Ngân hàng Trung ương với việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ

Lời nói đầu Chính sách tiền tệ là một trong các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, nhằm sử dụng và điều hành các công cụ có hiệu quả, để đạt được các mục tiêu của nền kinh tế như ổn định giá cả, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Trong giai đoạn đầu của một nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường theo để đạt được những mục tiêu về tăng trưởng, cán cân thương mại, công ăn việc làm, ổn định giá trị đồng nội tệ...nhà nước phải sử dụng một loạt cá

doc58 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Ngân hàng Trung ương với việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế như chính sách tiền tệ, chính sách tài chính, chính sách thu nhập, kinh tế đối ngoại.. Cùng với chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ là một trong các công cụ đắc lực để điều tiết nền kinh tế ở cấp độ vĩ mô, tác động trực tiếp vào quá trình vận hành và phát triển của nền kinh tế. Đối với hầu hết các quốc gia thì mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là ổn định và giữ vững giá trị đồng tiền. Để đạt được mục tiêu cuối cùng đó, mỗi quốc gia sẽ có một chính sách tiền tệ với các chỉ tiêu trung gian như lãi suất, lượng tiền cung ứng... và thông qua các chỉ tiêu này, hướng tới sự ổn định và phát triển bền vững trong từng thời kì. Chính sách tiền tệ, theo cách hiểu như vậy, dù ở thời kì nào cũng đều gắn với những mục tiêu kinh tế- xã hội cụ thể, và người điều hành chính sách tiền tệ để hoàn thành những mục tiêu này chính là ngân hàng trung ương (NHTƯ). Cùng với việc xác định ra một chính sách tiền tệ phù hợp áp dụng cho mỗi giai đoạn thì việc NHTƯ xác định, sử dụng và phát huy đúng vai trò của các công cụ chính sách tiền tệ có vai trò quyết định. Một chính sách tiền tệ với việc sử dụng linh hoạt và chuẩn xác các công cụ thực hiện sẽ phát huy vai trò quan trọng sống còn trong nền kinh tế hiện đại, định hướng sự phát triển của mỗi nền kinh tế, hạn chế và khắc phục nhưng khuyết tật của nền kinh tế thị trường mà cơ chế bàn tay vô hình không thể thực hiện được. Không chỉ có ý nghĩa như thế, hệ thống công cụ này còn tác động để chính sách tiền tệ vừa phát huy tác động tích cực trong quá trình lưu thông tiền tệ trong nước, vừa gắn quá trình này vào thị trường tài chính - tiền tệ thế giới trong một xu thế không thể cưỡng lại của quá trình toàn cầu hoá và mở cửa nền kinh tế hiện nay. Chính vì tầm quan trọng này, để thực hiện tốt chính sách tiền tệ, nhằm đảm bảo được các mục tiêu đề ra, thì việc sử dụng có hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ của NHTƯ có ý nghĩa quyết định. Bởi vậy, việc tìm hiểu về các công cụ của chính sách tiền tệ của NHTƯ, bản chất kinh tế của nó và những tác động có thể có của các công cụ này đối với nền kinh tế, đồng thời nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các công cụ này trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay là một đòi hỏi cần phải được giải quyết. Trong phần nghiên cứu nhỏ dưới đây, chỉ xin phép được đề cập tới khía cạnh NHTƯ sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trên thực tế như thế nào và mỗi loại công cụ đó có lợi ích cũng như hạn chế gì, đồng thời đề cập tới một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, phát huy những mặt tích cực của các công cụ chính sách tiền tệ này đối với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Nội dung của tiểu luận được chia làm 3 phần lớn: Phần I: Lý thuyết chung Phần II: Thực trạng của vấn đề với những diễn biến trong thời gian gần đây, những thành công cũng như những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó. Phần III: Một số các giải pháp nhằm giải quyết những tồn tại Do sự hạn chế về mặt thời gian cũng như những hiểu biết thực tế, chắc chắn tiểu luận không thể tránh khỏi những khiếm khuyết và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý và nhận xét của cô để có thể hoàn chỉnh hơn những hiểu biết của mình về lĩnh vực này. Em xin trân trọng cám ơn cô giáo Th.sỹ. Phan Thị Bạch Tuyết đã giúp đỡ và hướng dẫn em trong việc hoàn thành tiêu luận này. Hà nội, tháng 02 năm 2003. Phần I: Lý thuyết chung I- Chính sách tiền tệ: 1- Khái niệm chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế- xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Chính sách tiền tệ có thể hiểu theo hai nghĩa. Hiểu theo một nghĩa rộng, là chính sách điều khiển toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế quốc dân, nhằm tác động tới 4 mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó là đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá của hàng hoá, kiềm chế lạm phát và tạo công ăn việc làm cho xã hội. Theo một nghĩa thông thường thì chính sách tiền tệ là chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kì tới, thông thường là 1 năm, để phù hợp với tỉ lệ tăng trưởng dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có, tất nhiên cũng cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả của hàng hoá. 2- Vai trò & tầm quan trọng của chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ luôn luôn gắn với một mục tiêu kinh tế- xã hội nhất định theo từng thời kì. Bên cạnh chính sách tài khoá và các chính sách kinh tế khác của nhà nước, chính sách tiền tệ là công cụ chủ yếu của kinh tế vĩ mô, tác động trực tiếp vào sự vận hành và quyết định đến xu hướng cũng như khả năng phát triển của nền kinh tế. Do vậy, chính sách tiền tệ không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong việc điều hành chính sách và việc thiết lập hệ thống công cụ hiệu quả cao để thực hiện chính sách tiền tệ. Với một tốc độ phát triển nhanh và trong một trạng thái hết sức năng động, nền kinh tế thị trường, trên thực tế đã tạo ra một lực lượng sản xuất còn nhiều hơn những thế hệ trước cộng lại. Bên cạnh đó là xu hướng xã hội hoá rất cao, tới mức độ làm cho quá trình sản xuất và tiêu dùng ở mỗi quốc gia đều mang tính chất thế giới. Mối quan hệ và sự phụ thuộc toàn diện gữa các quốc gia thay thế cho xu thế cô lập trước đây. Chính những điều này đã khiến cho các nhà hoạch định chính sách tiền tệ không chỉ và không thể quan tâm tới quá trình lưu thông tiền tệ ở quốc gia mình một cách độc lập, tách biệt mà phải gắn quá trình đó với thị trường tài chính- tiền tệ thế giới cùng những xu thế biến đổi không ngừng của nó. Ngòai ra, vai trò của chính sách tiền tệ trong việc làm giảm bớt những thăng trầm chu chuyển trong nền kinh tế có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội. Hoạt động của nền kinh tế thị trường là mang tính chất khách quan, tuân theo những qui luật khách quan. Bên cạnh những mặt tích cực không thể phủ nhận được của kinh tế thị trường thì quá trình cạnh tranh lại mang đến sự vi phạm các qui luật và cùng với đó là những khuyết tật của cơ chế thị trường. Chỉ với sự điều khiển của cơ chế bàn tay vô hình thì các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại... không thể thực hiện tốt chức năng của mình trước xã hội được. Cùng với nó là những rủi ro mất an toàn tín dụng và thanh toán có thể gây ra tình trạng phá sản hàng loạt và dẫn đến sự suy thoái toàn bộ nền kinh tế, nếu như không có một chính sách tiền tệ hợp lý và hệ thống công cụ thực thi hiệu quả nhằm đảm bảo khả năng ổn định tiền tệ, thanh toán cũng như mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Chính vì thế, trong một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường hiện vẫn còn rất nhiều bỡ ngỡ và đang ở giai đoạn đầu như ở Việt Nam ngày hôm nay, sự can thiệp của nhà nước, mà cụ thể qua NHTƯ bằng chính sách và hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ là tất yếu và có tác dụng định hướng để nền kinh tế phát triển ổn định, theo đúng các mục tiêu & định hướng đã đề ra. 3. Tác động của chính sách tiền tệ: Nếu như chính sách tài chính chỉ tập trung chủ yếu vào thuế khoá và chi tiêu của chính phủ, kết cấu mức chi phí thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Như vậy, nó bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ & khối lượng tín dụng cần thiết, đáp ứng cho nhu cầu về vốn của nền kinh tế và tạo những tiền đề để thúc đẩy sự hoạt động của thị trường tiền tệ - thị trường vốn theo đúng những mục tiêu của nhà nước. Tác dụng của nó còn ở việc kiểm soát hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại ( NHTM), xác định tỉ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại thông qua các hoạt động ngoại thương và xuất nhập khẩu. Tất cả những điều này nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả và tạo công ăn việc làm cho xã hội. Một chính sách tiền tệ hoàn chỉnh bao gồm cả một hệ thống các công cụ điều khiển ở tầm vĩ mô. Việc đáp ứng tiền cho lưu thông không chỉ đơn thuần cho mục tiêu tăng trưởng, mà đối với từng giai đoạn, giữa sự phát triển và sự tăng trưởng đều phải được cân nhắc. Tín dụng cho tăng trưởng được đánh giá là đơn giản hơn tín dụng cho phát triển vì nội dung của phát triển bao gồm những yêu cầu về cơ cấu nhiều hơn là tăng trưởng thuần tuý. Cung ứng tiền cho lưu thông để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ môi trường kinh tế lành mạnh thông qua các công cụ còn khó khăn hơn nhiều so với mục tiêu cho tăng trưởng. Cung ứng khối lượng tiền để đảm bảo cho việc làm và thất nghiệp ở mức tự nhiên, đồng thời đảm bảo mức tăng trưởng là một vấn đề mâu thuẫn trong mục tiêu của chính sách tiền tệ. Chính vì lý do đó, trong từng trường hợp cụ thể, chính sách tiền tệ cần phải lựa chọn 1 trong 2 mục tiêu: hoặc là giảm thất nghiệp, hoặc là ổn định tiền tệ, không lạm phát. Điều này đã đặt các nhà hoạch định chính sách nắm rõ yêu cầu của từng thời kì và mục tiêu của từng giai đoạn cụ thể, cũng như điều kiện kinh tế- xã hội mà đặt ra các chính sách tiền tệ phù hợp với mỗi thời kì. 4. Mục tiêu của chính sách tiền tệ: a. Mục tiêu chính sách tiền tệ ở các nước: ở Mĩ, mục tiêu của các chính sách kinh tế cũnglà mục tiêu của chính sách tiền tệ :” 6 mục tiêu cơ bản được người của cục dự trữ liên bang nêu lên thường xuyên... là: công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định tài chính, ổn định thị trường ngọai hối”. Thực chất, 6 mục tiêu đó gộp lại là: ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế và cán cân thanh toán. Chính vì NHTƯ Mĩ có một quyền độc lập khá rõ nên việc xác định những mục tiêu này thường dựa trên khẳ năng thực tế của họ. Mục tiêu chính sách tiền tệ ở Việt Nam: Trước đây, với cơ chế quản lý NH một cấp chưa linh hoạt, cộng với việc điều hành chính sách tiền tệ bằng các công cụ trực tiếp, chỉ tiêu, pháp lệnh.. cùng với những nguyên nhân khác đã làm cho lạm phát tăng đến 3 chữ số, nền kinh tế bị suy thoái trầm trọng. Bắt đầu từ việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, chúng ta đã đặt ra mục tiêu quan trọng nhất, đó là ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát và tăng trưởng.. Để thực hiện những mục tiêu đó, nhà nước đã sử dụng một hệ thống các chính sách vĩ mô nhằm điều hành và kiểm soát nền kinh tế như chính sách tiền tệ, chính sách tài chính,chính sách ngoại thương..mà trong đó, mỗi chính sách đều góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô trên cơ sở hoàn tất các mục tiêu riêng của mình. Mục tiêu tổng quát của chính sách tiền tệ là mục tiêu về tiền tệ và mục tiêu về kinh tế. Với tư cách là một trong các chính sách lớn của kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ có mục tiêu trực tiếp và cuối cùng là giữ vững giá trị đồng tiền, ổn định tiền tệ và điều này có tác động quyết định tới mục tiêu kinh tế vĩ mô. Ngoài ra, nó còn bao gồm mục tiêu gián tiếp về kinh tế, đó là tăng trưởng