Nghiên cứu áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong việc Nhập khẩu linh kiện và lắp ráp xe gắn máy của Công ty Quan hệ Quốc tế Đầu tư sản xuất

Mở Đầu Nền kinh tế Việt Nam kể từ sau khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước đã thu được những thành tựu rất đáng tự hào. Đổi mới đã tạo điều kiện cho hội nhập quốc tế và khu vực trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thêm vào đó là xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại. Các Doanh nghiệp trong nước phải chịu cuộc cạnh tranh với tính chất, quy mô mới. Đó là một trận chiến ác liệt. Về phía khách hàng, với sự tiến bộ của KHKT, hệ thống thông tin cập nhật, đa dạng có thể g

doc56 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1289 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong việc Nhập khẩu linh kiện và lắp ráp xe gắn máy của Công ty Quan hệ Quốc tế Đầu tư sản xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iúp họ lựa chọn những mặt hàng theo mong muốn, phù hợp với nhu cầu, sở thích và túi tiền của mình. Trong bối cảnh đó, Doanh nghiệp nào xác định đúng hướng đi của mình, xác định được lợi thế cạnh tranh và đăc biệt là thực hiện tốt đường lối với khẩu hiệu: "Chất lượng là mục tiêu hướng tới của doanh nghiệp" thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển. Hiện nay, nền kinh tế thị trường làm cho con người trở nên năng động hơn, phương tiện đi lại của họ phải thoả mãn được với điều kiện công việc đi lại của họ. Trong mấy năm trở lại đây đã xuất hiện các loại xe máy của các hãng Trung Quốc. Hầu hết sản phẩm của các hãng này tuy chất lượng chưa cao nhưng nó phù hợp với thu nhập của đại đa số người dân Việt Nam nên trong một thời gian ngắn nó đã được sự hưởng ứng của người tiêu dùng Việt Nam. Tuy thế người tiêu dùng vẫn chưa đánh giá cao chất lượng của các loại xe máy Trung Quốc nên ngày càng ít được quan tâm. Trong thời gian thực tập tại Công ty Quan hệ Quốc tế Đầu tư sản xuất vấn đề nâng cao chất lượng cho các sản phẩm xe máy Trung Quốc đã cuốn hút tôi. Mặc dù Công ty nhập khẩu linh kiện máy móc thiết bị phục vụ cho việc lắp ráp xe gắn máy, một khâu rất quan trọng quyết định chất lượng của sản phẩm. Nhưng nếu Công ty quản lý chất lượng chặt chẽ trong khâu nhập khẩu linh kiện và khâu lắp ráp thì tôi tin chắc sản phẩm cuối cùng của Công ty sẽ có chất lượng tốt. Chính vì thế tôi quyết định chọn đề tài cho luận văn của mình là “Nghiên cứu áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong việc nhập khẩu linh kiện và lắp ráp xe gắn máy của Công ty Quan hệ Quốc tế Đầu tư sản xuất”. Luận văn này ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 3 phần chính: Phần I: Những vấn đề lý luận chủ yếu về hệ thống quản lý chất lượng. Phần II: Tình hình công tác nghiên cứu áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tại CIRI. Phần III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nghiên cứu và đưa vào áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tại CIRI. Phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong luận văn này là : Từ khái quát chung về lý luận đến thực tế kinh doanh, tình hình quản lý chất lượng của Công ty. Phân tích các chỉ tiêu hiệu quả để thấy được những ưu điểm và nhược điểm và nguyên nhân trong việc nâng cao quản lý chất lượng trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu và tình hình áp dụng hệ thống quản lý chất lượng trong quá trình lắp ráp xe máy của CIRI từ đó mà đưa ra những khuyến nghị, giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu, hoạt động quản lý chất lượng của Công ty. Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn tới GS.TS nguyễn kế Tuấn đã hướng dẫn và các cán bộ công nhân viên ở Công ty Quan hệ Quốc tế Đầu tư sản xuất đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Hà Nội tháng 3 năm 2004 Sinh viên Trương Tất Thành Phần I: những VấN Đề lý luận chủ YếU về hệ thống quản lý chất lượng. I. Khái niệm Và NộI DUNG về quản lý chất lượng. 