của HĐND hiện nay. Chức năng giám sát của HĐND bao giờ cũng gắn liền với chức năng quyết định những vấn dề cơ bản về kinh tế, xã hội của HĐND. Thực hiện tốt chức năng này không những cho phép HĐND kiểm tra, đánh giá hoạt động của các cơ nhà nước trong việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, các nghị quyết của HĐND mà còn cho phép HĐND phát hiện được sự không phù hợp, thiếu thực tế của các nghị quyết do HĐND ban hành để sửa đổi, bổ sung. Kết quả giám sát sẽ là căn cứ để HĐND thực hiện quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức vụ chủ chốt (Chủ tịch, Phó Chủ tich HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên của UBND, Trưởng ban và các thành viên các ban của HĐND) hoặc sẽ là căn cứ để HĐND bãi bỏ những quyết định sai trái của UBND cùng cấp và những Nghị quyết sai trái của HĐND cấp dưới trực tiếp. Như vậy, Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, vị trí, vai trò và chức năng của HĐND rất lớn. Vấn đề đặt ra hiện nay chúng ta phải làm thế nào để HĐND thể hiện và phát huy tốt vị trí, vai trò và chức năng của Hội đồng trên thực tế; đảm bảo sự phối hợp, hợp tác với nhau giữa các cơ quan nhà nước ở địa phương nhằm đưa lại cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc cho người dân [27, tr.141 - 143]. Để đáp ứng được yêu cầu trên, cần phải đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND, trong đó đặc biệt phải chú ý đến chất lượng các nghị quyết do HĐND ban hành quyết định những vấn đề cơ bản, quan trọng của địa phương, đảm bảo để HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Do yêu cầu của luận văn đặt ra, vấn đề năng lực của Đại biểu HĐND trong tham gia thực hiện chức năng quyết định cần được nghiên cứu sâu cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Trên cơ sở đó, chúng ta có những căn cứ để đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong thực hiện chức năng của HĐND nói chung và thực hiện chức năng quyết định ở Hà Tĩnh nói riêng trong điều kiện chúng ta đang tiến hành đổi mới đất nước hiện nay. 1.1.3. Vị trí, vai trò của Đại biểu Hội đồng nhân dân trong thực hiện chức năng quyết định Theo quy định tại Điều 121 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi: Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương, phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của HĐND, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri, xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Đại biểu HĐND có nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện pháp luật, chính sách của nhà nước, nghị quyết của HĐND, động viên nhân dân tham gia quản lý nhà n._.ước [25, tr.68]. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, Điều 36 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: “Đại biểu HĐND là người đại diện ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật và tham gia vào việc quản lý nhà nước”[31, tr.32]. Từ những quy định trên chúng ta có thể phân tích khái niệm Đại biểu HĐND với những nội dung cơ bản sau: - Đại biểu HĐND trước hết được hiểu là người đại diện cho các cộng đồng dân cư trên phạm vi địa giới hành chính. Người đại biểu HĐND với tư cách đại diện, họ có thể là đại biểu của tổ chức phụ nữ, thanh niên, tổ chức nông dân, tổ chức tôn giáo, dân tộc ít người… - Đại biểu HĐND thay mặt cho cử tri của mình ghi nhận, phản ánh ý chí, nguyện vọng của cử tri. Bằng hoạt động của mình trong cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đại biểu HĐND biến ý chí và nguyện vọng của cử tri thành các quyết định mang tính pháp lý của nhà nước. Những nghị quyết được HĐND ban hành sẽ được các cơ quan quản lý hành chính nhà nước tổ chức thực hiện. - Đại biểu HĐND về thực chất là người thực hiện quyền lực nhân dân theo phương thức thay mặt đại cử tri trên phạm vi lãnh thổ. Bản thân quyền lực của người đại biểu HĐND có được là do nhân dân trao cho. Đại biểu HĐND được hình thành theo nguyên tắc bầu cử trực tiếp của cử tri. Qua đó, khẳng định đại biểu HĐND là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, là một bộ phận cấu thành không thể tách rời với quyền lực nhà nước thống nhất trong phạm vi cả nước. Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, họ vừa chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương, vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên về mọi mặt kinh tế - xã hội, đảm bảo thực hiện Hiến pháp, Luật và các quyết định của các cơ quan nhà nước. Như vậy, đại biểu HĐND cấp tỉnh trong hoạt động của mình là thay mặt nhân dân toàn tỉnh thực hiện quyền lực nhà nước, quyết định các vấn đề quan trọng để phát huy các tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, biến ý chí, quyền lực của nhân dân trên địa bàn trở thành quyền lực nhà nước, thể hiện bằng các quyết định của nhà nước. Đồng thời, đại biểu HĐND tỉnh thực hiện quyền giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của UBND cùng cấp, của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân ở địa phương. Người đại biểu HĐND cấp tỉnh có một số đặc điểm sau: Thứ nhất, đại biểu HĐND cấp tỉnh là người đại diện có thẩm quyền của nhân dân địa phương. Tính đại diện của đại biểu HĐND cấp tỉnh thể hiện ở chỗ: - Được nhân dân địa phương trao quyền thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân trong các quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước. Những yêu cầu về lợi ích và những nguyện vọng chính đáng của nhân dân địa phương là căn cứ xác định nội dung hoạt động của đại biểu HĐND cấp tỉnh. Đại biểu HĐND cấp tỉnh phải phản ánh trung thực và bảo vệ mọi quyền, lợi ích của cử tri nơi bầu ra mình; cần quan tâm đến mọi nguồn thông tin đại chúng để hiểu rõ những gì cử tri đang đòi hỏi, từ đó hình thành chương trình hoạt động của đại biểu. Đại biểu HĐND có quyền thay mặt nhân dân. Đó là quyền thảo luận, quyền quyết định các vấn đề quan trọng của nhân dân trong các kỳ họp HĐND; quyền thay mặt nhân dân khi quan hệ với các cơ quan, tổ chức ở địa phương để yêu cầu giải quyết các vấn đề đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Trong hoạt động của HĐND cấp tỉnh, mỗi đại biểu cần quan tâm trước hết đến lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân địa phương, của cộng đồng xã hội trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội địa phương trong lợi ích chung của dân tộc, đất nước. - Được đại diện nhân dân trong cơ quan quyền lực nhà nước, mỗi đại biểu có trách nhiệm trước nhân dân, ở bất cứ thời điểm nào người dân cũng có thể yêu cầu đại biểu HĐND thực hiện nghĩa vụ đối với nhân dân. Thứ hai, đại biểu HĐND cấp tỉnh là người trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước của HĐND cấp tỉnh. Tính quyền lực nhà nước ở địa phương của HĐND cấp tỉnh chính là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của từng đại biểu HĐND, được thể hiện ở hai khía cạnh sau: + Đại biểu đHHhHĐND cấp tỉnh là thành viên của HĐND tham gia thực hiện quyền lực nhà nước trong HĐND tỉnh. Đại biểu là người tham gia quyết định những vấn đề quan trọng nhất của địa phương trong phạm vi thẩm quyền của HĐND, thực hiện quyền giám sát của HĐND thông qua việc chất vấn và việc báo cáo của các cơ quan nhà nước trước HĐND, đồng thời cũng là người đi đầu trong việc đưa các nghị quyết của HĐND vào cuộc sống. Điều đó được bảo đảm thông qua việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của đại biểu HĐND trên thực tế. + Đại biểu HĐND cấp tỉnh là người đại diện cho quyền lực nhà nước trong quan hệ với các cơ quan nhà nước và với cán bộ các cơ quan nhà nước đó, với các tổ chức xã hội và nhân dân. Đại biểu có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước về việc thi hành pháp luật, về những vấn đề thuộc lợi ích chung, các cơ quan nhà nước nhận được kiến nghị có nghĩa vụ trả lời đại biểu. Đại biểu HĐND có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội kịp thời chấm dứt việc làm trái