Ngành kiểm toán Việt Nam trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới

Mục lục Lời nói đầu .................................................................................................................3 Phần I: Hội nhập kinh tế và những vấn đề đặt ra với ngành kiểm toán của Việt nam....................................................................................................................5 1. Xu hướng hội nhập kinh tế trên thế giới.........................................................5 2. Quan điểm và định hướng của Đảng và Nhà nước ta về

doc47 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1443 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Ngành kiểm toán Việt Nam trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vấn đề hội nhập.............. ..........................................................................................5 3. Vai trò của hoạt động kiểm toán trong quá trình hội nhập............................7 4. Những yêu cầu đặt ra đối với ngành kiểm toán của Việt nam......................12 Phần II: Hoạt động kiểm toán ở Việt nam hiện nay............................................14 1. Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của ngành kiểm toán Việt nam.............. ....................................................................................................14 2. Thực trạng của dịch vụ kiểm toán ở Việt nam hiện nay...............................17 2.1. Tổ chức công tác kiểm toán........................................................................17 2.2. Tổ chức bộ máy kiểm toán..........................................................................21 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kiểm toán.........................................................25 3. Thời cơ và thách thức đối với ngành kiểm toán Việt nam trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới.............................................................................30 Phần III: Định hướng và giải pháp phát triển ngành kiểm toán ở Việt nam để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế........................................................34 1. Định hướng cơ bản đẩy mạnh phát triển dịch vụ kế toán, kiểm toán trong giai đoạn tới...................................................................................................34 2. Giải pháp.........................................................................................................35 2.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán.................................35 2.2. Đổi mới chương trình nội dung đào tạo......................................................37 2.3. Mở rộng phậm vi, quy mô thị trường kiểm toán.........................................38 2.4. Nâng cao năng lực và vai trò hoạt động của các tổ chức nghề nghiệp.... 39 2.5. Một số giải pháp khác................................................................................40 Kết luận....................................................................................................................42 Danh mục tài liệu tham khảo....................................................................................43 lời nói đầu Toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình kinh tế –xã hội khách quan .Thực chất đó là quá trình tăng lên những mối liên hệ, sự ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau của các dân tộc, quốc gia và khu vực trên thế giới .Toàn cầu hoá bắt nguồn từ sự xã hội hoá của lực lượng sản xuất và đồng thời với nó là sự phát triển của quan hệ sản xuất, nó đưa tới sự phát triển ở trình độ mới mối quan hệ biện chứng giữa lực luợng sản xuất trên qui mô toàn cầu hoá .Chính vì vậy tác động của nó gây nên sự biến đổi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội mà toàn cầu hoá trở thành vấn đề chính trị cực kì quan trọng của thời đại hiện nay .Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế gia tăng với các biểu hiện mới về vai trò ngày càng lớn của hoạt động tài chính –tiền tệ ;sự gia tăng của mậu dịch quốc tế nhanh hơn nhiều tốc độ tăng trưởng kinh tế; việc gia tăng làn sóng sát nhập các công ty xuyên quốc gia.Thể chế kinh tế thế giới chuyển theo hướng thị trường hoá nền kinh tế của từng quốc gia ,quốc tế thể chế kinh tế giữa các nước theo hướng mở cửa, thành lập và phát triển các tổ chức quốc tế ,các liên kết kinh tế khu vực dưới dạng hiệp hội mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, khu vực đầu tư tự do, liên minh, liên kết . Không một quốc gia, dân tộc nào có thể phát triển được nếu không hội nhập kinh tế quốc tế và đứng ngoài quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Hội nhập cho chúng ta cơ hội để phát triển lợi thế so sánh của mình, thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế trong nước tiếp cận với công nghệ kĩ thuật tiên tiến trên thế giới với mục đích giúp cho một nước đang phát triển lạc hậu như nước ta có thể rút ngắn thời gian phát triển của mình đồng thời cải thiện được mức sống của người dân và trong bối cảnh hiện nay,hội nhập kinh tế là xu hướng không thể thiếu được để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. Đồng thời có tự chủ về kinh tế mới có thể chủ động hội nhập hiệu quả như mong muốn .Là một nước đang phát triển, trong qúa trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có điều kiện để tận dụng mọi cơ hội có thể co để phát triển nhanh; đồng thời phai đối mặt với nhiều khó khăn , thách thức to lớn không dễ vuợt qua . Trong xu hướng toàn cầu hoá chung, tiến trình mở cửa của Việt Nam cũng cho thấy quá trình tự do hoá không chỉ dừng lại ở các quan hệ giao dịch thương mại hàng hoá mà còn mở rộng đối với cả các hoạt động cung cấp dịch vụ ,mà trước hết là dịch vụ tài chính , dịch vụ kế toán ,kiểm toán . Nguyên nhân là để có thể thu hút một lượng vốn đầu tư từ bên ngoài vào Việt Nam ,ngoài tình hình ổn định về môi trường đầu tư , về kinh tế , về chính trị , xã hội ,đã phát sinh nhu cầu dịch vụ kế toán , kiểm toán nhằm đưa ra sự minh bạch và công khai các thông tin tài chính đồng thời tạo ra niềm tin cho các nhà đầu tư , cũng những người quan tâm . Kiểm toán là một loại hình dịch vụ mới mẻ ở Việt Nam , tiến trình hội nhập đã tạo ra và góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý, môi trường hoạt động cho dịch vụ này. Nhưmg quá trình hội nhập cũng đòi hỏi ngành kiểm toán Việt Nam cần phải phát huy nội lực của mình ,không ngưng nâng cao về chất lượng và qui mô ,tiến dần đến trình độ chung trên thế giới, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Do vậy cần phải nghiên cứu vấn đề kiểm toán Việt Nam trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới một cách nghiêm túc. Từ đó xác định được điều kiện và cơ hội để tận dụng ,đồng thời phải dự báo, sớm đưa ra những phán đoán đúng về những khó khăn, thách thức sẽ gặp phải và đưa ra các giải pháp phát triển thị trường dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế. PHầN I : Hội nhập kinh tế và những yêu cầu đặt ra với ngành Kiểm toán Việt Nam 1. Xu hướng hội nhập kinh tế thế giới Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một xu thế phát triển của quan hệ quốc tế hiện đại. Xu thế này phát triển mạnh mẽ trong những năn qua và sẽ tiếp tục phát triển trong thế kỉ tới. Quá trình này được thể hiện rất rõ trong sự gia tăng rất nhanh của trao đổi quốc tế về thương mại, dịch vụ tài chính và các yếu tố sản xuất cũng như hình thành các khu vực thương mại tự do và các khối liên kết trên thế giới. Các tổ chức như liên minh Châu Âu (EU) khối mậu dịch tự do Băc Mỹ (NAFTA), tổ chức thương mại thế giới (WTO),nhóm các nước kinh tế phát triển (G8),các tổ chức khu vực Đông Nam á (ASEAN, APEC…) ngày càng trở nên quen thuộc với các nước trên thế giới. Hình thức hội nhập có thể là song phương hoặc đa phương, nhưng dù dưới hình thức nào thì nó cũng tạo ra những cơ hội