1.Khái niệm và đặc trưng về chất lượng. 1.1Khái niệm chất lượng. Đứng trên các góc độ khác nhau, ở các thời điểm khác nhau có rất nhiều quan niệm về chất lượng khác nhau. Theo ISO 8402:1994: chất lượng là tập hợp những đặc tính của một thực thể, tạo cho thực thể đó khả năng thoã mãn nhu cầu đã xác định hoặc tiềm ẩn. Theo ISO 2000: chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu. Thuật ngữ chất lượng có thể sử dụng với các tính từ như kém, tốt, tuyệt hảo…“vốn có” nghĩa là tồn tại trong một cái gì đó, đặc biệt như một đặc tính lâu bền hay vĩnh viễn. Chất lượng là một tập hợp những tính chất và những đặc trưng của sản phẩm và dịch vụ có khả năng thoã mãn nhu cầu đã nêu hoặc nhu cầu tiềm ẩn. 1.2 Đặc trưng cơ bản của chất lượng. - Chất lượng sản phẩm là một khái niệm phức tạp và tổng hợp bao gồm nhiều yếu tố kinh tế, xã hội và công nghệ. - Chất lượng sản phẩm có tính tương đối theo thời gian và không gian. Chất lượng liên tục thay đổi có thể được đánh giá cao ở thời điểm này nhưng không được đánh giá cao ở thời điểm khác. - Chất lượng phải phù hợp từng loại thị trường riêng, được đánh giá cao ở vùng này nhưng không được đánh giá cao ở vùng khác. - Chất lượng là một khái niệm vừa trừu tượng vừa cụ thể. Tính trừu tượng, đó là sự phù hợp, sự thoã mãn khách hàng, nó mang tính chủ quan, phụ thuộc vào nhận thức của khách hàng rất khó đánh giá. Tính cụ thể biểu hiện qua những chỉ tiêu chất lượng cụ thể. - Chất lượng sản phẩm được thể hiện trong hai loại chất lượng : Chất lượng trong tuân thủ thiết kế (theo tiêu chuẩn làm cơ sở thiết kế), phấn đấu nâng cao chất lượng theo dạng này nhằm mục đích giảm phế phẩm, giảm giá thành sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh về mặt giá cả. Chất lượng trong sự phù hợp (chất lượng thiết kế), phụ thuộc vào trình độ của thiết kế của sản phẩm khi nâng cao chất lượng loại này sẽ tăng khả năng hấp dẫn và thu hút khách hàng, tăng tiêu thụ sản phẩm. Chất lượng sản phẩm chỉ được biểu hiện đúng trong những điều kiện tiêu dùng xác định với những mục đích sử dụng cụ thể. Phần II tình hình công tác nghiên cứu và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tại ciri I.giới thiệu chung về Công ty. 1.Quá trình hình thành và phát triển. Công ty Quan hệ Quốc tế và Đầu tư (CIRI – Center of International Relation and Investment) được thành lập tháng 3/1997, giấy phép đăng ký kinh doanh số 306546 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà nội cấp ngày 20/3/1997, mã số thuế: 0100108247-001-1, trực thuộc Tổng Công ty công trình giao thông 8 – Bộ giao thông vận tải, vốn pháp định của Tổng Công ty: 179 tỷ đồng. Công ty Quan hệ Quốc tế và Đầu tư (CIRI) là một doanh nghiệp thành viên của Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 8 – CIENCO 8, một Tổng Công ty mạnh của ngành giao thông vận tải có bề dày kinh nghiệm hơn 30 năm hoạt động với 22 đơn vị trực thuộc và trên 5000 cán bộ công nhân viên. Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 8 – CIENCO 8 thường xuyên thắng thầu các dự án quốc tế và đã thi công nhiều công trình có quy mô lớn ở trong nước và Quốc tế. Với phương châm đa dạng hoá sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm, CIRI đã và đang quan hệ hợp tác tích cực, có hiệu quả với nhiều đối tác trên thế giới : Đức, Nhật, SNG, Trung Quốc, ASEAN, Đài loan, Hàn quốc,..và các đơn vị trong nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau. CIRI không ngừng xây dựng và phát triển theo hướng trở thành một doanh nghiệp mạnh, kinh doanh đa ngành. Với đội ngũ cán bộ trẻ, có trình độ, năng động, sáng tạo CIRI mong muốn và sẵn sàng hợp tác với tất cả các đối tác trong nước và quốc tế. Trọng tâm là cung ứng các vật tư thiết bị cho trong và ngoài ngành, sản xuất, lắp ráp xe gắn máy hai bánh và xuất khẩu lao động. Một trong những thế mạnh của CIRI là cung ứng các thiết bị, máy móc thi công, máy xây dựng, phấn đấu thực