pháp luật. Các cơ quan khi được đại biểu HĐND cấp tỉnh yêu cầu gặp thì phải tổ chức tiếp đại biểu theo đúng quy định. Thứ ba, hoạt động của đại biểu HĐND cấp tỉnh không tách rời với hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội trong quản lý nhà nước. Đây là hoạt động tất yếu trong chức trách của đại biểu HĐND. Bởi vì, chế độ đại biểu của nhà nước Việt Nam là không làm cho các đại biểu trở thành các nghị sỹ trong chế độ đại nghị. Đồng thời để đại biểu hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, pháp luật còn quy định những điều kiện cần thiết, tạo khả năng thiết thực cho đại biểu thực hiện đầy đủ tính đại diện nhân dân, thực thi quyền lực nhà nước trong hoạt động của HĐND trong phạm vi địa phương. Cụ thể: - Đại biểu HĐND là người đại diện của nhân dân, được cử tri trao quyền từ quyền lực nhân dân tập hợp thành cơ quan nhà nước ở địa phương. - Đại biểu HĐND là thành viên của tập thể HĐND tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương trong phạm vi thẩm quyền của HĐND. Đại biểu HĐND là người đại diện cho quyền lực nhà nước trong quan hệ với các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân. Đại biểu HĐND cấp tỉnh có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau: Một là, quyền và nghĩa vụ trong thẩm quyền hoạt động của HĐND và trong cơ cấu tổ chức của HĐND, gồm có: + Tham gia đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của HĐND. + Quyền bầu cử và ứng cử trong các cơ quan của HĐND; + Quyền đề nghị vào chương trình nghị sự của kỳ họp những vấn đề mà đại biểu HĐND xét thấy cần thiết để HĐND xem xét và quyết định. ý kiến của đại biểu phải được ghi vào biên bản của kỳ họp; + Quyền chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các thành viên của UBND và thủ trưởng các cơ quan chuyên môn khác thuộc UBND cùng cấp. Người bị chất vấn phải có nghĩa vụ trả lời những vấn đề mà đại biểu HĐND chất vấn theo thủ tục pháp luật quy định; + Quyền được bầu vào các cơ quan, tổ chức của HĐND, như: Thường trực HĐND, các ban của HĐND. Theo đó, đại biểu HĐND phải thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo Quy chế Tổ chức và hoạt động do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Hai là, quyền và nghĩa vụ của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong mối liên hệ với cử tri ở đơn vị bầu cử: + Liên hệ chặt chẽ với cử tri, tiếp xúc cử tri theo lịch, lấy ý kiến của cử tri về những vấn đề sẽ đưa vào nội dung kỳ họp HĐND; + Báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của HĐND, đồng thời chịu sự giám sát của cử tri về các hoạt động đó; + Tham gia tổ chức thực hiện pháp luật và các quyết định của HĐND và cơ quan nhà nước cấp trên; + Tiếp dân theo lịch được phân công hoặc theo yêu cầu của nhân dân; Khi nhận được kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, đại biểu có trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất ý kiến trực tiếp hoặc thông qua tổ chức, hoạt động của HĐND để giám sát, chất vấn các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết những khiếu kiện, tố cáo đó. Ba là, quyền của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong quan hệ với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các đơn vị đóng trên địa bàn địa phương. + Theo uỷ quyền của HĐND, đại biểu HĐND tỉnh có quyền xem xét hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội…về những vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh; + Quyền yêu cầu được cung cấp tài liệu, được bảo đảm thông tin cần thiết cho hoạt động đại biểu. Các cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo các yêu cầu đó cho đại biểu HĐND; + Quyền kiến nghị các cơ quan tổ chức và công dân chấp hành đúng pháp luật, kiến nghị những biện pháp ngăn chặn vi phạm pháp luật và tiêu cực trong cơ quan, tổ chức. Kiến nghị truy cứu trách nhiệm đối với những cán bộ, công chức nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật; + Quyền giám sát, theo dõi, đôn đốc hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; + Quyền yêu cầu gặp lãnh đạo các cơ quan, tổ chức. Người có thẩm quyền quản lý cơ quan có trách nhiệm phải tiếp và giải quyết yêu cầu đó; + Các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ nhà nước trong phạm vi thẩm quyền có trách nhiệm tạo điều kiện, cung cấp tư liệu, thông tin, địa điểm tiếp xúc cử tri, phương tiện giao thông cho hoạt động của đại biểu HĐND; + Đại biểu HĐND có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể trong hoạt động đại biểu HĐND. Bốn là, quyền của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong tăng cường pháp chế. Bảo đảm pháp chế là đòi hỏi đối với mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức và mọi công dân. Vì vậy, đại biểu vừa phải tiến hành mọi hoạt động của HĐND theo đúng quy định của pháp luật, vừa có nghĩa vụ tham gia phát hiện, đấu tranh phòng chống mọi hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy: + Đại biểu HĐND cấp tỉnh có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước về việc thi hành chính sách, pháp luật và những vấn đề thuộc lợi ích chung của cộng đồng dân cư địa phương; + Đại biểu HDND có quyền yêu cầu các tổ chức, cơ quan nhà nước chấm dứt những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật hoặc xâm phạm đến quyền lợi của nhân dân; + Đại biểu HĐND có quyền giám sát, kiến nghị các cơ quan tư pháp trong việc thi hành các quyết định, bản án hình sự, dân sự, kinh tế…ở địa phương theo đúng thủ tục tố tụng tư pháp. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết đại biểu HĐND có quyền từ chức, có quyền đề nghị HĐND xem xét yêu cầu thôi hoạt động HĐND của mình theo quy định của pháp luật. Khi đại biểu HĐND vi phạm quy chế hoạt động của HĐND hoặc vi phạm pháp luật thì tuỳ theo mức độ vi phạm, đại biểu HĐND sẽ bị bãi nhiệm, miễn nhiệm và bị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong thực hiện chức năng quyết định, đại biểu HĐND cấp tỉnh đóng một vai trò hết sức quan trọng. Hoạt động quyết định của HĐND chính là hoạt động quyết định của chính các đại biểu. Bởi vì mỗi đại biểu là đại diện cho một khu vực dân cư, tổ chức đoàn thể hay một thành phần dân tộc, tôn giáo hoặc một tổ chức nghề nghiệp… Từng đại biểu đều có quyền và nghĩa vụ chuyển tải đầy đủ yêu cầu, kiến nghị của chính tổ chức, giới, thành phần do mình đại diện vào chương trình hành động của HĐND tỉnh. Trên cơ sở đó HĐND xem xét, phân tích, đánh giá đưa ra những nội dung cần thiết trở thành nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước địa phương, nghị quyết này sẽ đựơc UBND cùng cấp tổ chức thực hiện. Như vậy, thông qua người đại biểu HĐND, với vai trò đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương tính chất đại diện đã trở thành tính chất quyền lựcHHHH theo nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. ý kiến biểu quyết của mỗi đại biểu HĐND tỉnh chính là ý kiến đại cử tri do họ đại diện, những ý kiến ấy sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp và là nền tảng của sự đoàn kết, gắn bó giữa nhà nước và nhân dân. Như vậy, đại biểu HĐND cấp tỉnh là một bộ phận cấu thành trong đội ngũ cán bộ chủ chốt của chính quyền địa phương, và là yếu tố nền tảng không thể thiếu trong tổ chức bộ máy nhà nước ta. Căn cứ vào địa vị pháp lý của đại biểu HĐND tỉnh theo quy định của pháp luật hiện hành, đại biểu là tế bào cấu thành cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, tế bào có khoẻ mạnh thì thân thể mới cường tráng. Hồ Chủ tịch đã từng dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc…” và “ Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [37, tr.351]. Theo quy định của pháp luật hiện hành, người đại biểu HĐND phải đáp ứng được các tiêu chuẩn: trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có trình độ hiểu biết và năng lực thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu, tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương; có