Nghiên cứu các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên

Tài liệu Nghiên cứu các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên: ... Ebook Nghiên cứu các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên

pdf114 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH Nguyễn Thành Nam Tên đề tài: NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Chuyên nghành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 60 - 31 - 10 Thái Nguyên, năm 2008 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH Nguyễn Thành Nam Tên đề tài: NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN Chuyên nghành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 60 - 31 - 10 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ LÝ Thái Nguyên, năm 2008 Lêi cam ®oan - Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. - Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả Nguyễn Thành Nam LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể, cá nhân. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến: Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả các thầy, cô giáo Trường Đại học kinh tế và quản trị kinh doanh Thái Nguyên và khoa sau Đại học đã dạy bảo, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô giáo TS Phạm Thị Lý, người đã tận tình hướng dẫn dìu dắt tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ, nhân viên phòng Nông nghiệp và PTNT, phòng Thống kê, UBND các xã, thị trấn và các hộ trang trại trên địa bàn huyện Đại Từ đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài. Tôi vô cùng biết ơn gia đình, đồng nghiệp và các bạn gần xa đã giúp đỡ động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Thái Nguyên, ngày tháng năm 2008 Tác giả Nguyễn Thành Nam danh môc c¸c b¶ng STT Biểu 01 Biểu 02 Biểu 03a Biểu 03b Biểu 04 Biểu 05 Biểu 06 Biểu 7 Biểu 8 Biểu 9 Biểu 10 Biểu 11 Biểu 12 Biểu số 13 Biểu 14 Tªn b¶ng Diện tích của huyện theo cấp độ cao tuyệt đối và độ dốc Tình hình sử dụng đất đai của huyện Đại Từ Một số chỉ tiêu cơ bản về kinh tế – xã hội huyện Đại Từ Tình hình sản xuất ngành nông nghiệp Tổng số các trang trại và phân loại trang trại theo loại hình sản xuất Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2007 của trang trại Hiện trạng sử dụng đất trang trại năm 2007 Phân loại trang trại theo quy mô sử dụng đất Vốn sản xuất của trang trại năm 2007 Tình hình sử dụng lao động của các trang trại Thành phần xuất phát các chủ trang trại Chi phí sản xuất của các trang trại Tổng thu bình quân của một trang trại năm 2007 huyện Đại Từ Thu nhập từ sản xuất Nông - Lâm - Nghiệp bình quân trang trại điều tra năm 2007. Mức thu nhập bình quân lao động trong tuổi và nhân khẩu của các trang trại năm 2007 Trang 43 44 46 48 50 51 56 58 61 63 65 69 76 78 82 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong số những thành tích đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, trong thời gian qua, có thể nói nông nghiệp là một ngành đã có những bước đột phá ngoạn mục. Thu nhập của nông dân không ngừng tăng lên, bộ mặt nông thôn được cải thiện đáng kể. Sản xuất nông nghiệp đã đảm bảo an toàn lương thực cho đời sống xã hội. Thế nhưng, sự phát triển ấy so với yêu cầu phát triển kinh tế chung trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay thì vẫn còn quá thấp và nhỏ bé. Cho đến bây giờ, nông nghiệp Việt Nam vẫn là một nền sản xuất kém hiệu quả và thiếu tính hợp lý. Cần phải hình thành và phát triển những hình thức sản xuất phù hợp hơn, mà trong đó, kinh tế trang trại là một mô hình tốt có thể áp dụng để đáp ứng yêu cầu này. Đã manh nhà từ rất lâu, nhưng chỉ trong khoảng chục năm trở lại đây, vai trò của kinh tế trang trại mới thực sự được công nhận và được quan tâm chú ý, đặc biệt là sau khi Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP của Chính phủ ngày 2/2/2000 về kinh tế trang trại ra đời thì kinh tế trang trại mới thực sự được một sự trợ giúp của Nhà nước về cơ chế, chính sách như là hỗ trợ cho các doanh nghiệp thông thường của nền kinh tế thị trường. Sự tăng nhanh về số lượng, gia tăng về giá trị sản lượng đã chứng tỏ đây là một mô hình tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp với đặc thù kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta, giúp nông dân làm giàu, tăng thu nhập cho bản thân họ và cho xã hội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 Không có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại với quy mô đất đai lớn như ở vùng đồng bằng Sông Hồng hay vùng đồng bằng phía nam, nhưng tỉnh Thái Nguyên là tỉnh miền núi phía Bắc là nơi có nhiều điều kiện ưu đãi về điều kiện tự nhiên, điều kiện khí hậu…đặc biệt là vùng có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời, trình độ thâm canh của người dân tương đối cao. Huyện Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên trong những năm qua sản xuất nông nghiệp của huyện đã đạt được nhiều tiến bộ quan trọng Nhưng để ngành nông nghiệp của huyện đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới thì phải hợp lý hoá, hiệu quả hoá sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác một cách triệt để tiềm năng về đất đai cũng như khả năng lao động của con người vùng miền núi này và mô hình kinh tế trang trại là phù hợp hơn cả. Những năm qua kinh tế trang trại của huyện đã có nhiều thành tích đáng khích lệ, nhưng thật sự vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Câu hỏi đặt ra là: Khả năng phát triển kinh tế trang trại của vùng đến đâu? làm sao để mô hình được áp dụng đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất? Trả lời cho câu hỏi này chính là mục đích của đề tài: "Nghiên cứu các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ đến năm 2010" 2. Mục tiêu nghiên cứu: - Mục tiêu chung: + Phấn đấu có 100 trang trại vào năm 2010, phấn đấu 50% số trang trại sản xuất kinh doanh chuyên ngành, chuyên môn hoá cao. + Hình thành rõ nét các loại hình trang trại như sau: Chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô vừa, tiến tới quy mô lớn. Chuyên sản xuất giống. Chuyên sản xuất chè chất lượng cao. Sản xuất, kinh doanh cây trồng, vật nuôi đặc sản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 + Giá trị sản xuất của loại hình kinh tế trang trại đạt từ 2 - 3% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp, tạo nên nguồn sản phẩm hàng hoá chính hướng tới xuất khẩu. + Thu nhập bình quân 100 triệu đồng/năm/trang trại, thu nhập người lao động đạt 1 triệu đồng/tháng. + Tạo điển hình tiên tiến về thâm canh, chuyên môn hoá, ứng dụng khoa học công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp. + Phấn đấu 100% các chủ trang trại nâng cao tay nghề. - Mục tiêu cụ thể: Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế trang trại và các yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế trang trại, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại Huyện Đại Từ, vừa nâng cao thu nhập vừa giải quyết các vấn đề về xã hội và môi trường. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: 3.1. Đối tượng: Các trang trại Huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Nghiên cứu các vấn đề kinh tế- xã hội có liên quan đến việc phát triển kinh tế trang trại của huyện Đại Từ, trong đó tập trung phân tích hiệu quả kinh tế, phân tích những tồn tại và đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành tập trung nghiên cứu tại 80 trang trại trên địa bàn huyện Đại Từ. + Phạm vi thời gian: Tác giả tiến hành thu thập số liệu điều tra từ năm 2006-2007. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 + Phạm vi nội dung: Xung quanh vấn đề phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Đại Từ còn nhiều vấn đề cần tiếp cận nghiên cứu. Tuy nhiên do hạn chế về thời gian và trình độ nên tác giả chỉ tiến hành nghiên cứu, đánh giá sự phát triển của các trang trại. 4 - Kết cấu của luận văn: Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn được chia thành 3 chương cụ thể như sau: Chƣơng 1: Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu: Chƣơng 2: Tình hình phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ trong thời gian qua. Chƣơng 3: Các giải pháp để phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ từ nay đến năm 2010. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 CHƢƠNG I CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU A. Cơ sở khoa học: I. Cơ sở lý luận: 1. Quan niệm về kinh tế trang trại: Xuất hiện cách đây khoảng hơn 200 năm, cho đến những năm cuối thế kỷ XX, kinh tế trang trại mà đặc biệt là trang trại gia đình đã trở thành mô hình sản xuất phổ biến nhất của nền nông nghiệp các nước phát triển, chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai cũng như khối lượng nông sản, đặc biệt ở các nước Anh, Pháp, Nga nơi bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đầu tiên của nhân loại. Trải qua hàng mấy thế kỷ đến nay kinh tế trang trại tiếp tục phát triển ở những nước tư bản chủ nghĩa lâu đời cũng như các nước đang phát triển, các nước công nghiệp mới và đi vào những xã hội chủ nghĩa với cơ cấu và quy mô sản xuất khác nhau. Tại Việt Nam, kinh tế trang trại phát triển muộn, chỉ từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận và đặc biệt là từ sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (4/98) về đổi mới quản lý kinh tế Nhà nước, kinh tế hộ nông dân mới từng bước phục hồi và phát triển, phần lớn họ trở thành những chủ thể tự sản xuất. Cùng với các hộ gia đình công nhân viên chức làm nông nghiệp, lại có tích lũy về vốn, kinh nghiệm sản xuất và kinh nghiệp quản lý, tiếp cận được với thị trường, thì sản xuất nông nghiệp mới thoát khỏi cái vỏ tự cấp, tự túc và vươn tới nền sản xuất hàng. Kinh tế trang trại ra đời. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Cho đến nay, quan điểm về kinh tế trang trại vẫn được trình bày theo nhiều khía cạnh khác nhau. 2- Bản chất của kinh tế trang trại: Trong lịch sử phát triển của nông nghiệp các nước trên thế giới cũng như ở nước ta đã từng tồn tại các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung được tiến hành trên một quy mô diện tích ruộng đất đủ lớn nhằm sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản xuất nông nghiệp truyền thống, phân tán trên những diện tích ruộng đất nhỏ. Trong phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản, các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung đã tồn tại ở nhiều nước. Thời đế quốc La Mã đã có sản xuất nông nghiệp tập trung với lực lượng sản xuất chủ yếu là tù binh và nô lệ. Thời phong kiến ở Châu Âu có các hình thức: Lãnh địa phong kiến và trang viên. ở Trung Quốc thời nhà Hán đã có hoàng trang, điền trang, đồn điền, gia trang. ở Việt Nam thời kỳ Lý, Trần, Lê, Nguyễn... có điền trang, ấp, đồn điền .vv... Các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản nêu trên có những điểm chung chủ yếu sau: - Về mục đích sản xuất, các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung nói trên đều sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản xuất nông nghiệp truyền thống phân tán trên những diện tích ruộng đất nhỏ, song đều nhằm mục đích tự cung, tự cấp để đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trực tiếp. Việc trao đổi sản phẩm chỉ thực hiện với bộ phận sản xuất vượt qúa nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của những người chủ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 - Về sở hữu, có những hình thức sản xuất dựa trên sở hữu nhà nước như: Các khu sản xuất nông nghiệp tập trung thời đế chế La Mã; hoàng trang và đồn điền trong các triều đại phong kiến ở trung Quốc; dồn điền thời Lê, Nguyễn ở Việt Nam....