Nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành may ở TP.HCM

Chương 2 Các vấn đề lý thuyết có liên quan Chương hai gồm có 4 phần. Phần đầu trình bày lý thuyết về năng suất, các khía cạnh, tầm quan trọng của năng suất và nâng cao năng suất; các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và cách đo lường năng suất trong DN. Phần thứ hai tóm tắt các nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây có liên quan và những điều học hỏi được từ các nghiên cứu này. Phần thứ ba giới thiệu về DN vừa & nhỏ. Phần cuối cùng trình bày những đặc điểm sản xuất và hiện trạng năng suất của n

doc23 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4664 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành may ở TP.HCM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gành may. 2.1. Lý thuyết về năng suất. 2.1.1. Năng suất là gì? Nhà kinh tế học Adam Smith là tác giả đầu tiên đưa ra thuật ngữ năng suất (Productivity) trong một bài báo bàn về vấn đề hiệu quả sản xuất phụ thuộc vào số lượng lao động và khả năng sản xuất vào năm 1776. Hiểu một cách đơn giản năng suất là tỉ số giữa đầu ra và đầu vào. Đầu ra, đầu vào được diễn giải khác nhau theo sự thay đổi của môi trường kinh tế - xã hội [26]. Cho đến nay nhiều người vẫn hiểu năng suất đồng nghĩa với năng suất lao động. Nhưng thực tế, ý nghĩa của năng suất mang tính toàn diện hơn nhiều. Năng suất không còn bó hẹp trong phạm vi làm ra bao nhiêu sản phẩm trên một đơn vị thời gian, mà năng suất gắn liền với thị trường, với cạnh tranh và vì vậy sẽ song hành với yếu tố chất lượng. Sau đây trình bày một số định nghĩa về năng suất. Theo Mohanty & Yadav (1994) [20], năng suất được định nghĩa đơn giản là tỉ số giữa đầu ra (các sản phẩm hay dịch vụ) và đầu vào (vốn, lao động, nguyên vật liệu, năng lượng và các đầu vào khác). Theo Smith (1995) [20], định nghĩa về năng suất bao gồm lợi nhuận, hiệu suất (efficiency), hiệu quả (effectiveness), giá trị, chất lượng, đổi mới và chất lượng cuộc sống. Theo Ross Chapman & Khleef Al - Khawaldeh (2002) [20], năng suất còn được xem là tạo ra và cung cấp các sản phẩm và dịch vụ bằng cách sử dụng tối thiểu mọi nguồn lực - cả con người và vật chất - nhằm đạt được sự thỏa mãn của khách hàng, cải thiện chất lượng sống của con người và tránh gây tổn hại cho môi trường. Năng suất được thực hiện thông qua nỗ lực của con người trong một bối cảnh văn hóa xã hội nhất định. Theo Han. F. Leong D. (1996) [7], trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, khi thị trường của người sản xuất đã chuyển sang thị trường của người tiêu dùng. Người tiêu dùng đang có những điều kiện thuận lợi để so sánh và lựa chọn. Các nhà cung cấp thì đang tranh nhau thị phần thông qua các thủ thuật về giá cả, việc đổi mới sản phẩm liên tục và tiếp thị thì quan điểm về năng suất cũng có định hướng mới. Ngoài hiệu suất (efficiency), năng suất còn nhấn mạnh đến khía cạnh hiệu quả (effectiveness). Trong đó: Đầu ra là các sản phẩm/ dịch vụ (giá trị / kết quả làm được). Đầu vào bao gồm vốn, lao động, nguyên vật liệu, năng lượng, thời gian... Hiệu quả: tạo ra các kết quả mong muốn, sản xuất ra sản phẩm/ dịch vụ mà khách hàng cần, có chất lượng cao và đúng hạn (làm đúng việc). Hiệu suất: cho biết kết quả được hoàn thành tốt như thế nào, nghĩa là sản xuất một sản phẩm / dịch vụ đạt chất lượng một cách tốt nhất có thể được với thời gian và chi phí thấp nhất (làm việc một cách đúng đắn). Trong các định nghĩa trên, hiện nay định nghĩa của Flora Han Debbie Leong (1996) được nhiều người chấp nhận và sử dụng rộng rãi nhất. Ngoài ra, có nhiều khía cạnh khác nhau liên quan đến năng suất của các tác giả được đề cập sau đây: Năng suất và cạnh tranh. Theo Michael Porter (1990) [15], "Khái niệm có ý nghĩa duy nhất