kinh tế cùng với mức thất nghiệp thấp và giảm sự thăng trầm của chu chuyển nền kinh tế, vì thế, nó có một ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu về kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. II. Ngân hàng trung ương : Có 4 tác nhân có ảnh hưởng tới quá trình cung ứng tiền tệ, đó là ngân hàng trung ương, những trung gian tài chính, những người gửi tiền và những người vay tiền từ ngân hàng. Trong 4 tác nhân trên thì sự tác động của NHTƯ là quan trọng nhất và có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới cung ứng tiền tệ. NHTƯ là cơ quan của chính phủ có chức năng theo dõi bao quát hoạt động hệ thống ngân hàng và có trách nhiệm thực hiện việc chỉ đạo chính sách tiền tệ. ở phần trên đã trình bày khái quát về chính sách tiền tệ và trước khi nói về các công cụ của chính sách tiền tệ thì em sẽ trình bày về vai trò và tác động của NHTƯ, bởi vì chính NHTƯ là người đánh giá và sử dụng các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ ở mỗi quốc gia. 1. Quá trình phát triển: Sự ra đời của hệ thống ngân hàng có tính chất khách quan của quá trình phát triển nền kinh tế. Lúc ban đầu, tất cả các ngân hàng đều là ngân hàng thương mại và những ngân hàng này là những ngân hàng đa năng, thực hiện cả việc phát hành & kinh doanh tiền tệ. Sau này, do quá trình cạnh tranh và xu hướng thôn tính lẫn nhau giữa các ngân hàng mà hình thành nên các ngân hàng lớn có uy tín trên thương trường. Các ngân hàng này tách ra khỏi hệ thống ngân hàng thương mại và chuyên làm nhiệm vụ phát hành bởi kì phiếu của họ có sức cạnh tranh rất cao và được tất cả mọi người chấp nhận. Nhà nước cho phép các ngân hàng phát hành được độc quyền phát hành các kì phiếu ngân hàng cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng và công chúng vay. đó chính là tiền thân của giấy bạc ngân hàng ngày nay. Về sau, do tầm quan trọng của việc kiểm soát hoạt động phát hành tiền đối với nền kinh tế, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933, phần lớn các ngân hàng phát hành đã được quốc hữu hoá và với cơ sở pháp lý vững chắc, ngân hàng phát hành lúc này đã trở thành ngân hàng trung ương (NHTƯ). Trước khi ngân hàng nhà nước ra đời, nền kinh tế đã có sẵn một hệ thống công cụ kì phiếu do lịch sử phát triển của nền kinh tế hàng hoá để lại. Lúc đầu, các công cụ này làm chức năng công cụ nghiệp vụ trong hoạt động ngân hàng, về sau, chúng trở thành những công cụ quản lý vĩ mô khi ngân hàng nhà nước ra đời. Ngày nay, cùng với sự phát triển của mình, NHTƯ đã dần dần hoàn thiện và thiết lập một hệ thống các công cụ bao gồm các công cụ truyền thống và các công cụ mới, phù hợp với điều kiện hiện tại nhằm điều hành có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia. NHTƯ có 2 loại, phụ thuộc và không phụ thuộc vào chính phủ. Tuỳ vào từng loại mà NHTƯ có những quyền hạn và trách nhiệm khác nhau. Nếu NHTƯ phụ thuộc vào chính phủ thì nó sẽ thay mặt nhà nước để quản lý về tiền tệ, tín dụng, ngoại hối, ngân hàng. Nó sẽ chịu trách nhiệm về sự ổn định giá trị của đồng tiền & các mục tiêu khác. Để hoàn thành trách nhiệm này, NHTƯ sẽ tác động tới khối lượng cung ứng tiền tệ trên thị trường bằng các công cụ của chính sách tiền tệ, cụ thể ở việc quyết định tỉ lệ dự trữ bắt buộc, khung lãi suất... cũng như các quyết định về bơm-hút tiền trong lưu thông bằng các kênh khác nhau để phù hợp với yêu cầu thực thi chính sách tiền tệ của từng giai đoạn. 2. Vai trò của NHTƯ trong việc thực hiện chính sách tiền tệ: NHTƯ bằng việc điều khiển chính sách tiền tệ có thể thực hiện việc quản lý gián tiếp sự phát triền chung của nền kinh tế, giảm thấp những thăng trầm và biến động của nền kinh tế, điều tiết cung tiền và lãi suất. Chẳng hạn, khi nền kinh tế sau một thời gian tăng trưởng lâm vào tình trạng suy thoái, xuất hiện các loại lạm pháp cầu kéo hoặc lạm pháp chi phí đẩy thì NHTƯ phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, hay thực hiện việc kích cầu. Sở dĩ như vậy vì nếu các đơn vị sản xuất rơi vào tình trạng không tiêu thụ được hàng hoá sẽ giảm bớt sản lượng, sa thải công nhân, làm tăng thất nghiệp trong xã hội, các hạng mục đầu tư cũng sẽ giảm sút và kết quả là gây ra tình trạng suy thoái lan rộng. Vai trò của chính sách tiền tệ của NHTƯ trong việc làm giảm bớt những thăng trầm chu chuyển trong nền kinh tế, vì thế, có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội. Việc sử dụng chính sách tiền tệ của NHTƯ gắn liền với mục tiêu chính sách tiền tệ của quốc gia và mục tiêu kinh tế vĩ mô của quốc gia đó. Xuất phát điểm mà NHTƯ đưa ra các công cụ điều hành chính sách tiền tệ là những mục tiêu & giải pháp đồng bộ được NHTƯ sử dụng nhằm tác động vào khả năng sẵn có và giá vốn khả dụng, qua đó ảnh hưởng lên toàn bộ hoạt động tiền tệ tín dụng thanh toán trong nền kinh tế. Nói cách khác, chính sách tiền tệ phải đảm bảo giá trị đồng tiền và an toàn hệ thống tín dụng bằng cách kiểm soát các kênh bơm và rút tiền của NHTƯ trong lưu thông. Đây là nhiệm vụ kiểm soát lượng tiền cung ứng, được điều tiết qua 2 kênh là kênh là kênh tín dụng và kênh mua bán. Các cách làm tăng hay giảm lượng tiền cung ứng đều có những ưu và nhược điểm khác nhau và được sử dụng phụ thuộc vào những điều kiện khách quan của nền kinh tế & khả năng cho phép của NHTƯ. III. Hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ của NHTƯ: Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, NHTƯ bằng các phương tiện thông tin dữ liệu và nhạy cảm của mình phải sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ đúng lúc kịp thời. Điều này ảnh hưởng quyết định tới những biến động và trạng thái của nền kinh tế. Cùng một lúc, NHTƯ có thể sử dụng nhiều công cụ như lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tín dụng, hoạt động trường mở, dự trữ bắt buộc...nhằm bơm hút tiền theo các kênh, ngăn chặn đà suy thoái hoặc kìm hãm ngay sự tăng trưởng khi nền kinh tế quá nóng, không để tăng trưởng vượt mức tiềm năng. Ngày nay, trong điều kiện hoạt động tín dụng phát triển, hệ thống ngân hàng 2 cấp và các trung gian tài chính đa dạng, NHTƯ phải điều hành chính sách tiền tệ bằng các công cụ thích hợp, bao gồm các công cụ truyền thống, các công cụ bổ trợ và các công cụ trung gian khác ứng với từng giai đoạn cụ thể của sự phát triển. Mỗi một công cụ mà NHTƯ sử dụng có một sự tác động theo các cách khác nhau lên khối lượng tiền cung ứng và mức độ tác động mạnh yếu khác nhau, cũng như có các ưu nhược điểm riêng. Tuỳ vào yêu cầu của từng giai đoạn cũng như là khả năng của NHTƯ và mức độ phát triển của thị trường mà các công cụ này được sử dụng nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ của NHTƯ.Vai trò của các công cụ chính sách tiền tệ chính là ở việc giúp cho chính sách tiền tệ được thực hiện một cách có hiệu quả, mà cụ thể là việc tác động vào lượng tiền cung ứng nhằm đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ trong giai đoạn đó. a. Các công cụ truyền thống: Các công cụ truyền thống mà NHTƯ sử dụng để điều tiết lượng cung ứng tiền tệ trên thị trường là: tỉ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu và hoạt động thị trường mở 1. Dự trữ bắt buộc: a. Giới thiệu chung: Đây là công cụ truyền thống nhất được sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc là một tỉ lệ tối thiểu giữa dự trữ tiền mặt với các khoản kí gửi mà NHTƯ yêu cầu các NHTM phải duy trì. Đó chính là là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần khống chế, tức là bị vô hiệu hoá về mặt thanh toán trên tổng số tiền gửi nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán và khả năng tín dụng của các NHTM. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc có liên quan mật thiết với khả năng tạo tiền của các NHTM, bởi vì trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các NHTM có khả năng biến những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ thống, khả năng sinh ra bội số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Chúng ta sẽ nghiên cứu khả năng này của NHTM. Chẳng hạn, với một khoản tiền gửi ban đầu là 1000đ ở một ngân hàng thương mại thứ 1 nào đó, sau khi thực hiện dự trữ bắt buộc theo qui định của NHTƯ, ví dụ là 10% trên số tiền gửi này, số còn lại ( 900đ) sẽ được đem cho vay hoặc thực hiện các bút toán thanh toán khác. Với giả thiết số tiền 900đ này được đem gửi đến ngân hàng thứ 2. Ngân hàng này cũng thực hiện dự trữ bắt buộc theo qui định của NHTƯ và số tiền còn lại( 810đ) lại được đem cho vay hoặc thanh toán ở một ngân hàng thương mại thứ 3 nào đó. Quá trình cứ tiếp tục và kết thúc chuỗi qui trình này thì toàn bộ hệ thống ngân hàng đã tạo ra một số tiền mới gấp 10 lần số tiền gửi ban đầu(10000đ). Chính vì các ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra một bội số tiêng gửi lớn đến như vậy nên để khống chế khả năng này, NHTƯ buộc các NHTM phải trích một phần tiền huy động được, theo một tỉ lệ qui định, gửi vào NHTƯ và phần tiền này không được hưởng lãi. Do vậy, cơ chế hoạt động của công cụ dtbb chính là nhằm khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của các NHTM. Nếu một khoản dự trữ bắt buộc đang có hiệu lực, các NHTM có thể dự trữ một lượng tiền mặt cao hơn dự trữ tiền mặt theo yêu cầu( hay còn gọi là dự trữ quá mức), nhưng không được giữ ít hơn. Nếu lượng tiền mặt của họ giảm xuống thấp hơn lượng bắt buộc, họ phải vay tiền mặt ngay, thường là vay tiền của NHTU để khôi phục lại tỉ lệ dự trữ bắt buộc của họ. Khi NHTƯ qui định một mức dự trữ cao hơn khoản dự trữ mà các ngân hàng muốn giữ, các ngân hàng sẽ tạo ra các khoản kí gửi ít hơn và cho vay ít hơn mức họ muốn làm. Mặt khác, do hầu hết NHTƯ không trả lãi cho khoản tiền dự trữ bắt buộc nên các NHTM không thể thu được gì trên số tiền này. Do vậy, dự trữ bắt buộc giống như một khoản thuế đánh vào các ngân hàng bằng cách buộc họ phải duy trì một tỉ lệ dự trữ cao hơn trong tổng số các khoản có dưới dạng dự trữ ngân hàng và một khoản cho vay có lãi suất cao. b. Tác động của dự trữ bắt buộc đối với lượng tiền cung ứng: Nếu NHTƯ nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi có thể phát séc, trong khi tất cả các biến số khác khác đều không đổi, cùng một mức tiền dự trữ không thể cân xứng với với một số tiền gửi có thể phát séc lớn như vậy, cần có nhiều tiền dự trữ hơn bởi vì tiền dự trữ bắt buộc cho số tiền gửi có thể phát séc này đã tăng. Sự thiếu hụt này sẽ làm cho các ngân hàng phải thu nhỏ các món tiền cho vay của họ. Vì NHTM có khả năng tạo tiền từ các khoản tiền gửi như trên đã nghiên cứu, do đó, việc này sẽ làm giảm bớt tiền gửi và lượng tiền cung ứng trên thị trường. Khả năng cho vay, khả năng thanh toán của các NHTM, vì thế sẽ bị thu hẹp lại, khối lượng tín dụng trong nền kinh tế sẽ giảm. Nói một cách khác, nếu NHTƯ hạ mức tỉ lệ dự trữ bắt buộc thì sẽ làm tăng mức mở rộng bội số tiền gửi và lượng tiền cung ứng sẽ tăng.Sự phân tích trên cũng được áp dụng cho trường hợp ngược lại, khi mà NHTƯ hạ tỉ lệ dự trữ bắt buộc Trong trường hợp này, mức mở rộng bội số tiền gửi có thể phát séc tăng lên bởi vì cùng với một mức tiền dự trữ nay có thể làm cân xứng cho nhiều tiền gửi có thể phát séc hơn. Như thế, khả năng tạo tiền và cung ứng về tín dụng của các NHTM cũng sẽ tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán tăng, đồng thời làm tăng xu hướng mở rộng khối tiền. Qua phân tích trên, chúng ta đã thấy được sự thay đổi trong dự trữ bắt buộc tác động đến cung ứng tiền tệ. Bằng toán học, chúng ta sẽ xem công cụ này tác động đến cung tiền bằng yếu tố gì.: .Chúng ta biết rằng cơ số tiền tệ bằng lượng tiền dự trữ trong các ngân hàng cộng với tiền mặt đang lưu hành : MB=R+C. .Lượng tiền dự trữ trong các ngân hàng bằng lượng tiền