Đồng thời cũng có những hình thức sở hữu riêng của một người như Lãnh địa phong kiến và trang viên ở Châu Âu, điền trang, gia trang ở Trung Quốc, Việt Nam... Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự tác động và chi phối của cơ chế thị trường, trình độ phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất và sự thay đổi lớn lao của quan hệ sản xuất xã hội đã tạo ra những điều kiện và động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp tập trung chuyển lên một trình độ mới cao hơn với những biến đổi cơ bản về kinh tế, tổ chức và kỹ thuật sản xuất so với các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung trước chủ nghĩa tư bản. Những biến đổi có ý nghĩa quyết định dẫn đến sự thay đổi về chất của hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bao gồm: - Sự biến đổi về mục đích sản xuất chuyển từ tự cung, tự cấp là chủ yếu sang sản xuất hàng hoá. Nông sản phẩm sản xuất ra trước đây chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của những người chủ, thì nay trong điều kiện kinh tế thị trường, được sản xuất ra chủ yếu là để bán nhằm tăng thu nhập và lợi nhuận. - Sự biến đổi về mặt sở hữu: Nếu như trong các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản có những hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung dựa trên sở hữu nhà nước, có những hình thức dựa trên sở hữu riêng của một người chủ độc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 lập, thì nay trong điều kiện kinh tế thị trường hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung về cơ bản là dựa trên quyền sở hữu tư liệu sản xuất của một chủ độc lập. - Sự thay đổi về cách thức tổ chức sản xuất và kỹ thuật sản xuất: Do mục đích sản xuất hàng hoá nên ở đây sản xuất được tổ chức theo phương thức tiến bộ hơn với kỹ thuật sản xuất cao hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung trong các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản. - Trong thời kỳ Pháp thuộc cùng với sự phát triển của các đồn điền tư bản tư nhân, những ấp trại vơi các quy mô khác nhau dựa trên sở hữu tư nhân và có mục đích chính là sản xuất nông sản phẩm để bán đã xuất hiện trên nhiều vùng. Ngày nay trong điều kiện kinh tế thị trường, ngôn ngữ các nước đều có những thuật ngữ để chỉ hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung với những biến đổi cơ bản so với các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các phương thức sẳn xuất trước chủ nghĩa tư bản như đã nêu khi chuyển sang tiếng Việt thường được dịch là "Trang trại" hay " Nông trại". “Trang trại" hay " Nông trại" thì có thể hiểu đó là những khu đất tương đối lớn. Ở đó sản xuất nông nghiệp được tiến hành có tổ chức dưới sự chỉ huy của một người chủ mà phần đông là chủ gia đình nông dân bao gồm cả nông dân trong giai đoạn nông nghiệp đi vào sản xuất hàng hoá và từng bước gắn liền với kinh tế thị trường. Như vậy có thể thấy rằng trong điều kiện kinh tế thị trường về bản chất "Trang trại" hay " Nông trại" là thuật ngữ gắn liền với hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung trên một diện tích ruộng đất đủ lớn nhằm sản xuất nông sản phẩm hàng hoá với quy mô gia đình là chủ yếu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Tại Việt Nam, trong những năm đổi mới, kinh tế trang trại đã hình thành và phát triển nhanh trên nhiều vùng, đặc biệt là các vùng có bình quân ruộng đất tính theo đầu người cao. Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở nước ta những năm qua là nhờ đường lối đổi mới của Đảng mà mốc quan trọng có ý nghĩa hết sức to lớn là Nghị quyết 10/NQ-TW ngày 5- 4-1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp và sau đó là chính sách giao ruộng đất ổn định cho hộ nông dân. Việc trả lại địa vị tự chủ về kinh tế cho hộ nông dân và việc giao ruộng đất cho hộ nông dân sử dụng ổn định và lâu dài là cơ sở quan trọng cho kinh tế trang trại mà chủ yếu là trang trại gia đình ra đời và phát triển ở nước ta trong những năm qua. 3. Khái niệm về kinh tế trang trại Trong những năm gần đây ở nước ta cơ quan nghiên cứu, cơ quan quản lý Nhà nước và nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã quan tâm nghiên cứu về kinh tế trang trại. Một trong những vấn đề được đề cập nhiều là khái niệm về kinh tế trang trại. Các cơ quan, các nhà khoa học và quản lý khi nghiên cứu kinh tế trang trại hầu như đều đưa ra khái niệm về kinh tế trang trại và coi đó là điểm xuất phát để nghiên cứu về kinh tế trang trại. Tìm hiểu các khái niệm về kinh tế trang trại đã được đưa ra trong những năm qua, tuy nhiên các ý kiến chưa có sự thống nhất. Về thực chất, "Trang trại" và "Kinh tế trang trại" là những khái niệm không đồng nhất. Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất và các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của trang trại; còn trang trại là nơi kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là chủ thể của các mối quan hệ kinh tế đó. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 Như vậy, nói kinh tế trang trại là nói mặt kinh tế của trang trại. Ngoài mặt kinh tế, còn có thể nhìn nhận trang trại từ mặt xã hội và mặt môi trường. Về mặt xã hội, trang trại là một tổ chức cơ sở của xã hội, trong đó có các quan hệ xã hội đan xen nhau: Quan hệ giữa các thành viên của hộ trang trại, quan hệ giữa chủ trang trại và những người lao động thuê ngoài, quan hệ giữa người lao động làm thuê cho chủ trang trại với nhau... Về mặt xã môi trường, trang trại là một không gian sinh thái, trong đó diễn ra các quan hệ sinh thái đa dạng. Không gian sinh thái trang trại có quan hệ chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại trực tiếp với hệ sinh thái của vùng. Như vậy có thể thấy khái niệm trang trại rộng hơn khái niệm kinh tế trang trại. Tuy nhiên trong các mặt kinh tế, xã hội và môi trường của trang trại thì mặt kinh tế là mặt cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi của trang trại. Vì vậy trong nhiều trường hợp khi nói tới kinh tế trang trại, tức nói tới mặt kinh tế của trang trại, người ta gọi tắt là trang trại. Vậy khái niệm trang trại về mặt kinh tế như thế nào? Khái niệm này phải thể hiện đươc những nét bản chất về kinh tế, tổ chức và kỹ thuật sản xuất của trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường. Trước hết, trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, ngư nghiệp. Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở vì trang trại là đơn vị trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất cần thiết cho xã hội, bao gồm nông, lâm, thuỷ sản, đồng thời quá trình kinh tế trong trang trại là quá trình khép kín với các khâu của quá trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm sản xuất phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở là vì trong nông, lâm, ngư nghiệp ngoài trang trại ra còn có những hình thức tổ chức sản xuất cơ sở khác như: Nông, lâm trường quốc doanh, kinh tế hộ nông dân... Là một hình thức tổ chức sản xuất, trang trại không phải là một thành phần kinh tế và theo cách phân định thành phần kinh tế như hiện nay thì các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp đều có thể chọn hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu trang trại nếu có đủ điều kiện. Như vậy trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, ngư nghiệp là phù hợp vì quan niệm nêu trên đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc quy định. Mặt khác trang trại còn có những đặc điểm riêng mà nó phân biệt với các hình thức sản xuất cơ sở khác trong nông lâm, ngư nghiệp đó là: Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất hàng hoá. Đó là điểm cơ bản của trang trại được tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá; Các yếu tố vật chất của sản xuất, trước hết là ruộng đất và tiền vốn trong trang trại được tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá; Tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập. Tư liệu sản xuất ở trang trại hoặc thuộc quyền sở hữu của người chủ độc lập, hoặc quyền sử dụng của người chủ độc lập nếu tư liệu sản xuất đi thuê hoặc được giao quyền sử dụng; Trang trại hoàn toàn tự chủ trong các sản xuất kinh doanh, từ việc lựa chọn phương hướng sản xuất, quyết định kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tổ chức sản xuất, đến tiếp cận thị trường và tiêu thụ sản phẩm..; Chủ trang trại là người có ý chí và năng lực, có kiến thức và kinh nghiệm về sản xuất nông nghiệp và thường là người trực tiếp quản lý trang trại; Trang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 trại có nhu cầu cao hơn nông hộ về ứng dụng KHKT, tiếp cận thị trường, thuê mướn lao động và đều có thu nhập vượt trội hơn... Từ những nhận thức như trên. PGS.PTS Lâm Quang Huyên, Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp cho rằng: "Kinh tế trang trại là loại hình cơ sở sản xuất nông nghiệp, hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường từ khi phương thức này thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Trang trại được hình thành các hộ tiểu nông sau khi phá bỏ cái vỏ tự cấp, tự túc khép kín, vươn lên sản xuất nhiều nông sản hàng hoá tiếp cận với thị trường, từng bước thích nghi với nền kinh tế thị trường". 1 Khái niệm này đã chỉ đúng bản chất sản xuất hàng hoá của kinh tế trang trại nhưng lại sai lầm khi cho rằng nguồn gốc của các trang trại chỉ là xây dựng từ kinh tế của các hộ tiểu nông. Trong Nghị quyết số 03/2000/NQ - CP ngày 2/2/2000 về kinh tế trang trại, Chính phủ ta đã thống nhất nhận thức về kinh tế trang trại như sau: "Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản". 2 Khái niệm này khá đầy đủ, nêu ra được cơ sở, chức năng, hình thức sản xuất của trang trại nhưng hiện nay trong nền kinh tế thị trường sản phẩm của trang trại mang tính hàng hoá và đáp ứng nhu cầu thị trường. Chính vì vậy năm 2004 các giảng viên của Trường Đại học kinh tế Quốc dân đã có quan điểm: "Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, 1 Báo cáo chuyên đề: "Chính sách phát triển kinh tế trang trại và tác động của nó đến việc và thu nhập của lao động nông thôn" - Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp- năm 2002. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 ngư nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hay thuộc quyền sử dụng của một chủ thể độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với cách tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường". 