của cạnh tranh ở mức quốc gia là năng suất quốc gia. Năng suất phụ thuộc cả vào chất lượng lẫn những đặc điểm của các sản phẩm và hiệu suất mà ở mức đó chúng được sản xuất". Năng suất - hiệu quả. Theo Tổ chức Năng suất Châu Á (Asean Productivity Organization - APO), "Năng suất không còn được xem như một khái niệm chỉ liên quan đến hợp lý hóa hay hiệu suất. Nó đi xa hơn nữa, chuyển tải một mong muốn chấp nhận và tạo ra sự thay đổi. Năng suất là một thái độ tư duy dựa trên niềm tin vào sự tiến bộ liên tục. Hiệu suất nghĩa là làm mọi việc một cách đúng đắn. Hiệu quả là định hướng vào mục tiêu, làm đúng mọi việc một cách tốt hơn. Chẳng có ích lợi gì khi sản xuất con ngựa kéo xe một cách có hiệu suất nhưng lại không có thị trường". Năng suất - giá trị gia tăng. Theo S. K. Chan (1995) [21], "Ngày nay năng suất được xem là giá trị gia tăng cộng thêm vào tối ưu hóa. Theo nghĩa đó, năng suất có thể được cải thiện bằng cách nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng của các sản phẩm và dịch vụ hay giảm chi phí sản xuất hoặc cả hai. Trong nền kinh tế thị trường, giá trị được định nghĩa bởi khách hàng chứ không phải bởi chính phủ. Chính sự tập trung vào khách hàng liên kết năng suất với TQM và tái lập quá trình. Năng suất là một khái niệm tổng thể liên quan đến những yếu tố chủ yếu của cạnh tranh: đổi mới, chi phí, chất lượng và giao hàng đúng hạn" Năng suất và những mục tiêu của xã hội. Năng suất tạo ra giá trị gia tăng thông qua hình thành và áp dụng tri thức để làm ra sản phẩm thỏa mãn người sử dụng nhưng cũng phải phù hợp với những mục tiêu xã hội, kinh tế và môi trường của xã hội [25]. Năng suất và tăng trưởng năng suất. Theo Trung tâm Năng suất và Chất lượng Hoa Kỳ [7], "Nguyên nhân gốc rễ của trì trệ kinh tế và xói mòn tính cạnh tranh có thể được tóm tắt bởi cụm từ: năng suất thấp. Giải pháp để duy trì một tiêu chuẩn sống nâng cao không ngừng cũng có thể tóm tắt trong cụm từ: cải tiến năng suất". Năng suất lao động chân tay và lao động tri thức. Theo Peter F. Drucker (2003) [17], "Sự đóng góp quan trọng nhất và thực sự độc đáo của lĩnh vực quản lý trong thế kỷ XX là việc tăng năng suất lao động chân tay trong sản xuất lên 50 lần. Tương tự như vậy, sự đóng góp quan trọng nhất của lĩnh vực quản lý cần làm được trong thế kỷ XXI sẽ là việc nâng cao năng suất lao động các công việc tri thức và năng suất lao động của người lao động tri thức. Tài sản có giá trị nhất của một công ty ở thế kỷ XX là thiết bị sản xuất. Còn tài sản có giá trị nhất của một tổ chức ở thế kỷ XXI, bất kể là kinh doanh hay phi kinh doanh, sẽ là người lao động tri thức và năng suất lao động của họ... " Năng suất theo cách tiếp cận mới - Hướng nhìn cho các DN Việt Nam. Năng suất ở cấp DN được hiểu là phương pháp sản xuất hàng hóa/dịch vụ có chất lượng và giá trị cao với chi phí thấp nhất có thể. Điều nầy cho phép DN cung cấp hàng hóa/dịch vụ với giá cạnh tranh. Kết quả là nếu tiêu thụ tốt thì lợi nhuận của DN sẽ tăng. Như vậy, năng suất hiện nay bao gồm những nội dung sau: Đáp ứng được yêu cầu của khách hàng Giảm đến mức tối thiểu các tác động xấu tới môi trường Thỏa mãn người lao động Hướng vào việc tạo ra giá trị cho khách hàng Làm đúng việc ngay từ đầu để giảm lãng phí trong sản xuất. Đối với mỗi nhân viên , năng suất và hiệu quả kinh doanh của DN cũng có nghĩa là công việc ổn định hơn, nhiều cơ hội hơn, mức lương cao hơn và chất lượng cuộc sống cũng sẽ tốt hơn. 2.1.2. Năng suất trong ngành may công nghiệp: Năng suất là tỷ số giữa đầu ra và đầu vào. Đầu ra có thể tính bằng số sản phẩm mà xưởng may làm được. Đầu vào có thể là: Số lượng công nhân trong xưởng may. Năng suất = Đây là số lượng sản phẩm trung bình do một công nhân làm ra trong một đơn vị thời gian nhất định. Giá trị