hiện tốt cung ứng vật tư, thiết bị cho các đơn vị, trong đó đặc biệt cung ứng cho các đơn vị thành viên, các ban quản lý dự án của TCT XDCTGT 8 CIRI luôn luôn có sự liên kết chặt chẽ với nhiều hãng máy móc thi công nổi tiếng trên thế giới như: Beut Hauser, Mercedes Benz (Cộnghòa Liên Bang Đức), Hyundai (Hàn quốc), Komatsu (Nhật), Ford (Mỹ),.. Chính điều này đã cho phép CIRI hạ giá thành cung cấp hàng loạt dịch vụ kèm theo trong hoạt động Marketing bán hàng, giúp cho khách hàng có được sự lựa chọn đúng đắn nhất. Theo giấy phép xuất khẩu lao động số 70/ LĐTBXH – GPHD ngày 31/3/1999 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và uỷ quyền của Tổng Công ty XDCTGT 8, để giải quyết việc làm, nâng cao đời sống người lao động. CIRI đang tích cực quan hệ, tìm hiểu thị trường để xuất khẩu lao động đi các nước, hợp tác liên doanh với các nhà thầu nước ngoài: Nhật, Hàn quốc, Đài loan,.. với phương châm bảo đảm chất lượng và kỷ luật lao động. 2. Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Tổ chức bộ máy của Công ty Quan hệ quốc tế và Đầu tư được tổ chức theo cơ cấu phòng ban chuyên trách thống nhất quản lý từ giám đốc cho đến từng nhân viên của Công ty. Quyền lực tập trung ở giám đốc và ban lãnh đạo. Chịu trách nhiệm chính và quản lý hoạt động của mỗi phòng ban là trưởng phòng. Các phòng ban của CIRI làm việc theo nguyên tắc độc lập, tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong phạm vị của mình. Tuy nhiên giữa các phòng ban có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để giải quyết công việc chung của Công ty và tạo điều kiện cho các bộ phận chức năng hoạt động thuận lợi. Sơ đồ bộ máy tổ chức của CIRI Giám đốc Phòng tổ chức hành chính Phòng tài chính kế toán tổng hợp Phòng tổ chức cán bộ Phòng Dự án và XKLĐ Văn phòng KDTH Xưởng sản xuất, lắp ráp xe gắn máy Xưởng sản xuất, lắp ráp ắcquy Hệ thốngcửa hàng Tiêu thụ sản phẩm Hệ thống bảo dưỡng Bảo hành Bộ phận XKLĐ Tổ dự án khác Đội xây dựng Tổ dự án giao thông ( Nguồn : Điều lệ hoạt động của Công ty) ã Chức năng, nhiệm vụ của ciri. ãTrực tiếp xuất nhập khẩu cung ứng vật tư thiết bị tổng hợp. ãXuất khẩu lao động, kinh doanh dịch vụ đào tạo kỹ thuật . ãSản xuất phụ tùng, lắp ráp xe gắn máy 2 bánh các loại . ãSản xuất, lắp ráp ắc quy ô tô, ắc quy xe máy các loại . ãKinh doanh vật tư, thiết bị y tế . ãKinh doanh vật tư, thiết bị nghe nhìn, quảng cáo . ãTư vấn đầu tư, xây dựng các công trình giao thông công nghiệp, thuỷ lợi, quốc phòng, và dân dụng. 3.Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của CIRI. 3.1.Đặc điểm về bộ máy quản lý. Về bộ máy quản lý của Công ty, Công ty có một Giám đốc và các Trưởng phòng, Phó phòng. Giám đốc có quyền hạn trong việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm trước kết quả kinh doanh của Công ty, chịu trách nhiệm trước Tổng Công ty và trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty. Ngoài ra giám đốc còn có quyền hạn là đề nghị Tổng Công ty quyết định tổ chức bộ máy quản lý, bộ máy sản xuất kinh doanh để thực hiện nhiệm vụ của Công ty. Còn các Trưởng phòng, Phó phòng có trách nhiệm thay mặt phòng quan hệ với các đơn vị có liên quan về công tác hoạt động sản xuất kinh doanh liên quan đến công việc của phòng mình. Các trưởng phòng còn có quyền hạn phân công, kiểm tra, giám sát việc thực hiện đối với các cán bộ công nhân viên trong phạm vi quản lý của phòng. 3.2.