3 Đây chính là khái niệm đầy đủ về kinh tế trang trại. 4. Vai trò của kinh tế trang trại đối với phát triển kinh tế - xã hội. Bất kỳ một hình thức sản xuất nào cũng gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội nói chung. Là một thực thể kinh tế, các trang trại hình thành và phát triển đã có những đóng góp không nhỏ cả về mặt tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp, nông thôn. 4.1. Phát triển kinh tế trang trại là một tất yếu của quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp - nông thôn. Các ngành sản xuất đều có xu hướng tích luỹ về vốn và các yếu tố sản xuất khác: Tư liệu, lao động, kinh nghiệm, trình độ quản lý... Trong nông nghiệp cũng vậy. Những năm cuối thế kỷ 17 ở các nước bắt đầu công nghiệp hoá đã có chủ trương chính thúc đẩy các quá trình tập trung ruộng đất, xây dựng các xí nghiệp nông nghiệp tư bản quy mô lớn với hy vọng mô hình này sẽ tạo ra nhiều nông sản tập trung với giá rẻ hơn sản xuất gia đình phân tán. Lúc đầu Marx cùng cho rằng đây là điều tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa nhưng trong tác phẩm cuối của mình 2 Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 22/2/2000 của chính phủ về việc kinh tế trang trại. 3 Thực trạng và các giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ đổi mới công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở Việt Nam- Nhà xuất bản quốc gia - năm 2000. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 ông đã viết: "Ngay ở nước Anh nền công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất có lợi nhất không phải là các Xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không dùng lao động làm thuê". 4 Sở dĩ như vậy là vì sản xuất nông nghiệp có đặc trưng khác với công nghiệp ở chỗ là phải tác động vào những vật sống (cây trồng, vật nuôi) nên không phù hợp với hình thức tổ chức sản xuất tập trung quy mô quá lớn. Công cuộc đổi mới kinh tế và đổi mới nông nghiệp của Việt Nam mới bắt đầu cách đây gần hai chục năm. Cơ chế thị trường không chỉ tác động mạnh mẽ đến hoạt động của các ngành nông nghiệp, dịch vụ mà còn làm thay đổi căn bản mục đích và do đó thay đổi cả phương thức sản xuất trong nông nghiệp. Sự phát triển của trao đổi hàng hoá đặt ra yêu cầu làm ra sản phẩm phải là hàng hoá với giá cả hợp lý và chất lượng đảm bảo hơn. Không chỉ là các nông trại lớn, ngay cả các đơn vị sản xuất nhỏ như hộ gia đình cũng hiểu rõ mục đích sản xuất của mình: Sản phẩm để bán chứ không phải để tiêu dùng. Khi nông nghiệp đã có một bước chuyển mình đáng kể, nhiều hộ nông dân đã giàu lên, nhận thức và hiểu biết về khoa học kỹ thuật ngày càng sâu sắc, kinh nghiệm và khả năng quản lý, tổ chức sản xuất ngày càng được nâng cao, vốn tích luỹ đạt đến một mức độ nhất định, thì cũng là lúc người kinh doanh nông nghiệp phải nghĩ đến một hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp mới, có quy mô lớn hơn, tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Thế là họ bỏ vốn, lập nên các trang trại, thuê nhân công và hoạt động như một nhà kinh doanh thật sự. Nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế trang trại trong phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông ngiệp - nông thôn nói riêng, Chính phủ đã có khá nhiều văn bản quan trọng về các vấn đề: Đất đai cho trang trại, vốn sản 4 Kmarx. Toàn tập, tập 25, phần 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 xuất cho trang trại, hỗ trợ khâu cung ứng đầu vào, đầu ra... Có thể nói, chưa bao giờ kinh tế trang trại được quan tâm đúng mức như những năm gần đây. Tuy vậy, kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế tự cung tự cấp sang một nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, sự quá độ của nền kinh tế lại quy định tính đa dạng của nó, về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, về sở hữu tư liệu sản xuất... Tính không đồng đều về trình độ sản xuất, một mặt dẫn tới những hình thức tổ chức sản xuất khác nhau, mặt khác, dẫn tới sự không thống nhất của mỗi hình thức tổ chức sản xuất. Do vậy trang trại nước ta cũng không thể thuần nhất khi mà kinh tế còn trong thời gian quá độ. Đó cũng là một quy luật phát triển như quy luật phát triển của các mô hình sản xuất khác mà thôi. Như vậy, kinh tế trang trại là một thực thể khách quan, xuất hiện như là kết quả của quá trình tích luỹ về vốn, kinh nghiệm, năng lực của người chủ sản xuất, do tác động của cơ chế thị trường, mà trong đó, trang trại gia đình (với một số ưu thế riêng sẽ được xem xét ở phần sau) là mô hình được lựa chọn số 1. 4.2. Tác động của kinh tế trang trại đến sự phát triển của ngành sản xuất nông nghiệp. 4.2.1. Phát triển kinh tế trang trại thúc đẩy chuyên môn hoá sản xuất và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp - nông thôn và phát triển kinh tế hàng hoá. Như đã nói, đặc trưng của kinh tế trang trại là mức độ tập trung cao về đất đai và tích luỹ lâu dài về vốn, đã dần tạo nên một quy mô vượt trội so với sản xuất của hộ gia đình. Với riêng mỗi trang trại, trong giai đoạn đầu do còn thiếu vốn và khả năng sản xuất cũng như kinh nghiệm quản lý, họ thường kết hợp sản xuất nhiều loại nông sản khác nhau nhưng sau đó do sự tích luỹ về các yếu tố vốn, đất đai, kinh nghiệm sản xuất thì các trang trại sẽ hướng theo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 một vài loại sản phẩm do đó quy mô của loại sản phẩm này cũng lớn lên. Do ảnh hưởng của các lợi thế về quy mô, ta sẽ thấy các trang trại ở trong cùng một vùng có điều kiện tự nhiên giống nhau sẽ trồng hay nuôi cùng một loại cây, con như nhau, xây dựng các mô hình thâm canh, chuyên canh, tiếp cận các biện pháp canh tác hiện đại, từ đấy các vùng chuyên canh, vùng chuyên môn hoá hình thành, trở thành vùng cung cấp nguyên liệu rộng lớn cho các cơ sở chế biến. Đến khi sản xuất quy mô lớn lại đòi hỏi áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để làm ra sản phẩm với chi phí thấp, chất lượng cao và đồng đều. Vì mục đích kinh tế trang trại là thị trường: Sản xuất cái gì, khối lượng bao nhiêu, chất lượng ở mức độ nào... đều phải bắt kịp các tín hiệu của thị trường. Vì thế các trang trại cũng thay đổi, hàm lượng khoa học kỹ thuật trong sản phẩm nông nghiệp thậm chí tăng lên. Nhìn chung, kinh tế trang trại sẽ tăng tỷ lệ chăn nuôi, giảm tỷ lệ trồng trọt, một số tiểu ngành như sản xuất thực phẩm cao cấp, hoa kiểng... ngày càng phát triển, đem lại nguồn thu lớn. 4.2.2. Phát triển kinh tế trang trại sẽ làm tăng giá trị sản xuất nông nghiệp. Lợi thế về quy mô của các trang trại (quy mô đất đai, quy mô lao động...) giúp các trang trại tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn. Trang trại có điều kiện thuận lợi trong cả việc giảm giá thành các yếu tố đầu vào và cả trong quản lý, tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là dễ dàng hơn khi áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, sử dụng máy móc, trang thiết bị hiện đại trong hoạt động sản xuất. Với các hộ gia đình, chi phí cho các thiết bị này chiếm tỷ lệ quá lớn so với thu nhập và giá trị sản phẩm làm ra, nên thông thường họ phải đi thuê, tỷ suất lợi nhuận vì thế cũng thấp, khiến cho giá trị của cả ngành nông nghiệp giảm theo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 Cũng nhờ quy mô lớn, chuyên môn hoá cao, cùng với tính chất sản xuất hàng hoá mà sản phẩm của trang trại là những sản phẩm có giá trị cao. Thông thường thì người làm trang trại hiểu rõ mục đích sản xuất của mình là cung cấp cho thị trường nên họ chỉ chọn kinh doanh những loại cây, con sao cho có hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng yêu cầu mà thị trường đòi hỏi. Hơn thế nữa, sản phẩm làm ra thường có giá thành cạnh tranh, chất lượng đồng đều, có khả năng cung cấp._. với khối lượng lớn nên thường dễ được các cơ cở chế biến và người tiêu dùng chấp nhận. Giá trị sản phẩm cao không chỉ đem lại thu nhập cho chủ trang trại mà trong phạm vi toàn ngành, nó sẽ là phần đóng góp đáng kể để gia tăng giá trị ngành sản xuất nông nghiệp. 4.2.3. Phát triển kinh tế trang trại đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn. Sản xuất nông nghiệp là đầu vào quan trọng của các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Rõ ràng là khối lượng, chất lượng, giá cả nông sản cung cấp cho một nhà máy chế biến thực phẩm nào đó sẽ quyết định tính cạnh tranh của sản phẩm nhà máy này. Không những thế, sản phẩm của trang trại sẽ góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp cơ khí, công nghiệp năng lượng trong các mối liên hệ ngược với các ngành này. Để làm ra sản phẩm, các trang trại cần sử dụng máy móc, cần tiêu dùng năng lượng, cần được cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu... Đó là không kể những trang trại kinh doanh tổng hợp còn tự sơ chế, chế biến ngay tại chỗ. Yêu cầu này cần được sự giúp đỡ của ngành công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm... Mối quan hệ qua lại này chỉ ra rằng: Sự phát triển của ngành này là động lực phát triển của ngành kia. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 Mặt khác, khi kinh tế trang trại phát triển nó sẽ đem lại thu nhập cho một bộ phận nông dân, tiêu dùng của khu vực nông nghiệp - nông thôn tăng lên kéo theo sự khởi sắc của ngành dịch vụ theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường. Như vậy, kinh tế trang trại không chỉ là lực lượng xung kích đi đầu trong lĩnh vực sản xuất nông sản hàng hoá, mà còn là lực lượng đi đầu trong ứng dụng khoa học công nghệ nông nghiệp, do đó là nhân tố cơ bản cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn nước ta. Điểm yếu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn là tính chất lạc hậu, manh mún, phân tán của sản xuất nông nghiệp nước ta nói chung, của tỉnh Thái Nguyên và của huyện Đại Từ nói riêng (cho dù huyện Đại Từ vẫn là huyện có trình độ thâm canh cao so với các huyện trong tỉnh Thái Nguyên) nên đã hạn chế khả năng thay đổi cách thức sản xuất từ thủ công sang lao động bằng máy móc hiện đại. Quy mô đất đai và vốn lớn của các trang trại sẽ khắc phục nhược điểm này. Nói chung, trong điều kiện kinh tế thị trường, với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì mô hình kinh tế trang trại là một hướng đi đầy triển vọng cho nông nghiệp Việt Nam. Chắc chắn trong tương lai, sự phát triển của nông nghiệp huyện Đại Từ phải bao gồm cả sự phát triển của mô hình kinh tế trang trại. 4.3. Phát triển kinh tế trang trại giải quyết đƣợc những vấn đề về mặt xã hội và môi trƣờng. 