và thách thức cho các bên tham gia. Vì vậy nó đòi phải có sự chuẩn bị thật kĩ để nắm bắt được cơ hội ,hoá giải được thách thức và nguy cơ đưa đất nước mình phát triển ngày càng mạnh mẽ . Xu hướng hội nhập còn thể hiện rõ trong mỗi quốc gia. Đó là sự hội nhập, giao lưu văn hoá, kinh tế, chính trị giữa các vùng, miền, các dân tộc. Như vậy chúng ta thấy xu hướng hội nhập là tất yếu khách quan, nó đang diễn ra trong phạm vi một quốc gia, một khu vực hay toàn thế giới. 2. Quan điểm và định hướng của Đảng và nhà nước ta về vấn đề hội nhập Cùng với xu hướng chung của thế giới,Việt Nam đã và đang từng bước mở rộng thị trường, chẩn bị sẵn sàng cho tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới . Từ đầu thập niên 1990, Việt Nam đã thực hiện những bước đầu tiên trong quá trình hội nhập quốc tế của mình . Năm 1993, Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế như : quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển Châu á (ADB). Ngày28/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của hiệp hội các nước Đông Nam á và ngày 15/12/1995, Việt Nam chính thức tham gia vào khu vực mậu dịch tự do Châu á (AFTA)bằng việc kí kết thoả ước về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Tháng 1/1995,Việt Nam đã gửi đơn ranhập tổ chức(WTO).Ngày 18/11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương(APEC). Ngày 13/7/2000, Việt Nam kí hiệp định thương mại Việt Mĩ, năm 2001 Quốc Hội đã phê chuẩn hiệp định đó , có hiệu lực thi hành từ tháng 12/2001. Đại hội 9 của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định: "Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực , vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giưã các nền kinh tế. Quan hệ song phương và đa phương giữa các quốc qia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hoá… Các công ty xuyên quốc gia tiếp tục cấu trúc lại , hình thành các tập đoàn khổng lồ chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế". Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế là một quá trình vừa hợp tác để phát triển , vừa đấu tranh rất phức tạp , đặc biệt là đấu tranh giữa các nước đang phát triển bảo vệ lợi ích của mình , vì một trật tự kinh tế công bằng , chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế, các công ty xuyên quốc gia. Đối với nước ta, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới được nâng lên một bước mới ,gắn với việc thực hiện các cam kết quốc tế ,đòi hỏi chúng ta phải ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá chung, tiến trình mở cửa nền kinh tế của Việt Nam cũng cho thấy quá trình tự do hoá không chỉ dừng lại ở các quan hệ giao dịch thương mại hàng hoá mà còn mở rộng đối với cả các hoạt động cung cấp dịch vụ .Cho đến nay điều này đã được thể hiện rõ nhất trong hiệp định Việt Nam –Hoa Kì, Trong hiệp định này, Việt Nam và Hoa Kì cũng đã thoả thuận các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ chủ yếu căn cứ trên cơ sở hiệp định về dịch vụ của WTO. Ta đã cam kết mở 55 cửa trong số 155 phân ngành dịch vụ khác nhau, trong số đó có các dịch vụ về kinh doanh bảo hiểm, kế toán kiểm toán và tư vấn thuế là những ngành dịch vụ quan trọng và tất yếu phải mở cửa khi ngày càng nhiều các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài đến kinh doanh và hoạt động ở Việt Nam. Trong quá trình hội nhập này thì hoạt động kiểm toán đóng vai trò rất quan trọng. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán đã trở thành nhu câu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng quản lý của các doanh nghiệp. Hạch toán kế toán và kiểm toán là hai hoạt động luôn đi liền với nhau, tiếp nối nhau. Nếu kế toán làm nhiệm vụ thu thập cung cấp và xử lý những thông tin thì kiểm toán là sự xác nhận tính khách quan, tính chuẩn xác của thông tin ,phục vụ có hiệu quả cho các đối tượng sử dụng thông tin kế toán .Vì vậy kiểm toán chỉ thực sự phát sinh và phát triển trong nền kinh tế thị trường – nền kinh tế hoạt động đa dạng và sôi động . 