Đặc điểm về lao động. Do công việc chủ yếu của Công ty là lắp ráp xe gắn máy nên đòi hỏi công nhân phải có kinh nghiệm, tay nghề trong lĩnh vực này và công nhân chủ yếu là nam. Hiện nay số CBCNV của Công ty là 224 người, trong đó: ãTrực tiếp : 205 ãGián tiếp : 19 ãCán bộ quản lý, kỹ thuật : 75 ãTrên đại học : 6 ãKĩ sư :68 ãTrung cấp : 10 ãCông nhân kỹ thuật : 121 Tuỳ thuộc vào đòi hỏi của tình hình thực tế ở từng giai đoạn và xét thấy cần thiết, Giám đốc Công ty có thể quyết định thành lập thêm các phòng ban chuyên môn, nghiệp vụ khác để khắc phục cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh của Công ty. 3.3. Đặc điểm về máy móc thiết bị. Do công việc chính của công nhân của Công ty là lắp ráp xe máy nên các máy móc thiết bị được sử dụng trong Công ty gồm rất nhiều loại, nó được sử dụng trên một dây chuyền lắp ráp. Cụ thể được liệt kê trong danh mục các thiết bị, dụng cụ phục vụ cho việc lắp ráp xe máy: Tên gọi thiết bị Đơn vị tính Số lượng Dây chuyền lắp ráp xe máy Bộ 01 Tuýp 8 + khâu nối Chiếc 10 Tuýp 10 + khẩu nối Chiếc 20 Cờ lê cân vành Chiếc 10 Thước cặp kỹ thuật Chiếc 01 Bộ cờ lê Chiếc 02 Búa cao su Chiếc 10 Kìm cắt dây điện Chiếc 10 Đồng hồ bơm lốp Chiếc 2 Súng xì hơi Chiếc 2 Bộ súng nối vào dàn hơi Chiếc 1 Thiết bị đóng phuốc trên Chiếc 2 Thiết bị đóng phuốc dưới Chiếc 2 (Nguồn: phòng vật tư kỹ thuật của Công ty) 3.4. Đặc điểm về nguyên vật liệu. Cùng với các yếu tố khác như con người, máy móc thiết bị, công nghệ, tiền vốn…nguyên vật liệu là yếu tố cơ bản cấu thành nên sản phẩm. Do đặc điểm sản xuất của Công ty có khác hơn so với các Doanh nghiệp sản xuất khác, đó là Công ty chỉ nhập khẩu nguyên vật liệu rồi lắp ráp thành sản phẩm chứ không phải chế biến gì thêm. Nguyên vật liệu duy nhất của Công ty là các linh kiện, phụ tùng, máy móc thiết bị phục vụ cho việc lắp ráp hoàn chỉnh một chiếc xe máy. Vì thế Công ty không thể quyết định được chất lượng của nguyên vật liệu mà chỉ có cách kiểm tra chất lượng khi nhập khẩu và phải coi trọng tìm nhà cung ứng có uy tín để có thể được cung cấp nguyên liệu có chất lượng tốt. Có như thế thì trong quá trình sản xuất của mình Công ty mới hy vọng cho ra các sản phẩm có chất lượng. Nguyên vật liệu của Công ty chủ yếu được nhập từ Trung Quốc và một số linh kiện mua nội địa hoá. Sơ đồ quá trình nhập khẩu bộ linh kiện IKD Bước Trách nhiệm Nội dung Kết thúc Hoàn chỉnh hồ sơ Bàn giao hàng Tiếp nhận hàng Làm thủ tục Ký hợp đồng Duyệt Soạn hợp đồng PAKD Đàm phán Xem xét Yêu cầu 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Phòng xe máy Phòng xe máy Trưởng phòng xe máy Phòng xe máy Phòng xe máy Giám đốc Phòng TC-KT Giám đốc Phòng TC-KT Phòng xe máy Phòng xe máy Phòng xe máy Kho, dây chuyền Phòng xe máy Phòng dự án 4. Tình hình sản xuất kinh doanh của CIRI. 4.1 Các sản phẩm chủ yếu. Do đặc điểm kinh doanh của CIRI là nhập khẩu máy móc thiết bị, nhập linh kiện, phụ tùng xe máy nên sản phẩm chủ yếu mà CIRI có thể tạo ra chỉ có xe máy nguyên chiếc. Còn các máy móc thiết bị phục vụ cho GTVT thì CIRI chỉ được xem như là trung gian giữa người mua trong nước và người bán nước ngoài. Các sản phẩm xe máy của CIRI chủ yếu gồm các loại của Trung Quốc mang nhãn hiệu như: Wana C110, Wake up C110, Prealm II C100, Proud C100… 4.2 Tình hình sản xuất kinh doanh của CIRI. Theo giấy phép kinh doanh, CIRI được phép hoạt động kinh doanh trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên trong thời gian qua hoạt động kinh doanh đem lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp là : Lĩnh vực lắp ráp, sản xuất và nội hoá môtô 2 bánh . Lĩnh vực kinh doanh vật tư, thiết bị. *Lĩnh vực sản xuất, lắp ráp và nội hoá môtô 2 bánh Đầu năm 1998, CIRI được cấp giấy phép nhập khẩu, sản xuất, lắp ráp và nội hoá môtô 2 bánh Trung quốc dạng IKD. CIRI đã đầu tư lắp đặt một dây truyền lắp ráp của tập đoàn ZONG SHEN –Trùng Khánh – Trung quốc với tổng mức đầu tư 750.000$ tại địa điểm 16-18 Phan Chu Trinh – Hà Nội trong thời gian 5 năm. Hiện nay trong cả nước có trên 30 Doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này. CIRI tuy là doanh nghiệp mới bước vào kinh doanh, nhưng đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ và tỏ rõ thế mạnh của mình. Phương thức kinh doanh môtô 2 bánh dạng IKD đòi hỏi phải nhập khẩu linh kiện của nước ngoài và mua thiết bị, phụ tùng nội hoá trong nước. Chính vì vậy, để đánh giá được hiệu quả của phương thức kinh doanh này cần phải phân tích hai hoạt động cơ bản: hoạt động nhập khẩu linh kiện và