dự trữ bắt buộc cộng với lượng tiền dự trữ quá mức: R=RR+ER. . Lượng tiền dự trữ bắt buộc lại bằng tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhân với lượng tiền gửi có thể phát séc : RR=rd*D. . Từ đó ta có R=(rd*D)+ER hay là MB=(rd*D) +ER+C. . Nếu ta có tỉ lệ tiền mặt trên tỉ lệ tiền gửi có thể phát séc là C/D, ER/D là tỉ lệ tiền dự trữ quá mức thì sau khi giản ước ta có: MB=( rd+ER/D+C/D)*D hay D =MB*1/(rd+ER/D+C/D). . Sử dụng định nghĩa lượng tiền cung ứng là tổng của tiền mặt và tiền gửi có thể phát séc ta có: M=D+C=(1+C/D)*D hay= MB*(1+C/D)/ (rd+ER/D+C/D) (*) .Với m là đại lượng biểu hiện sự thay đổi của lượng tiền cung ứng với một sự thay đổi cho trước của cơ số tiền tệ, gọi là số nhân tiền. Giả sử rằng lượng tiền cung ứng (M) liên quan với tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng và tiền mặt đang lưu hành ( MB) bằng tương quan: M=MB*m thì từ (*) ta có m=1+C/D)/ (rd+ER/D+C/D). Nhìn vào đẳng thức trên ta hấy rõ ràng là tỉ lệ dự trữ bắt buộc tỉ lệ nghịch với số nhân tiền tệ. Khi NHTƯ tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc lên thì đã làm giảm số nhân tiền tệ. Mà số nhân tiền tệ lại tỉ lệ thuận với lượng tiền cung ứng, do đó nó đã làm giảm lượng tiền cung ứng. Như vậy, không những chúng ta biết tỉ lệ dự trữ bắt buộc có thể làm thay đổi lượng tiền cung ứng mà ta còn biết công cụ này tác động tới lượng tiền cung ứng bằng cách gây thay đổi số nhân tiền. Số nhân tiền và lượng tiền cung ứng có quan hệ tỉ lệ nghịch với tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Do vậy, khi NHTƯ qui định một khoản dự trữ bắt buộc cao hơn tỉ lệ dự trữ mà những ngân hàng thông thường phải duy trì trong bất kì tình hình nào thì sẽ dẫn đến hậu quả làm giảm các khoản kí gửi của các ngân hàng và giảm lượng cung ứng tiền đối với bất kì cơ số tiền tệ nhất định nào. Một sự tăng lên trong dự trữ bắt buộc làm giảm só tiền được đảm bảo bởi một mức nhất định của cơ số tiền tệ và dẫn đến việc thu hẹp cung tiền. Mặt khác,một sự giảm xuống của dự trữ bắt buộc dẫn đến một sự tăng lên của cung ứng tiền tệ bởi vì có thể tạo ra thêm tiền gửi gấp nhiều lần. Do tính chất và tác dụng như vậy nên tại các nước, NHTƯ có qui định phân biệt tỉ lệ dự trữ bắt buộc cho từng loại tiền gửi theo nguyên tắc: tiền gửi tiết kiệm tỉ lệ dự trữ bắt buộc ít nhất, sau đó là tiền gửi có kì hạn và cuối cùng, tiền gửi không kì hạn là có tỉ lệ dự trữ bắt buộc cao nhất. c. Tác dụng tích cực & các hạn chế của công cụ dự trữ bắt buộc: Công cụ này có tính hai mặt. Mặt tích cực của công cụ này thể hiện ở chỗ: khi mà tỉ lệ dự trữ bắt buộc cao thì mức độ an toàn trong hoạt động tín dụng ngân hàng của hệ thống NHTM càng được đảm bảo, hạn chế bớt rủi ro mất khả năng thanh toán hoặc vỡ nợ phá sản theo dây chuyền của hệ thống NHTM, ảnh hưởng đến nền kinh tế. Mặt tích cực khác của công cụ này là nó tác động như nhau đến tất cả các ngân hàng và tác dụng “đầy quyền lực “ tới quá trình cung ứng tiền tệ của nền kinh tế. Tuy vậy, bởi vì công cụ này là một công cụ đầy quyền lực,cho nên tác động của nó là hết sức mạnh mẽ. Thực tế thấy rằng sẽ rất khó khăn trong việc thực hiện các thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Trên lý thuyết thì vẫn có thể đạt được những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ nhờ thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc, song chi phí cho việc này là rất lớn để có thể quản lý những thay đổi trong tỉ lệ dụ trữ bắt buộc cho nên giải pháp này không có tính kinh tế Một điểm bất lợi nữa khi sử dụng công cụ này là khi không ngừng thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ gây ra tình trạng không ổn định cho các ngân hàng và làm cho việc quản lý những khả năng thanh khoản của các ngân hàng đó khó khăn hơn, đặc biệt là các ngân hàng có dự trữ vượt mức ở mức thấp. Hạn chế nữa của công cụ này là rất khó trong việc tạo ra một sự cân bằng hợp lý, tức là tạo ra một tỉ lệ dự trữ bắt buộc hợp lý.Tỉ lệ này quá thấp sẽ dẫn đến những rủi ro về an toàn tín dụng gây ảnh hưởng tới nền kinh tế, đặc biệt là khi nền kinh tế rơi vào tình trạng quá nóng. Nhưng nếu dự trữ bắt buộc ở mức quá cao sẽ làm cho hệ số sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại qúa thấp, nó sẽ làm hạn chế khả năng tạo tiền của các ngân hàng thương mại, ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách lãi suất, bất lợi trong kinh doanh, gây thiếu vốn cho nền kinh tế và tình trạng đình đốn tín dụng. Đặc biệt điều này sẽ rất nghiêm trọng khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng quá cao thì các ngân hàng sẽ không còn khả năng cho vay nữa. Nhưng hoạt động của nền kinh tế luôn đòi hỏi có những khoản vốn vay để đầu tư vào sản xuất, do đó, để đáp ứng nhu cầu tất yếu này, các khoản cho vay sẽ do các trung gian tài chính khác cấp. Không những việc cải tổ lại hệ thống ngân hàng là cực kì tốn kém mà nó sẽ dẫn đến việc các trung gian tài chính khác sẽ mở rộng các cách làm cho các tài sản nợ của nó hoạt động như: tiền gửi có thể kí phát séc nhằm tăng nguồn vốn, do các trung gian tài chính khác này không phải chịu qui định về dự trữ bắt buộc của NHTƯ. Kết quả của việc này là NHTƯ chỉ có thể kiểm soát lượng cung tiền về mặt danh nghĩa, còn cung tiền thực tế thì NHTƯ lại không kiểm soát được do nó chịu ảnh hưởng của các trung gian tài chính chứ không phải là của NHTM. Do đó, việc kiểm soát hệ thống tài chính của NHTƯ sẽ trở nên yếu đi và thực tế là không thể kiểm soát đươc lượng tiền cung ứng do các trung gian tài chính tạo ra. Vậy, với tính chất 2 mặt của tỉ lệ dự trữ bắt buộc, NHTƯ sẽ cân nhắc đánh giá việc sử dụng công cụ này như thế nào. Như ta đã biết, tỉ lệ dự trữ bắt buộc được coi như là một khoản thuế đánh vào số tiền gửi vào ngân hàng thương mại, vì bản thân ngân hàng không thể có lợi ích gì từ khoản tiền này và cũng không thể đem cho vay được. Điều này được đánh giá là làm giảm bớt hiệu quả hoạt động của nền kinh tế.Vậy thì ta giả sử NHTƯ huỷ bỏ tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Điều này này không những có thể đem lại những rủi ro về tín dụng và thanh toán trên thị trường, gây ảnh hưởng đến các mục tiêu kinh tế-xã hội khác mà nó cũng không thể mang lại sự cung ứng tiền tệ vô hạn như chúng ta mong đợi, bởi vì mô hình cung ứng tiền tệ là rất phức tạp và trên thực tế, dù cho có hay là không có qui định về tỉ lệ dự trữ bắt buộc thì các ngân hàng vẫn muốn giữ một lượng dự trữ để bảo vệ bản thân họ chống lại việc mất khả năng thanh toán những khoản tiền rút ra. Mặt khác,trong hoạt động kinh doanh tín dụng, các ngân hàng luôn luôn có một nguồn nhu cầu về tiền mặt. Hai nhân tố này làm hạn chế qui mô về cung tiền mặt. vì vậy, xét về ý nghĩa kinh tế, việc dự trữ bắt buộc tồn tại là hoàn toàn khách quan. Bên cạnh đó, việc hình thành và hoạt động của hệ thống NHTM đòi hỏi NHTƯ phải có một hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ để qủan lý một cách chặt chẽ. Sở dĩ phải thực hiện việc quản lý này là bởi tính chất và mục đích hoạt động của các ngân hàng thương mại là theo tôn chỉ lợi nhuận, do đó, luôn cần có sự giám sát của NHTƯ, mà tỉ lệ dự trữ bắt buộc là một công cụ để thực hiện việc thực hiện việc quản lý này. Vì vậy, mặc dù có những hạn chế rất lớn, song không thể phủ nhận những tác động tích cực của nó đối với việc phát triển thị trường tài chính gián tiếp làm thúc đầy nhanh quá trình tích tụ tập trung phân phối vốn cho nền kinh tế. Trong giai đoạn đầu thực hiện theo cơ chế thị trường này, công cụ tỉ lệ dự trữ bắt buộc là một giải pháp về mặt quản lý và kinh tế. Tuy nhiên, do những nhược điểm của việc sử dụng công cụ này vào việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ, mà đặc biệt là sự tác động quá mạnh mẽ tới cung ứng tiền tệ cũng như rất khó để thực hiện một sự thay đổi nhỏ trong lượng cung tiền nhờ công cụ này và các chi phí phát sinh trong quá trình sử dụng mà công cụ tỉ lệ dự trữ bắt buộc được đánh giá rất thấp và cũng ít khi được sử dụng trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ. 2. Lãi suất chiết khấu: a. Giới thiệu chung: Công cụ thứ hai đượ._.c giới thiệu trong các công cụ truyền thống để điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ là tỉ suất chiết khấu, hay còn gọi là lãi suất chiết khấu. Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà ngân hàng trung ương tính với các ngân hàng thương mại khi các ngân hàng thương mại muốn vay tiền của ngân hàng trung ương. Lãi suất chiết khấu có thể bằng, thấp hoặc cao hơn lãi suất thị trường, tuỳ vào thời điểm vay, hoàn cảnh vay cũng như các mục tiêu của chính sách tiền tệ của NHTƯ. Tuy vậy, trong các khung lãi suất thì lãi suất này thường là thấp nhất, ngoại trừ khi ngân hàng thương mại phải chịu lãi suất phạt hoặc do chính sách hạn chế tín dụng của NHTƯ. Như ta đã biết, tất cả các NHTM đều phải mở một tài khoản tiền gửi tại NHTƯ với mục đích là để thực hiện qui định về dự trữ bắt buộc và để tiện cho việc thanh toán lẫn nhau giữa các ngân hàng thông qua tài khoản tiền gửi tại NHTƯ. Số tiền gửi đó có thể bằng lượng tiền gửi dự trữ bắt buộc, hoặc có thể nhiều hơn (dự trữ quá mức). Các NHTM vay tiền của NHTƯ thường là với 4 mục đích: bù đắp dự trữ bị thiếu, để nâng cao khả năng thanh khoản, giải quyết các nhu cầu tạm thời hoặc đột xuất về vốn trong hoạt động tín dụng, hoặc để khôi phục khả năng hoàn trả khi lâm vào tình trạng khó khăn nghiêm trọng do tiền gửi bị rút ra. Ngoại trừ trường hợp cuối là vay để không bị phá sản là không yêu cầu trả nhanh chóng, còn lại thì các khoản vay của NHTƯ thường là các khoản vay trong ngắn hạn. Hình thức cho vay này là cho vay có đảm bảo bằng cách chiết khấu, tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có giá khác thuộc sở hữu của NHTM (trên thực tế, đây là các khoản tín dụng huy động từ việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp). Vì thế, khi có những nhu cầu về vốn NHTM phải đến xin NHTƯ tái cấp vốn dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu các kì phiếu, các giấy tờ có giá. NHTƯ quản lý khối lượng vay chiết khấu, tái chiết khấu nhằm tránh cho lượng vốn của mình được sử dụng không đúng chỗ. Các NHTM phải chịu 3 khoản phí khi đến vay tại NHTƯ, đó là lãi suất tái chiết khấu( chi phí của khoản vay), phí về làm đúng các điều tra của NHTƯ về khả năng thanh toán của NHTM khi đến vay tại NHTƯ, chi phí cơ hội về việc có thể bị từ chối vay tại NHTƯ. Nếu ngân hàng thương mại nào đến vay quá nhiều tại NHTƯ thì NHTƯ sẽ thực hiện việc kiểm tra về tài chính và có thể không được NHTƯ cấp cho các khoản vay nữa. Có thể hiểu rằng việc các NHTM được vay tại NHTƯ là một đặc ân chứ không phải là một quyền hạn. Chính sách chiết khấu, mà chủ yếu làm thay đổi lãi suất chiết khấu ảnh hưởng tới khối lượng cho vay chiết khấu & cơ số tiền tệ, do đó làm ảnh hưởng đến khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế.Ta đã biết rằng, cơ số tiền tệ bằng lượng tiền mặt trong lưu thông cộng với lượng tiền dự trữ trong hệ thống các ngân hàng, do đó,khi tăng cho vay chiết khấu sẽ làm tăng cơ số tiền tệ và làm tăng lượng tiền cung ứng, còn khi giảm lượng cho vay chiết khấu thì làm giảm bớt cơ số tiền tệ và thu hẹp cung tiền. Tái chiết khấu chính là đầu mối tăng tiền vào lưu thông, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều khiển khối lượng tiền và điều hành chính sách tiền tệ NHTƯ có thể tác động vào khối lượng cho vay chiết khấu bằng hai cách: lãi suất chiết khấu & quản lý các điều kiện cho vay. Những điều kiện mà NHTƯ cho các NHTM vay tái chiết khấu thông thường là hết sức chặt chẽ. và điều này phụ thuộc vào chính sách tiền tệ thực thi vào giai đoạn đó của NHTƯ là nới lỏng hay thắt chặt để quyết định xem lượng