4.3.1. Phát triển kinh tế trang trại sẽ giải quyết được việc làm cho lực lượng lao động nông thôn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 Theo số liệu thống kê năm 2006 trên địa bàn huyện Đại Từ vẫn còn đến hơn 70% lao động là ở nông thôn. (5) Tính chất mùa vụ của hoạt động sản xuất nông nghiệp cùng với việc mở rộng dần phạm vị ứng dụng của máy móc hiện đại càng làm tăng tỷ lệ thất nghiệp trá hình. Theo ước tính, lao động ở khu vực nông thôn mới chỉ sử dụng hết khoảng 3/4 thời gian lao động nông nghiệp, như vậy là đã lãng phí một lượng lớn lao động nông thôn. Trong số đó nhiều người thậm chí còn hoàn toàn không có cả việc làm. Một phần lao động dư thừa ấy sẽ được giải quyết khi các trang trại hình thành vì trang trại không chỉ giải quyết việc làm cho bản thân chủ trang trại cũng như người nhà của họ mà còn thu hút được một lực lượng đáng kể lao động làm thuê, trong năm 2007 các trang trại của huyện Đại Từ đã thu hút, sử dụng 394 lao động trong nông thôn. * Phát triển kinh tế trang trại góp phần tăng cường quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Tác động của kinh tế trang trại tới sự phát triển của lực lượng sản xuất xét ở 3 khía cạnh: Một là: Nhờ cách làm ăn hiệu quả hơn, kinh tế trang trại đem lại nguồn thu nhập cao hơn cho người lao động tham gia sản xuất và trong thực tế, rất nhiều nông dân đã giàu lên thực sự bằng con đường này. Không những thế, những lao động làm thuê cũng được hưởng một mức thu nhập cao hơn trước đây, nhờ đó đời sống được cải thiện cả về mặt vật chất và tinh thần. Hai là: Dựa vào ưu thế của kinh tế trang trại trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mà trình độ kỹ thuật, trình độ thâm canh, chuyên môn hoá công nghiệp của huyện nói chung được nâng lên rõ rệt. Trong thời đại này, máy móc là bộ phận vô cùng quan trọng của lực lượng sản xuất nông nghiệp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 và sự phát triển của máy móc (xét cả về số lượng và chất lượng) chính là sự phát triển của lực lượng phát triển sản xuất. Ba là: Kinh tế trang trại phát triển kéo theo sự phát triển của các mối quan hệ giữa nông dân - nông dân trong việc hợp tác, hỗ trợ sản xuất, thuê nhân công, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ giữa các khâu sản xuất - chế biến - tiêu thụ của quy trình sản xuất hàng hoá. Tiếp theo đó là mối quan hệ giữa các chủ trang trại và nhà cung cấp, cũng được nâng lên thông qua các loại hình dịch vụ và chuyển giao kỹ thuật. 4.3.2. Phát triển kinh tế trang trại thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn. Rõ ràng là để đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hoá của mình, các trang trại cần phải được đảm bảo bằng một hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ và hiện đại. Nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, các trang trại có thể kết hợp với các địa phương, cùng các doanh nghiệp khác để giải quyết những vấn đề chung này (giao thông, điện, nước, thuỷ lợi, hệ thống tiêu thụ sản phẩm...), các công trình giao thông, kho tàng, bến bãi, các phương tiện vận tải được mở rộng và xây dựng mới để phục vụ cho sản xuất hàng hoá của các trang trại. Và vì không phải trang trại nào cũng có khả năng tự xây dựng hệ thống này nên cần có những sự giúp đỡ của Nhà nước. Đi đôi với việc phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất là hệ thống cơ sở phục vụ đời sống nhân dân, hệ thống trường học, trạm xá, chợ, các công trình văn hoá, thể thao... Một số thị tứ đã hình thành cùng với sự phát triển kinh tế trang trại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 Huyện Đại Từ đóng góp của kinh tế trang trại sẽ là góp phần xây dựng mới, tu sửa và mở rộng mạng lưới thuỷ lợi, hệ thống đường xá nối các khu vực nông thôn khác nhau, nhất là các xã xa trung tâm thị tứ. 4.3.3. Phát triển kinh tế trang trại khai thác hiệu quả các nguồn lực. Thực tế cho thấy trong các mô hình kinh tế các yếu tố nguồn lực thường được sử dụng hiệu quả hơn so với kinh tế hộ. Không còn mang tính chất tự sản tự tiêu, cơ chế thị trường buộc các "Doanh nghiệp trang trại" phải hạch toán kinh doanh do đó vì lợi nhuận, các yếu tố đầu vào như đất đai, chi phí mua giống, phân bón, trang thiết bị máy móc, thuê mướn nhân công... đều được tính toán sao cho đem lại tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Rộng hơn, kinh tế trang trại còn góp phần tích cực vào việc huy động tiền vốn đọng trong một bộ phận lớn nông dân lâu nay vào sản xuất nông nghiệp. 4.3.4. Phát triển kinh tế trang trại góp phần cải thiện môi trường. Đối với huyện Đại Từ, có 19 trang trại trồng rừng, các trang trại này đã góp phần vào công cuộc xây dựng một nền nông nghiệp đa dạng, một nền sinh thái bền vững. Tóm lại, mô hình kinh tế trang trại không chỉ là mô hình thích hợp với sản xuất nông nghiệp huyện Đại Từ mà nó còn phù hợp với cơ chế thị trường và đem lại những lợi ích to lớn cả về kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, nhận thức về vai trò của nó chưa đủ để chúng ta xây dựng được hệ thống các giải pháp hiệu quả, bởi vì ta còn phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại nữa. 5. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại và tiêu chí xác định trang trại: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 5.1. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại: Việc nghiên cứu những đặc trưng của kinh tế trang trại có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu cũng như trong thực tiễn quản lý. Để xác định những đặc trưng của kinh tế trang trại, cần xuất phát từ những điểm khác biệt mang tính bản chất của kinh tế trang trại so với các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung khác và so với kinh tế nông hộ. Điều này đòi hỏi phải xuất phát từ khái niệm về kinh tế trang trại đã được trình bày ở trên. Với quan điểm như vậy, kinh tế trang trại mang những đặc trưng cơ bản sau đây: 5.1.1.Phát triển kinh tế trang trại gắn với sản xuất nông, lâm, thuỷ sản theo hướng hàng hoá và theo nhu cầu thị trường. Kinh tế trang trại là hình thức kinh tế từng bước đưa nông dân từ hộ nông nghiệp tự cấp tự túc lên các hộ nông nghiệp hàng hoá. Vai trò khách quan mang tính lịch sử này của kinh tế trang trại gắn liền với tính hai mặt của hộ nông dân, với trình độ phát triển của sản xuất nông nghiệp và sự giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn. Nông hộ vừa là gia đình- đơn vị trực tiếp tiêu dùng của xã hội, vừa là cơ sở sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp sản xuất ra những sản phẩm tối cần thiết cho cuộc sống có thể tiêu dùng trực tiếp. Do vậy sản xuất trực tiếp tự túc là cái vốn có của kinh tế hộ nông dân. Các hộ nông dân muốn làm giầu phải thoát khỏi tình trạng sản xuất tự túc và từng bước chuyển sang sản xuất hàng hoá theo phương thức trang trại. Như vậy các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong nền kinh tế thị trường mặc dù sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản xuất phân tán, song mục đích chủ yếu vẫn là nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của những chủ nhân của chúng, còn kinh tế trang trại thì Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 ngay từ khi ra đời đã mang tính hàng hoá và càng ngày tính chất và trình độ sản xuất hàng hoá của nó càng được nâng lên. Các trang trại đều đi lên từ kinh tế hộ nông dân khi kinh tế hộ phá vỡ vỏ bọc tự cấp, tự cung vốn có. Như quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại gia đình là quá trình nâng cao hay mở rộng tính chất và trình độ sản xuất hàng hoá của trang trại đồng thời cũng là quá trình thu hẹp tính chất sản xuất trực tiếp tự cấp, tự túc vốn có của kinh tế hộ nông dân. Đặc trưng về mục đích sản xuất hàng hoá là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế trang trại, bởi vì mục đích sản xuất hàng hoá chi phối và ảnh hưởng lớn, thậm chí quyết định tới các đặc trưng khác cuả kinh tế trang trại. Quy mô của trang trại lớn gấp nhiều lần quy mô của hộ gia đình hay kiểu tiểu nông. Nó được đánh giá bằng diện tích đất đai sử dụng, hay bằng giá trị sản lượng làm ra trong một năm hoặc đo bằng tỷ suất hàng hoá của trang trại. 5.1.2. Tư liệu sản xuất trong trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập. Trong các trang trại mà tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu của chủ trang trại trong trường hợp đi thuê hoặc được giao quyền sử dụng thì tư liệu sản xuất đều thuộc quyền sử dụng của một người chủ độc lập. Người chủ độc lập ở đây không phải là người chủ biệt lập, tách rời khỏi các quan hệ liên kết và hợp tác với các chủ thể kinh tế khác. Người chủ độc lập ở đây là người hoàn toàn có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên như đã trình bày ở trên, tư liệu sản xuất trong trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập cũng có nghĩa là những hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm nghiệp dựa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 trên sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể (nông, lâm trường quốc doanh, hợp tác xã nông nghiệp...) thì không thuộc khái niệm trang trại. 5.1.3. Quá trình tích tụ ruộng đất và vốn đầu tư được tập trung tới quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá. Trong nông nghiệp cũng như trong ngành sản xuất vật chất khác, sản xuất hàng hoá chỉ có thể được tiến hành khi các yếu tố sản xuất được tập trung tới quy mô nào đó. Do đó ở các trang trại, sản xuất hàng hoá chỉ có thể được thực hiện khi ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất... được tập trung tới quy mô cần thiết (đủ lớn). Đặc trưng này được quy định bởi chính đặc trưng về mục đích sản xuất của trang trại. ở các trang trại tư nhân, quy mô tập trung các yếu tố sản xuất lớn hơn hẳn so với các trang trại gia đình, còn các trang trại gia đình mặc dù có quy mô lớn hơn nhiều so với kinh tế họ tự cấp, tự túc, song nói chung vẫn nằm trong khuôn khổ gia đình, chịu sự giới hạn nhất định của các yếu tố sản xuất nội lực. Do vậy, sự tập trung các yếu tố sản xuất (ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất, lao động...) ở đây dù theo yêu cầu sản xuất hàng hoá song cũng có những giới hạn nhất định. Đặc trưng về sự tập trung các yếu tố sản xuất của kinh tế trang trại có thể biểu thị về mặt lượng bằng những chỉ tiêu chủ yếu sau: - Quy mô diện tích ruộng đất của trang trại (nếu là trang trại chăn nuôi thì là số lượng gia súc, gia cầm...) - Quy mô vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh của trang trại. 5.1.4. Tổ chức và quản lý sản xuất theo phương thức tiến bộ dựa trên sự chuyên môn hoá sản xuất, thâm canh, ứng dụng TBKHKT, thực hiện hoạch toán, điều hành sản xuất hợp lý và thường xuyên tiếp cận thị trường. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 - Về trình độ chuyên môn hoá sản xuất trong các trang trại: Chuyên môn hoá sản xuất của trang trại là quá trình gắn liền với việc chuyển phương hướng sản xuất của trang trại từ sản xuất đa dạng, đa canh kết hợp trồng trọt với chăn nuôi sang sản xuất chuyên canh, tập trung vào một vài nông sản hàng hoá có lợi thế so sánh và khả năng sinh lời cao. Để phản ánh trình độ chuyên môn hoá, có thể sử dụng chỉ tiêu: Cơ cấu giá trị sản lượng của trang trại; Cơ cấu giá trị sản lượng hàng hoá của trang trại. - Trình độ thâm canh trong các trang trại cũng được nâng dần từ thâm canh truyền thống sang thâm canh kết hợp truyền thống với hiện đại rồi thâm canh hiện đại. Những chỉ tiêu chủ yếu có thể sử dụng để biểu hiện trình độ thâm canh là: Vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích; Vốn đầu tư cho những công nghệ sản xuất tiến bộ trên một đơn vị diện tích; Năng suất cây trồng vật nuôi. - Về cách thức điều hành sản xuất: Lúc đầu sản xuất hàng hoá còn ít và giản đơn với mục đích là tối đa hoá lợi ích và tăng thêm thu nhập cho gia đình thì chủ trang trại vẫn điều hành sản xuất theo kiểu gia trưởng, song đã bắt đầu đi vào bố trí, tổ chức sản xuất, ghi chép thu chi và hoạch toán đơn giản. Khi sản xuất hàng hoá là hướng chính, các phạm trù lợi nhuận, giá cả và cạnh tranh ngày càng lôi cuốn trang trại đi vào kinh doanh nhằm đạt lợi nhuận nhiều hơn thì cách quản lý theo kiểu gia trưởng không còn thích hợp nữa. Sản xuất đòi hỏi phải có phương án hợp lý lựa chọn cây trồng, vật nuôi, quy hoạch ruộng đất, xây dựng kết cấu hạ tầng, áp dụng công nghệ và quy trình thâm canh... Do vậy quản lý và điều hành sản xuất ở đây được tiến hành trên cơ sở những kiến thức cần thiết về nông học, sinh học và phương pháp điều hành sản xuất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 Về hoạt động tài chính và hoạch toán của trang trại: Hoạt động tài chính và hoạch toán của trang trại dần dần thay đổi. Lúc đầu khi mới đi vào sản xuất hàng hoá, chủ trang trại thường ghi nhớ trong đầu hoặc có ghi chép, hoạch toán đơn giản lượng thu, lượng chi và phần thu nhập dôi ra đối với vài cây trồng, vật nuôi chủ yếu. Khi sản xuất hàng hoá đã trở thành hướng chính, các trang trại thường thực hiện hoạch toán giá thành và lợi nhuận đối với từng cây, con hàng hoá. Đến khi trang trại kinh doanh gần như một doanh nghiệp thì hoạt động tài chính đi vào chiều sâu, bao gồm các nội dung: Kế hoạch tài chính, hoạch toán giá thành, lợi nhuận, phân tích kinh doanh...Hoạt động tài chính và hoạch toán của trang trại ngày càng có vai trò quan trọng, đồng thời cũng ngày càng phức tạp đòi hỏi phải có kiến thức và nghiệp vụ kế toán, hoạch toán nhất định. - Về tiếp cận thị trường: Thái độ và hành động đối với thị trường của trang trại cũng từng bước được thay đổi theo hướng ngày càng tiếp cận và gắn kết với thị trường. Lúc đầu trang trại chưa quan tâm nhiều đến thị trường mặc dù đã sản xuất theo hướng hàng hoá song tỷ trọng sản phẩm tự cung, tự cấp còn khá cao. Nhưng khi trình độ sản xuất hàng hoá đã nâng lên thì các trang trại thường xuyên quan tâm đến thị trường và tìm kiếm thị trường. Đến khi giai đoạn coi kinh doanh là lẽ sống của mình thì thị trường là khâu kết thúc, quyết định chu kỳ kinh doanh thì trang trại thường xây dựng và thực hiện linh hoạt chiến lược kinh doanh nhằm đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. Mức độ liên hệ và gắn kết với thị trường có thể xem xét thông qua chỉ tiêu tỷ trọng chi phí trung gian trong tổng chi phí sản xuất của trang trại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 5.1.5. Chủ trang trại là người có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý, có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất, đồng thời có hiểu biết nhất định về kinh doanh. Người chủ trang trại là người có những tố chất cần thiết để tổ chức và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Những tố chất cần thiết và chủ yếu của chủ trang trại là: Có ý chí và quyết tâm làm giàu từ nghề nông; Có năng lực tổ chức quản lý; Có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, đồng thời có hiểu biết nhất định về hoạch toán, phân tích kinh doanh, tiếp cận thị trường... Những tố chất của người chủ trang trại nêu trên, về cơ bản không có ở người chủ nông hộ sản xuất tự cấp, tự túc. Tuy nhiên, những tố chất ngày nói chung không phải hoàn toàn được hội đủ ngay khi trang trại mới hình thành mà phần lớn các chủ trang trại, sự hội tụ các tố chất cần thiết cũng trải qua một quá trình nhất định. Mức độ hoàn thiện của các tố chất cũng gắn liền với các giai đoạn phát triển của trang trại. 5.1.6. Phát triển kinh tế trang trại giải quyết việc làm cho người lao động: Thông thường các trang trại trong nông, lâm, ngư nghiệp đều có quy mô sản xuất lớn hơn hẳn so với quy mô sản xuất của hộ nông dân. Ngay trong các trang trại gia đình quy mô sản xuất cũng thường lớn hơn khoảng 3 lần so với quy mô sản xuất bình quân của một hộ nông dân trong vùng. Điều này dẫn đến nhu cầu về lao động trong các trang trại đều vượt quá khả năng nguồn lao động gia đình và do đó các trang trại đều có thuê mướn lao động. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Quy mô thuê mướn lao động của trang trại trong các loại hình khác nhau và phụ thuộc chủ yếu vào các loại hình trang trại và quy mô sản xuất của các trang trại. Có hai hình thức thuê mướn lao động trong các trang trại đó là: Thuê lao động thường xuyên và thuê lao động theo thời vụ. Trong hình thức thuê lao động thường xuyên, trang trại thuê người lao động làm việc ổn định quanh năm, còn trong hình thức thuê lao động theo thời vụ, trang trại chỉ thuê người lao động làm việc theo thời vụ sản xuất. Thông thường các trang trại tư nhân có quy mô sản xuất lớn thì thuê cả lao động thường xuyên và lao động thời vụ, trong đó lao động thường xuyên là chủ yếu. Các trang trại tiểu nông thuê cả hai loại lao động, nhưng lao động thời vụ là chủ yếu, còn trang trại gia đình do quy mô sản xuất nhỏ hơn các loại hình trang trại trên nên thường là lao động thời vụ. 5.2. Tiêu chí xác định trang trại: Không phải Nhà nước bỏ qua hình thức tổ chức sản xuất này, nhưng vì đến trước những năm 2000, do chưa có một sự thống nhất về khái niệm cũng như tiêu chí xác định trang trại nên mang đầy đủ đặc điểm của một đơn vị sản xuất kinh doanh nhưng chủ trang trại vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc xin hưởng các chế độ hỗ trợ của Nhà nước. Thông thường các nhà thống kê vẫn sử dụng những chỉ tiêu định tính hoặc chỉ tiêu định lượng mà tính định lượng không cao và các chỉ tiêu này không được thống nhất trong cả nước. * Tiêu chí định tính Có thể dùng tiêu chí này để nhận dạng thế nào là một trang trại, đó là các đặc trưng chủ yếu của kinh tế trang trại: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 - Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông lâm, thuỷ sản hàng hoá với quy mô lớn. - Mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản xuất cao hơn hẳn (vượt trội) so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở quy mô sản xuất như: Đất đai, đầu con gia súc, lao động, giá trị nông lâm thuỷ sản hàng hoá. - Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản xuất, biết áp dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất, sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài sản xuất hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ. * Tiêu chí định lượng: Dùng để phân biệt rõ ràng trang trại, không phải trang trại và để phân loại các trang trại khác nhau. Ngày 23/6/2000 Liên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng cục thống kê đã ra Thông tư số 69/2000/TTLT/BNN- TCT; Sau đó ngày 4/7/2003 Bộ Nông nghiệp và PTNT ra Thông tư số 74/TT-BNN về việc sửa đổi bổ sung mục III của thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 hướng dẫn xác định tiêu chí kinh tế trang trại 5 ; Cụ thể như sau: * Các đối tượng và ngành sản xuất được xem xét để xác định là kinh tế trang trại Hộ nông dân, hộ công nhân viên Nhà nước và lực lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các loại đô thị và cá nhân chuyên sản xuất (bao gồm nông nghiệp, lâm 5 Thông tư số 74/TT-BNN về v iệc sửa đổi bổ sung mục III của thông tư liên t ịch số 69/2000/TTLT/BNN- TCTK ngày 23/6/2000 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản) hoặc sản xuất nông nghiệp là chính, có kiêm nhiệm các hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn. * Tiêu chí định lượng để xác định là kinh tế trang trại - Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được xác định là trang trại phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng hoá bình quân 1 năm, hoặc quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế. - Đối với hộ sản xuất kinh doanh tổng hợp có nhiều loại sản phẩm hàng hoá của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản thì tiêu chí để xác định trang trại là giá trị sản lượng hàng hoá, dịch vụ bình quân 1 năm. * Tiêu trí xác định kinh tế trang trại: Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được xác định là trang trại phải đạt một trong hai tiêu chí định lượng sau đây: 1. Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm phải đạt từ 40 triệu đồng trở lên/trang trại. 2. Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế. Quy mô sản xuất của trang trại được xác định như sau: STT Loại hình trang trại Quy mô I Đối với trang trại trồng trọt Quy mô diện tích 1 Cây hàng năm > 2 ha 2 Cây lâu năm (Chè, cây ăn qủa…) >3 ha Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 3 Lâm nghiệp > 10 ha II Đối với trang trại chăn nuôi 1 Chăn nuôi đại gia súc: Trâu, bò… - Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa - Chăn nuôi lấy thịt - Có thường xuyên > 10 con - Có thường xuyên > 50 con 2 Chăn nuôi gia súc: Dê, lợn… - Chăn nuôi sinh sản + Lợn + Dê > 20 con > 50 con 3 Chăn nuôi gia cầm: Gà, vịt, ngan… > 2000 con (không kể số đầu con dưới 7 ngày tuổi) III Chăn nuôi thuỷ sản - Đối với chăn nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp > 2 ha > 1ha IV Đối với các loại sản phẩm nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có tính chất đặc thù như: Trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong, giống thuỷ sản, thuỷ đặc sản thì tiêu chí xác định là giá trị sản lượng hàng hoá bình quân một năm đạt từ 40 triệu đồng trở lên 5.3. Phân loại kinh tế trang trại Phân loại theo quy mô Phân loại theo loại hình sản xuất Phân loại theo chủ thể kinh doanh Nhỏ: < 2 ha - Trồng trọt Trang trại gia đình Vừa: 2-5 ha + Trồng rừng Trang trại tiểu thủ Khá lớn: 5-10 ha + Trồng cây ăn quả Trang trang tư nhân kinh doanh nông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 nghiệp. Lớn: > 10 ha + Trồng cây lâu năm + Trồng cây lương thực, thực phẩm + Kinh doanh đặc thù - Chăn nuôi: - Thuỷ sản - Trang trại kinh doanh tổng hợp II- Cơ sở thực tiễn: 1. Kinh nghiệm phát triển trang trại của các nƣớc trên thế giới: Tại nước Mỹ và các nước Tây Âu kinh tế trang trại đã xuất hiện từ những năm 1950, tuy nhiên ngày càng số lượng trang trại ngày càng ít đi, tại Mỹ năm 1950 có 5.648.000 trang trại đến năm 1992 còn 1.920.000 trang trại, diện tích trang trại bình quân của các trang trại ngày càng tăng, tại Mỹ diện tích bình quân năm 1950 là 86 ha, đến năm 1992 là 198,7 ha 6 . Tại Anh năm 1950 diện tích bình quân trang trại là 36 ha, đến năm 1987 là 71 ha 7 . Tại các nước Châu á kinh tế trang trại chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên, dân số nên có những đặc điểm khác với trang trại ở các nước Châu Âu về quy mô và số lượng trang trại. Tại các nước Châu á do đất canh tác trên đầu người vào loại thấp trên thế giới như Đài Loan: 0,47 ha; Malaixia: 0,25 ha; Hàn Quốc: 6 A.A Connugin: Kinh tế nông trại M ỹ, Tr ường Đại Học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 7 Nguyễn Điền. Kinh tế trang trại trại t rên thế giới và ở Châu Á Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 0,53ha…, trong khi đó ở các quốc gia Châu á đều có dân số đông nên có ảnh hưởng đến quy mô trang trại. Chính vì vậy ở các nước Châu Á nói chung, hiện tượng tích tụ ruộng đất diễn ra chậm nên tình trạng manh mún, phân tán ruộng đất cũng là một trong trở ngại trong vấn đề phát triển kinh tế trang trại. Đối với các nước Châu Âu, nước Mỹ thì trang trại bao gồm: Trang trại gia đình; trang trại liên doanh, trang trại liên doanh cổ phần và trang trại uỷ thác cho người nhà, bạn bè quản lý, sản xuất. Trong đó trang trại gia đình là loại hình trang trại mà mỗi gia đình có tư cách pháp nhân riêng do người chủ hộ hay một người có năng lực và uy tín trong gia đình đứng ra quản lý, ở nhiều nước phát triển, những chủ trang trại muốn được nhà nước công nhận thì trình độ quản lý và tư cách