hoạt động thu mua thiết bị, phụ tùng, linh kiện nội hoá trong nước. CIRI thực hiện phương thức kinh doanh này với các nhãn hiệu xe máy là : WANA C110, PREALM II C100,WAKE UP C110, PROUD C100,.. a.Nhập khẩu linh kiện nước ngoài Nhập khẩu trở thành yếu tố chủ yếu đảm bảo cho hoạt động kinh doanh môtô 2 bánh của CIRI. Do vậy, kể từ khi triển khai kinh doanh lĩnh vực này, CIRI đã chú Với tỷ lệ chiếm trên 85% giá trị toàn bộ, linh kiện trọng khai thác nguồn hàng đảm bảo chất lượng và ổn định. CIRI đã kí hợp đồng cung cấp linh kiện hai loại môtô 2 bánh PREALM và WANA với các nhà cung cấp linh kiện môtô 2 bánh của Thái lan : A&H International Co.Ltd, Century S.F Import-Export,.. và hiện tại vừa kí thêm hợp đồng cung cấp linh kiện với tập đoàn ZONG SHEN – Trùng Khánh – Trung Quốc cho loại xe mới CIRIZ C110. Tình hình nhập khẩu linh kiện được cụ thể hoá theo biểu sau: Bảng 1: Tình hình nhập khẩu linh kiện xe máy IKD Trung quốc Tên xe Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Lượng (c) Tiền (tr đ) Lượng (c) Tiền (tr đ) Lượng (c) Tiền (tr đ) Wake up 15.000 122.363 18.000 146.836 29.233 238.478 Pround -0- -0- 120 1.063 300 2.658 Wana 7.500 70.318 9.871 92.549 12.585 117.992 Prealm 8.000 64.831 11.236 91.055 17.666 143.163 FX -0- -0- 45 1.142 90 2.286 Avenis -0- -0- 15 382 40 1.018 HadoSiva -0- -0- 90 1.595 150 2.659 Tổng 30.500 257.512 39.377 333.198 60.064 5.082.462 (Báo cáo tổng kết kinh doanh năm 2001 của CIRI) Hoạt động nhập khẩu xe máy phụ thuộc rất nhiều vào thị trường. Điều này thể hiện rõ trong cơ cấu mặt hàng nhập khẩu xe máy của CIRI. Năm 1998 là năm đầu tiên tiến hành triển khai hoạt động nhập khẩu, sx nội hoá xe máy nên CIRI mới chỉ tiến hành kinh doanh mang tính thăm dò. Những mặt hàng được triển khai chính là những sản phẩm chiến lược của CIRI sau này : Wake up, Wana, Prealm II và đã đạt kết quả tiêu thụ tốt. Như vậy là CIRI đã xác định đúng nhu cầu thị trường. Phát huy kết quả đó năm ’99 CIRI quyết định tăng khối lượng nhập khẩu. Những sản phẩm chủ lực vẫn tiêu thụ tốt và tăng mạnh so với năm ’98, đồng thời CIRI triển khai thêm mặt hàng mới là xe Pround. Những sản phẩm có giá trị cao và nguồn gốc không phải là xe Trung Quốc như: FX, Avenis, HadoSiva nằm trong kế hoạch đa dạng hoá sản phẩm của Trung tâm dựa vào kênh phân phối đã được triển khai cho những sản phẩm trước đó và sự uỷ thác của những doanh nghiệp thương mại khác. Năm 2001, sản lượng nhập khẩu của tất cả các mặt hàng xe máy đều tăng, đặc biệt loại có nguồn gốc không phải của Trung Quốc tăng với tốc độ rất cao (trung bình >200%), một lần nữa CIRI lại xác định đúng nhu cầu thị trường và tiêu thụ đạt kết quả tốt. Tuy vậy đến cuối năm 2001, Ban lãnh đạo CIRI cũng thấy rằng thị trường xe máy Trung quốc đã bão hoà (mằc dù sản lượng ’01so với ’00 đã tăng >150%) Bảng 2: Tình hình nhập – xuất - tồn kho linh kiện nhập khẩu môtô2 bánh năm 2001 TT Tên xe Nhập Xuất Tồn Lượng (c) Tiền (tr đồng) Lượng (c) Tiền (tr đồng) Lượng (c) Tiền (tr đồng) 1 Wake up 29.233 238.470 25.375 208.637 3.848 29.833 2 Proud 300 2.658 300 2.658 -0- -0- 3 Wana 12.585 117.993 12.406 116.540 179 1.453 4 Prealm II 17.666 143.163 13.000 107.748 4.666 35.415 5 FX 90 2.285 90 2.286 - - 6 Avenis 40 1.018 40 1.018 - - 7 Hado Siva 150 2.659 150 2.660 - - Tổng 60.064 5.082.462 51.361 4.415.448 8.693 66.701 ( Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh năm 2001 của CIRI ) Tổng giá trị xuất xưởng so với tổng giá trị nhập khẩu đạt: ≈87%, tỷ lệ hàng tồn kho là ≈13%. Đây là một tỷ lệ tương đối cao, điều này chứng tỏ CIRI ngoài việc dự trữ hợp lý, còn đảm bảo không bị ứ đọng vốn. Đặc biệt lưu ý là: trong danh mục mặt hàng kinh doanh một số loại có mức tồn kho bằng không: Xe FX, Avenis, HadoSiva, Proud đây là những loại xe có số lượng nhập khẩu thấp (dưới 150 chiếc), có giá trị tính trên đơn vị đầu xe cao (xe Avenis giá CIF >2500$) và xe Proud là loại xe mới lắp ráp của Công ty. Mức tồn kho bằng không