vốn có thể cho vay hay không, lãi suất cao hay thấp, điều kiện vay như thế nào. Lãi suất tái chiết khấu này phụ thuộc vào từng thời kì và có tác dụng hướng dẫn cho lãi suất tín dụng của các NHTM trong thời kì đó. Khi NHTƯ quyết định tăng lãi suất tái chiết khấu thì làm cho lãi suất chiết khấu (lãi suất cho vay) của các NHTM trên thị trường tăng lên. Lãi suất tín dụng tăng cao dẫn đến tình trạng giảm nhu cầu về vốn tín dụng, do đó làm giảm nhu cầu về tiền tệ và khi thực hiện ngược lại, làm tăng cung tiền tệ cho thị trường. b. Tác động của lãi suất tái chiết khấu đối với lượng tiền cung ứng: Tái chiết khấu là phương thức để NHTƯ đưa tiền vào lưu thông, thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng. Thực chất của việc này là NHTƯ tái cấp vốn cho các NHTM, tạo cơ sở thúc đẩy hệ thống NHTM thực hiện việc tạo tiền và khai thông thanh toán. NHTƯ có thể tác động gián tiếp làm thay đổi lượng tiền cung ứng bằng cách thay đổi lãi suất tái chiết khấu đối với các NHTM. Chính bởi lãi suất tái chiết khấu là lãi suất mà các NHTM đi vay NHTƯ cho nên thông qua nó, NHTƯ có thể tác động vào lãi suất tín dụng trên thị trường. Tuỳ theo tình hình của từng giai đoạn và yêu cầu của việc thực hiện chính sách tiền tệ mà NHTƯ qui định lãi suất tái chiết khấu là thấp hay cao. Khi NHTƯ hạ thấp lãi suất tái chiết khấu,sẽ khuyến khích các NHTM đến vay tiền của NHTƯ vì khi đó chi phí của việc vay mượn từ NHTƯ sẽ thấp và số tiền vay cũng sẽ tăng cao. Sở dĩ như vậy bởi vì với các khoản tiền dự trữ bổ sung, các NHTM có thể cho vay và mua chứng khoán và từ đó, các NHTM sẽ được hưởng lọi ích từ việc chênh lệch giữa lãi suất đi vay và lãi suất thị trường. Sự chênh lệch càng lớn thì số tiền vay của NHTƯ càng nhiều. Mặt khác, ta biết rằng lãi suất tái chiết khấu có vai trò định hướng cho lãi suất trên thị trường tín dụng, do đó, lãi suất tín dụng (lãi suất cho vay) của các NHTM sẽ có xu hướng giảm khi lãi suất tái chiết khấu giảm. Lãi suất tín dụng của hệ thống NHTM giảm sẽ làm cho số tiền vay tăng lên, tức là cầu về tín dụng tăng lên và từ đó, cầu về tiền tệ của nền kinh tế cũng tăng theo. Cơ số tiền tệ bằng lượng tiền trong lưu thông cộng với lượng tiền dự trữ sẽ sẵn sàng tăng để cân xứng với tiền mặt và tiền gửi có thể phát séc sẽ tăng. Nhờ vậy, cung tiền tệ cho nền kinh tế sẽ tăng. Mặt khác, nếu ta xem xét trường hợp các ngân hàng thương mại có một lượng dự trữ vượt mức tại NHTƯ. Với lượng dự trữ này, các NHTM muốn đảm bảo khả năng thanh khoản của mình trong trường hợp bị khách hàng rút tiền ồ ạt. Nếu NHTƯ đưa ra một lãi suất tái chiết khấu bằng hoặc thấp hơn so với lãi suất tín dụng trên thị trường thì các NHTM sẽ sẵn sàng cho vay tối đa đến tận giới hạn dự trữ bắt buộc của họ bởi vì nếu trường hợp xấu nhất xảy ra, là họ bị thiếu tiền mặt thì các ngân hàng thương mại vẫn có thể vay của NHTƯ với lãi suất ưu đãi trên. Do đó, họ sẽ không thể nào bị thua lỗ khi cho vay ở mức khả dĩ cao nhất và với việc mở rộng đến mức cao nhất khả năng cho vay của các NHTM, một lượng tiền sẽ được tạo ra cho nền kinh tế nhờ khả năng tạo ra bội số tiền gửi của hệ thống NHTM. Từ đó, cung tiền sẽ tăng do sự giảm lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ. Trường hợp này chính là khi NHTƯ thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, nhằm thúc đẩy cầu của nền kinh tế khi nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ đình đốn và lạm phát cao. Trường hợp ngược lại, khi NHTƯ quyết định tăng lãi suất chiết khấu. Điều này sẽ không khuyến khích các NHTM đến vay tiền tại NHTƯ vì chi phí của việc vay mượn này đã tăng cao. Tuy thế, nếu lãi suất tín dụng của thị trường vẫn cao hơn lãi suất tái chiết khấu thì các NHTM vẫn có xu hướng muốn mở rộng khoản vay tại NHTƯ do vẫn có thể kiếm được lợi ích từ việc vay mượn trên do sự chênh lệch về lãi suất trên thị trường. Nhưng đến khi NHTƯ nâng cao mức lãi suất lên trên lãi suất tín dụng thì buộc các NHTM sẽ phải hạn chế việc vay mượn của NHTƯ và buộc phải giảm bớt các khoản cho vay tín dụng của mình chứ không thể cho vay đến tận lượng dự trữ bắt buộc do phải thực hiện dự trữ tiền mặt phòng trường hợp rủi ro mất khả năng thanh toán. Nếu nó thực hiện việc cho vay thêm này sẽ có thể rơi vào tình trạng bị khách hàng rút tiền hàng loạt và không còn đủ tiền mặt tại két để thanh toán cho khách hàng. Khi đó, buộc các NHTM phải vay tiền của NHTƯ, mà ta đang xét trường hợp lãi suất trên thị trường thấp hơn lãi suất tái chiết khấu, do đó, các NHTM sẽ bị lỗ. nó sẽ bị mất tiền khi cho vay thêm và trong trường hợp này, NHTM chấp nhận giữ lại một lượng tiền có thể cao hơn lượng dự trữ bắt buộc để đảm bảo khả năng thanh toán. Nguồn vốn tín dụng sẽ bị thu hẹp lại và các NHTM sẽ giảm số lượng các khoản cho vay của mình bằng cách nâng cao lãi suất tín dụng của mình lên. Số tiền vay chiết khấu giảm làm cho cơ số tiền sẵn sàng để cân xứng với lượng tiền gửi và tiền mặt có thể phát séc giảm xuống làm giảm lượng tiền cung ứng. Các khoản kí gửi ngân hàng bây giờ trở thành một bội số nhỏ hơn của dự trữ tiền mặt của các ngân hàng nên thừa số tiền được giảm xuống và cung ứng tiền tệ ít hơn đối với bất kì mức cơ số nào. Do lãi suất tín dụng nâng cao sẽ làm tăng chi phí của việc vay tiền tại các NHTM của các doanh nghiệp. Từ đó giảm cầu về tín dụng và kéo theo giảm cầu về tiền tệ trong nền kinh tế. Trường hợp này áp dụng khi nền kinh tế phát triển quá nóng, sản lượng có thể vượt mức tiềm năng. Lúc này, NHTƯ phải thi hành một chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiểm soát sự phát triển an toàn của nền kinh tế, tránh cho lượng vốn của mình bị sử dụng không đúng bằng cách hạn chế khoản vay đó. Qua nghiên cứu, ta thấy rằng bằng cách ấn định lãi suất chiết khấu, NHTƯ có thể khuyến khích hoặc hạn chế các NHTM vay tiền và duy trì một lượng dự trữ vượt mức bằng tiền mặt và lãi suất tái chiết khấu có tương quan tỉ lệ nghịch với khối lượng tiền cung ứng. Công cụ này tác động tới lượng tiền cung ứng thông qua việc làm thay đổi cơ số tiền tệ (MB). c. Tác dụng & hạn chế của công cụ lãi suất tái chiết khấu: Tác dụng thứ nhất của công cụ lãi suất tái chiết khấu là ở chỗ giúp cho NHTƯ có thể tác động đến cơ số tiền tệ và cung ứng tiền tệ trên thị trường, từ đó có thể thực hiện thành công chính sách tiền tệ. Ngòai ra, công cụ này còn giúp cho NHTƯ thực hiện chức năng giúp đỡ hệ thống NHTM khi hệ thống này gặp những nguy cơ nghiêm trọng có thể dẫn đến sự phá sản và tránh cho nền kinh tế khỏi những cơn sụp đổ về tài chính. Đó là chức năng người cho vay cuối cùng- tác dụng quan trọng nhất của công cụ lãi suất tái chiết khấu. NHTƯ là người cung cấp dự trữ cho hệ thống NHTM khi sự phá sản của các ngân hàng thương mại có thể thoát khỏi tầm kiểm soát và có thể tác động tiêu cực tới nền kinh tế bởi vì nó cản trở khả năng các thị trường chuyển vốn vào các thị trường có cơ đầu tư có lợi hơn. Chiết khấu là một cách có hiệu quả đặc biệt để cung cấp dự trữ cho hệ thống NHTM khi xảy ra khủng hoảng ngân hàng bởi vì lượng dự trữ có thể được điều chỉnh ngay đến các ngân hàng nào cần dự trữ hơn cả. Sử dụng công cụ lãi suất tái chiết khấu để tránh những cơn sụp đổ về tài chính bằng chức năng người cho vay cuối cùng là một yều cầu cực kì quan trọng để thực hiện thành công chính sách tiền tệ của NHTƯ. Thực chất, với việc thực hiện chức năng này, NHTƯ đã đảm bảo lòng tin cho người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng bởi vì với một số ngân hàng lớn, NHTƯ luôn là người đứng sau làm hậu thuẫn sẵn sàng cung cấp các khoản dự trữ để tránh sự sụp đổ tài chính. Chỉ riêng biết việc NHTƯsẽ nỗ lực ngăn ngừa một vụ rút tiền ồ ạt cũng đã đủ chặn đứng một cuộc khủng hoảng đang trong quá rình diễn ra. Điều này rất quan trọng bởi vì nếu người gửi tiền mất lòng tin ở hệ thống ngân hàng, họ sẽ rút tiền một cách ồ ạt và sự sụp đổ của các ngân hàng thương mại là điều rất khó tránh khỏi, nhưng, các ngân hàng cũng phải chấp nhận rủi ro khi được sự bảo hiểm này từ NHTƯ. NHTƯ đóng vai trò người cho vay cuối cùng không chỉ với hệ thống ngân hàng nói riêng mà còn cả với nền tài chính nói chung, bởi vì thực tế ở các nước phát triển cho thấy, công cụ này được sử dụng hiệu quả ngay cả đối với các cuộc khủng hoảng không phải nguyên nhân từ việc sụp đổ ngân hàng. Tuy vậy, NHTƯ không được lạm dụng trong việc sử dụng chức năng này bởi vì nó có thể dẫn đến những thiệt hại cho nền kinh tế, mà cụ thể là làm tổn hại đến người đóng thuế. Tác dụng thứ hai của công cụ lãi suất chiết khấu là nó được sử dụng để thực hiện thông báo ý định của NHTƯ về việc thực hiện chính sách tiền tệ trong tương lai. Nếu NHTƯ quyết định làm chậm mức tăng trưởng của nền kinh tế, tức là thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì nó sẽ nâng lãi suất chiết khấu lên. Lãi suất chiết khấu tăng lên sẽ làm cho khối lượng tiền tệ cung ứng vào lưu thông giảm xuống, đầu tư giảm và sản xuất giảm, kết quả là làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại và ngược lại. Như vậy, công chúng sẽ hiểu là NHTƯ có ý định thắt chặt chính sách tiền tệ trong tương lai. Tuy nhiên, bên cạnh các mặt tích cực của công cụ này, lãi suất chiết khấu có 2 điểm bất lợi. Việc thực hiện chức năng thông báo của công cụ này có thể bị hiểu đi một cách sai lệch. Nếu lãi suất của thị trường tăng lên tương đối so với lãi suất tái chiết khấu thì khối lượng vay chiết khấu sẽ tăng lên. NHTƯ không muốn các NHTM hưởng lợi từ các khoản vay này vì thực tế là NHTƯ không hề có ý định thay đổi sang chính sách tiền tệ mở rộng, nhưng để ngăn chặn việc các NHTM vay tiền quá nhiều, NHTƯ buộc phải nâng lãi suất tái chiết khấu lên so với lãi suất thị trường. Việc làm này của NHTƯ lại có thể làm cho công chúng hiểu rằng NHTƯ đang thực hiện chính sách tiền tệ ngược lại, mặc dù trên thực tế không phải như vậy. Sự lẫn lộn đối với các ý định của NHTƯ có thể do những thay đổi lãi suất tái chiết khấu tạo nên và điều này gây khó khăn cho nền kinh tế. Mặt khác, nếu NHTƯ đặt một lãi suất ở một mức nào đó có thể gây ra những sự biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu. Những biến động đó có thể dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối lượng cho vay chiết khấu, làm cho việc kiểm soát cung tiền tệ trở nên vất vả hơn. Công cụ này còn có một điểm bất lợi nữa, đó là việc khả năng tác động của NHTƯ chỉ ở mức độ hạn chế. NHTƯ có thể thay đổi lãi suất tái chiết khấu, nhưng không thể bắt các NHTM đi vay ở mức lãi suất này đuợc. Tức là giả sử NHTƯ đặt mức lãi suất tái chiết khấu cao với hi vọng là các NHTM giảm khối lượng tiền vay và từ đó có thể giảm khối lượng tiền cung ứng trên thị trường, song các NHTM có thể vẫn vay của NHTƯ vì những lợi ích khác hoặc không vay của NHTƯ mà vay của các tổ chức tài chính hoặc vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất thấp hơn. Khi đó, khối lượng tiền tạo ra trên thị trường sẽ không thuộc sự kiểm soát của NHTƯ bởi vì thực tế là số tiền vay của các NHTM không phải của NHTƯ, từ đó,công cụ lãi suất tái chiết khấu không có tác dụng đối với việc điều tiết khối lượng tiền cung ứng trên thị trường của NHTƯ và việc thực hiện chính sách tiền tệ có thể sẽ có thể không thành công. Trên thực tế, lãi suất tái chiết khấu không có hiệu quả bằng các nghiệp vụ thị trường mở trong việc kiểm soát lượng cung tiền của NHTƯ. Việc sử dụng công cụ này đòi hỏi một sự điều chỉnh, mà biện pháp được nhiều ý kiến ủng hộ đó là ràng buộc lãi suất tái chiết khấu với lãi suất thị trường, bởi vì như vậy vẫn có thể thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng của NHTƯ mà vẫn loại trừ được đa số sự biến động trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường với lãi suất tái chiết khấu. Việc rằng buộc này cũng có thể tạo ra cơ sở cho việc áp dụng một lãi suất trừng phạt, tức là đặt ra một lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất thị trường cho những NHTM có ý định thu lợi từ việc đi vay chiết khấu của NHTƯ và cũng có thể xoá bỏ những hiểu lầm của công chúng về chính sách tiền tệ của NHTƯ vì lãi suất tái chiết khấu là lãi suất linh hoạt có thể biến đổi được theo lãi suất thị trường. 