phẩm chất và đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành pháp luật; được nhân dân tín nhiệm. Các tiêu chuẩn này vừa có ý nghĩa hướng dẫn nhân dân lựa chọn chính xác các đại biểu, vừa tạo tiền đề đảm bảo hiệu quả hoạt động của các đại biểu. Kể từ khi nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn coi trọng vị trí của HĐND cấp tỉnh là nền tảng cấu trúc chiến lược trong xây dựng hệ thống chính trị. Vì vậy, vai trò của đại biểu HĐND tỉnh luôn được đổi mới theo hướng hoàn thiện và nâng cao vị thế thực quyền của cơ quan quyền lực nhà nước địa phương. Trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước hiện nay, đại biểu HĐND cấp tỉnh đã và đang phát huy vai trò của mình trong thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước ở từng địa bàn dân cư. Điều đó cho thấy đã có sự lớn mạnh và biến đổi sâu sắc về số lượng và nâng lên về chất lượng, cả về phẩm chất, năng lực, nhận thức của người đại biểu theo yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng. Chính vì vậy, sự hiện diện của đại biểu HĐND tỉnh trong bộ máy nhà nước là một yêu cầu khách quan không thể thiếu. Đó là một bộ phận cấu thành quyền lực nhà nước, quyền lực nhân dân để đảm bảo thực thi có hiệu lực, hiệu quả và phù hợp mọi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Tính thực quyền thể hiện vai trò của đại biểu HĐND cấp tỉnh. Có thể thấy, vai trò của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong mọi hoạt động nói chung và trong thực hiện chức năng quyết định nói riêng luôn được phát huy trong mọi thời điểm lịch sử. Trong hoạt động của mình gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng, đại biểu HĐND luôn khẳng định được vị trí quan trọng của mình. Đại biểu HĐND tỉnh luôn có quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến đời sống nhân dân, đảm bảo mọi quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Đây chính là nền tảng góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Theo quy định tại Điều 8 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh cũng như HĐND các cấp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó yếu tố năng lực hoạt động của đại biểu đóng vai trò quan trọng. Trong điều kiện hiện nay, do đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như quá trình hội nhập quốc tế của đất nước, yêu cầu đặt ra đối với người đại biểu HĐND ngày càng cao. Người đại biểu HĐND trong thời đại mới cần phải đáp ứng được đầy đủ các tiêu chuẩn nhất định mới có thể hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ nhân dân giao phó. Để có thể thực hiện tốt vai trò người đại biểu nhân dân, đại biểu HĐND cần phải có năng lực thực sự. Đặc biệt trong tham gia thực hiện chức năng quyết định các vấn đề cơ bản, quan trọng của địa phương đòi hỏi người đại biểu phải có sự hiểu biết sâu rộng về mọi lĩnh vực của địa phương. Có như vậy các nghị quyết của HĐND đưa ra mới thực sự có tính khả thi, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, phù hợp với các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và phù hợp với tiến trình phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên theo báo cáo chính thức của các cơ quan có thẩm quyền, hoạt động của đại biểu HĐND vẫn còn nhiều yếu kém, hạn chế. Điều này do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó nguyên nhân cơ bản vẫn là do năng lực của một số đại biểu còn hạn chế. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất lượng đại biểu, đảm bảo để họ thực sự có năng lực, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện mới. 1.2. Khái niệm, các yếu tố cấu thành năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân trong thực hiện chức năng quyết định 1.2.1. Khái niệm năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân trong thực hiện chức năng quyết định Để đưa ra được khái niệm năng lực của đại biểu HĐND trong thực hiện chức năng quyết định, truớc hết chúng ta phải làm rõ khái niệm năng lực. Theo từ điển Tiếng Việt và từ điển triết học, năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Theo A.G.Côvaliốp, nhà tâm lý học người Nga thì “Năng lực là một tập hợp hoặc tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những nhu cầu của hoạt động và bảo đảm cho hoạt động đó có kết quả cao” [4, tr.90]. Nói đến năng lực là nói đến khả năng đạt được kết quả trong hoạt động nào đó. Muốn hoạt động có kết quả thì cá nhân phải có những phẩm chất tâm lý nhất định phù hợp với yêu cầu của hoạt động đó. Nếu những thuộc tính tâm lý không phù hợp với yêu cầu của hoạt động thì coi như không có năng lực. Năng lực không phải là những thuộc tính cá nhân riêng lẻ mà là một tổ hợp các thuộc tính cá nhân đáp ứng yêu cầu cao của hoạt động. Tổ hợp không có nghĩa là các thuộc tính đó tồn tại song song mà chúng có quan hệ và tác động lẫn nhau, thống nhất với nhau theo yêu cầu nhất định. Năng lực vừa là cái “tự nhiên” có sẵn, vừa là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện, hoạt động thực tiễn của con người. C.Mác cho rằng: “Đến chủ nghĩa cộng sản con người làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”. Đó chính là lúc con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Năng lực con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có” [36, tr.40].V.M.Bechtêrep cho rằng, bất kỳ sự sáng tạo nào cũng cần có mức độ tài năng nhất định, cần có sự giáo dục thích hợp. Có thể nói rằng, năng lực không phải là tư chất bẩm sinh thuần tuý vốn có của con người, tự động đảm bảo cho con người đạt kết quả trong hoạt động nào đó mà nó là kết quả của sự phối hợp những tư chất bẩm sinh vốn có với sự rèn luyện, tu dưỡng, học tập thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Người cán bộ nói chung và người đại biểu HĐND nói riêng cũng phải có năng lực nhất định mới có thể hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong đó năng lực tư duy lý luận và năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn là hai nhân tố quan trọng nhất tạo nên tài năng của mỗi người. Hai yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời nhau, cái này hỗ trợ cái kia phát triển. Không có năng lực tư duy lý luận thì không thể nào có khả năng khái quát, sáng tạo và vận dụng đúng đắn, linh hoạt. Trái lại, chỉ có năng lực tư duy lý luận mà không có năng lực tổ chức thực tiễn thì năng lực tư duy lý luận dần dần bị xơ cứng, giáo điều, thoát ly thực tiễn, thoát ly cuộc sống, dễ rơi vào chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí. Là người đại biểu HĐND luôn gần gũi với nhân dân địa phương đã bầu ra mình để lắng nghe và truyền tải ý chí, nguyện vọng của cử tri đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền, biến ý chí của nhân dân địa phương thành các quyết định quản lý nhà nước, đại biểu HĐND tỉnh phải là người có năng lực toàn diện trên tất cả các lĩnh vực mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Bởi vậy, ngoài các yếu tố trên, người đại biểu HĐND còn cần phải có tính sáng tạo, tính quyết đoán, khả năng làm việc độc lập cũng như khả năng làm việc tập thể cao. Từ sự phân tích trên đây chúng ta có thể hiểu, năng lực của đại biểu HĐND trong thực hiện chức năng quyết định là một tổ hợp các khả năng của người đại biểu giúp cho họ đạt được kết quả cao nhất khi tham gia thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ người đại biểu HĐND. 1.2.2. Các yếu tố cấu thành năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong thực hiện chức năng quyết định Năng lực của đại biểu HĐND tỉnh trong thực hiện chức năng quyết định là năng lực toàn diện bao gồm nhiều yếu tố đan xen, gắn kết, xâm nhập vào nhau, bởi vậy việc phân biệt chúng cũng chỉ mang tính tương đối. Chúng ta có thể phân thành các yếu tố cơ bản sau: - Năng lực tư duy lý luận: Là tổng thể các phẩm chất trí tuệ của người đại biểu có thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh nhạy, đúng đắn