khằng định CIRI đã lựa chọn kinh doanh đúng mặt hàng và đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường. Lượng tồn kho chủ yếu là do ba loại xe là ba loại xe kinh doanh chủ yếu của Công ty, có giá trị chiếm 74% giá trị kinh doanh môtô 2 bánh của CIRI. Tuy nhiên phải nhìn nhận rằng số lượng nhập khẩu ba loại xe này là rất lớn (>50ngàn xe và bằng 98% tổng lượng xe nhập khẩu) một tỷ lệ tồn kho như vậy cũng dễ được chấp nhận . Điều đó cững thể hiện CIRI đã khai thác hết công suất của dây truyền lắp ráp, kho bãi (công suất thiết kế cho cả hai loại xe WANA, WAKE UP và PREALM là 50 ngàn xe/năm). Như vậy trong thời gian tới CIRI cần cân nhắc số lượng nhập khẩu: đối với những loại xe WANA, Wake Up và PREALM nên duy trì mức nhập khẩu hiện tại, bởi lẽ sản lượng tiêu thụ trong những năm qua tương đối cao, thị trường đã tương đối bão hoà, nếu khai thác được mảng thị trường mới thì mới tăng công suất lắp ráp, sản xuất loại xe này. Bảng 3: Tình hình Nhập – Xuất – Tồn kho linh kiện nội hoá trong nước năm 2001. TT Tên xe Nhập Xuất Tồn Lượng (c) Tiền (triệu đồng) Lượng (c) Tiền (triệu đồng) Lượng (c) Tiền (triệu đồng) 1 Wake up 30.000 42.290,2 25.375 35.770,5 4.625 6.519,7 2 Proud 300 438,5 300 438,5 -0- -0- 3 Wana 12.585 22.562,6 12.406 22.241,7 179 320.915 4 Prealm 19.000 343.77,79 13.000 23.521,7 6000 10.856,1 5 FX 100 380,96 90 342,9 10 38.1 6 Avenis 70 267,1 40 152,7 30 114,5 7 Hado Siva 185 491,9 150 398,9 35 93,1 Tổng 62.240 100.809,2 51.361 83.188,5 10.879 17.620,5 ( Nguồn : Báo cáo tổng kết kinh doanh năm 2001 của CIRI ) Cũng như đối với linh kiện nhập khẩu, linh kiện nội hoá trong nước cũng có mức tồn kho thấp (giá trị xuất xưởng đạt 82,5% của tồng giá trị nhập) đây là điều đáng mừng vì CIRI đã dự trữ được một mức cung ứng hợp lý giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước đảm bảo cho hoạt động lắp ráp. Tổng quan chung, CIRI tuy mới bước vào xâm nhập thị trường này nhưng đã đạt được những kết quả như vậy là rất đáng khích lệ, công tác nhập, xuất, dự trữ gặp phải khó khăn nhưng đạt được kết quả như vậy là chứng tỏ CIRI đã đi đúng hướng , cần phát huy hơn nữa để đạt kết quả tốt hơn, nhất là việc xây dựng được một kế hoạch xuất, nhập, dự trữ trước khi mở rộng khả năng sản xuất và khai thác thị trường mới 4.3 Kết quả kinh doanh của Công ty. Nhìn chung, tình hình mua bán, tồn kho hàng hoá, nguyên vật liệu tiến triển tốt, đặc biệt là mặt hàng xe máy Trung Quốc nội hoá và phụ tùng GTVT nhập khẩu thời gian qua đạt kết quả tốt. Đây là kết quả của một chính sách đúng đắn từ việc nghiên cứu nắm bắt nhu cầu thị trường, đến việc hoạch định chiến lược kinh doanh, tổ chức sản xuất, tiêu thụ và kiểm tra, giám sát. Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh chính này, Công ty đã tập trung vào đây gần như toàn bộ nguồn lực có được của mình. Trong khâu nhập khẩu linh kiện, phụ tùng xe gắn máy, Công ty đã duy trì tốt mối quan hệ với bạn hàng quốc tế và mở rộng đối tác cung cấp nguồn hàng. Sử dụng đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ và kinh nghiệm để đánh giá hàng hoá, đảm bảo yêu cầu về chất lượng, giá cả, thủ tục tiến hành mua bán, vận chuyển, bảo quản hàng hoá, phương thức thanh toán và thời hạn thanh toán sao cho phù hợp với khả năng của Công ty. Đối với khách hàng, CIRI luôn đảm bảo phục vụ khách hàng với chất lượng cao nhất có thể của mình. Chú trọng vào chất lượng là điều kiện tiên quyết dẫn đến thành công của CIRI khi kinh doanh mặt hàng rất nhạy cảm này vì thông thường người tiêu dùng đánh giá không cao chất lượng xe mô tô 2 bánh Trung Quốc và một số đơn vị kinh doanh cùng ngành hàng cũng không tập trung nhiều vào chất lượng. Chính vì thế mà từ khi thành lập, CIRI không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá xuất xưởng, cải tiến máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ, tối ưu hoá sản xuất, hợp lý hoá đầu vào và hạ giá thành sản phẩm. Tình hình sản xuất – kinh