3. Nghiệp vụ thị trường tự do a. Giới thiệu chung: Công cụ thứ ba trong số các công cụ truyền thống và cũng là công cụ quan trọng nhất để điều hành chính sách tiền tệ ngân hàng trung ương chính là nghiệp vụ thị trường tự do, hay còn gọi là nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường tự do là nghiệp vụ khi NHTƯ thay đổi cơ số tiền bằng cách mua vào hoặc bán ra các giấy tờ có giá trên thị trường tự do. Nghiệp vụ này là công cụ chủ yếu để NHTƯ thay đổi cơ số tiền tệ và là tác nhân chính làm thay đổi lượng tiền cung ứng & lãi suất ngắn hạn. Đối với kênh điều tiết này, NHTƯ là người đóng vai trò là người chủ trì có điều kiện, thực hiện ý đồ kiểm soát của mình một cách chủ động thông qua việc mua, bán các giấy tờ có giá trên thị trường thứ cấp giữa một bên là NHTƯ và một bên khác là các là các tổ chức tín dụng, làm lượng tiền chỉ biến thiên theo một chiều, hoặc tăng hoặc giảm tuỳ theo yêu cầu can thiệp gián tiếp của NHTƯ. Điển hình của hoạt động này là việc NHTƯ mua bán các trái phiếu nhằm tác động tới khối lượng tiền dự trữ trong quĩ dự trữ của các NHTM và các tổ chức tài chính nhằm hạn chế tiềm năng tín dụng và thanh toán của các ngân hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trên thị trường tiền tệ và lãi suất tín dụng trên thị trường trong ngắn hạn. Những thành viên tham gia nghiệp vụ này bao gồm NHTƯ, các tổ chức tín dụng có mạng kết nối với NHTƯ để tham gia giao dịch, trong tương lai sẽ tiến đến thành phần thứ 3, đó là các cá nhân, miễn là họ có tiền mặt và tiền gửi. Phạm vi hàng hoá được sử dụng giao dịch tên thị trường tự do là những tài sản có tính thanh khoản cao, dễ quản lý và sử dụng nhanh chóng. Thuật ngữ tài chính gọi là ngững giấy tờ có giá. Các giấy tờ thường sử dụng để giao dịch trên thị trường tự do là trái phiếu, tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHTƯ, chứng chỉ tiền gửi (CD), thương phiếu thời hạn ngắn, các hối phiếu của các ngân hàng và hợp đồng mua lại, nhưng hầu hết các NHTƯ thường thích sử dụng trái phiếu và tín phiếu kho bạc vì chúng có tính thanh khoản cao, khối lượng kinh doanh lớn, dễ được chuyển đổi trên thị trường và do đó dễ được chấp nhận trong giao dịch. Có hai loại nghiệp vụ thị trường tự do: nghiệp vụ thị trừơng tự do năng động nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ & nghiệp vụ thị trường tự do thụ động nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố khác đã ảnh hửơng đến cơ số tiền tệ. Một trong những giao dịch phổ biến thuộc loại thứ 2 là giao dịch bằng hợp đồng mua lại hay còn gọi là nghiệp vụ thị trường tự do tạm thời vì tác dụng của nó tới dự trữ ngắn, có thể kiểm soát được thời gian và lượng vốn khả dụng sẽ tăng hoặc giảm ngay khi hợp đồng đáo hạn. Chính vì điều này mà công cụ hợp đồng mua lại được cố gắng sử dụng như là công cụ chủ đạo của nghiệp vụ thị trường tự do với nhiều thời hạn khác nhau và được sử dụng phổ biến nhất là các hợp đồng trong ngắn hạn Điều này cho thấy trong hai loại thì nghiệp vụ thị trường tự do thông thông dụng hơn so với nghiệp vụ thị trường tự do chủ động, đặc biệt là ở các nước mà sự phát triển của thị trường đã đạt đến trình độ phức tạp nhất định. Đối với các nước đang phát triển, phương pháp chủ động lại có nhiều thuận lợi hơn bởi hoạt động của thị trường thứ cấp và thị trường liên ngân hàng không có hoặc mới ở bước đầu của sự phát triển. Mặt khác, với phương pháp chủ động, NHTƯ có thể xác định chính sách tiền tệ rõ ràng, đặc biệt là với việc kiểm soát mục tiêu hàng đầu là lạm phát. Với nghiệp vụ thị trườngtự do, NHTƯ rất linh hoạt trong việc xác định thời điểm và khối lượng và phương thức giao dịch theo ý muốn của NHTƯ phù hợp với yêu cầu của chính sách tiền tệ, thúc đẩy các mối quan hệ mang tính chất kinh doanh, không mang tính chất cá nhân giữa các thành viên tham gia thị trường và khắc phục những hạn chế của công cụ kiểm soát trực tiếp. Ngoài ra, với công cụ này, NHTƯ còn có thể kiểm soát và sửa chữa được những sai sót trong việc điều hành, ví dụ như dự báo thấy vốn khả dụng thay đổi bất thường thì để hạn chế sai sót, NHTƯ sẽ sử dụng phương thức hợp đồng mua lại để giao dịch do tính thanh khoản cao và thời hạn để tác động tới lượng cung tiền ngắn, có thể xác định trước. Lý do để nghiệp vụ thị trường tự do là công cụ quan trọng nhất của NHTƯ trong việc điều hành chính sách tiền tệ bởi vì việc tăng hay giảm lượng tiền sẽ có tác động lên khả năng mở rộng hay thu hẹp tín dụng, dự trữ của các ngân hàng, từ đó tác động gián tiếp lên lãi suất trên thị trường vốn ngắn hạn nói chung. Thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường, thường là ngắn hạn như tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHTƯ, NHTƯ có thể mở rộng hoặc thu hẹp lượng tiền dự trữ trong hệ thống các ngân hàng. Khi bán các giấy tờ có giá có nghĩa là NHTƯ hút tiền vào từ hệ thống ngân hàng, làm giảm dự trữ của các NHTM, làm giảm cơ sở tiền tệ & cung ứng tiền và vì thế làm tăng lãi suất trên thị trường. Ngược lại, khi NHTƯ mua các giấy tờ có giá có nghĩa là NHTƯ bơm tiền vào hệ thống ngân hàng, làm cho cơ sở tiền tệ tăng lên, làm tăng dự trữ cho các ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng cung tiền trên thị trường và lãi suất trên thị trường sẽ giảm xuống. Nghiệp vụ thị trường tự do thực hiện bằng phương thứ đấu thầu. Có hai phương thức đấu thầu trên thị trường tự do, đó là đầu thầu lãi suất hoặc đấu thầu khối lượng, tuỳ vào mục tiêu của chính sách tiền tệ NHTƯ trong giai đoạn đó. Giá và lãi suất của các giấy tờ có giá giao dịch trên thị trường tự do là yếu tố quan trọng để tác động tới mặt bằng lãi suất chung trên thị trường tín dụng, vi thế lãi suất chính là một mục tiêu khi NHTƯ quyết định phương thức đấu thầu trên thị trường tự do. Ta biết rằng giá và lãi suất là hai đại lượng đối nghịch nhau, giá cao thì lãi suất thấp và gía thấp thì lãi suất cao. Tuỳ vào việc mua hay bán mà thứ tự sắp xếp theo giá từ thấp đến cao hay lãi suất từ cao đến thấp. Nếu bán ra xếp ưu tiên theo giá từ cao đến thấp và theo lãi suất từ thấp đến cao. Khi NHTƯ quyết định chính sách tiền tệ can thiệp trực tiếp vào lãi suất trên thị trường thì thực hiện đấu thầu khối lượng, ở đó lãi suất cố định do NHTƯ chỉ đạo, tức là cho phép khối lượng tiền dự trữ giao động. Còn khi mục tiêu của chính sách tiền tệ là điều tiết lượng tiền cung ứng thì thực hiện phương thức đấu thầu theo lãi suất. Lúc này, lãi suất được thả nổi theo lãi suất của thị trường và khi đạt được lượng tiền muốn đưa vào hoặc rút ra khỏi lưu thông thì xác định được lãi suất trúng thầu. Lãi suất chỉ đạo của NHTƯ đối với đấu thầu khối lượng và lãi suất trúng thầu đối với đấu thầu lãi suất chính là cơ sở để xác định giá của những giấy tờ có giá trên thị trườngtự do. b. Tác động của nghiệp vụ thị trường tự do: Nghiệp vụ thị trường tự do là công cụ kiểm soát tiền tệ chủ yếu và có hiệu quả cao đối với các nước. Thông qua hoạt động của thị trường này mà NHTƯ có thể tác động tới lượng tiền tệ cung ứng trên thị trường thông qua cơ số tiền tệ và lãi suất trên thị trường ngắn hạn một cách linh hoạt và chính xác, đồng thời có thể khắc phục những sai lầm trong việc chỉ đạo chính sách tiền tệ, nếu có. Ta sẽ xem xét NHTƯ tác động như thế nào trong việc thực hiện các mục tiêu chính sách tiền tệ của mình. Giả sử NHTƯ thực hiện việc mua 1 giấy tờ có giá,ví dụ như 1 trái khoán 1triệuVND của một ngân hàng thương mại hoặc một cá nhân thuộc giới phi ngân hàng bất kì trên thị trường tự do và thanh toán nó bằng một tờ séc. NHTM đó sẽ gửi tờ séc đó vào tài khoản của mình tại NHTƯ hoặc đổi lấy tiền mặt ( tiền mặt này được coi như là tiền két). Cho dù thực hiện theo cách nào thì NHTM cũng có thêm 1triệu VND tiền dự trữ và giảm 1 triệu VND tiền chứng khoán. Với việc mua này, lượng tiền lưu hành trên thị trường không thay đổi nhưng lượng tiền dự trữ đã tăng thêm 1 triệu VND, do đó, cơ số tiền tệ đã tăng lên. Cơ số tiền tệ tăng lên làm tăng cung tiền trên thị trường. Tuy nhiên, nếu tấm séc đó được trả cho một cá nhân thuộc giới phi ngân hàng và người đó chuyển tấm séc sang tiền mặt thì lượng tiền dự trữ trong hệ thống NHTM sẽ không thay đổi, nhưng cơ số tiền tệ thì vẫn tăng do lượng tiền đang lưu hành tăng. Như vậy, tác dụng của một vụ mua trên thị trường tự do đối với lượng dự trữ bắt buộc là không như nhau, nhưng tác động tới cơ số tiền tệ là giống nhau và cụ thể là làm tăng cơ số tiền tệ, từ đó làm tăng cung tiền vì hai điều này tỉ lệ thuận với nhau. Lượng tiền cung ứng trên thị trường tăng lên làm cho lãi suất tín dụng trên thị trường vốn ngắn hạn giảm đi. Kết quả là NHTƯ đã thực hiện được việc tăng cung tiền và giảm lãi suất bằng việc mua giấy tờ có giá trên thị trường mở và mục tiêu chính sách tiền tệ được thực hiện. Thực chất của việc mua này là NHTƯ bơm tiền vào hệ thống NHTM. Xét trường hợp NHTƯ thực hiện một việc bán một giấy tờ có giá trên thị trường tự do. Cơ chế thực hiện tương tự như việc bán, và kết quả là cơ số tiền tệ cũng giảm đi. Tác dụng của việc bán này là làm giảm bớt một số tiền của cơ số tiền tệ đúng bằng giá của giấy tờ đó trên thị trường. Nếu việc bán này được thực hiện với một cá nhân thuộc giới phi ngân hàng thì ta thấy rằng cũng không ảnh hưởng tới dự trữ bắt buộc, tuy nhiên trong mọi trường hợp thì việc bán một giấy tờ có giá trên thị trường tự do cũng làm cho cơ số tiền tệ giảm đi, từ đó làm giảm lãi suất trên thị trường. Thực chất của nghiệp vụ này là NHTƯ đã hút tiền ra khỏi hệ thống NHTM. c. Những tác dụng của nghiệp vụ thị trường tự do đối với việc thực hiện chính sách tiền tệ của NHTƯ: So với các công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ thì nghiệp vụ thị trường tự do có rất nhiều ưu thế. Thứ nhất, nghiệp vụ thị trường tự do phát sinh theo ý muốn chủ đạo của NHTƯ và NHTƯ hoàn toàn kiểm soát được khối lượng cũng như thời điểm giao dịch. điều này là không thể thực hiện được với các công cụ khác, chẳng hạn như lãi suất tái chiết khấu. Với lãi suất tái chiết khấu, NHTƯ không thể kiểm soát được khối lượng vay chiết khấu của các NHTM mà chỉ có thể khuyến khích hoặc hạn chế các NHTM vay chiết khấu, đặc biệt là khi có sự chênh lệch giữa lãi suất tái chiết khấu do NHTƯ xác định với lãi suất thị trường. Thứ hai là nghiệp vụ thị trường tự do linh hoạt và chính xác, có thể sử dụng ở bất kì qui mô, mức độ nào. Khi có yêu cầu thay đổi về dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ thì dù ở mức độ nhỏ, nghiệp vụ thị trường tự do cũng có thể thực hiện được.