này chính là năng suất lao động. Số lượng mét vải cần sử dụng. Năng suất = Đây là số mét vải cần thiết để may một sản phẩm. Giá trị này có tên là năng suất của nguyên liệu. Tăng năng suất nguyên liệu cho phép chúng ta may được nhiều sản phẩm hơn từ một số lượng vải nhất định. Phương pháp giác sơ đồ được sử dụng để tăng năng suất nguyên liệu, tức là làm giảm chi phí nguyên liệu. Ngoài ra, hệ thống giác sơ đồ bằng máy tính làm giảm số công nhân cần thiết cho việc giác sơ đồ, giảm thời gian chuẩn bị sản xuất. Diện tích mặt bằng. Năng suất = Đây là diện tích mặt bằng cần để sản xuất ra một sản phẩm trong một đơn vị thời gian. Giá trị này càng nhỏ thì chi phí cho mặt bằng càng thấp, do đó giá thành sản phẩm cũng giảm xuống. Vốn đầu tư cơ bản. Năng suất = Đây là chi phí đầu tư cho trang thiết bị và nhà xưởng để sản xuất ra một sản phẩm trong một đơn vị thời gian. Giá trị này càng nhỏ thì chi phí cho đầu tư cơ bản càng ít và như vậy, chi phí cho lãi suất vốn vay và khấu hao tài sản cố định càng nhỏ nên giá thành sản phẩm thấp hơn. Chi phí năng lượng, chi phí bảo vệ môi trường, các chi phí khác ... Vì các sản phẩm khác nhau về giá trị, để tính năng suất trong trường hợp sản xuất các sản phẩm may khác nhau ta quy số lượng sản phẩm làm ra thành giá trị tính bằng tiền. Các giá trị tính bằng tiền có thể là doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng ... Đối với ngành may chủ yếu là gia công thì giá trị gia tăng là đại lượng đo hợp lý nhất, đó chính là giá trị mà DN làm ra được. Như vậy, năng suất trong ngành may có thể được định nghĩa như sau: 2.1.3. Tầm quan trọng của năng suất và nâng cao năng suất. Năng suất rất được chú trọng ở hầu hết các nước trên thế giới. Ở mỗi quốc gia đều có những tổ chức, cơ quan nhà nước, chính phủ phụ trách xúc tiến phong trào năng suất nhằm cải tiến và nâng cao năng suất. Không riêng ở từng quốc gia, thế giới hiện nay cũng rất xem trọng vấn đề năng suất trong sản xuất. Tổ chức năng suất Châu Á (APO) đã ra đời nhằm phục vụ cho các hoạt động tuyên truyền, đào tạo, tư vấn về năng suất và các mục tiêu khác như giảm chi phí, tăng mức sống và điều kiện làm việc của lực lượng lao động trong các DN. Thủ tướng Singapore Goh Chok Tong [7] đã phát biểu rằng: "Các ngành công nghiệp đang được toàn cầu hóa nhiều hơn. Chúng ta đang tìm kiếm các quốc gia có thể sản xuất hàng hóa với giá cả cạnh tranh cho thị trường thế giới. Do càng ngày càng có nhiều nước nhận thức được điều này và cạnh tranh để nhận được sự đầu tư, Singapore phải có năng suất cao hơn để lôi cuốn đầu tư. Thách đố là ở chỗ phải tốt hơn các nước khác, sản xuất hàng hóa chất lượng tốt hơn và cung ứng dịch vụ chất lượng tốt hơn". Riêng ở Việt Nam, vấn đề năng suất trong sản xuất mới được quan tâm trong thời gian gần đây với sự hình thành Trung tâm Năng suất Việt Nam(VPC). VPC ra đời phục vụ cho việc cải tiến năng suất trong các DN Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa. Năng suất có ảnh hưởng lớn đến một số các yếu tố của một quốc gia như việc thỏa thuận các hiệp ước quốc tế, hoà nhập vào xu hướng kinh tế, các thỏa thuận song phương, sự phát triển công nghệ trên phương diện quốc tế. Bên trong DN, năng suất làm ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức, chất lượng sản phẩm, văn hóa tổ chức, cách thức và phương pháp làm việc, tầm nhìn của lãnh đạo và mô hình quản lý. Năng suất cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến mối quan hệ gắn bó giữa người lao động và DN, quyết định đến sự phát huy sáng kiến và phương pháp làm việc của người lao động, sự hợp tác của khách hàng và nhà cung cấp. 2.1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất. Có rất nhiều các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài ảnh hưởng đến năng