doanh của CIRI được thể hiện rõ nét nhất thông qua Báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm. Chính vì vậy đánh giá và phân tích các chỉ tiêu cơ bản trong Báo cáo kết quả kinh doanh sẽ rút ra được những kết luận quan trọng về hoạt động kinh doanh của CIRI. Bảng 4 : Một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh thực hiện qua các năm Đơn vị tính: triệu đồng TT Chỉ tiêu 1999 2000 2001 1 Doanh thu hoạt động kinh doanh 321.563 699.043 1.069.745,42 Thu nhập hoạt động tài chính 124.125 8748,978 4.029,78 Thu nhập hoạt động bất thường 86.325,6 5.336,003 14.608,91 Chi phí 328.754 521.838,303 803.056,96 2 Chi phí hoạt động kinh doanh 188.711 496.223,464 753.068,73 Chi phí hoạt động tài chính 112.241 6.170,938 11.239,13 Chi phí hoạt động bất thường 28.832 830,247 3.502,06 Lợi nhuận trước thuế 2.342,7 6.968,631 11.250,16 3 Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh 1.762,14 5.486,647 31.676,69 Lợi nhuận từ hoạt động tài chính 248,41 359,420 -7209,35 Lợi nhuận từ hoạt động bất thường 342,25 4.714,48 11.106,85 ( Nguồn :Báo cáo thực hiện kế hoạch năm ’99-’00-’01 của CIRI ) Hoạt động kinh doanh của CIRI đã có sự tiến bộ vượt bậc: từ chỗ năm 1998 là năm hoạt động đầu tiên Công ty vẫn còn bị thua lỗ do triển khai các hoạt động chưa đồng bộ và bất cập thì tới năm 1999 và đặc biệt là năm 2000, CIRI đã có lợi nhuận trước thuế là 6.968,631triệu đồng và năm 2001 là 11.250,2 triệu đồng tăng 161.44%. II.Tình hình công tác QLCL ở CIRI. 1.Tình hình chất lượng sản phẩm. Ngày nay, con người ngày càng trở nên năng động hơn, nhu cầu đi lại ngày càng phong phú đa dạng hơn. Trong các loại phương tiện hiện nay thì xe máy là phương tiện được sử dụng nhiều hơn cả. Sở dĩ như vậy vì xe máy rất thuận tiện cho việc đi lại, làm cho con người chủ động về mặt thời gian và nó lại phù hợp với thu nhập của người tiêu dùng Việt Nam. Trong mấy năm trở lại đây, một loạt các hãng xe máy Trung Quốc thâm nhập vào thị trường Việt Nam, tung ra các ra các loại xe máy với các nhãn hiệu khác nhau và đã được người tiêu dùng Việt Nam nhiệt tình hưởng ứng vì nó phù hợp với thu nhập của người dân. Điều này làm cho một số đơn vị sản xuất kinh doanh không chú trọng vào chất lượng của các loại xe máy. Hiện nay trên thị trường có khoảng hơn 20 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe gắn máy Trung Quốc dạng IKD như CIRI. Tuy tiềm lực của họ không thể bằng CIRI nhưng phương châm của họ rất chụp giật, sản xuất không đảm bảo chất lượng tung ồ ạt sản phẩm ra thị trường nhằm thu lợi nhuận. Chính vì thế đã làm giảm niềm tin của khách hàng đối với xe máy của Trung Quốc. Nhưng phương châm kinh doanh của CIRI hoàn toàn khác. Chú trọng vào chất lượng là điều kiện tiên quyết dẫn đến thành công của CIRI khi kinh doanh mặt hàng nhạy cảm này. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay CIRI phải chịu sự cạnh tranh của các hãng xe máy Trung Quốc khác, các hãng xe máy liên doanh với Nhật trong nước đã hạ giá bán để giữ vững thị phần. Trước sức ép như vậy buộc CIRI phải thật chú trọng vào hoạt động quản lý chất lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình để đứng vững và phát triển. Nhờ sự quan tâm của ban lãnh đạo, đại diện của giám đốc đã đề ra các chính sách và mục tiêu chất lượng cho Công ty nên sản phẩm của Công ty có chất lượng ngày càng cao. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty được đặt khắp mọi nơi để cho thấy sản phẩm của Công ty đã được người tiêu dùng chấp nhận. Việc kinh doanh của CIRI ngày càng đạt kết quả tốt chứng tỏ bước đi của CIRI là đúng đắn và có lợi nhuận. Nhìn chung kết quả kinh doanh tăng đều qua các năm với tốc độ tăng năm sau so với năm trước là 10-15%, cá biệt có những chỉ tiêu tăng đến hơn 20% (hiệu quả sử dụng vốn). Để đạt được kết quả như vậy ngoài sự nỗ lực phấn đấu của ban lãnh đạo Công ty thì không thể không nhắc đến sự cố gắng của đội ngũ cán bộ nhân viên, những người trực tiếp tạo ra