Điều này là không thể đối với công dự trữ bắt buộc. Một sự thay đổi rất nhỏ trong tỉ lệ dự trữ bắt buộc cũng có thể làm thay đổi một lượng rất lớn lượng tiền cung ứng trên thị trường. Việc thực hiện chính sách tiền tê thông qua thị trường tự do trên thị trường thứ cấp mà chủ yếu bằng các hợp đồng mua lại có thể cung cấp các nguồn dự trữ tạm thời cho thiếu hụt hoặc thặng dư dự trữ mà không ảnh hưởng đến cung cầu chứng khoán được dùng làm tài sản thế chấp, tăng cường tính thanh khoản của các chứng khoán cơ bản. Thứ ba là nghiệp vụ thị trường tự do rất dễ dàng để đảo chiều. Với ưu thế này, nó được đánh giá rất cao trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ. Nếu trong quá trình thực hiện, NHTƯ bị mắc sai lầm thì nó có thể lập tức sửa lại bằng cách thực hiện ngược lại nghiệp vụ NHTƯ đã tiến hành, ví dụ như khi NHTƯ thấy cung tiền tệ trên thị trường tăng quá nhanh do nó mua quá nhiều thì có thể sửa lại lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường. Thứ tư là nghiệp vụ thị trường tự do có thể được tiến hành hiệu quả do không gặp phải những trở ngại về mặt thủ tục hành chính. Lệnh của NHTƯ về việc mua hoặc bán các giấy tờ có giá sẽ được thực hiện ngay sau khi nhà giao dịch chứng khoán nhận được lệnh. Thứ năm là nghiệp vụ thị trường tự do có tính an toàn cao. Giao dịch trên thị trường này hầu như không gặp rủi ro cho cả NHTƯ lẫn NHTM vì cơ sở đảm bảo cho các giao dịch này trên thị trường là những giấy tờ có giá, tính thanh khoản cao. Chính nhờ những ưu điểm quan trọng của nghiệp vụ thị trường tự do mà ngày nay, công cụ này ngày càng được sử dụng rộng rãi trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở mỗi quốc gia và kết quả của nó không chỉ dừng lại ở hiệu quả điều hành của NHTƯ mà còn góp phần vào sự phát triển của thị trường liên ngân hàng, thị trường chứng khoán...qua đó thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nền kinh tế. B. Các công cụ bổ trợ: Ngoài những công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ, ngày nay, với sự phát triển và hoàn thiện không ngừng của nền kinh tế nói chung và nghiệp vụ ngân hàng nói riêng, bên cạnh các công cụ truyền thống, NHTƯ còn sử dụng một hệ thống các công cụ trung gian nhằm nâng cao hiệu quả của việc quản lý. Trong khuôn khổ tiểu luận xin được giới thiệu các công cụ: chính sách ngoại hối & tỉ giá và hạn mức tín dụng & lãi suất. 1. Chính sách ngoại hối & tỉ giá: 1.1. Giới thiệu chung: Như phần trên đã trình bày, NHTƯ có thể điều tiết lượng tiền trong lưu thông qua hai kênh chính thức. Kênh thứ nhất được thể hiện qua hình thức cho vay tái chiết khấu và cấp vốn cho các tổ chức tín dụng, kênh thức hai qua mua bán trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường mở. Trên thực tế, hiệu quả của kênh thứ hai được đánh giá rất cao và chính sách ngoại hối có một vai trò rất quan trọng trong việc quản lý lưu thông và cung ứng tiền tệ của NHTƯ. Đó là một công cụ hữu hiệu để NHTƯ thực thi chính sách tiền tệ, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập hiện nay. Chính sách ngoại hối có liên quan đến việc mua bán và gửi tiền bằng các đồng tiền riêng biệt của NHTƯ. Nghiệp vụ này được tiến hành trên thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối là thị trường quốc tế mà chính trên thị trường này, các giao dịch được thực hiện để xác định tỉ giá và theo đó, các đồng tiền được trao đổi với nhau từ đồng tiền này sang đồng tiền khác. Đồng tiền khác này, đến lượt mình lại xác định giá mua hàng hoá và tài sản chính nước mình. Vậy, theo những tính chất trên, tỷ giá hối đoái là giá của một đồng tiền để tính ra một đồng tiền khác hay còn gọi là mức giá tại đó hai đồng tiền chuyển đổi cho nhau. Tỉ giá hối đoái là giá của một đồng tiền để đổi ra một đồng tiền khác. Tỉ giá hối đoái rất quan trọng bởi nó tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước và nước ngoài. Khi đồng tiền của một nước tăng giá so với các đồng tiền khác thì hàng hoá của nước đó tại nước ngoài sẽ trở nên đắt hơn và hàng hoá của nước ngoài tại nước đó sẽ trở nên rẻ hơn. Chính vì tỉ giá là một mắt xích quan trọng trong mối quan hệ giữa đồng nội tệ và ngoại tệ nên NHTƯ các nước tìm mọi cách can thiệp khi tỉ giá biến động bằng cách mua và bán các đồng tiền, nhằm chống lại nguy cơ khủng hoảng tiền tệ. Việc can thiệp trên thị trường hối đoái nhằm đạt được hai mục tiêu trực tiếp là đưa tỉ giá vào quĩ đạo đã định trong ý đồ chính sách tiền tệ của một giai đoạn nào đó và điều khiển cung ứng tiền tệ quốc gia. Muốn sử dụng công cụ can thiệp thị trường hối đoái NHTƯ phải có một chính sách tỉ giá dựa trên những điều kiện cụ thể của mình. Có những cơ chế t._.g xấu hay tốt. Trước đây, lãi suất cơ bản của NHTM phụ thuộc vào lãi suất cho vay tái chiết khấu( lãi suất buôn bán tiền), do đó xuất hiện khái niệm lãi suất trần- lãi suất cao nhất mà các NHTM có quyền được cho vay. Trên thực tế thì ở Việt Nam, do chưa từng trải qua cơ chế thị trường nên lãi suất cơ bản là lãi suất do NHTƯ công bố, các NHTM Việt Nam chưa bao giờ công bố được lãi suất cơ bản của mình mà phải theo lãi suất NHTƯ. Đã có thời gian 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất ( ngoại thương, công thương, nông nghiệp & phát triển nông thôn, đầu tư phát triển) luôn cho vay ở giá kịch trần dẫn đến việc các NHTM nhỏ khác không thể cạnh tranh với “ tứ đại ngân hàng “ này được. Đó là một giai đoạn phản ánh sự kém cạnh tranh giữa các ngân hàng & các NHTM quốc doanh liên kết với nhau để thống lĩnh thị trường do thống nhất lãi suất. Điều này gây ra những khó khăn đối với các NHTM khác và đối với các doanh nghiệp cần vốn để kinh doanh. Sau này, với sự xuất hiện thị trường liên ngân hàng gắn liền với sự ra đời của lãi suất liên ngân hàng thì lãi suất trên thị trường liên ngân hàng mới là yếu tố quyết định đến lãi suất cơ bản của các NHTM. Độ nhạy cảm giữa lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và lãi suất cơ bản của NHTM cao hơn rất nhiều so với độ nhạy cảm giữa lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ và lãi suất cơ bản của các NHTM Chính vì lý do đó mà NHTƯ quyết định công bố lãi suất cơ bản để kiềm chế các NHTM và cũng là để duy trì canh tranh, tạo cơ hội kinh doanh có lãi cho các NHTM và cơ hôi tiếp cận nguồn vốn với giá hợp lý hơn đối với các doanh nghiệp. Sau một thời gian chuẩn bị xây dựng tiểu luận, bắt đầu từ ngày 5/8/2000, NHTƯ đã chính thức chuyển sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản. Việc làm này không những là cần thiết trong một xu thế tất yếu của quá trình hoà nhập nền kinh tế thị trường mà còn mang lại cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng một bức tranh mới sáng sủa hơn, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường tín dụng theo đúng chủ trương bình đẳng mọi loại hình tín dụng và tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại làm ăn có lãi. Theo qui chế mới, các NHTM được chủ động qui định các mức cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh lãi suất cơ bản, trên cơ sở đó chủ động qui định các mức lãi suất tiền gửi. Cũng theo cơ chế mới này, hàng tháng, NHTƯ công bố mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn. Lãi suất cơ bản được công bố này là lãi suất trung bình của lãi suất cho vay những khách hàng tốt nhất ở 15 NHTM lớn. Trên cơ sở lãi suất trung bình này, NHTƯ qui định một biên độ dao động xung quanh và ấn định nó là lãi suất cơ bản công bố. Các NHTM căn cứ vào lãi suất cơ bản & các điều kiện cụ thể của mình về khả năng vốn, tính cạnh tranh và đối tượng khách hàng mục tiêu để ấn định lãi suất cho vay dối với riêng ngân hàng của mình. Từ tháng 8/2000 đến tháng 12/2000, lãi suất cơ bản đối với đồng nội tệ vẫn giữ nguyên ở mức 0,75%/ tháng. Các NHTM có quyền qui định mức lãi suất cho vay cụ thể xoay quanh biên độ 0,3% đối với cho vay ngắn hạn và 0,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay ngoại tệ ( chủ yếu là USD) được tính dựa trên cơ sở lãi suất trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Singapore (Sibor) kì hạn 3 tháng cộng với biên độ 1,0% đối với cho vay ngắn hạn và 2,5% đối với cho vay trung & dài hạn. Lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHTƯ được điều chỉnh từ 0,4%/ tháng lên 0,55/ tháng. Lãi suất tái chiết khấu tăng từ 0,4% lên 0,45%/ tháng. 4.2. Thành công: Bước chuyển đổi cơ chế điều hành lãi suất từ việc ấn định lãi suất trần & khung lãi suất cho đến việc chuyển sang điều hành theo lãi suất trên thị trường là một bước chuyển đổi cơ bản, tiến đến tự do hoá lãi suất theo thông lệ quốc tế. Đó cũng là một bước chuyển đổi về sử dụng các công chính sách tiền tệ, thúc đẩy quá trình cạnh tranh giữa các NHTM. Lãi suất cơ bản này cũng là một yếu tố thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn, hình thành lãi suất bình quân hợp lý trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn của nền kinh tế, có lợi cho người vay vốn cũng như người gửi tiền. Cơ chế và thực tế diễn biến của lãi suất đã xác lập quan hệ bình đẳng giữa các doanh nghiệp với ngân hàng. Các doanh nghiệp chủ động chọn lựa ngân hàng có mức lãi suất thấp nhất để vay vốn, và giữa hai bên có thể thoả thuận một mức lãi suất hợp lý. Cơ chế lãi suất mới buộc các ngân hàng phải tìm mọi cách tiết kiệm chi phí đến mức cao nhất, có nghệ thuật sử dụng vốn khả dụng một cách linh hoạt, không để ứ đọng vốn. Tất cả nhằm mục đích có thể hạ tới mức lãi suất hấp dẫn nhất đối với người vay tiền. Điều này làm tăng tính cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển trong hệ thống NHTM. Lãi suất cơ bản mới được công bố dựa trên lãi suất trung bình cho vay đối với các khách hàng tốt nhất của 15 NHTM cộng với một biên độ dao động đã làm cho lãi suất cơ bản sát với lãi suất thực tế hơn và lãi suất cơ bản được công bố này thực chất phụ thuộc vào hoạt động làm ăn của các NHTM. 4.3. Hạn chế: Những tác động tích cực của chính sách lãi suất đối với nền kinh tế là rất đáng ghi nhận trong thời gian qua. Tuy thế, trong việc áp dụng chính sách này vẫn còn đang tồn tại những bất cập cần phải giải quyết để tăng cường tính hiệu quả của công cụ này trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ. Hạn chế lớn nhất trong việc thực thi công cụ lãi suất ở Việt Nam chính là sự kém nhạy cảm với lãi suất của đầu tư. Khi lãi suất giảm thì đầu tư ít chịu tác động lớn, trong khi đó các nhu cầu về hàng hoá-dịch vụ sẽ tăng lên nhanh chóng vượt qua khả năng cung các hàng hoá- dịch vụ này. Việc tăng cung không kịp với tăng cầu hàng hoá dịch vụ sẽ làm cho chỉ số giá tăng lên dẫn đến lạm phát nhiều hơn là tăng sản lượng. Do đó, trong việc áp dụng công cụ lãi suất gây ra những tác động không mong muốn đối với nền kinh tế các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. 4.4. Nguyên nhân: Nguyên nhân chính của những tác động không mong muốn đối với nền kinh tế khi sử dụng công cụ lãi suất chính là do sự kém nhạy cảm giữa lãi suất ngân hàng và đầu tư. Lý do của việc đầu tư ít chịu tác động của lãi suất do hai yếu tố. Yếu tố thứ nhất là ở Việt Nam trong giai đoạn này, loại hình doanh nghiệp phổ biến và chiếm một tỉ trọng khá lớn trong cơ cấu các nhà đầu tư là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp, đặc biệt là doang nghiệp nhỏ, luôn cần một khối lượng vốn rất lớn để phục vụ cho hoạt động sản suất kinh doanh, nhưng do những khó khăn trong việc vay vốn ở hệ thống ngân hàng thương mại, mà chủ yếu là những thủ tục xin vay và các yêu cầu về thế chấp, nên trên thực tế, phần lớn số tiền đầu tư của các doang nghiệp nhỏ và công chúng (chiếm một tỉ lệ khá cao trong các nhà đầu tư) đều không phải là được huy động từ hệ thống ngân hàng thương mại mà là vay ở các thị trường tiền tệ không chính thức và không có tổ chức. Do đó, việc lãi suất ngân hàng giảm tác động rất hạn chế đến cầu về đầu tư, đặc biệt là đầu tư đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Yếu tố thứ hai của việc lãi suất kém nhạy cảm với đầu tư là do hạn chế về cung. Cung không đáp ứng được với sự gia tăng của cầu khi NHTƯ giảm lãi suất đã dẫn đến hiện tượng tăng chỉ số giá và gây ra lạm phát đối với nền kinh tế. Cung tăng chậm bởi nhiều lý do: thiếu các đầu vào cần thiết để sản xuất ; tình trạng độc quyền kìm hãm sản xuất & thủ tiêu cạnh tranh làm cho các doanh nghiệp không có động lực để tăng năng lực sản suất ; trình độ quản lý sản xuất còn non kém, không tương xứng với trình độ của máy móc thiết bị và yêu cầu đối với quản lý sản xuất trong môi trường mới... Tất cả những điều này làm cho sự gia tăng của cung rất chậm chạp, không thể đáp ứng được với cầu trong những điều kiện biến động lớn về lãi suất gây ra. 5. Công cụ tỉ giá & chính sách ngoại hối của NHTƯ: Trong luật ngân hàng nhà nước Việt Nam, mục 5 điều 37 có qui định rõ về chức năng quản lý ngoại hối của ngân hàng nhà nước: “ Ngân hàng nhà nước quản lý dự trữ ngoại hối của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo qui định của chính phủ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, đảm bảo an toàn dự trữ ngoại hối nhà nước”. 