3. Vai trò của hoạt động kiểm toán trong quá trình hội nhập Ta có thể xem xét vai trò tác dụng của kiểm toán trong quản lý qua một vài điểm sau: Thứ nhất: Kiểm toán tạo niềm tin cho những người quan tâm. Trong cơ chế thị trường, có nhiều người quan tâm đến tình hình tài chính và sự phản ánh của nó trong các tài liệu kế toán .Những người quan tâm đó bao gồm có các cơ quan nhà nước, các nhà đầu tư, các nhà quản lý khách hàng và người lao động … Trong đó cơ quan nhà nước cần có thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật hay chính sách kinh tế nói chung của mình với mọi thành phần kinh tế ,với mọi hoạt động xã hội .Đặc biệt, các khoản thu chi của ngân sách nhà nước, các khoản vốn liếng và kinh phí nhà nước đầu tư cho các đơn vị kinh doanh hoặc sự nghiệp và tài sản tài nguyên quốc gia …càng cần được giám sát chặt chẽ theo hướng đúng pháp luật và có hiệu quả. Chỉ có hoạt động kiểm toán phát triển trên cở khoa học thực sự mới đáp ứng được những yêu cầu thông tin cho những quyết sách của nhà nước và kế toán mới thực sự trở thành cái nền vững chắc cho cả sự can thiệp trực tiếp lẫn quản lý gián tiếp của nhà nước . Các nhà đầu tư cần có tài liệu tin cậy để trước hết có hướng đầu tư đúng đắn ,sau đó có điều hành và sử dụng vốn đầu tư và cuối cùng có tài liệu trung thực về kết quả đầu tư. Trong cơ chế thị trường do tính đa phương hoá đầu tư và đa dạng hoá các thành phần kinh tế nên các nhà đầu tư không chỉ bao gồm các nhà đầu tư trong nước mà còn có cả các nhà dầu tư nước ngoài ; với nhà đầu tư trong nước cũng không chỉ có Nhà nước mà còn có cả các cổ đông, các xã viên và các nhà đầu tư khác : trong đầu tư cũng không chỉ có đầu tư trực tiếp mà còn đầu tư gián tiếp …Để thu hút vốn của các nhà đầu tư và tạo cơ hội thuận lợi cho việc sử dụng hợp lý mọi nguồn đầu tư ,cần có những thông tin trung thực và khách quan về tình hình tài chính trước hết và chủ yếu thông qua kiểm toán toàn bộ các bảng khai tài chính về tài sản,về thu nhập, về chi phí cùng các bảng thuyết minh kèm theo. Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà quản lý khác, họ cần thông tin trung thực không chỉ trên các bảng khai tài chính mà còn về thông tin cụ thể về tài chính ,về hiệu quả và hiệu năng của mỗi bộ phận để có những quyết định trong mọi giai đoạn quản lý kể cả tiếp nhân vốn liếng, chỉ đạo và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh và hoạt động quản lý …những thông tin đó chỉ được thông qua hoạt động kiểm toán. Người lao động cũng cần có thông tin tin cậy về kết quả kinh doanh, về ăn chia phân phối, về thực hiện chính sách tiền lương và bảo hiểm…Những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng thông qua hệ thống kiểm toán hoàn chỉnh . Khách hàng và nhà cung cấp những người quan tâm khác cũng cần hiểu rõ thực chất về kinh doanh và về tài chính của các đơn vị được kiểm toán về nhiều mặt .Số lượng và chất lượng sản phẩm hàng hoá, cơ cấu tài sản, và khả năng thanh toán, hiệu năng và hiệu quả của các bộ phận cung ứng, tiêu thụ và sản xuất ở đơn vị được kiểm toán. Tất cả 5 những người quan tâm này không cần hoặc không thể biết tất cả các nghiệp vụ của "nghề" tài chính, kế toán nhưng cần biết thực trạng hoạt động này. Chỉ có kiểm toán mới mang lại cho họ niềm tin vào những xác minh độc lập và khách quan. Thứ hai: Kiểm toán còn hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nền nếp hoạt động tài chính, kế toán nói riêng và hoạt động của quản lý nói chung. Mọi hoạt động đặc biệt là hoạt động tài chính, đều bao gồm các mối quan hệ đa dạng, luôn biến đổi và được cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Để hướng các nghiệp vụ này vào mục tiêu, giải quyết các mối quan hệ trên, không chỉ cần có định hướng đúng và thực hiện tốt mà còn cần phải thường xuyên soát xét việc thực hiện để hướng các nghiệp vụ vào quĩ đạo mong muốn. Hơn nữa, chính định hướng và tổ chức thực hiện cũng chỉ được thực