về những vấn đề thực tiễn ở cấp độ lý luận, giúp cho người đại biểu HĐND có những đề xuất sắc bén, khả năng vận dụng sáng tạo, linh hoạt, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND. Nó được biểu hiện cụ thể như sau: Một là, khả năng xác lập tri thức. Đó là khả năng tiếp thu lý luận, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước một cách đúng đắn; khả năng phát hiện những mâu thuẫn, những vấn đề mới; khả năng tổng kết thực tiễn; khả năng vận dụng sáng tạo lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách để xây dựng chương trình, kế hoạch công tác, kế sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với thực tiễn địa phương. Hai là, năng lực xác lập quan hệ giữa các tri thức. Đó là khả năng liên kết tri thức ở các lĩnh vực, các ngành nghề chuyên môn đa dạng, phong phú thành một tổng thể ở mức độ khái quát cao. Đồng thời cũng phân định được tính đặc thù giữa các loại tri thức, thông tin để khi vận dụng vào thực tiễn vừa phải đảm bảo tính hệ thống, chỉnh thể ở tầm quốc gia, vừa phải đảm bảo tính đặc thù phù hợp với địa phương. Ba là, năng lực hiện thực hoá tri thức. Đó là khả năng biến những tri thức đã lĩnh hội được thành các chủ trương, kế hoạch hành động làm biến đổi hiện thực trực tiếp. Nó biểu hiện ở khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn, liên hệ lý luận với thực tiễn; vận dụng cái chung một cách đúng đắn vào từng tình huống cụ thể. Đó cũng là khả năng tổng hợp để có cái nhìn hệ thống, nắm được cái chủ yếu, cái bản chất của sự vật, hiện tượng trong sự vận động của chúng, trên cơ sở đó đưa ra quyết định đúng đắn, sát hợp với thực tế địa phương. Như vậy, năng lực tư duy lý luận của người đại biểu HĐND có giá trị định hướng đúng đắn hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của họ. Chất liệu trực tiếp tạo nên năng lực đó là những tri thức lý luận tiếp thu từ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ kho tàng tri thức của nhân loại, từ đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và từ sự trải nghiệm trong phong trào cách mạng sâu rộng của địa phương. - Năng lực tổ chức thực tiễn (năng lực hành động hoặc năng lực hướng tới hành động): Là khả năng hình thành một cơ cấu chỉnh thể như một bộ máy với những bộ phận có chức năng ổn định hay những con người cụ thể có nhiệm vụ xác định, hoạt động có trật tự, có nề nếp, nhịp nhàng cân đối, có hiệu lực, hiệu quả nhằm hiện thực hoá mục tiêu đề ra. Năng lực tổ chức thực tiễn của người đại biểu HĐND được biểu hiện cụ thể như sau: Một là, khả năng thu nhận và xử lý thông tin liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội (chính trị, kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng…) ở địa phương một cách nhanh chóng và có hiệu quả cụ thể, thiết thực. Thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp xúc với nhân dân địa phương cũng như hoạt động hàng ngày của mình, người đại biểu HĐND phải nắm bắt thấu đáo những nguyện vọng của nhân dân, phải biết được những gì nhân dân đang quan tâm, đang cần được giải quyết. Đại biểu HĐND là người trực tiếp gần dân nhất do vậy họ phải nắm chắc tình hình ở cơ sở, ở địa phương để chuyển tải các vấn đề đó đến HĐND xem xét, giải quyết. Do vậy để thu thập và xử lý thông tin đầy đủ, một mặt người đại biểu HĐND phải bám sát thực tế, đối thoại dân chủ với nhân dân, gần dân, tin dân; mặt khác, cần xây dựng phong cách làm việc khoa học. Xét cho cùng, những quyết định và giải pháp mà người đại biểu HĐND đưa ra đều phải xuất phát từ thực tiễn, bởi vậy họ cần phải có được luợng thông tin chính xác và phong phú để có các quyết định đúng đắn, kịp thời trong hoạt động của mình. Sau khi có thông tin, họ phải có khả năng tổng hợp, khái quát, đánh giá, phân tích để đề ra những biện pháp hành động đúng đắn. Kết quả nắm bắt và xử lý thông tin kịp thời, chính xác, khách quan quyết định chất lượng hoạt động của đại biểu HĐND nói riêng và của cả HĐND nói chung. Hai là, có khả năng tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương. Sau khi nắm bắt thông tin từ cử tri, từ nhân dân địa phương, nắm bắt được tình tình kinh tế, chính trị, xã hội… của địa phương, người đại biểu HĐND phải trực tiếp tham gia quyết định các vấn đề về phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Các quyết định do HĐND đưa ra có tính khả thi cao trong thực tế hay không phụ thuộc vào khả năng đánh giá tình hình địa phương và khả năng đưa ra các quyết định mang tính chất quyết đoán nhưng khách quan, khoa học của từng đại biểu. Ba là, có khả năng tổ chức thực hiện các quyết định, bố trí và phối hợp với các lực lượng ở cơ sở; khả năng lôi cuốn, thu hút, thúc đẩy cán bộ và nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, các nghị quyết của HĐND cũng như nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra. Đó là khả năng xử lý nhanh nhạy, chính xác những nhiệm vụ cơ bản trọng tâm trước mắt và lâu dài, biết cách thay đổi nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với sự biến đổi của tình hình. Đó chính là khả năng phối hợp hoạt động của người đại biểu HĐND với những chủ thể khác nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp. Bốn là, có khả năng kiểm tra việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và các nghị quyết của HĐND để phát hiện kịp thời những vấn đề mới nảy sinh để giải quyết, tìm ra những lệch lạc, sai sót để góp ý sửa chữa, hoàn chỉnh các quyết định của HĐND, đảm bảo để các quyết định của HĐND đưa ra được chính xác, có tính khả thi cao trong thực tế. Năng lực đó còn thể hiện ở khả năng đánh giá hiệu quả việc thực hiện các quyết định và khả năng đúc rút kinh nghiệm thực tiễn kịp thời, khả năng vận dụng những bài học kinh nghiệm thực tiễn có giá trị vào cuộc sống. Thực tế cho thấy, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn không chỉ có giá trị trong việc đưa ra các quyết định chính xác mà còn giúp tìm ra những hình thức, biện pháp, cách thức thực hiện các quyết định một cách hiệu quả nhất. Năm là, năng lực sáng tạo, tính quyết đoán: - Năng lực sáng tạo là khả năng tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần, đặc biệt là tìm ra được con đường mới trong những tình huống luôn luôn biến đổi ở địa phương mà không gò bó, không phụ thuộc vào cái đã có. Nó là quá trình suy lý, lập luận chân thực, biết tìm ra cái mới, cái chưa biết từ cái đã biết thông qua phán đoán, suy luận, diễn dịch, quy nạp, so sánh…Đó cũng là khả năng phân loại và hệ thống hoá vấn đề, xác định bản chất vấn đề. Năng lực đó rất cần thiết trong hoạt động của người đại biểu HĐND đặc biệt khi tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương. Đó chính là khả năng tìm ra cái mới, phát hiện ra những cách làm mới, khơi dậy nguồn lực sẵn có để tập trung phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. - Tính quyết đoán là khả năng phán đoán một cách quả quyết, có những quyết định nhanh chóng và dứt khoát, không do dự, không rụt rè, không đùn đẩy, thoái thác trách nhiệm. Tính quyết đoán khác hẳn với bệnh hách dịch, cửa quyền, liều lĩnh, phiêu lưu. Nó là sản phẩm của tính kiên quyết, tính chủ động, sự thận trọng và niềm tin khoa học. Nó biểu hiện ở những khả năng sau: Thứ nhất là khả năng phán đoán chính xác tình hình, đưa ra các quyết định kịp thời, quyết định đó có được do sự nhạy cảm của năng lực trực giác, khả năng đoán định trên cơ sở kiến thức phong phú, khả năng phân tích, tổng hợp… Thứ hai là khả năng ra quyết định một cách dứt khoát và giám chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Để có được khả năng này, người đại biểu HĐND phải nhận biết trước được sự vận động của thực tiễn, biết lắng nghe và am hiểu công việc mình đảm trách. Ngoài các yếu tố cơ bản nêu trên, người đại biểu HĐND còn phải có năng lực làm việc với con người, với tập thể và khả năng làm việc độc lập. Hoạt động của người đại biểu HĐND luôn luôn phải tiếp xúc với nhiều người