pháp nhân phải tốt nghiệp các trường kỹ thuật và quản lý nông nghiệp, đồng thời có kinh nghiệm qua thực tập lao động sản xuất kinh doanh một năm ở các trang trại khác. Các chủ trang trại họ đều là những chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, có trình độ học vấn, họ thường xuyên liên hệ đối với các cơ quan khoa học để thu thập thông tin kinh tế kỹ thuật, tham gia hội thảo khoa học. Đây là loại hình trang trại phổ biến còn các loại hình trang trại liên doanh, trang trại liên doanh cổ phần thì đây là loại hình trang trại có quy mô lớn, được chuyên môn hoá sản xuất, sử dụng lao động làm thuê là chủ yếu. Ở Mỹ và các nước Châu Âu thì nguồn vốn và lao động của họ có những thuận lợi hơn so với các nước Châu Á, các trang trại được mua chịu tư liệu sản xuất, được hỗ trợ vay vốn với lãi xuất thấp để mua tư liệu sản xuất. Về lao động và kỹ thuật, các trang trại ở Châu Âu và các nước phát triển tăng cường sử dụng máy móc hiện đại và mức độ cơ giới ngày càng từng bước tiến tới tự động hoá, tin học hoá, hoá học hoá trong sản xuất, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 trong các trang trại số lượng lao động trong nông nghiệp của gia đình cũng như lao động làm thuê ngày càng giảm dần. 2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở trong nƣớc: Ở nước ta các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung với tên gọi khác nhau (Trại, ấp, thái ấp, đồn điền, điền trang…) đã xuất hiện ở Việt Nam từ những năm đầu công nguyên và phát triển khá mạnh mẽ trong thời kỳ phong kiến đặc biệt là thời kỳ Lý-Trần và thời kỳ nhà Nguyễn. Bắt đầu từ những năm 1990 đến nay Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện những chủ trương, biện pháp nhất quán theo hướng tạo điều kiện cho kinh tế trang trại ra đời và phát triển. Qua các kỳ đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, khảng định chính sách khuyến khích tiểu thủ và kinh tế tư bản tư nhân. Điều đó đã tạo nên bối cảnh ra đời và phát triển của kinh tế trang trại. Bằng các chủ trương, biện pháp thích hợp chúng ta đã khuyến khích kinh tế trang trại phát triển như: Trước hết là sự thay đổi về các mối quan hệ kinh tế liên quan đến quyền sử dụng đất đai, b 8 ởi vì đất đai là yếu tố đầu vào quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp. Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đất đai thuộc quyền sử hữu của ngừơi dân, không mua bán, đồng thời chủ trương giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân là bước đột phá đầu tiên thúc đẩy hộ và kinh tế trang trại phát triển. Bước đi đầu tiên là việc khoán sản phẩm theo nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp theo tinh thần Chỉ thị 100/CT-TW của Ban bí thư Trung ương ngày 31-1-1981 đã từng bước khôi phục lại quyền tự chủ đối với sản xuất cho hộ gia đình trong việc sử dụng đất và lao động của bản thân họ. Bước tiếp 8 Phát triển kinh tế hợp tác và kinh tế trang trại gia đ ình ở Việt Nam Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 theo, thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn đồng thời có chính sách khuyến khích kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân trong nông, lâm, ngư nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ chính trị và Nghị quyết Hội nghị lần 6 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VI tháng 3/1989. Đến năm 1._.nh. Trên thực tế, quá trình tập trung ruộng đất diễn ra chậm, cần tiếp tục khuyến khích quá trình tập trung ruộng đất theo hướng hình thành trang trại. Đó là yêu cầu đòi hỏi thực tế (80% lãnh đạo các cấp và 75% các chủ trang trại thống nhất với ý kiến này) và là yêu cầu khách quan của phát triển kinh tế trang trại. Tuy nhiên, việc tập trung ruộng đất phải được tiến hành một cách thận trọng. Đặc biệt, ở các vùng đồng bằng nơi diện tích đất nông nghiệp bình quân thấp, khả năng để lao động nông nghiệp chuyển sang phi nông nghiệp rất hạn chế nên việc tập trung đất đai có thể làm cho một bộ phận nhỏ nông dân vì hoàn cảnh khó khăn quẫn bách buộc phải mất đất để chỗ thất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 nghiệp, bần cùng hoá. Do vậy, việc tập trung đất đai không thể diễn ra tự phát mà phải có sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước, nhất là các chính quyền địa phương. Trong bối cảnh hiện nay theo tôi khuyến khích tập trung ruộng đất phát triển kinh tế trang trại cần tập trung sử lý một số vấn đề như: - Nhà nước cần nhanh chóng giao quyền sử dụng đất lâu dài: Đối với những diện tích đất trang trại đã được giao và sử dụng hợp pháp: có thể cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng. Khuyến khích bằng cách giảm thuế, gia hạn hợp đồng thuê đất, sử dụng đất... cho những chủ trang trại biết đầu tư khoa học, kỹ thuật và tái đầu tư mở rộng vào khai thác hiệu quả cao nhất diện tích đang được giao quản lý sử dụng. - Đối với những diện tích đất chưa được giao: Đẩy mạnh việc giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trang trại sử dụng hợp pháp để các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Các địa phương rà soát lại các trang trại hiện có, xúc tiến nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo chính sách đất đai như trong Nghị quyết của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Tài Nguyên-MT. Những hộ gia đình cá nhân đã sử dụng đất phát triển trang trại mà chưa được giao, chưa được thuê hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chưa được cấp giấy chứng nhận trước khi ban hành Nghị quyết 03/2000/NQ-CP, sử dụng đúng mục đích và không tranh chấp thì dược xét giao, cho thuê, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho trang trại. - Đối với những phần đất đai vượt mức hạn điền: Mức hạn điền quy định cần phải phù hợp với đặc trưng của cơ cấu sản xuất của từng loại trang trại và phù hợp với hiện trạng đất đai chật hẹp của vùng, đảm bảo người sản xuất có đất, đồng thời khuyến khích tích tụ đất theo hướng quy mô lớn ở những nơi có điều kiện. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 - Đối với đất trồng cây dài ngày hay để chăn nuôi đại gia súc, ở những nơi có nhiều ruộng đất cần nghiên cứu quy định cho thuê lâu dài phần diện tích vượt mức hạn điền trên nguyên tắc khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả, đồng thời có biện pháp ngăn ngừa việc kiếm lời bằng mua bán đất đai. - Đối với gia đình, cá nhân đã được Nhà nước giao đất hoặc đã được chuyển nhượng quyền sử dụng đất vượt mức hạn điền trước ngày 02/2/2000 thì tiếp tục sử dụng và chuyển sang cho thuê đất với thời gian sử dụng bằng thời gian đất được giao. - Hộ nông dân không có đất sản xuất ở địa phương phải được ưu tiên giao đất. Cho phép các hộ gia đình phi nông nghiệp có nguyện vọng lập trang trại được thuê đất; hộ gia đình, cá nhân ở địa phương khác nếu có nguyện vọng lập trang trại lâu dài, có vốn đầu tư được thuê đất để lập trang trại. - Tiếp tục khai hoang: Tiếp tục khai thác những vùng đất hoang hoá ở các vùng đồi núi trọc rải rác trong vùng, các bãi bồi ven sông Công, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản còn chưa sử dụng, ít người muốn nhận làm, những cá nhân có nguyện vọng thiết tha muốn làm trang trại sản xuất nông nghiệp, có khả năng về vốn, kinh nghiệm sản xuất và quản lý thì cho họ nhận không thu tiền, với diện tích có thể cao hơn hạn điền. Những vùng có nhiều khó khăn trong khai thác và sản xuất thì có thể cho giao với mức thuế thấp, hoặc miễn hẳn. Cho thuê hoặc khoán theo luật định. - Đối với đất đai của các dự án xin kiến nghị xử lý theo hướng: Những trang trại hoạt động theo hình thức dự án do các cấp có thẩm quyền duyệt với quy mô diện tích lớn trên 100 ha, đền nghị UBND huyện, Công ty lâm nghiệp cho chuyển hình thức hoạt động sang công ty tư nhân hay công ty trách nhiệm hữu hạn theo luật công ty; Đối với các chủ dự án khai thác trồng mới cây lâu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 năm, rồi giao khoán lại cho các hộ thuộc địa phương chăm sóc, phân phối theo sản phẩm đề nghị Nhà nước cho họ thuê đất sản xuất nông lâm nghiệp, ổn định và lâu dài theo thời gian mà Luật đất đai quy định 18 . * Khắc phục tình trạng ruộng đất manh mún: Việc khắc phục tình trạng đất manh mún của các nông hộ là sẽ tạo điều kiện đi vào sản xuất tập trung, đồng thời là tiền đề để chuyển từ nông hộ lên trang trại một cách thuận lợi. Tuy nhiên giải quyết tình trạng đất đai manh mún là vấn đề phức tạp liên quan đến lợi ích và tâm lý, tập quán sản xuất của hàng triệu hộ, hàng ngàn trang trại. Vì vậy, không thể dựa vào mệnh lệnh áp đặt từ trên xuống, mà phải thuyết phục nông dân tự nguyện, đồng thời phải có phương pháp đúng đắn và thích hợp. Trước hết, phải có quy hoạch lâu dài đất đai của huyện, xã phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội ở từng nơi. Dựa vào quy hoạch, các địa phương cần có kế hoạch chuyển đổi đất đai thích hợp khắc phục tình trạng manh mún. Sau đó, cần khuyến khích các hộ nông dân chuyển đổi ruộng đất trước khi đo đạc để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Có chính sách dồn điền để lập các trang trại lớn: Để thuận lợi cho tích tụ đất đai hình thành và phát triển kinh tế trang trại một cách nhanh chóng, thuận lợi, đúng quy luật, có hiệu quả nhất, tuân theo quy hoạch của Nhà nước và tránh những hậu quả khác ở nông thôn thì nhà nước cần có chính sách cụ thể hơn nữa như đã thực hiện tại các địa phương như Hà Nội, huyện Phổ Yên …cho phép nông dâ, các trang trại có thể nhận, chuyển nhượng quyền sử dụng hoặc có thuê đất đai, để tích tụ đất ở những nơi có điều kiện. 18 Luật đất đai năm 1993 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 - Có chính sách ưu đãi về thuế sử dụng đất, thuế phụ thu để khuyến khích các chủ trang trại mạnh dạn mở rộng quy mô của mình. * Thừa nhận về pháp lý đất đai là một hàng hoá đặc biệt để quản lý và sử dụng đất đai có hiệu quả. Thị trường đất đai ở nước ta đang trong quá trình hình thành. Trong năm qua thị trường này đã và đang bộc lộ những yếu kém, những hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai cần thiết phải được khắc phục. Nhà nước cần thừa nhận đất đai là một hàng hoá đặc biệt và có chính sách phù hợp để đảm bảo hàng hoá này vận động trong cơ chế thị trường. Từ đó nông dân có thể yên tâm khai thác và sử dụng đất đai có hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước quản lý tốt đất đai. * Nhanh chóng xây dựng kết cấu hạ tầng cho các tiểu vùng kinh tế trang trại Trước hết cần tiếp tục cải thiện hệ thống đường sá, giao thông đi lại cho thuận tiện. Nâng cấp những tuyến đường đã hư hỏng làm cản trở giao thông trong vùng. Tìm nguồn nước, xây dựng các hồ chứa nước, hoàn tiện hệ thốg thuỷ lợi phục vụ sản xuất, hệ thống cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư trong vùng và phục vụ nhu cầu tưới tiêu, nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của trang trại. 3.2.1.2. Các chính sách về vốn Trong các nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội nông thôn nói chung, kinh tế trang trại nói riêng, vốn là nguồn lực quan trọng. Kết quả điều tra cho thấy vốn đầu tư cho các chủ trang trại thấp (bình quân 102,58 triệu đồng/trang trại) và có sự chênh lệnh lớn giữa các vùng. Nguồn vốn chủ yếu