5.1. Diễn biến: Về chính sách ngoại hối, năm 1999 và năm 2000, trọng tâm của công tác quản lý ngoại hối của NHTƯ là tiếp tục thực hiện chủ trương cải cách các thủ tục hành chính với nội dung nâng vai vai trò quản lý của nhà nước những vẫn đảm bảo tính linh hoạt của các doanh nghiệp. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện các qui định của nhà nước về chính sách ngoại hối, NHTƯ đã ban hành các văn bản mới mang tính chất hướng dẫn. Ngày 16/4/1999, NHTƯ ban hành thông tư số 01/1999/TT-NHNN7 hướng dẫn thi hành nghị định só 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối. Nội dung của thông tư qui định khá chi tiết về các vấn đề thuộc về chính sách ngoại hối của NHTƯ, các điều kiện vay & trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp và một số các văn bản khác. Cùng với việc hướng dẫn các qui định, NHTƯ cũng đã thực hiện điều chỉnh tỉ lệ kết hối ngoại tệ từ 80% các nguồn thu vãng lai của doanh nghiệp xuóng còn 50% để tăng tính chủ động của các doanh nghiệp trong việc sử dụng ngoại tệ, từng bước tiến tới tự do hoá các giao dịch về ngoại tệ.Bên cạnh đó, NHTƯ còn qui định lại nguyên tắc giao dịch tỉ giá, sắp xếp lại các bàn thu đổi ngoại tệ và mở rộng dối tượng cho vay-bán ngoại tệ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Về công cụ tỉ giá, trong năm 1999 và tiếp năm 2000, NHTƯ đã thực hiện một bước đổi mới cơ bản về điều hành tỉ giá từ quản lý có tính chất hành chính sang điều hành theo hướng thị trường có sự quản lý của nhà nước.Theo quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN7 và quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/12/1999, kể từ ngày 26/12/1999 thay bằng việc công bố tỉ giá chính thức, NHTƯ sẽ công bố tỉ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Tỉ giá này được áp dụng làm cơ sở để các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỉ giá mua bán ngoại tệ và áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩu. Trên cơ sở tỉ giá giao dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó do NHTƯ công bố, các tổ chức tín dụng được qui định tỉ giá giao dịch của mình không vượt quá 0,1% so với tỉ giá được công bố đó. Nhìn chung, tỉ giá trong năm 1999 và năm 2000 không có những đột biến lớn, có thể coi là tương đối ổn định. Tỉ giá giữa VND và USD trên thị trường liên ngân hàng năm 1999 tăng 1%, tăng 1,1% trên thị trường tự do so với năm 1998. Diễn biến trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng năm 1999 động hơn rất nhiều những năm trước. Ngay từ đầu năm1999, doanh số giao dịch đã tăng lên khá cao, lượng ngoại tệ trên thị trường khá dồi dào, nhiều khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu khiến các ngân hàng thương mại phải bán ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu về đồng Việt Nam. Sau khi có quyết định mới về cơ chế điều hành tỉ giá năm 1999, các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng có giảm xuống đôi chút trong vòng vài ngày. Tuy thế, nhịp hoạt động của thị trường được khôi phục nhanh chóng, đặc biệt là vào năm 2000, tác động mạnh mẽ đến hoạt động xuất nhập khẩu, do đó tác động tới cán cân thanh toán quốc tế. Cuối năm 2000, tỉ giá trên 3 thị trường đã tăng so với đầu năm.: thị trường liên ngân hàng tăng 3,1% (14.450/14.016); thị trường mua bán của các ngân hàng thương mại tăng 2,9% (14460/14042) ; thị trường tự do tăng 3,96% ( 14.700/14.139). Mặc dù tăng như vậy, nhưng mức mất giá của đồng việt Nam so với đồng đola là thấp hơn so với các nước trong khu vực. Tỉ giá VND/USD liên tục tăng chậm. Lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng cao và tương đương với lãi suất đồng nội tệ nên người vay thì thích vay bằngVND, còn người gửi thì thích gửi bằng USD. Do đó, khối lượng USD trong các NHTM tăng lên nhanh chóng, trong 11 tháng của năm 2000 đã chiếm 40% tổng số dư tiền gửi. Ngược lại, dư nợ cho vay bằng ngoại tệ rất chậm. 5.2. Thành công: Có thể nói, sự chuyển đổi cơ chế điều hành tỉ giá từ quản lý hành chính sang quản lý theo hướng thị trường có sự quản lý của nhà nước đã đem lại cho thị trường tín dụng một sức sống mới. Với cơ chế điều hành này, tỉ giá đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở giao dịch trên thị trường và phản ánh khá khách quan sức mua của đồng việt Nam so với đồng ngoại tệ, tạo điều kiện chủ động hơn cho các doanh nghiệp trong việc kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, đồng thời vẫn đảm bảo được sự điều hành quản lý của nhà nước. Kết quả rõ ràng nhất là tỉ giá tương đối ổn định trên thị trường tự do và thị trường chính thức trong hai năm 1999 và 2000. Sự chênh lệch tỉ giá giữa hai thị trường này là tương đối hẹp. Doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng đạt mức khá cao, đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ cho nền kinh tế, góp phần khuyến khích xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. 5.3. Hạn chế : Một trong những hạn chế chủ yếu trong việc phát huy tác dụng của công cụ tỉ giá và chính sách quản lý ngoại hối hiện nay nằm ở việc hoàn thiện thị trường liên ngân hàng. ở Việt Nam chúng ta chưa có một hệ thống giám sát chặt chẽ hoạt động và tình hình tài chính của các ngân hàng, đưa đến sự hoài nghi ảnh hưởng đến niềm tin lẫn nhau. Điều này dẫn đến thái đọ đi vay và cho vay trên thị trường liên ngân hàng là hết sức dè dặt. Mặt khác, đồng tiền của Việt Nam là đồng tiền kém chuyển đổi cho nên khó tạo ra cung ngoại tệ bằng kĩ thuật chuyển đổi, trong khi áp lực cầu vẫn luôn đè nặng do nợ nước ngoài và thiếu hụt cán cán vãng lai. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều người mua, ít người bán trên thị trường liên ngân hàng. 5.4. Nguyên nhân: Hiện nay, khi đem so sánh lợi ích của việc đem ngoại tệ cho khách hàng của mình vay với việc đem cho vay hay bán trên thị trường liên ngân hàng thì lợi nhuận của việc giao dịch trên thị trường này quả thực là không cao bằng. Mặt khác,vai trò cầu nối của NHTƯ với thị trường liên ngân hàng này còn rất hạn chế khiến cho thị trường kém tính định hướng. Các phương thức giao dịch trên thị trường còn đơn điệu và kém hấp dẫn kể cả đối với người bán cũng như người mua trên thị trường liên ngân hàng. Như vậy, phần nói về thực trạng của chính sách tiền tệ & các công cụ của chính sách tiền tệ kết thúc ở đây. Trong phần sau, em xin được mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết những tồn tại mà phần II đã nêu ra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. Phần III: Hướng tới việc nâng cao hiệu lực các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam. I- Những yêu cầu chung : Trong xu thế mới ngày càng phức tạp và hiện đại của nền tài chính tín dụng quốc tế, vai trò của các công cụ gián tiếp trong việc điều hành chính sách tiền tệ là hết sức quan trọng. Nó góp phần tăng cường khả năng điều tiết cũng như tăng hiệu quả của những sự tác động của NHTƯ trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Chính vì thế, tạo điều kiện để chuyển đổi các công cụ từ trực tiếp sang gián tiếp ở Việt Nam hiện nay đang là một trong những mục tiêu lớn của NHTƯ. Nhằm thúc đẩy nhanh quá trình hình thành này, em xin được đề cập tới một số biện pháp cụ thể như sau: 1. Phát triển thị trường tài chính: Thực hiện chủ trương chuyển từ các công cụ của chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp, NHTƯ phải tiến hành việc phát triển thị trường tài chính nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các công cụ này phát huy tác dụng, đặc biệt là đối với việc phát triển nghiệp vụ thị trường mở. NHTƯ tiếp tục thực hiện cơ chế tỉ giá và lãi suất linh hoạt, chịu sự điều tiết của thị trường nhằm phát huy những ưu điểm của công cụ này. NHTƯ thực hiện chức năng quản lý hoạt động phát hành trái phiếu, tín phiếu kho bạc, nghiên cứu cơ chế phát hành tín phiếu NHTƯ. Bên cạnh đó, NHTƯ cần phải nghiên cứu việc để cho một số NHTM được phép phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi nhằm đa dạng hóa các loại hàng hoá trên thị trường tiền tệ, tạo điều kiện để thị trường tiền tệ phát huy ưu thế vốn có của nó. NHTƯ cũng cần phải xây dựng những hành lang an toàn ví dụ như các quĩ dự phòng, các yêu cầu về bảo lãnh, cầm cố, thế chấp và các cơ chế khác nhằm khuyến khích các hành vi thận trọng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Mặt khác, phải thực hiện kiểm toán và công khai hoá các báo cáo tài chính để thị trường và những nhà quản lý có thể thực hiện hữu hiệu vai trò của họ trong đảm bảo những nguyên tắc tài chính. Để có thể giúp cho thị trường thực hiện điều tiết theo đúng bản chất của hiện tượng kinh tế, NHTƯ còn cần phải xây dựng một mạng lưới thông tin hoàn chỉnh, nhằm cung cấp đến cho thị trường những thông tin chính xác nhất về những diễn biến trên thị trường tài chính và các chủ trương, chính sách mới của NHTƯ trong vận hành chính sách tiền tệ, tránh những thông tin thất thiệt của những nhà đầu cơ trục lợi có thể gây bất ổn định trên thị trường. Mặt khác, đây cũng chính là phương pháp hữu hiệu nhất của NHTƯ nhằm đánh giá được những phản hồi của thị trường và dự đoán được xu hướng biến động chung của thị trường trong thời gian tới để có những biện pháp thích ứng. 2. Hoàn thiện hệ thống ngân hàng: 2.1. Tăng khả năng cạnh tranh trong hệ thống NHTM: Việc cải cách hệ thống ngân hàng cũng phải tạo điều kiện thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong hệ thống ngân hàng thương mại. Đối với NHTMQD, việc cải tổ hệ thống phải thực hiện theo hướng giảm mức độ độc quyền. Trước năm 1997, hệ thống ngân hàng Việt Nam bị chi phối bởi 4 ngân hàng lớn: Ngoại thương, công thương, nông nghiệp và đầu tư. Thị phần tiền gửi và tín dụng của riêng 4 ngân hàng này đã chiếm tới 70% thị trường tín dụng. Những năm gần đây, thị phần của 4 ngân hàng này đã giảm xuống nhiều, cùng với đó là cấu trúc thị trường được cải thiện rõ rệt. Vì thế, NHTƯ cần tiếp tục việc giảm mức độ độc quyền đối với các NHTM quốc doanh nhằm tăng hiệu quả hoạt động của thị trường. Đối với các NHTM cổ phần, tiếp tục thực hiện việc củng cố, có thể bằng các biện pháp mạnh như là cơ cấu lại toàn bộ các ngân hàng có mức độ rủi ro không trả nợ được cao, sát nhập hoặc giải thể các NHTMCP làm ăn không hiệu quả, giới hạn phạm vi hoạt động của những ngân hàng có yếu kém trong hoạt động hay không đủ vốn pháp định. Chỉ có như vậy mới củng cố lòng tin của công chúng và giúp cho các NHTMCP phát triển vững mạnh và an toàn và tăng tính cạnh tranh của các NHTMCP trên thị trường tín dụng. Đối với các NHTM có vốn nước ngoài, cần tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng này tham gia vào quá trình cạnh tranh trên cơ sở tiêu chí sinh lời. NHTƯ nên cho phép các NHTM có vốn nước ngoài cung cấp các dịch vụ chuyên ngành từ nước ngoài để tăng mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng, đồng thời cũng giúp cho hoạt động tín dụng đối với các DN có vốn nước ngoài hoặc các doanh nghiệp XNK thuận lợi hơn trong làm ăn. Thành lập các NH chính sách, tách bạch cụ thể giữa chức năng cho vay chính sách và cho vay thương mại của các ngân hàng. 2.2. Nâng cao