bằng nhiều phương thức khác nhau. Bởi vậy, khả năng giao tiếp không chỉ là thành tố của năng lực đại biểu mà còn như một “nghệ thuật” để nâng cao hiệu quả hoạt động của người đại biểu. Phần lớn thời gian làm việc của đại biểu HĐND là hoạt động giao tiếp (đối thoại) như: hội họp, tiếp xúc với cử tri, với nhân dân, tiếp xúc với các phương tiện thông tin đại chúng…Chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của họ phụ thuộc nhiều vào khả năng giao tiếp này. Qua giao tiếp mà các mối quan hệ xã hội cũng như năng lực, phong cách công tác của họ được hình thành, hoàn thiện, kỹ năng, kỹ xảo được bộc lộ. Nhờ nghệ thuật giao tiếp mà người đại biểu HĐND có thể nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của cử tri, của nhân dân và chuyển tải tâm tư, nguyện vọng đó đến các cuộc họp của HĐND, biến các vấn đề đó trở thành quyền lực nhà nước. Người đại biểu HĐND còn phải có khả năng đoàn kết, phát huy sức mạnh của toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương. Năng lực giao tiếp phát triển mãi, C.Mác nói: “Sự phát triển của mỗi cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp” [33, tr.62]. Năng lực làm việc với con người, với tập thể còn là năng lực xây dựng các mối quan hệ, năng lực thu hút mọi người tham gia vào công việc chung. Chẳng hạn, biết đặt mình vào vị trí người khác, biết khêu gợi tính tích cực của đồng sự, của nhân dân, biết vì lợi ích chung, thương người, có thái độ điềm tĩnh, cư xử nhã nhặn, lịch sự, tế nhị, khiêm tốn với nhân dân, tôn trọng nhân dân, hiểu rõ tâm tư, tình cảm của họ, thông cảm với họ, biết nghe dân nói, biết nói cho dân nghe, biết phê bình và tự phê bình, biết khuyến khích cái hay, cái tốt của người khác, biết tôn trọng ý kiến, phát huy sáng kiến của nhân dân. Năng lực đó biểu hiện rõ trong quá trình phân tích, đánh giá tình hình, trong tranh luận, thảo luận, lựa chọn phương án tối ưu, trong việc đề ra và thông qua các nghị quyết, chương trình, kế hoạch, trong tổ chức thực hiện, kiểm tra, thuyết phục, đặc biệt trong công tác vận động quần chúng. Ngoài năng lực giao tiếp, làm việc với tập thể, người đại biểu HĐND còn phải có khả năng làm vi._.iện cần thiết để người đại biểu có thể sắp xếp thời gian công tác một cách khoa học và tham gia hoạt động đại biểu đạt chất lượng cao nhất. Hoạt đông bồi dưỡng nâng cao kỹ năng hoạt động cho đại biểu cần chú ý vào những vấn đề cơ bản sau: Nâng cao kỹ năng về xây dựng chương trình hoạt động cụ thể của đại biểu. Chương trình hoạt động của các đại biểu được xây dựng theo thời gian sáu tháng, một năm, cả nhiệm kỳ. Dựa trên chương trình hoạt động của HĐND tỉnh, chương trình hoạt động của mỗi đại biểu cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động chuyên môn tại đơn vị công tác với hoạt động của đại biểu HĐND và phải được xây dựng một cách chi tiết. Nội dung chương trình hoạt động của mỗi đại biểu phải gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của đại biểu trước cử tri và nhân dân địa phương. Chương trình hoạt động càng cụ thể, chi tiết bao nhiêu thì hiệu quả hoạt động của đại biểu càng đạt hiệu quả cao và thiết thực bấy nhiêu. Về kỹ năng tiếp xúc cử tri: Mỗi đại biểu đều có nhiệm vụ tiếp xúc cử tri trước và sau mỗi kỳ họp, gồm nhiệm vụ tiếp xúc chính thức và tiếp xúc không chính thức. Cần làm cho các đại biểu có được kỹ năng nắm bắt, khai thác triệt để các thông tin về mọi mặt ở địa phương do cử tri cung cấp, đồng thời có khả năng phân tích, tổng hợp, xử lý các thông tin, từ đó trình bày trước HĐND về các vấn đề bức xúc ở địa phương. Mặt khác, cũng cần bồi dưỡng cho đại biểu kỹ năng trình bày trước cử tri về những vấn đề đặt ra trong kỳ họp của HĐND, để cử tri hiểu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu khi thực hiện các nghị quyết của HĐND về các chủ trương, biện pháp xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Có như vậy người đại biểu mới có khả năng phối hợp tốt với nhân dân thực hiện thành công các nhiệm vụ HĐND đã đề ra trong nghị quyết. Về kỹ năng chất vấn: đây là một hình thức hoạt động giám sát của đại biểu HĐND nhằm góp phần hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước địa phương.HĐND đHHhhhhhh Hiệu quả của hoạt động giám sát cũng góp phần bổ trợ cho việc thực hiện chức năng quyết định đạt hiệu quả cao hơn trong thực tế. Để hoạt động chất vấn của đại biểu đạt hiệu quả, cần phải làm cho đại biểu hiểu rõ mục đích, yêu cầu của chất vấn; đại biểu phải hiểu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các đối tượng nằm trong diện bị chất vấn của HĐND. Trong thực hiện chất vấn, đại biểu phải có khả năng chuẩn bị các câu hỏi cần thiết, rõ ràng, nêu các vấn đề cụ thể và phải định được mục đích cuối cùng là xác định trách nhiệm của người bị chất vấn. Để đạt mục tiêu chất vấn, công tác bồi dưỡng phải làm cho các đại biểu có được kỹ năng thu thập, phân tích, xử lý các thông tin có liên quan đến vấn đề đặt ra; kỹ năng đặt các câu hỏi trúng và đúng. Về kỹ năng tiếp xúc với các phương tiện thông tin đại chúng: Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng là một trong những công cụ quan trọng để người đại biểu HĐND có thể tiếp xúc nhanh nhất, rộng nhất với tất cả cử tri. Đại biểu có thể thông qua nhiều phương tiện thông tin với nhiều hình thức khác nhau như: viết báo, phát biểu, trả lời phỏng vấn…để truyền tải những vấn đề quan trọng liên quan đến hoạt động của HĐND. Dù thông qua loại phương tiện thông tin nào với hình thức cụ thể nào, khi tiếp xúc với phương tiện thông tin đại chúng, người đại biểu cũng cần phải có sự chuẩn bị một cách kỹ càng, chu đáo, có kế hoạch, có mục đích; phải trình bày một cách dễ nghe, dễ hiểu và điều quan trọng nhất là phải thu hút được sự quan tâm của đông đảo nhân dân. Tuỳ theo yêu cầu của từng loại công việc mà người đại biểu phải biết lựa chọn loại phương tiện thông tin và hình thức truyền tải phù hợp nhất. Nói tóm lại, công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực và kỹ hoạt động của đại biểu HĐND có vai trò hết sức quan trọng nhằm phát huy hiệu quả hoạt động của HĐND, do đó công tác này cần được tiến hành kịp thời với nội dung, chương trình sát thực. 3.3.4. Nâng cao chất lượng các kỳ họp Hội đồng nhân dân Nâng cao chất lượng các kỳ họp HĐND chính là nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan này. Bởi vì kỳ họp là hoạt động chủ yếu của HĐND và là phương thức cơ bản để các đại biểu thể hiện được vai trò là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, là môi trường thể hiện rõ nhất năng lực hoạt động của người đại biểu. Trong các kỳ họp HĐND tỉnh hiện nay cần khắc phục một số hạn chế nhất định. Đó là, các nghị quyết của HĐND được xây dựng thường không phải bởi trí tuệ của chính các đại biểu mà chủ yếu là sự hợp thức hoá các quyết định của cấp uỷ và của UBND, bởi vì số kỳ họp của HĐND rất ít (mỗi năm thường có 2 kỳ), thời gian dành cho các kỳ họp lại ngắn (thường chỉ 2 - 3 ngày), trong khi đó việc “chuẩn bị nội dung để thảo luận và quyết định tại kỳ họp còn những hạn chế…Tài liệu gửi đến đại biểu còn chậm, thời gian để đại biểu nghiên cứu trước rất ít. Khối lượng báo cáo, thuyết trình còn quá nhiều so với thời gian tiến hành kỳ họp, nhất là thời gian thảo luận còn chưa nhiều” [17, tr.129]. Để khắc phục những hạn chế nêu trên nhằm nâng cao chất lượng của các kỳ họp, cần thực hiện tốt các nội dung sau: Trước kỳ họp: Thường trực HĐND tỉnh tiến hành xây dựng chương trình kỳ họp, dự kiến chương trình, nội dung và thời gian tổ chức kỳ họp theo luật định; thống nhất phân công trách nhiệm giữa Thường trực HĐND và UBND, thông báo để các đại biểu và các cấp, các ngành chuẩn bị. UBND tỉnh giao nhiệm vụ cho các ngành chuẩn bị báo cáo, đề án trình kỳ họp và thông qua trước khi in ấn chính thức. Thường trực HĐND tỉnh và các Ban tiến hành thẩm tra, chuẩn bị báo cáo thuyết trình. Các báo cáo trình tại kỳ họp cần được chuẩn bị kỹ càng, chính