là vốn tự có. Việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại đòi hỏi vốn lớn hơn so với kinh tế Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 hộ vì quy mô sản xuất lớn hơn, phải tiến hành khai hoang, kiến thiết đồng ruộng, mặt nước, trồng rừng, trồng cây dài ngày, làm thuỷ lợi, mua sắm máy móc…Vốn ít, các trang trại chưa có tư cách pháp nhân nên các trang trại chỉ phát triển dần quy mô sản xuất theo phương châm “ Lấy ngắn nuôi dài”, nhiều cơ sở hạ tầng không xây dựng, công cụ sản xuất còn thô sơ. Đây là nguyên nhân làm cho kinh tế trang trại những năm qua phát triển chậm, hiệu quả thấp, nhất là những trang trại có lượng vốn thấp, trong khi nhu cầu đầu tư để mua sắm máy móc, xây dựng các cơ sở hạ tầng của trang trại rất lớn. Nhưng hiện nay các trang trại không muốn vay vốn của ngân hàng vì sử dụng vốn vay hiệu quả thấp, các thủ tục vay, thời điểm vay và thời hạn vay chưa hợp lý. Để khắc phục mâu thuẫn trên cần giải quyết theo các vấn đề sau: * Một là, cần có sự hỗ trợ nguồn vốn ngân sách cho việc phát triển kinh tế trang trại. Vốn ngân sách hỗ trợ trang trại tập trung vào xây dựng các công trình hạ tầng như thuỷ lợi, giao thông, điện….Các công trình được đầu tư xây dựng ở bên ngoài trang trại nhưng là cơ sở quan trọng cho việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại. Nhà nước hỗ trợ đầu tư là chủ yếu, tuy nhiên trong trường hợp nguồn ngân sách hạn hẹp, nhu cầu xây dựng lớn thì cần tính toán đầu tư có trọng điểm và kết hợp nguồn lực của các trang trại với phương trâm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”. *Hai là, Nhà nước cần thực hiện cơ chế cho các chủ trang trại vay theo dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. - Nhà nước nên có chính sách tín dụng ưu đãi cho các trang trại theo hai hướng: Tăng vốn cao hơn cho kinh tế hộ, đồng thời tăng lượng vốn vay trung hạn và dài hạn; không phân biệt vốn vay giữa các khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, đơn giản hoá thủ tục, giảm lãi suất... coi như đó là một phần gián tiếp Nhà nước đầu tư cho doanh nghiệp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 Ngày 22/9/2000 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết định số 423/2000/NĐ-NHNN về chính sách tín dụng ngân hàng đối với kinh tế trang trại. Theo đó quy định thời gian cho vay phù hợp với thời gian sinh trưởng, thu hoạch, tiêu thụ sản phẩm của cây trồng, vật nuôi, thời gian khấu hao tài sản cố định, thời gian thuê và khả năng của chủ trang trại. Mức ngắn hạn là 12 tháng, trung hạn là 12 - 16 tháng và dài hạn theo dự án đầu tư là trên 60 tháng. Nếu vay từ 20 đến dưới 15 triệu thì không phải thế chấp tài sản, nhưng phải có phương án kinh doanh hiệu quả và phải nộp giấy chứg nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy xác nhận của UBND xã, phường là đất đang sử dụng không có tranh chấp. - Đa dạng hoá các hình thức cho vay và huy động vốn. Các ngân hàng huy động vốn từ tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu...; vay vốn của các tổ chức tài chính quốc tế và cả vốn ODA, vốn vay thương mại, ngoài ra hàng năm cũng nên dành một phần ngân sách để chuyển sang các tổ chức tín dụng cho vay theo chương trình, dự án 19 . - Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, đảm bảo một môi trường tài chính, tiền tệ lành mạnh, trong đó giữ vững ổn định tương đối giá trị đồng tiền Việt Nam để tạo điều kiện khuyến khích việc huy động vốn dài hạn phục vụ cho mục tiêu đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cần tiến tới việc xoá bỏ quy định về lãi suất trần để tạo cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng, thúc đẩy dòng luân chuyển được nhanh hơn. - Cần đổi mới mạnh mẽ phương thức cho vay, thu nợ phù hợp vớ i đặc điểm của từng loại hình kinh tế trang trại. Đổi mới thủ tục cho vay, thu lãi sao 19 Quyết định 67/QĐ-TT ng ày 30/3/1999 về m ột số chính sách ngân hàng phục vụ phát t riển nông thôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 cho đơn giản, thuận tiện hơn, có cơ chế cho vay, thu lãi theo thời vụ của cây trồng, vật nuôi. - Cần có cơ chế cho phép Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay theo dự án đầu tư trọn gói (bao gồm cả chi phí trả lãi ngân hàng) đối với kinh tế trang trại. 3.2.1.3. Giải pháp về thị trường cho kinh tế trang trại để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm: Đây là vấn đề sống còn không chỉ riêng với kinh tế trang trại mà còn đối với cả nền nông nghiệp nước ta. Cần tập trung vào các mặt sau đây: - Về thông tin thị trường: Việc người sản xuất nắm bắt thông tin thị trường là vô cùng quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá. Nhà nước cần lầm tốt công tác thông tin kinh tế, đưa những thông tin này đến người sản xuất thông qua nhiều hệ thống kênh trong đó có thông qua hệ thống khuyến nông để tăng khả năng tiếp thị của người sản xuất, để chủ trang trại có điều kiện phân tích cung cầu trên thị trường. Chẳng hạn, hình thành các kênh thông tin để doanh ngiệp và các chủ trang trại tiếp cận thị trường như: tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân nước ngoài vào Việt Nam đặt hàng, thương nhân Việt Nam ra nước ngoài chào hàng; triển khai các hội chợ hàng nông sản, hội thảo hàng nông sản, dần dần tổ chức thành các thị trường mua bán kỳ hạn như ở các nước. UBND huyện và UBND các xã, TT tổ chức tốt việc cung cấp thông tin, khuyến cáo khoa học giúp trang trại định hướng kinh doanh phù hợp nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Các cơ quan xúc tiến thương mại của Nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 nước cần làm tốt công tác dự báo thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước để giúp các trang trại có hướng sản xuất thích hợp. - Về lưu thông hàng hoá. Đa dạng hoá các hình thức liên kết giữa thương nghiệp Nhà nước với các thành phần kinh tế, giữa các viện nghiên cứu với các cơ sở sản xuất và các địa phương, gắn việc ký kết hợp đồng cung ứng vật tư với bao tiêu sản phẩm nhằm bảo đảm hiệu quả kinh tế. Hình thành và phát triển kinh tế hợp tác trên cơ sở tự nguyện và nguyên tắc các bên cùng có lợi giữa các trang trại và dân cư nông thôn gắn vói thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá và nơi cung cấp các mặt hàng công nghiệp thực phẩm thiết yếu cho sản xuất và đời sống của nông dân và nông thôn. Khuyến khích phát triển hệ thống chợ nông thôn và các trung tâm giao dịch mua bán nông sản, vật tư nông nghiệp ở các thị trấn, thị tứ nhất là các địa bàn tập trung phát triển kinh tế trang trại. Khắc phục tình trạng thả nổi thị trường nông thôn tạo điều kiện cho các chủ trang trại không chỉ xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình mà nếu có điều kiện còn có thể thu gom của các chủ trang trại khác, hay khuyến khích làm đại lý vật tư nông nghiệp. Bên cạnh đó cần củng cố hệ thống các doanh nhiệp thương mại làm nhiệm vụ xuất khẩu cho các trang trại ở các vùng chuyên canh. Qua hệ thống này có thể vừa không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các trang trại, vừa có thể kiểm soát các quan hệ kinh tế theo hướng bảo đảm lợi ích hợp lý cho cả phía trang trại lẫn doanh nghiệp thương mại phi Nhà nước. Đồng thời phải thắt chặt sự kiểm soát đối với hàng hoá nông sản giá rẻ, chất lượng kém của nước ngoài xâm nhập vào thị trường trong nước thông qua con đường phi mậu dịch ở các vùng biên giới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 - Về xuất khẩu nông sản: Một mặt nhà nước, các doanh nghiệp tiếp tục duy trì quan hệ với các thị trường truyền thống như Đông Âu, Trung Quốc, Cu Ba, ... mặt khác tích cực tìm kiếm các thị trường mới. Đẩy mạnh việc khuyến khích các chủ trang trại có điều kiện về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và có thị trường tham gia xuất khẩu trực tiếp những nông sản hàng hoá đã qua chế biến. Khắc phục tình trạng quá nhiều đầu mối xuất khẩu không có tổ chức dẫn đến tranh chấp, ép giá. Hoàn chỉnh chính sách tiêu thụ ổn định lâu dài và trực tiếp cho những mặt hàng nông sản quan trọng như gạo, thịt, rau quả cao cấp, nông sản đặc sản... Thoát dần tình trạng xuất khẩu nhỏ từng chuyển qua các khâu trung gian, khuyến khích các đơn vị trực tiếp giao dịch với các đối tác nước ngoài, tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp. 3.2.1.4. Giải pháp về khoa học công nghệ ở các trang trại: - Nhà nước cần đổi mới, hoàn thiện tổ chức hoạt động khoa học công nghệ từ nghiên cứu đến triển khai. Cần huy động các tiềm năng của các thành phần kinh tế tập trung đầu tư vào khoa học và công nghệ nông nghiệp, coi đây là mặt trận hàng đầu. - Ngoài chính sách chung về khoa học và công nghệ nông nghiệp, cần có chính sách cụ thể hướng dẫn khuyến khích, hỗ trợ khoa học và công nghệ đối với kinh tế trang trại là lực lượng, là loại hình tổ chức sản xuất có nhiều nhu cầu và khả năng nhất trong việc ứng dung khoa học và công nghệ nông nghiệp vào sản xuất. Đó chính là công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 Nâng cao, hướng dẫn cho các trang trại áp dụng các mô hình canh tác tổng hợp có hiệu quả, ứng dụng các biện pháp kỹ thuật, quy trình kỹ thuật canh tác tiến bộ nhất là sử dụng các loại giống mới, có năng suất và chất lượng cao vào sản xuất, khuyến khích hỗ trợ các trang trại có điều kiện về đất đai, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật tham gia sản xuất và cung ứng giống. Tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp trong hoạt động khuyến nông của mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế và phương châm tất cả mọi hoạt động khuyến nông đều tác động đến người lao động, đem lại hiệu quả cao nhất. Cần có chính sách mạnh mẽ để tập hợp được nhiều cán bộ khuyến nông, chuyên môn giỏi, nhiều cán bộ quản lý kỹ thuật, kinh tế và xã hội, những nông dân giỏi trong sản xuất và có kinh nghiệm làm giàu. Đảm bảo công tác khuyến nông đạt chất lượng cao nhưng phù hợp với ngân sách của địa phương. Tiếp tục sử dụng những cán bộ khuyến nông có năng lực chuyên môn và giỏi thực hành biết làm công tác tuyên truyền và vận động quần chúng ở từng xã, trả lương ngân sách. Nhiệm vụ của số cán bộ này là tuyên truyền và phổ biến, hướng dẫn tập huấn các chủ trang trại và người lao động có đủ khả năng ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về công nghệ sau thu hoạch, bảo quản sản phẩm, công nghệ chế biến nông, lâm, thuỷ sản theo quy mô vừa và nhỏ sử dụng các trang trại thiết bị cơ giới phù hợp trong khâu làm đất, vận chuyển, bơm nước... Bên cạnh ngân sách của Nhà nước đầu tư cho khuyến nông, cần xây dựng các chính sách thu hút vốn của các ngành hàng, các cơ sở sản xuất kinh daonh nông sản, và nguồn tài trợ quốc tế tham gia công tác này. Hiện nay ngành nông nghiệp chỉ hoạt động khuyến nông chung cho cả nông dân giàu lẫn nghèo. Đã đến lúc cần tập trung công tác khuyến nông riêng đối với các hộ nông dân, trang trại sản xuất hàng hoá. Hình thành và mở rộng các câu lạc bộ khuyến nông cho các chủ trang trại theo các ngành sản xuất, đi về Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 những chuyên đề thiết thực. Mục tiêu của công tác là hướng dẫn các trang trại sử dụng các giống cây, con mới; áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về