hiện tốt trên cơ sở những bài học từ soát xét và uốn nắn thường xuyên những lệch lạc trong quá trình thực hiện . Hoạt động tài chính lại bao gồm nhiều mối quan hệ về đầu tư, về kinh doanh, về phân phối về thanh toán. Tính phức tạp của hoạt động ngày càng tăng lên bởi quan hệ chặt chẽ giữa các quan hệ tài chính với lợi ích con người .Trong khi đó, thông tin kế toán là sự phản ánh của hoạt động tài chính . Ngoài việc chứa đựng những phức tạp của các quan hệ tài chính, thông tin kế toán còn là sản phẩm của quá trình sử lý thông tin bằng phương pháp kỹ thuật rất đặc thù . Do đó , nhu cầu hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nền nếp trong quản lý tài chính càng có đòi hỏi thường xuyên và ở mức độ cao hơn. Đặc biệt nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế trong đó có các quan hệ tài chính, chế độ kế toán thay đổi nhiều lần cùng với sự bung ra của các thành phần kinh tế và các hoạt động kinh doanh khác nhau ở các tổ chức kinh tế xã hội khác nhau. Trong khi đó, ở nhiều nơi, nhiều lúc, công tác kiểm tra, kiểm soát chưa chuyển hướng kịp thời, dẫn tới tình trạng kỉ cương bị buông lỏng ; nhiều kỉ cương trong kế toán, tài chính đã được tạo lập trước đây cũng bị phá vỡ, nhiều tổ chức kế toán và đơn vị kinh doanh ngoài quốc doanh không làm kế toán …Thực tiễn đó, đặc biệt ở thời kì đầu của công cuộc đổi mới, đã làm nảy sinh rõ ràng chưa thể tiến hành cải cách công tác kiểm tra trong khi chưa triển khai toàn diện và rộng khắp công tác kế toán . Tuy nhiên kinh nghiệm thực tế đã chỉ rõ, chỉ có triển khai tốt hơn công tác kiểm toán mối có thể nhanh chóng đưa công tác tài chính kế toán đi vào nền nếp .Thực tiễn đó đã chứng minh rõ tác dụng hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nền nếp tài chính, kế toán , kiểm toán . Thứ ba , kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý: Rõ ràng, kiểm toán không chỉ xác minh rõ độ tin cậy của thông tin mà còn tư vấn về quản lý . Có thể thấy đặc biệt rõ tác dụng của vai trò tư vấn này trong kiểm toán hiệu năng và hiệu quả quản lý . Vai trò này phát huy rõ trong các đơn vị được kiểm toán thường xuyên . Qua đó tích luỹ kinh nghiệm từ thực tiễn để làm cơ sở cho những bài học tương lai. Việc giải quyết các mối quan hệ kinh tế - xã hội trong đơn vị được kiểm toán phức tạp và đa dạng nhất là trong những bước chuyển đổi cơ chế kinh tế có nhiều quan hệ phức tạp nảy sinh trong cả nhận thức lẫn thực tiễn, có thể thấy rõ tính phức tạp của quan hệ này từ chính những đặc trưng của kinh tế thị trường: lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng, công bằng xã hội, phúc lợi xã hội không còn đủ các điều kiện duy trì và phát triển trong cơ chế thị trường thuần tuý. Cạnh tranh là quy luật đạt tới lợi nhuận, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, cạnh tranh và bình đẳng trước pháp luật. Kinh tế mở cửa, đa phương hoá, đầu tư và mở rộng, các quan hệ quốc tế có lợi ích kinh tế song không phải mọi quan hệ này đều chỉ đơn thuần về kinh tế… Đặc biệt trong điều kiện mới chuyển đổi cơ chế kinh tế, hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh, kinh nghiệm và chuyên gia giỏi về quản lý chưa có nhiều. trong điều kiện đó, duy trì kỷ cương và bảo quản bảo đảm phát triển đúng hướng và chỉ có thể có được trên cơ cở xây dựng đồng bộvà tổ chức thực hiện tốt kiểm toán trên mọi lĩnh vực để trên cơ sở tích luỹ kinh nghiệm từ xác minh đi đến tư vấn cho mọi lĩnh vực hoạt động . Trước xu hướng hội nhập toàn cầu nền kinh tế thế giới và những yêu cầu của kinh tế thị trường hoạt động kiểm toán đã hình thành và phát triển khá mạnh ở Việt Nam. Nhìn chung, hoạt động kiểm toán ở Việt Nam đã không ngừng cải thiện về chất lượng dịch vụ và đã được xác định là ngành thương mại dịch vụ quan trọng trong nền kinh tế. Song song với sự phát triển nhanh chóng của các doanh ngiệp làm dịch vụ kiểm toán là sự hoàn thiện từng bước của môi trường pháp lý và hệ thống các nguyên tắc, thông lệ chuẩn mực về kế toán, kiểm toán. Đây là những điều kiện hết sức thuận lợi để ngành kiểm toán - kế toán nước ta hội nhập vào hệ thống kế toán - kiểm toán khu vực và thế giới .Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế của ngành dịch vụ kiểm toán của nước ta gặp rất nhiều trở ngại. Đó là sự hạn chế về kinh nghiệm hành nghề năng lực quản lý của nhiều công ty kiểm toán. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh trên thị trường chưa thực sự có hiệu quả và thúc đẩy các công ty Việt Nam lớn mạnh, do đó còn có những quy định hạn chế phạm vi hoạt động của các công ty kiểm toán Việt Nam vẫn còn được nhà nước bảo hộ nhiều nên chưa tích cực cải tiến và nâng cao chất lượng hoạt động. Có thể nói dịch vụ tư vấn kế toán-kiểm toán chưa thoả mãn yêu cầu của các đối tưộng sử dụng thông tin kinh tế, tài chính. Mặt khác khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ, nhiều quy định chưa đủ, chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Tổ chức nghề ngiệp còn thiếu và chưa đủ mạnh để tổ chức hướng dẫn, quản lý nghiệp vụ cũng như hành nghề kế toán và kiểm toán ở Việt Nam. Chức danh chuyên gia kế toán (CPA) trong nền kinh tế thị trường chưa được khẳng định. Nhu cầu minh bạch và công khai hoá thông tin kế toán đã có nhưng còn quá ít và chưa trở thành thói quen, chưa được quan tâm và chưa thực sự được coi trọng. 4. Những yêu cầu đặt ra với ngành kiểm toán Việt nam Hội nhập kinh tế nói chung và hội nhập về dịch vụ tài chính nói riêng là xu thế tất yếu, là yêu cầu khách quan trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện nay. Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế này. Do đó, thấy rõ vấn đề thuận lợi và thách thức trong tiến trình hội nhập là hết sức cần thiết. Cần phải nhấn mạnh rằng, trong tiến trình hội nhập, những thuận lợi luôn ở dưới dạng tiềm năng và phụ thuộc rất nhiều vào khả năng khai thác, nắm bắt và năng lực trụ vững, bươn trải của các tổ chức không thuộc Việt Nam. Trong khi đó những thách thức đối với chúng ta là có thực và chắc chắn sẽ xảy ra. Đó là nguy cơ cần phải được đo lường và ngăn chặn. Trước hết, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ góp phần hoàn thiện môi trường thể chế, chính sách trong nước, tham gia hội nhập và chấp nhận các luật lệ của một sân chơi chung sẽ là nền tảng, căn cứ cho quá trình xây dựng các cơ chế, chính sách cho Việt Nam. Môi trường pháp lý điều tiết lĩnh vực thương mại dịch vụ này cần phải điều chỉnh cho phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Ngoài ra tham gia hội nhập chính là cơ hội để Việt Nam tham gia vào việc thiết lập những luật chơi quốc tế, từ đó xây dựng được hướng điều chỉnh môi trường pháp luật trong nước. Hơn nữa, hội nhập quốc tế sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng quan hệ, tiếp cận phương thức và công nghệ quản lý tiên tiến, giám đương đầu với cạnh tranh, đồng thời sẽ thúc ép các doanh nghiệp trong nước phải tiến hành đổi mới, xoá bỏ tính ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà nước. Với đặc thù là những ngành hỗ trợ sản xuất kinh doanh, sự gia tăng về hiệu quả hoạt động của ngành kinh tế, kiểm toán sẽ có tác động trực tiếp làm gia tăng tính hấp dẫn của môi trường sản xuất kinh doanh trong nước. Bên cạnh những thời cơ có được, quá trình mở rộng thị trường dịch vụ kinh tế-kiểm toán đã và sẽ đặt ra nhiều thách thức lớn lao đối với các hoạt động trong lĩnh vực này. Thứ nhất, tham gia hội nhập là chấp nhận cạnh tranh với các doanh nghiệp có quy mô lớn ở cả trên thị trường nước và ngoài nước, trong khi các doanh nhgiệp Viêt Nam nói chung vẫn chưa đủ mạnh. Các công ty hoạt động trên lĩnh vực dịch vụ kế toán, kiểm toán của Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều sức ép cạnh tranh gay gắt từ bên ngoài. Thư hai, cơ chế thị trường ở nước ta còn đang trong quá trình hoàn thiện, nhiều quy định còn chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Điều này càng làm cho quá trình hội nhập trở nên khó khăn hơn. Thứ ba, đa số các doanh nghiệp vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bảo hộ của nhà nước và chưa thật sự sẵn sàng tham gia vào tiến trình hội nhập chung. Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh này là một loại hình dịch vụ mới xuất hiện hơn 10 năm qua ở nước ta, vẫn còn non trẻ do vậy còn rất nhiều người chưa thực hiểu và chưa thấy vai trò của ngành kiểm toán trong vấn đề làm trong sạch môi trường kinh doanh tạo ra sự cạnh tranh công bằng trong các doanh nhgiệp. Với yêu cầu nữa đặt ra với ngành kiểm toán Việt Nam là phải phổ biến nghề nghiệp kiểm toán rộng rãi trong toàn xã hội. Ngành kiểm toán nói riêng cần có cái nhìn thật sự rõ ràng về các vấn đề đặt ra trên bước đường hội nhập . Từ đó các giải pháp vàcác bước phát triển hiệu quả nhằm đưa ngành kiểm toán Việt Nam hội nhập cùng với xu thế phát triển của kiểm toán thế giới nói riêng cũng như nền kinh tế thế giới nói chung. Phần II: Hoạt động kiểm toán ở Việt Nam hiện nay 1. Nền kinh tế Việt Nam và vấn đề kiểm tra, kiểm soát nói chung trong đó có hoạt động kiểm toán Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của ngành kiểm toán Việt Nam. * Lịch sử hình thành ở Việt Nam tuy ba loại hình kiểm toán:kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ ra đời ở những thời điểm khác nhau nhưng đã đạt được những thành tựu đáng kể, bên cạnh đó cũng không thể tránh khỏi những hạn chế. - Kiểm toán độc lập: Kiểm toán độc lập ở nước ta ra đời từ 13/5/1991. Hơn một thập kỷ qua, KTĐL đã hình thành ,phát triển và trở thành một hệ thống phong phú với đầy đủ các hình thức sở hữu :tư nhân nhà nước liên doanh, cổ phần, 100% vốn đầu tư nước ngoài. Kiểm toán độc lập thực chất là một dịch vụ kinh doanh có tính kinh tế cạnh tranh. Trong cơ chế thị trường và sự phát triển mạnh mẽ của KTĐL, đặc biệt xu hướng hội nhập và tư do hoá hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ kế toán và kiểm toán thì cần phải xem xét một số vấn đề về tổ chức công tác, tổ chức bộ máy và kiểm soát chất lượng của KTĐL. Kiểm toán độc lập chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính. Ngoài ra theo yêu cầu của khách hàng, KTĐL còn có thể thực hiện các cuộc kiểm toán: kiểm toán tuân thủ hoặc tiến hành các dịch vụ tư vấn tài chính khác. KTĐL hoạt động theo chế độ của Luật doanh nghiệp nhà nước, luật Công ty và có mục tiêu căn bản là lợi nhuận. Song KTĐL cũng là một tác nhân quan trọng đảm bảo cho sự trong sạch của môi trường thông tin kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường. Mặc dù kiểm toán độc lập ở Việt Nam ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng nhưng vẫn còn những trở ngại cho sự phát triển vững mạnh của nó. Hiện nay chưa có một cơ chế kiểm soát chất lượng hoạt động của KTĐL một cách rõ ràng cụ thể, trong khi đó chất lượng kiểm toán độc lập lại chưa được khẳng định do đó lòng tin của công chúng đối với KTĐL chưa được nâng cao. Được thành lập sau một số công ty KTĐL đó là kiểm toán nhà nước, ra đời ngày 11/7/1994 theo Nghị định 70/CP với chức năng "xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơn quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do nhà nước cấp. - Kiểm toán nhà nước: ở nước ta, trong thời kì quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung và kiểm toán nhà nước nói riêng chưa được quan tâm tới. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, công cuộc đổi mới đã được khởi động chuyển nền kinh tế quốc dân từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế thị trừng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Nền kinh tế quốc dân nước ta trong những năm gần đây phát triển với tốc độ nhanh , với quy mô rộng lớn và đa dạng …Trước tình hình đó, công tác điều hành nền kinh tế quốc dân của nhà nước càng đòi hỏi phải sử dụng một cách có hiệu quả hệ thống các công cụ quản lý , trong đó đặc biệt là công tác kế toán, kiểm toán. KTNN trở thành một trong những nhu cầu quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân của Đảng và Nhà nước nhằm sử dụng tiết kiệm , có hiệu quả ngân sách nhà nước và tài sản quốc gia, chống tiêu cực, tham nhũng. Việc thành lập và phát triển cơ quan KTNN ở nước ta xuất phát từ chính yêu cầu đòi hỏi của công cuộc đổi mới và sự phát triển của nền kinh tế đất nước, cũng là nhằm thực hiện quá trình dân chủ hoá, góp phần vào việc tăng cường và hoàn thiện mội nhà nước pháp quyền, nhà nước của dân, do dân và vì dân. - Kiểm toán nội bộ: Bên cạnh cơ quan KTNN phát huy tác dụng mạnh mẽ trong quản lý của nhà nước còn có KTNB trong hệ thống kiểm soát nội bộ cũng phát huy nhiều tác dụng. Tháng 10/1997, trên cơ sở Luật ngân sách, Chính Phủ đã ban hành Nghị định59/CP và Bộ tài chính ra Quyết định số832/TC/QĐ/CĐban hành Quy chế kiểm toán nội bộ đã đánh dấu sự hình thành các văn bản pháp quy trong lĩnh vực này. Kiểm toán nội bộ và kiểm toán do các kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành. Phạm vi kiểm toán nội bộ xoay quanh việc kiểm tra và đánh giá tính hiệu lực và tính hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Như vậy KTNB là công cụ cần thiết của chủ doanh nghiệp để quản lý, kiểm soát và điều hành kiểm soát để hạn chế rủi ro, ngăn ngừa sai phạm các hoạt động trong công tác quản lý kinh tế, tài chính của doanh nghiệp, làm rõ chức năng đánh giá và xác nhận chất lượng của hoạt động, chất lượng thông tin kinh tế cho đối tượng là chủ doanh nhgiệp. Hoạt động kiểm toán nội bộ được tiến hành trước, trong và sau các hoạt động, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Mặc dù KTNB đã phát huy tác dụng trong công tác quản lý, nhưng tính pháp lý không cao vì KTNB được tổ chức độc lập với bộ phận kế toán, nhưng KTNB là một bộ phận của đơn vị nên không thể hoàn toàn độc lập được, mặt khác các báo cáo kiểm toán được chủ doanh nghiệp tin tưởng nhưng ít có giá trị pháp lý. Kiểm soát nội bộ là một chức năng quản lý trong phạm vi đơn vị. Kiểm soát nội bộ là sự kiểm tra và giám sát mọi hoạt động trong tất cả các khâu của quá trình quản lý nhằm đảm bảo các hoạt động đúng luật phát và đạt được các kế hoạch mục tiêu đề ra với hiệu qủa kinh tế cao nhất và đảm bảo sự tin cậy của báo cáo tài chính. Một trong sự thành công của hệ thống kiểm soát nội bộ là nội dung của hoạt động kiểm soát và kiểm tra kế toán. Hoạt động kiểm soát là hoạt động để thực hiện những chính sách và thủ tục đảm bảo những hoạt động cần thiết sẽ được thiết lập và thực hiện nhằm đảm bảo được kế hoạch, mục tiêu đề ra của đơn vị. Kiểm tra kế toán là xem xét, đối sách dựa trên các chứng từ kế toán, số liệu ở sổ sách, báo biểu kế toán và các tài liệu hạch toán khác, qua đó xác định tính hợp pháp của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tính đúng đắn của việc tính toán, ghi chép, phản ánh tính hợp lý của các phương pháp kế toán được áp dụng. 2. Thực trạng của dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam hiện nay 2.1. Tổ chức công tác kiểm toán Tổ chức công tác kiểm toán là một trong những vấn đề cơ bản bao hàm trong khái niệm tổ chức kiểm toán. Có thể dễ dàng đi đến thống nhất rằng một cuộc kiểm toán chỉ có thể thiện nếu đối tượng được xác định thống nhất giữa chủ thể và khách thể kiểm toán, trong đó chủ thể kiểm toán phải xác định rõ mục tiêu và phạm vi kiểm toán và kết hợp khéo léo các phương pháp các phương pháp kỹ thuật theo trình tự kiểm toán trong khuôn khổ những cơ sở pháp lý nhất định để thực hiện cuộc kiểm toán, thoả mãn nhu cầu khách thể kiểm toán và các bên quan tâm. Theo đó, tổ chức công tác kiểm toán là một vấn đề cơ bản, có ý nghĩa quyết định sự thành công và tính hiệu quả thực hiện một cuộc kiểm toán. Tổ chức công tác kiểm toán hướng tới việc tạo ra mối liên hệ khoa học và nghệ thuật các phương pháp kỹ thuật kiểm toán dùng để xác minh và bày tỏ ý kiến về đối tượng kiểm toán.._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV232.doc
Tài liệu liên quan