xác và phải gửi trước cho các đại biểu trong một khoảng thời gian nhất định để họ có đủ điều kiện nghiên cứu trước. Chuẩn bị chương trình, nội dung và thời gian cho kỳ họp là công việc của Thường trực HĐND. Vì vậy, các thành viên của Thường trực mà trước hết là chủ tịch và phó chủ tịch cần phải có sự lựa chọn, cân nhắc mục đích và nội dung từng kỳ họp, lựa chọn các thông tin cần thiết để chuyển trước cho các đại biểu HĐND và các đại biểu cần có ý kiến tham khảo để chủ động tranh thủ ý kiến của nhân dân và chuẩn bị ý kiến cho riêng mình. Khai thác và phát huy tối đa vai trò các ban chuyên môn của HĐND và UBND trong quá trình chuẩn bị, nêu ý kiến phản biện và gợi mở các vấn đề xét thấy cần đưa ra hội nghị thảo luận, quyết định. Những kỳ họp bàn đến những vấn đề mới có liên quan đến những quyết định chuyên ngành như quy hoạch sử dụng đất, các dự án đầu tư…có thể mời các chuyên gia chuyên ngành cùng dự và nghe ý kiến phản biện của các chuyên gia trước khi HĐND thảo luận và quyết định. Công tác tiếp xúc cử tri: Việc tiếp xúc cử tri giúp cho đại biểu trực tiếp tìm hiểu, nắm bắt những tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân để phản ánh với HĐND và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; báo cáo kết quả hoạt động của HĐND cho cử tri biết và giám sát. Trước mỗi kỳ họp, cần tiến hành tiếp xúc cử tri tại các cơ sở, trực tiếp trao đổi, đối thoại và tổng hợp các ý kiến kiến nghị của cử tri ở cơ sở. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rằng, hoạt động tiếp xúc cử tri là trách nhiệm thường xuyên của đại biểu HĐND chứ không phải chỉ là hoạt động trước và sau mỗi kỳ họp. Các cuộc tiếp xúc cử tri phải được tổ chức thường xuyên với những hình thức phù hợp, tạo không khí làm việc dân chủ, cởi mở, tôn trọng nhân dân. Đại biểu HĐND phải thông báo kết quả giải quyết các kiến nghị của cử tri tại các cuộc tiếp xúc cử tri trước đó, có như vậy mới thể hiện vai trò đại diện của đại biểu HĐND. Để làm tốt công tác này, trước khi tổ chức mỗi kỳ họp, Thường trực HĐND tỉnh phải yêu cầu các cơ quan có liên quan báo cáo kết quả giải quyết kiến nghị của cử tri, tổng hợp thành văn bản gửi cho các đại biểu để họ thông báo với cử tri. Trong kỳ họp phải chú ý đến các điều kiện phục vụ tại kỳ họp như trang thiết bị, hội trường…và những công việc cụ thể của kỳ họp như điều hành kỳ họp, ban hành nghị quyết… Về các trang thiết bị phục vụ tại kỳ họp: Hiện nay trang thiết bị phục vụ các kỳ họp nhìn chung không còn phù hợp với yêu cầu. Thời gian dành cho các kỳ họp thường rất ngắn, trong khi đó các đại biểu tham dự kỳ họp lại có nhiều vấn đề cần trao đổi, thảo luận. Nếu sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian, ý kiến tranh luận của đại biểu sẽ nhiều hơn. Và vì vậy, các đại biểu cũng không ngừng phải nâng cao năng lực hoạt động cho phù hợp với điều kiện dự họp mới. Công tác điều hành kỳ họp: Để chủ động điều hành kỳ họp theo đúng chương trình nghị sự, Thường trực HĐND tỉnh phải xây dựng chương trình chi tiết, cụ thể hoá các nội dung, khớp thời gian quy định; đặc biệt cần dành nhiều thời gian để thảo luận, chất vấn và trả lời chất vấn. Quá trình điều hành kỳ họp cần triệt để thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, không né tránh những vấn đề phức tạp khi có các ý kiến trái ngược nhau. Không nên dành quá nhiều thời gian vào việc đọc các báo cáo, đề án một cách hình thức vì đã có văn bản gửi trước cho đại biểu nghiên cứu; nên đổi mới cách trình bày báo cáo, tập trung thời gian để thảo luận tại tổ và tại hội trường. Chủ toạ cần có gợi ý hướng dẫn đại biểu tập trung thảo luận về những vấn đề trọng tâm, đề ra những giải pháp cụ thể, không nên nêu những vấn đề chung chung, không rõ trách nhiệm cơ quan giải quyết. Việc thảo luận tại các kỳ họp có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc vào lượng thông tin cần thiết liên quan đến vấn đề đưa ra thảo luận mà các đại biểu đã nắm bắt được. Số lượng ý kiến thảo luận càng nhiều và đạt chất lượng tốt sẽ quyết định tính khả thi cho các nghị quyết do HĐND ban hành. Bởi vậy, hoạt động thảo luận phải được tiến hành nghiêm túc, dân chủ để phát huy tốt nhất trí tuệ tập thể trong các quyết định quản lý nhà nước. Hoạt động chất vấn tại các kỳ họp là nội dung được cử tri hết sức quan tâm. Chất vấn là một trong những quyền quan trọng nhất của đại biểu HĐND, song trên thực tế các đại biểu thường chưa mạnh dạn sử dụng quyền này. Có nhiều lý do, nhưng về cơ bản là do một số đại biểu do hạn chế về trình độ và thiếu thông tin nên không biết chất vấn cái gì và chất vấn ai; một số đại biểu tuy có trình độ, có khả năng chất vấn nhưng do nể nang, né tránh và ngại va chạm. Bởi vậy, để chất vấn đạt hiệu quả cao, chủ toạ kỳ họp cần phải tạo không khí thẳng thắn, cởi mở và thực sự dân chủ; phải dành thời gian thoả đáng cho trả lời chất vấn; cần điều chỉnh các chất vấn mang tính cá nhân, cục bộ và cách trả lời chất vấn vòng vèo, né tránh hoặc thoái thác trách nhiệm. Hoạt động ban hành nghị quyết: Quy trình xây dựng nghị quyết của HĐND là vấn đề mới được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND có hiệu lực từ ngày 01/4/2005. Hoạt động ban hành nghị quyết của HĐND tỉnh Hà Tĩnh về cơ bản đã thực hiện theo quy trình này. Tuy nhiên, trong thực tế quy trình ban hành nghị quyết của HĐND tỉnh vẫn thường bị vi phạm về thời gian và một số thủ tục, như thiếu các báo cáo khảo sát, báo cáo lấy ý kiến đóng góp hoặc có các báo cáo nhưng đến chậm so với thời gian quy định nên không kịp nghiên cứu. Vì vậy, trong thời gian tới, HĐND tỉnh Hà Tĩnh cần tuân thủ một cách nghiêm túc quy trình ban hành nghị quyết để tranh thủ ý kiến từ các cơ quan chuyên môn, từ nhân dân, từ các đại biểu để các nghị quyết đạt tính khả thi hơn trên thực tế. Sau kỳ họp: Phải làm tốt mọi công tác sau kỳ họp. Đặc biệt là cần tổ chức nghiêm túc các buổi đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch đã đề ra, trên cơ sở đó phát hiện những yếu kém, tồn tại và đưa ra các giải pháp khắc phục thích hợp, kịp thời. Cần chú ý công tác tiếp xúc cử tri thông báo với cử tri và nhân dân về kết quả các kỳ họp để nhân dân có điều kiện giám sát việc thực hiện các nghị quyết mà HĐND đã ban hành. Tổ chức tốt các kỳ họp là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của HĐND cũng như hoạt động của các đại biểu. Vì vậy, thực hiện tốt các nội dung cơ bản trên đây là một yêu cầu khách quan đối với HĐND tỉnh Hà Tĩnh nói riêng cũng như HĐND các cấp trên phạm vi cả nước. 3.3.5. Hoàn thiện chế độ chính sách đãi ngộ đối với đại biểu Hội đồng nhân dân, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và hiện đại hoá trang thiết bị làm việc của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân Về chế độ chính sách đãi ngộ đối với đại biểu HĐND: Theo quy định tại Điều 74 Quy chế hoạt động HĐND: “Kinh phí hoạt động của HĐND là một khoản trong ngân sách địa phương do HĐND quyết định theo đề nghị của Thường trực HĐND và theo quy định của Chính phủ…”. Điều 75 Quy chế này chỉ quy định được phí hoạt động cụ thể của đại biểu, còn các nội dung khác như chế độ cho các chức danh HĐND kiêm nhiệm, kinh phí cho hoạt động giám sát, kinh phí phục vụ tiếp xúc cử tri, kinh phí mua báo chí, cung cấp thông tin, các phương tiện, trang thiết bị…chưa được quy định cụ thể. Theo quy định hiện hành, đại biểu HĐND cấp tỉnh được hưởng các chế độ sau: Được cung cấp báo cáo của Thường trực HĐND, UBND cùng cấp và các tài liệu khác liên quan đến hoạt động của HĐND; được cung cấp các loại báo chí cần thiết; được cấp thẻ bảo hiểm y tế nếu không hưởng lương từ ngân sách nhà nước; được hưởng chế độ mai táng khi qua đời; được giữ nguyên lương và các chế độ phụ cấp nếu có đối với đại biểu là cán bộ, công chức nhà nước; được cấp kinh phí hoạt động theo quyết định của HĐND đối với những đại biểu không hưởng lương từ ngân sách nhà nước; được cấp phí hoạt động hàng tháng với mức phí là 0,5 mức lương tối thiểu. Như vậy có thể thấy, chế độ đãi ngộ đối với đại biểu HĐND cấp tỉnh như hiện nay là rất thấp. Vì vậy, đối với những đại biểu không hưởng lương từ ngân sách nhà nước, với mức phí hoạt động hàng tháng của họ là không tương xứng với nhiệm vụ họ đảm nhiệm. Thậm chí, với quy định mức phí hoạt động như hiện nay, một số đại biểu không thể đảm bảo được cuộc sống hàng ngày khi mà giá cả thị trường đang thường xuyên biến động. Công việc chính hàng ngày của họ là phải làm việc để đảm bảo cuộc sống, còn hoạt động đại biểu chỉ được coi là hoạt động làm thêm. Vấn đề sinh hoạt phí, lương, phụ cấp của đại biểu HĐND là vấn đề vừa đảm bảo quyền lợi của đại biểu đồng thời vừa là vấn đề mang tính chất động viên khuyến khích tinh thần trách nhiệm làm việc của người đại biểu. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu để có các giải pháp thoả đáng hơn đảm bảo quyền lợi cho các đại biểu. Về các điều kiện phục vụ hoạt động của đại biểu HĐND: Các điều kiện phục vụ cho hoạt động của đại biểu có nhiều yếu tố. Tuy nhiên ở đây chỉ nêu ra một số yếu tố quan trọng nhất, cần thiết nhất đó là vấn đề đảm bảo thông tin và văn phòng giúp việc. Về đảm bảo thông tin: Trong thời đại ngày nay, thông tin trở thành một yếu tố quyết định đối với mọi hoạt động trong đó có hoạt động quản lý. Để người đại biểu HĐND thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình cần phải đảm bảo chế độ thông tin hai chiều từ trên xuống và từ dưới lên. Trước hết là thông tin phục vụ hoạt động của Thường trực HĐND để Thường trực thực hiện chức năng điều hoà, phối hợp, kiểm tra, giám sát…Theo quy định của pháp luật, các cơ quan chuyên môn cùng cấp phải báo cáo định kỳ về thực hiện nhiệm vụ cho thường trực HĐND tỉnh, nhưng trên thực tế quy định này chưa được thực hiện tốt. Vì vậy, hoạt động của Thường trực HĐND tỉnh vẫn gặp những khó khăn nhất định. Mặt khác, để các đại biểu có đủ thông tin cập nhật, có khả năng giải thích, quyết đáp những thắc mắc của cử tri, thì ngoài các tài liệu của kỳ họp, Thường trực HĐND tỉnh cần thường xuyên tập hợp, cung cấp thông tin và các văn bản có liên quan để các đại biểu HĐND nghiên cứu. Thực trạng hiện nay cho thấy, việc cung cấp thông tin phục vụ hoạt động của HĐND và đại biểu HĐND về cơ bản vẫn được tiến hành theo những phương pháp thủ công, vì vậy lượng thông tin thường nghèo nàn và đến chậm so với yêu cầu công việc cần giải quyết. Ngày nay khi mà công nghệ thông tin đã phát triển mạnh mẽ, hoạt động của đại biểu HĐND cũng cần phát huy được vai trò của công nghệ thông tin hiện đại. Chẳng hạn nên lập trang Web của HĐND tỉnh trên mạng internet, lập địa chỉ mail của HĐND tỉnh liên hệ trực tiếp với các đại biểu, khi có thông tin cần thiết các đại biểu có thể vào mạng tra cứu và cập nhật thông tin phục vụ cho hoạt động. Đây không phải là vấn đề xa xôi mà là giải pháp có thể thực hiện được trên thực tế. Nhưng để thực hiện được giải pháp này, một vấn đề đặt ra là phải trang bị phương tiện cần thiết cho đại biểu, bồi dưỡng cho đội ngũ đại biểu HĐND tỉnh những kiến thức cơ bản về vi tính, những thao tác sử dụng các phương tiện thông tin hiện đại. Bên cạnh đó, HĐND tỉnh nên thành lập một số đường dây điện thoại để tiếp nhận thông tin do cử tri phản ánh. Với biện pháp này, HĐND sẽ nắm bắt được các vấn đề bức xúc trong nhân dân, kịp thời giải quyết phù hợp với lợi ích của dân. Về phía các đại biểu, từ trước đến nay vẫn quen tiếp nhận thông tin một cách thụ động mà chưa chủ động tiếp nhận thông tin. Bởi vậy, các đại biểu cần phải chủ động yêu cầu các cơ quan, các đối tượng có liên quan cung cấp các thông tin cần thiết để phục vụ cho hoạt động. Có như thế, đại biểu mới có khả năng chủ động trong việc giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Về văn phòng giúp việc: Hiện nay HĐND tỉnh Hà Tĩnh đã có bộ phận văn phòng giúp việc với đội ngũ nhân viên còn trẻ, năng động, nhiệt tình và các trang thiết bị hiện đại. Tuy nhiên về trình độ chuyên môn của đội ngũ chuyên viên giúp việc chưa ngang tầm với nhiệm vụ. Công tác tham mưu phục vụ của Văn phòng HĐND đối với hoạt động của Thường trực HĐND, các ban HĐND, đại biểu HĐND liên quan tới tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của địa phương; nhiều vấn đề trình ra HĐND xem xét, quyết định tác động đến nhiều đối tượng xã hội, trong đó HĐND là cơ quan dân cử hoạt động theo nhiệm kỳ, nếu tổ chức không tốt sẽ dễ bỏ trống nhiệm vụ. Vì vậy, cần phải bổ sung thêm đội ngũ chuyên viên đủ về số lượng và có năng lực, trình độ để giúp việc cho Thường trực, các ban và các đại biểu HĐND đạt hiệu quả cao hơn. 3.3.6. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội một cách toàn diện và trực tiếp. Bởi vậy, trong hoạt động của HĐND cũng như hoạt động của từng đại biểu, phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của HĐND tỉnh Hà Tĩnh và hoạt động của các đại biểu trong giai đoạn hiện nay cần chú trọng các nội dung cơ bản sau: Đảng lãnh đạo thông qua chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết, vì vậy cần nâng cao chất lượng các nghị quyết của cấp uỷ Đảng, nhất là cần định hướng nội dung lớn về phát triển kinh tế-xã hội hàng năm và dài hạn cũng như các vấn đề quan trọng của đời sống xã hội ở địa phương, tránh việc nghị quyết của cấp uỷ đã quyết định tất cả các vấn đề cụ thể, sau đó đưa ra HĐND thảo luận một cách máy móc, hình thức làm cho nghị quyết của HĐND là bản sao nghị quyết của cấp uỷ. Phải quán triệt tinh thần của đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI: Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ trong đó có các đại biểu HĐND tỉnh thực sự có năng lực, tâm huyết, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được nhân dân giao phó. Quan tâm đúng mức tới việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ đại biểu HĐND tỉnh một cách có kế hoạch, nhất là xây dựng đội ngũ đại biểu kế cận để giới thiệu ứng cử vào HĐND tỉnh trong những nhiệm kỳ tới. Tăng cường công tác kiểm tra của cấp uỷ Đảng đối với hoạt động của HĐND, đặc biệt là trong việc thể chế hoá các chỉ thị, nghị quyết của cấp uỷ mà trực tiếp là Đảng đoàn HĐND. Thường xuyên có cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các đảng viên là đại biểu HĐND theo đúng quy chế. Kiên quyết xử lý đối với những đảng viên nói chung và các đảng viên là đại biểu HĐND nói riêng vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật, sa sút về phẩm chất chính trị, yếu về năng lực. Tóm lại, các nhóm giải pháp nói trên đều rất cần thiết, mỗi giải pháp có một vai trò, vị trí riêng, khó có thể đánh giá giải pháp nào quan trọng nhất. Những giải pháp này chỉ đem lại hiệu quả thực sự nếu được tiến hành một cách đồng bộ, hợp lý và có kế hoạch trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và nhà nước đối với công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ đại biểu HĐND các cấp nói riêng. Kết luận và kiến nghị Trong giai đoạn hiện nay, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn liền với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đang được đặt ra một cách bức xúc. Nghiên cứu và đề ra các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND trong đó có các giải pháp nâng cao năng lực hoạt động của các đại biểu trong thực hiện chức năng quyết định có một ý nghĩa hết sức thiết thực. Điều này đã góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước ở địa phương, góp phần khẳng định đúng vị thế của HĐND cấp tỉnh là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Thực hiện công cuộc đổi mới về tổ chức và hoạt động của HĐND đã được đề cập trong các nghị quyết của Đảng, thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng quyết định của HĐND đã được chú trọng, năng lực của đại biểu HĐND tỉnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định đã ngày càng được nâng lên. Bởi vậy, trong thời gian qua, các nghị