bảo quản sản phẩm, nhất là bảo quản rau quả nhằm kéo dài thời gian tiêu thụ; áp dụng công nghệ chế biến nông, lâm, hải sản tiên tiến; phân loại và đóng gói sản phẩm tiêu thụ, sử dụng máy móc phù hợp để làm đất, vận chuyển và bơm nước tưới tiêu... - Chính sách khoa học công nghệ của Nhà nước phải kết hợp những kinh nghiệm, tinh hoa cổ truyền với hiện đại hoá theo hướng cơ giới hoá, tin học hoá, thuỷ lợi hoá, đặc biệt là ứng dụng những thành tựu mới nhất của công nghệ sinh học trong nước và quốc tế. - Nhà nước cũng nên tiếp tục tăng cường quản lý và kiểm tra chặt chẽ chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông nghiệp theo pháp lệnh giống cây trồng, vật nuôi, tăng cường kiểm tra, đặc biệt là giống nhập từ các nước, xử lý kịp thời những trường hợp buôn bán hàng giả, giống chất lượng kém thậm chí có nguy cơ gây hại cho cả ngành sản xuất chung để hạn chế rủi ro cho các trang trại và cho toàn ngành nông nghiệp. - Phát huy vai trò của các phòng ban, trạm, trại của địa phương. Các cơ quan này cần theo dõi sát sao nhu cầu của các trang trại, liên kết với các trang trại để xác định các mô hình chuyển giao kỹ thuật mới cho nông dân trong vùng. Đầu tư xây dựng các vườn ươm nhân giống cây trồng, vật nuôi trên địa bàn phát triển trang trại, thậm chí khuyến khích loại hình trang trại kinh doanh hình thức này để đảm bảo cung cấp đủ giống tốt tại chỗ cho các trang trại. - Tổ chức đào tạo nâng cao đội ngũ cán bộ khoa học phục vụ nông nghiệp bằng nhiều hình thức đa dạng. Khuyến khích cá nhân, tập thể mở rộng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 trao đổi, hợp tác với nước ngoài, có chính sách đãi ngộ thoả đáng với những sáng tạo công nghệ và ứng dụng có hiệu quả vào sản xuất. - Đối với công nghiệp chế biến, trên cơ sở quy hoạch các vùng nguyên liệu tập trung, các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài, nguồn vốn 135, sắp xếp lại hệ thống các cơ sở chế biến công nghiệp, đồng thời phát triển công nghiệp chế biến với các trình độ sản xuất khác nhau để tăng lượng nông sản qua chế biến, phục vụ nhu cầu đa dạng không chỉ của trong vùng mà còn của các vùng khác. Đối với các loại nông sản xuất khẩu thì phải đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. 3.2.1.5. Giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng: - Trước hết cần hoàn thiện và nâng cấp hệ thống đường giao thông trong vùng, nhất là đường giao thông nông thôn. Hệ thống đường bộ quốc gia đã có thể đảm bảo lưu thông hàng hoá, vật tư và nông sản trong phạm vi toàn vùng. Vấn đề là nâng cấp chất lượng đường giao thông liên huyện, liên xã phù hợp với yêu cầu phát triển của nông nghiệp hàng hoá và kinh tế nông thôn cũng như kinh tế trang trại. Giải pháp nâng cấp đường giao thông hiện nay phải coi trọng chất lượng hơn số lượng. - Hoàn thiện hệ thống điện nông thôn. Hiện nay điện nông thôn ở huyện Đại Từ đã về 100% số xã nên giải pháp hoàn thiện hệ thống điện là ổn định nguồn điện bằng các biện pháp kỹ thuật và quản lý. Nên chăng giảm giá điện sản xuất cho các trang trại nhỏ. Giảm giá bán điện cho nông nghiệp nói chung. - Nâng cấp các công trình thuỷ lợi trong vùng. Hệ thống thuỷ lợi hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu thâm canh cao hơn và đối phó với những biến động thất thường của thời tiết. Yêu cầu tưới tiêu chủ động, tiến tới tưới tiêu theo yêu cầu của sinh trưởng và phát triển của cây trồng đang đặt ra hàn loạt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 vấn đề kinh tế và kỹ thuật đối với các công trình thuỷ lợi trong vùng, do đó cần phải nâng cấp các công trình hiện có để tăng công suất tưới tiêu và cải tiến phương pháp tưới tiêu. Sắp tới vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhấn mạnh vào việc kiên cố hoá kênh mương, gắn kết việc xây dựng kênh mương với hệ thống giao thông nội đồng. - Đầu tư nâng cao, chuyển giao và ứng dụng kỹ thuật mới trong nông nghiệp: Danh mục đầu tư cần được ưu tiên đầu tư vốn, khoa học công nghệ. - Tổ chức các hệ thống dịch vụ, sản xuất, kinh doanh đồng bộ liên hoàn từ các khâu đầu vào cho đến các khâu đầu ra của sản xuất. Hình thành hệ thống cung ứng vật tư, kỹ thuật, dịch vụ tư vấn, thông tin... 3.2.2. Các giải pháp hỗ trợ khác cho sự phát triển kinh tế trang trại: UBND các huyện, các phòng ban chuyên môn và UBND các xã thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với kinh tế trang trại, chỉ đạo xây dựng quy hoạch, kế hoạch, phối hợp các biện pháp hỗ trợ kinh tế trang trại phát triển. Nhanh chóng ổn định việc quy hoạch phát triển các vùng cây trồng, vật nuôi với khối lượng và chất lượng nông sản hàng hoá lớn. Tại những vùng này, Nhà nước cùng các chủ trang trại đầu tư các hệ thống bảo vệ thực vật, thu mua và chế biến, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm cuối cùng, đồng thời có chiến lược dự trữ các mặt hàng nông sản chủ yếu để sẵn sàng can thiệp và điều tiết giá cả thị trường khi cần thiết. Bộ Nông nghiệp và PTNT phối hợp với Tổng cục Thống kê và các cơ quan có liên quan hướng dẫn tiêu chí về xác định trang trại để phân biệt với các loại hình tổ chức sản xuất khác. Tiêu chí cơ bản là giá trị sản xuất hàng hoá. Các tiêu chí phụ khác được sử dụng để phản ánh quy mô, trình độ, hiệu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 quả sản xuất hàng hoá của trang trại phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, gồm: Quy mô diện tích đất đai, diện tích cây trồng chính, số đầu con gia súc, tỷ trọng hàng hoá, tỷ suất lợi nhuận, số lượng nhân công làm thuê... Việc xác định trang trại để cấp giấy chứng nhận trang trại là điều kiện để các trang trại nhận được sự ưu đãi về vốn và tiêu thụ sản phẩm của nhà nước. Các địa phương tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, đảm bảo các chủ trang trại thực hiện đầy đủ quy trình kỹ thuật canh tác và làm giàu đất, bảo vệ môi trường thống kê trang trại hàng năm. Tổ chức tổng kết đúc rút kinh nghiệm các mô hình trang trại tiên tiến, để tuyên truyền phổ biến, tham quan học tập lẫn nhau. Khen thưởng kịp thời các trang trại sản xuất kinh doanh giỏi, tao được nhiều việc làm, hỗ trợ nhiều hộ nghèo đói khó khăn vươn lên sản xuất, ổn định cuộc sống. Trong bối cảnh nước ta đã tham gia vào ASEAN, APEC và gia nhập AFTA, WTO thì sự cạnh tranh trên thị trường lại càng khốc liệt. Theo đó vai trò của các doanh nghiệp Nhà nước trong nông thôn và các chủ trang trại là hết sức quan trọng, doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại phải định hướng cho các chủ trang trại bảo đảm lợi ích lâu dài và ổn định. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 K ÕT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Trong bối cảnh nền nông nghiệp nước ta đang đòi hỏi gay gắt phải có sự chuyển biến mạnh mẽ cho thích hợp với lối sản xuất hàng hoá và đem lại thu nhập cao cho người nông dân, kinh tế trang trị kịp xuất hiện như một tất yếu khách quan và nhanh chóng chứng tỏ là một trong những loại hình tổ chức sản xuất quan trọng, có vai trò và vị trí tiên phong trong tiến trình thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Kinh tế trang trại là một bộ phận của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá được vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên nó cung được hưởng tất cả các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp, đồng thời kinh tế trang trại cũng phải làm tất cả các nghĩa vụ mà các thành phần kinh tế khác trong nông nghiệp phải làm tất cả các nghĩa vụ mà các thành phần kinh tế khác trong nông nghiệp phải làm. Ngoài ra, kinh tế trang trại mang nhiều yếu tố sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp chế biến thực phẩm, mở mang ngành nghề dịch vụ ở nông thôn theo một cơ cấu hợp lý, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Song thực tế những năm qua đã cho thấy kinh tế trang trại thực sự là đầu tàu trong việc đổi mới nền nông nghiệp của vùng, là cách tốt nhất để phát triển nền nông nghiệp hàng hoá và trong tương lai nó còn có nhiều triển vọng, hứa hẹn đem lại một khối lượng lớn giá trị hàng hoá, nâng cao trình độ sản xuất nông nghiệp của vùng lên một bước mới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 Với hệ thống các biện pháp đã đưa ra, để kinh tế trang trại phát triển đúng với tiềm năng, đem lại nguồn thu lớn cho sản xuất nông nghiệp, xin có một số kiến nghị như sau: - Sau khi có quy hoạch đất, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch các vùng chuyên canh của vùng UBND huyện chỉ đạo các cơ quan của huyện dựa vào đó và căn cứ những thế mạnh của địa phương để hướng dẫn các hộ gia đình có điều kiện kinh doanh trang trại, lựa chọn một cơ cấu sản xuất thích hợp. - Không chỉ khuyến khích các trang trại đưa tiến độ khoa học kỹ thuật vào sản xuất mà với các hộ gia đình sản xuất nhỏ cũng nên có biện pháp hỗ trợ tương tự để họ mở rộng dần quy mô, bước đầu tạo tiền để đi lên làm kinh tế trang trại. - Cho đến nay các trang trại vẫn hoạt động độc lập, thiếu sự phối kết hợp với nhau và với các chủ thể kinh tế khác của nền kinh tế. Có lẽ nên nghiên cứu xem xét việc thành lập Hiệp hội các trang trại của huyện để trang trại có điều kiện thuận lợi hơn trong việc chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, đồng thời cũng tốt cho chủ trương hình thành các vùng chuyên canh lớn của Nhà nước nhờ sự thoả thuận phân công giữa các trang trại trong hiệp hội với nhau. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1- Báo cáo chuyên đề: "Chính sách phát triển kinh tế trang trại và tác động của nó đến việc và thu nhập của lao động nông thôn" - Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp- năm 2002 2- Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 22/2/2000 của chính phủ về việc kinh tế trang trại. 3- Thực trạng và các giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ đổi mới công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở Việt Nam. 4-Kmarx. Toàn tập, tập 25, phần 2 5- Thông tƣ số 74/TT-BNN về việc sửa đổi bổ sung mục III của thông tƣ liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 6-A Connugin: Kinh tế nông trại Mỹ, Trƣờng Đại Học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 7-Nguyễn Điền. Kinh tế trang trại trên thế giới và ở Châu Á 8-Phát triển kinh tế hợp tác và kinh tế trang trại gia đình ở Việt Nam 9- Kết quả thực hiện Đề án phát triển kinh tế trang trại ở Thái Nguyên 10+11+14- Báo cáo đánh giá 3 năm (2002-2004) thực hiện chƣơng trình phát triển kinh tế trang trại tỉnh Thái Nguyên- tháng 12/2004. 12-Báo Kinh tế nông thôn-Mục Kinh tế trang trại với công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp-nông thôn ngày 19/7/2007. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 13-Báo cáo tổng kết năm 2007 của Ngân hàng chính sách xã hội huyện Đại Từ 15-Tạp chí công nghiệp Việt Nam tháng 5/2001. 16- Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện Đại Từ lần thứ 21 17- Đề án phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ giai đoạn 2006-2010. 18- Luật đất đai năm 1993 19- Quyết định 67/QĐ-TT ng ày 30/3/1999 về một số chính sách ngân hàng phục vụ phát triển nông thôn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9191.pdf
Tài liệu liên quan