năng lực của NHTƯ: Trong điều kiện mới, để quản lý và điều hành chính sách tiền tệ, chúng ta đang cố gắng chuyển từ các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp. Việc chuyển đổi này khong những cần có mong muốn mà chúng ta phải có đủ những điều kiện nhất định. Đó chính là năng lực kĩ thuật của NHTƯ. Để sử dụng các công cụ gián tiếp đòi hỏi NHTƯ phải dự tính tương đối chính xác được cung-cầu về tiền tệ, dự trữ của các NHTM cũng như tình trạng thanh khoản và tình trạng hối đoái của các NHTM. Không những chỉ có như vậy, NHTƯ còn phải đánh giá được những ảnh hưởng đến khối lượng tiền của những quyết định do mình đưa ra. Bởi vậy, NHTƯ cần phải tham gia tích cực vào thị trường một cách liên tục, nhận biết kịp thời những thay đổi và dự đoán được xu hướng biến động của thị trường, từ đó có những quyết định chính xác về mức độ, khối lượng,thời gian& thời điểm can thiệp. Để thực hiện được những điều trên, NHTƯ cần phải đổi mới theo hướng như sau: -Giảm dần sự can thiệp của Chính phủ vào các quyết định của NHTƯ. Điều này không có nghĩa là xoá bỏ mà nên chăng trao cho NHTƯ một số quyền tự chủ nhất định trong việc đưa ra các quyết định của mình, ví dụ như các quyết định về lãi suất, cho vay, quản lý tài sản,nhân sự... -Xây dựng một bộ máy gồm các chuyên gia nghiên cứu thị trường, các chuyên gia tài chính-tiền tệ ngân hàng để theo dõi, đưa ra các phân tích về diễn biến tình hình tiền tệ, lạm phát, từ đó có thể thực hiện sự can thiệp kịp thời và đúng mức đối với thị trường tiền tệ. Bên cạnh đó là việc đầu tư cho công nghệ ngân hàng ngày càng hiện đại nhằm hỗ trợ cho các nghiệp vụ mới, đòi hỏi kĩ thuật cao. -Luôn cập nhập thông tin về các hoạt động của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là tình trạng thanh khoản và khả năng thanh toán của các ngân hàng. Quản lý chặt chẽ các biến động trong khoản mục tại bảng cân đối của NHTƯ. -Xây dựng chính sách quản lý nợ công cộng và thông qua việc phát hành trái khoán của chính phủ để bù đắp ngân sách, tiến tới cắt giảm tài trợ thâm hụt ngân sách. -Tiếp tục ban hành các cơ chế, thể lệ hợp thức mang đầy đủ tính pháp lý để hoàn thiện chính sách tiền tệ như: cơ chế phát hành tín phiếu của các công ty tài chính, cơ chế phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của các NHTM, cơ chế góp vốn cổ phần của cổ đông nước ngoài vào các tổ chức kinh doanh tín dụng, cơ chế hoạt động của các công ty cho thuê tài chính, xúc tiến hình thành các công ty mua bán nợ để xử lý các khoản nợ xấu của các NHTM. -Nghiêm khắc xử lý các trường hợp làm trái pháp luật trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Mở rộng phân cấp, phân quyền đối với các tổ chức thanh tra, giám sát tài chính- ngân hàng, đảm bảo sự minh bạch trong chế độ thông tin, báo cáo tài chính kế toán. II- Các giải pháp cụ thể áp dụng đối với một số các công cụ của chính sách tiền tệ : Do những hạn chế về thời gian và hiểu biết thực tế, trong khuôn khổ của tiểu luận, em chỉ xin phép đề cập đến một số các giải pháp cụ thể áp dụng cho 2 công cụ chủ yếu trong số các công cụ của chính sách tiền tệ đã được trình bày. 1. Dự trữ bắt buộc: Chúng ta đã đề cập đến những tác dụng tích cực của công cụ dự trữ bắt buộc đối với việc thu hẹp hay mở rộng tín dụng NH trong nền kinh tế và đảm bảo an toàn các hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Phần II của tiểu luận đã đề cập đến những tồn tại trong việc phát huy khả năng tác động của công cụ dự trữ bắt buộc. Những hạn chế này do cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan tạo nên. Theo lý thuyết, các NHTM phải gửi tại NHTƯ một số lượng vốn nhất định theo tỉ lệ trên tổng số dư tiền gửi có thể phát séc của các NHTM. Tất nhiên là thực hiện điều này, NHTƯ có thể kiểm soát được lượng tiền cung ứng trên thị trường, nhưng chỉ là khi séc được chấp nhận trong thanh toán giao dịch thông thường. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, nền kinh tế của chúng ta là một nền kinh tế tiền mặt, sự phát triển của các công cụ thanh toán còn rất hạn chế. Trong giao dịch thông thường, việc sử dụng séc không thông dụng cho nên séc được chấp nhận trong thanh toán rất ít. Chính vì thế nên tiền gửi theo yêu cầu ( tài khoản séc) trong tổng cung tiền thường không cao. Nếu tỉ lệ này ở các nước phát triển là 3/4 thì ở việt Nam mới chỉ là một con số rất thấp, chưa đến 1/3 cung tiền. Như vậy, khi NHTƯ thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc thì cũng chỉ có ảnh hưởng có mức độ đối với nền kinh tế. Muốn tăng cường tác động của công cụ này trong điều hành chính sách tiền tệ, NHTƯ cần phải đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá các phương tiện thanh toán, cụ thể là: - Đầu tư hoàn thiện cơ sở kĩ thuật hiện đại cho hệ thống thanh toán ngân hàng, nhằm đảm bảo cho các công cụ thanh toán mới được thực hiện nhanh chóng và chính xác, gây được lòng tin của khách hàng trước những tiện ích của công cụ mới. Đây là điều kiện kiên quyết và cơ bản nhất đối với việc phát triển các công cụ mới. - Xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc áp dụng các phương tiện thanh toán này, đặc biệt là trên phương diện pháp lý bằng các văn bản cụ thể áp dụng cho từng laọi hình thanh toán trong những điều kiện mới của nền kinh tế. - Có sự khuyến khích thanh toán giao dịch bằnghình thức tài chính các phương tiện thanh toán phi tiền mặt đối với các giao dịch, đặc biệt là các giao dịch trên thị trường tín dụng ngân hàng. -áp dụng sử dụng các công cụ thanh toán phi tiền mặt đối với một số lĩnh vực, ban đầu có thể bắt buộc chấp nhận việc thanh toán bằng séc trong các giao dịch. -Tuyên truyền rộng rãi cho công chúng những lợi tích của việc thanh toán bằng séc nói chung và các phương tiện thanh toán khác nói riêng, làm cho công chúng thấy rõ những lợi ích và sự thuận tiện trong giao dịch bằng séc. Bằng các biện pháp trên, NHTƯ có thể nâng cao số lượng giao dịch bằng các phương tiện thanh toán phi tiền mặt qua hệ thống ngân hàng, mà cụ thể ở đây là tiền gửi có thể phát séc. Qua việc tăng tỉ lệ tiền gửi có thể phát séc này, NHTƯ có thể nâng cao được hiệu quả của việc áp dụng công cụ dự trữ bắt buộc trong việc điều hành chính sách tiền tệ. 2. Nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở ra đời vào năm 2000 ở Việt Nam đã nâng cao một bước hơn nữa trình độ tác động công cụ chính sách tiền tệ của NHTƯ đối với nền kinh tế. tuy nhiên, trong thời gian đầu đi vào hoạt động, không khí trầm lắng của các giao dịch trên thị trường này làm hoài nghi nhiều người kì vọng vào tác động của nó tới cung ứng tiền tệ nói riêng và chính sách tiền tệ nói chung. Để nâng cao hiệu quả của công cụ này, theo em, NHTƯ cần phải thực hiện một số biện pháp, cụ thể là: -Đa dạng hoá các loại hàng hoá giao dịch trên thị trường. Trước đây, hàng hoá trên thị trường này chủ yếu là các loại tín phiếu ngắn hạn, chỉ tập trung vào một số NHTM lớn nên gây tâm lý đây chỉ là thị trường của các NHTM quốc doanh. Tiến tới việc phát triển của thị trường mở, chúng ta cân đa dạng hoá hơn nữa các công cụ giao dịch, tiến đến giao dịch bằng các giấy tờ có giá trung và dài hạn. Mặt khác, nếu chỉ giao dịch bằng các loại tín phiếu có thời hạn ngắn, tính cạnh tranh cao sẽ ngăn cản các NHTM, và các tổ chức tín dụng nhỏ tham gia vào thị trường do không đủ điều kiện cạnh tranh với các NHTM quốc doanh lớn. -Thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của thị trường chứng khoán. Chính vì ở Việt Nam thị trường chứng khoán mới ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển nên chưa thể thu hút đại bộ phận tiền mặt ngoài lưu thông, cũng như chưa thể tác động đến lượng tiền cung ứng một cách gián tiếp. Chính vì thế, nghiệp vụ thị trường mở hầu như chưa được sử dụng. Muốn khắc phục hạn chế này, ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp, tạo những điều kiện thuận lợi cũng như cung cấp các lợi ích rõ nét và giải quyết các khó khăn nhằm thúc đẩy các công ty có đủ điều kiện tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán. -Cùng với việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, NHTƯ nên tạo những điều kiện để phát triển thị trường liên ngân hàng, thị trường mua bán lại các tín phiếu giữa các tổ chức dụng & khách hàng, thị trường đấu thầu trái phiếu kho bạc..Lý do của việc này là bởi nếu không có thị trường liên ngân hàng thì NHTƯ sẽ mất các thông tin về tình hình vốn khả dụng thực tế, do đó việc lập kế hoạch về qui mô và thời điểm của các nghiệp vụ sẽ khó khăn hơn. Kết quả là những diễn biến trên thị trường mở có thể phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường sơ cấp hơn là vào ý đồ của NHTƯ. Muốn thực hiện được mục tiêu này, NHTƯ nên có chính sách khuyến khích bằng lợi ích đối với các tổ chức tham gia vào thị trường, chẳng hạn như đối với thị trường liên ngân hàng hiện nay, lợi tức so sánh giữa việc bán và cho vay trên thị trường liên ngân hàng thấp hơn so với trên thị trường tự do. Do đó không khuyến khích được hoạt động của các tổ chức tín dụng trên thị trường này. NHTƯ có thể khắc phục điều này bằng cách tách phần doanh số từ việc cho vay & bán trên thị trường liên ngân hàng ra khỏi phần doanh thu phải chịu thuế của các NHTM. Điều này sẽ khuyến khích các NHTM hướng các hoạt động tham gia tích cực hơn vào thị trường. -Để thị trường mở hoạt động có hiệu quả thì một trong những biện pháp chính là hạn chế ở một mức độ nào đó khả năng tiếp cận của các ngân hàng đối với việc vay mượn của NHTƯ theo phương thức chiết khấu & tái chiết khấu. Nếu các khoản tín dụng của NHTƯ lại hấp dẫn hơn thì các ngân hàng sẽ quan tâm hơn tới các khoản vay chiết khấu, tái chiết khấu hơn là thực hiện việc mua bán trên thị trường mở. Như vậy, một trong các biện pháp có thể áp dụng đó là tăng cường sự chặt ché cảu cửa sổ chiết khấu, hay áp dụng mức lãi suất phạt để lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường. Tất nhiên ở đây không tính đến việc NHTƯ sử dụng lãi suất tái chiết khấu nhằm mục đích người cho vay cuối cùng. -Phân biệt một cách rạch ròi giữa các nghiệp vụ quản lý nợ và nghiệp vụ của chính sách tiền tệ. Điều này sẽ làm cho công chúng tin tưởng hơn vào chính sách của NHTƯ và hoạt động của thị trường mở tăng cường hiệu quả. Bằng các biện pháp cụ thể trên, em cho rằng có thể nâng cao hiệu quả của hoạt động thị trường mở tại Việt Nam trong giai đoạn tới. Như vậy, phần trình bày về những giải pháp nhằm thúc đẩy hiệu quả và khắc phục những tồn tại của các công công cụ chính sách tiền tệ kết thúc tại đây và cũng kết thúc phần nội dung chính của tiểu luận. Đây chỉ là một số những ý kiến cá nhân trên cơ sở tham khảo các tài liệu trình bày về vấn đề này với hi vọng có thể khắc phục được những tồn tại thực tế của các công cụ chính sách tiền tệ tại Việt Nam trong giai đoạnh này, nhằm tăng cường hơn nữa vai trò quản lý của nhà nước, mà cụ thể là NHTƯ trong viêc thục thi chính sách tiền tệ, hoàn thnàh các mục tiêu của bản thân chính sách tiền tệ nói riêng và các mục tiêu vĩ mô khác của nhà nước trong giai đoạn đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Kết Luận Qua nội dung mà tiểu luận đã trình bày, em đã tiến hành phân tích chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ NHTƯ. Qua phân tích, chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của các công cụ này đối với việc thực hiện chính sách tiền tệ của NHTƯ và gián tiếp tác động tới nền kinh tế. Trên thực tế thì cơ chế hoạt động và các tác động tiêu cực cũng như tích cực của các công cụ này là rất phức tạp. Tất cả những kiến thức mà em đã trình bày với mong muốn được hiểu sâu hơn về đề tài hấp dẫn này . Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35176.doc
Tài liệu liên quan