quyết do HĐND tỉnh ban hành đã đạt tính khả thi cao trên thực tế, góp phần quyết định sự phát triển về mọi mặt của địa phương cũng như sự nghiệp phát triển chung của cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nhất định, chất lượng thực hiện chức năng quyết định của HĐND tỉnh Hà Tĩnh vẫn còn tồn tại một số hạn chế mà nguyên nhân chính vẫn là do năng lực hoạt động của một số đại biểu còn yếu chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những thành tựu và hạn chế trong hoạt động của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh thời gian qua trong tham gia thực hiện chức năng quyết định, luận văn đưa ra một số quan điểm chỉ đạo, những giải pháp chủ yếu nhằm tập trung nâng cao năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng chung của người đại biểu đặc biệt trong tham gia thực hiện chức năng quyết định, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và HĐND cấp tỉnh nói chung trong thời gian tới. Những giải pháp mà luận văn đã nêu ra trên đây, nếu được thực hiện một cách đồng bộ, chắc chắn sẽ phát huy được vai trò của mỗi đại biểu HĐND trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để góp phần nâng cao hơn nữa năng lực thực hiện chức năng quyết định của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và đại biểu HĐND cấp tỉnh nói chung, tác giả xin có một số kiến nghị sau đây: Đối với các cấp uỷ đảng: Cần tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với HĐND, nhất là trong việc quy hoạch, phân công cán bộ làm công tác HĐND phải thực sự là những người có đủ năng lực, kinh nghiệm hoạt động, phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với công việc, bởi đây là yếu tố quan trọng hàng đầu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND. Đối với Quốc hội: Cần nghiên cứu, xem xét sửa đổi một số nội dung trong Luật Bầu cử đại biểu HĐND, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 cho phù hợp với đặc điểm tình hình hiện nay đặc biệt là cơ chế tồn tại HĐND ba cấp. Đối với Chính phủ: - Xem xét, sửa đổi Nghị định 133 theo hướng tăng số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách, đồng thời tăng thêm lực lượng chuyên viên của Thường trực và các ban HĐND. - Thường xuyên quan tâm việc chỉ đạo, hướng dẫn cho việc tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp. Đặc biệt là chỉ đạo các Bộ, Ngành có liên quan và UBND tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động cho đại biểu HĐND dưới nhiều hình thức và nội dung phù hợp. - Có văn bản hướng dẫn thống nhất cho HĐND các cấp trong việc sử dụng ngân sách chi cho hoạt động đặc thù của HĐND và kinh phí hoạt động của đại biểu theo hướng tăng kinh phí hoạt động cho HĐND và đại biểu HĐND. Danh mục tài liệu tham khảo Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ (1995), Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp. Phương thức hoạt động của người đại biểu Hội đồng nhân dân, Nxb Xí nghiệp văn hoá phẩm, Hà Nội. Bộ Nội vụ (2005), Tài liệu bồi dưỡng Trưởng phó ban chuyên trách và uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân, Văn phòng Quốc hội. Bộ Tư Pháp (2001), Chuyên đề về sửa đổi bổ sung một số điều Hiến pháp 1992, Hà Nội. A.G.Côvaliôp (1971), Tâm lý học cá nhân, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Cục Thống kê Hà Tĩnh (2006), Niên giám thống kê 2005, Hà Tĩnh. Mai Thị Chung (2001) Nâng cao hiệu quả hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân, trong sách 55 năm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia. Nguyễn Đăng Dung (1998), Hội đồng nhân dân trong hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XV. Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVI. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Vũ Đức Đán (2005), "Vấn đề bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân", Tạp chí Quản lý nhà nước, (2) Nguyễn Văn Động (2003), "Suy nghĩ về cơ sở khoa học của việc đổi mới tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (3). Bùi Xuân Đức (2003), "Bàn về tính chất của Hội đồng nhân dân trong điều kiện cải cách bộ máy nhà nước hiện nay", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (12). Bùi Xuân Đức (2004), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Trị, PTS Nguyễn Hữu Đức (đồng chủ biên), (1998), Cải cách hành chính địa phương lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1999), Kỷ yếu kỳ họp thứ 1 của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa 14. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2004), Kỷ yếu kỳ họp thứ 11 của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa 14. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2004), Kỷ yếu kỳ họp thứ 1 của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa 15. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2005), Kỷ yếu kỳ họp thứ 3,4,5,6 của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa 15. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2006), Kỷ yếu kỳ họp thứ 7,8 của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa 15. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2006), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp từ đầu niệm kỳ đến nay. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2007), Kỷ yếu kỳ họp thứ 10 của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa 15. Hiến pháp Việt Nam 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thị Hồi (2004), "Về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở nước ta hiện nay", Tạp chí Luật học, (1). Leni Montiel (2001), Bài phát biểu tại Hội thảo nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, kỷ yếu nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội. Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lịch sử Hà Tĩnh (2000), Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác (1962), Hệ tư tưởng Đức, Nxb Sự thật, Hà Nội Nguyễn Văn Mạnh (1999), "Thực trạng và giải pháp đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền cơ sở trong cải cách hành chính", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (6). Hồ Chí Minh, Toàn tập, T5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Văn Mạnh (2001), 55 năm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị III BCH TW Đảng khoá VIII, (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Từ điển Bách khoa luật (1987), Mátxcơva. Từ điển Học sinh (1971), Nxb Giáo dục, Hà Nội. Từ điển Lepetitlasousse (1999), Paris. Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. Trịnh Đức Thảo (2001), Bàn về những tiêu chí và biện pháp đánh giá chất lượng hiệu quả hoạt động của cơ quan dân cử, trong sách 55 năm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2003), Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 01/10 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh về tăng cường lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ trong những năm tới. Nguyễn Phú Trọng - Trần Xuân Sầm (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2005), Quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2005), Kỷ yếu Hội nghị Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương các khu vực trên toàn quốc, Hà Nội. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2006), Kỷ yếu Hội nghị Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương các khu vực trên toàn quốc, Hà Nội. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Bách khoa toàn thư, Từ điển tiếng Việt (2005), Nxb Đà Nẵng. Vụ Công tác đại biểu (2005), Những điểm mới trong quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bùi Thế Vĩnh (2000), Phương thức và kỹ năng hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân, trong chương trình tập huấn đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 1999-2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doclv chinh thuc.doc
  • docphu luc doc.doc
  • docmuc luc.doc
  • docPhu luc.doc
Tài liệu liên quan