sản phẩm, người quyết định chất lượng của sản phẩm. 2.Công tác hoạch định và kiểm soát chất lượng. Là một Công ty còn non trẻ nhưng trong quá trình sản xuất kinh doanh, đặc biệt là lĩnh vực lắp ráp xe máy thì CIRI đã đạt được một số thành công nhất định. Để đạt được thành công đó một mặt CIRI đã nắm bắt được thị trường tiêu thụ xe máy đồng thời luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm luôn được chú trọng và được thực hiện xuyên suốt quá trình sản xuất. Hiện tại Công ty đang nghiên cứu áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001. Giám đốc Công ty là người có trách nhiệm hoạch định, cung cấp đủ nguồn lực cho hoạt động của hệ thống quản lý chất lượng thông qua chính sách chất lượng và các mục tiêu chất lượng. Chính sách chất lượng của Công ty do giám đốc đề ra nhằm đáp ứng các yêu cầu sau: Phù hợp với mục đích của Công ty. Thể hiện rõ ràng cam kết thực hiện đúng các yêu cầu của khách hàng, của luật định. Cam kết liên tục cải tiến hệ thống quản lý chất lượng. Đề ra và phấn đấu thực hiện tốt các mục tiêu chất lượng. Chính sách chất lượng này được phổ biến tới từng cán bộ công nhân viên của Công ty và mọi người có trách nhiệm thực hiện theo yêu cầu tại vị trí công tác và sản xuất của mình. Chính sách chất lượng hàng năm được ban lãnh đạo xem xét và sửa đổi. Trong thời đại hiện nay một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì không còn cách nào là phải liên tục đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm vì đòi hỏi của khách hàng ngày càng cao, nếu yêu cầu của họ không được mình thoã mãn thì ngay lập tức họ sẽ chuyển qua tiêu dùng sản phẩm của nhà sản xuất khác. Như thế kiếm được khách hàng đã là một vấn đề khó khăn hiện nay, nhưng giữ được khách hàng còn khó hơn. Chính sách chất lượng của Công ty phải luôn được xem xét, đánh giá cho phù hợp với yêu cầu hiện tại của Công ty và phù hợp với những đòi hỏi của khách hàng. Đối với mặt hàng kinh doanh của Công ty, khi mà người tiều dùng còn chưa đánh giá cao chất lượng của xe máy Trung Quốc thì Công ty đã tạo cho mình một chỗ đứng trên thị trường bằng việc tạo cho mình một nhãn hiệu xe riêng. Trong quá trình sản xuất của mình CIRI luôn tìm mọi cách nâng cao chất lượng của mình, nhằm thoã mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Ban lãnh đạo và đại diện ban giám đốc về chất lượng luôn tìm cách vận động mọi thành viên trong Công ty thực hiện tốt công việc của mình. Mỗi thành viên thực hiện tốt phần việc của mình là đã giúp cho công việc quản lý chất lượng được thực hiện dễ dàng hơn. Còn mục tiêu chất lượng cũng do giám đốc Công ty đề ra và các trưởng phòng có trách nhiệm thực hiện đúng các yêu cầu của phòng mình. Các mục tiêu cụ thể đối với sản phẩm hoặc dịch vụ được đề ra và thực hiện phù hợp với mỗi phòng ban. Các mục tiêu chất lượng luôn được đề ra và đảm bảo được cải tiến liên tục nhằm tạo cho mọi người ý thức về công việc của mình. Công việc sản xuất chủ yếu của Công ty là lắp ráp xe gắn máy nên trên một dây chuyền lắp ráp nếu một chi tiết nhỏ của một bộ phận bị lỗi hay không đúng theo yêu cầu chất lượng thì sản phẩm cuối cùng chắc chắn sẽ bị loại. Như thế chi phí bỏ ra để khắc phục sản phẩm hỏng lại lớn làm giảm lợi nhuận. Kiểm tra nguyên liệu đầu vào của Công ty là một việc rất quan trọng, nguyên liệu tốt thì khả năng tạo ra sản phẩm có chất lượng cao càng lớn. Do nguyên liệu chủ yếu được nhập khẩu từ nước ngoài nên việc kiểm tra chất lượng có khó khăn hơn là mình từ sản xuất. Như vậy đòi hỏi Công ty phải có đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật am hiểu trong lĩnh vực này để có thể kiểm tra chất lượng của các phụ tùng linh kiện được đưa về Công ty. Trong quá trình lắp ráp, trên mỗi dây chuyền đòi hỏi mỗi người công nhân phải ý thức được trách nhiệm của mình làm giảm bớt quá trình kiểm soát sản phẩm có chất lượng không p._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4630.doc
Tài liệu liên quan