suất. Phần sau đây trình bày 5 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến năng suất liên quan đến việc quản lý, điều hành sản xuất bên trong DN đó là: sự quan tâm, hỗ trợ và quyết tâm của quản lý cấp cao, chiến lược và mục tiêu của DN, tổ chức quản lý và hệ thống sản xuất, phát triển nguồn nhân lực, văn hóa DN. Sự quan tâm, hỗ trợ và quyết tâm của quản lý cấp cao. Theo Joyce M. Hoffman & Satish Mehra (1999) [9], sự thiếu quan tâm của quản lý cấp cao được xem là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thất bại của chương trình cải tiến năng suất. Sự quan tâm của quản lý cấp cao là một thành phần cần thiết trong các chương trình cải tiến chất lượng. Bằng sự quan tâm của họ và bằng việc tạo ra một văn hóa kinh doanh để khuyến khích việc cải tiến, quản lý cấp cao có thể khuyến khích việc tăng năng suất một cách hiệu quả qua việc cải tiến chất lượng liên tục. Quản lý cấp cao cần tạo điều kiện cho việc thực hiện các sáng kiến về cải tiến năng suất, tạo cơ hội để phân tích và kiểm tra ngay sau đó. Chiến lược và mục tiêu của doanh nghiệp. Theo Morris Abraham, John Crawford &Tom Fisher (1999) [14], DN cần xác định chiến lược và mục tiêu sao cho phù hợp với môi trường kinh doanh hiện tại. Thỏa mãn khách hàng cao hơn, cải tiến chất lượng liên tục trong cả sản phẩm và quá trình nhằm đạt được các mục tiêu từ việc tập trung vào việc quản lý chi phí và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Nếu không muốn bị tụt hậu, các DN cần chú trọng yếu tố nầy khi hoạch định chiến lược và các hoạt động của mình. Thỏa mãn khách hàng phải là vấn đề trọng tâm của toàn DN. Do đó, toàn bộ hệ thống hay quá trình sản xuất của DN cần gắn liền với mục tiêu chiến lược nầy. Mục tiêu rõ ràng sẽ tạo nên môi trường thúc đẩy nhân viên làm tốt công việc của mình. Tổ chức quản lý và hệ thống sản xuất. Việc tổ chức quản lý và hệ thống sản xuất của DN cũng ảnh hưởng đến năng suất. Tổ chức quản lý cần phải linh hoạt, gọn nhẹ và không quan liêu. Nó có thể thích nghi một cách nhanh chóng và năng động với những thay đổi về nhu cầu của khách hàng cũng như môi trường kinh doanh xã hội. Điều quan trọng là các DN phải duy trì sự phát triển và tăng trưởng của mình. Hệ thống sản xuất cũng phải đủ hiệu quả và hợp lý để tạo ra những sản phẩm có chất lượng với giá cạnh tranh. Do vậy, DN cần phải thường xuyên chú ý tới những quá trình không cần thiết. Công việc phải được thực hiện đúng với chỉ tiêu kỹ thuật và hoàn thành đúng kế hoạch sao cho sản phẩm và dịch vụ được giao cho khách hàng kịp thời với chất lượng mà họ mong muốn. Mục tiêu đặt ra là làm sao để cung cấp những sản phẩm có chất lượng cao với giá cả hợp lý và giao hàng đúng hạn [18]. Phát triển nguồn nhân lực. Theo Joyce M. Hoffman and Satish Mehra (1999) [9], nguồn nhân lực của một DN là yếu tố then chốt, nếu không muốn nói là quan trọng nhất trong việc cải tiến năng suất. Điều nầy vẫn đúng kể cả khi có công nghệ và trang thiết bị tốt, tất cả mọi thứ đều cần phải có sự tác động của con người. Nhân viên là tài sản quý giá trong mọi tổ chức và khi tài sản này có vấn đề nó sẽ ảnh hưởng đến cả năng suất và chất lượng. Do đó, năng lực của nguồn nhân lực trong mỗi DN phải liên tục được cải thiện. Điều nầy thường được thể hiện dưới hình thức phát triển kỹ năng một cách thống nhất, đào tạo lại, mở rộng khai thác thông tin, tăng cường phạm vi và trình độ kiến thức thông qua đào tạo không ngừng. Liên quan trực tiếp đến vấn đề đào tạo là mối quan hệ nhân viên, tạo điều kiện để nhân viên thực hiện tốt công việc của mình và để đạt được mục tiêu đó, cần phải xây dựng được hệ thống khuyến khích nhân viên. Phát huy hết khả năng của mỗi cá nhân là vấn đề quan trọng hàng đầu. Ngày nay người lao động rất muốn được làm những công việc mang tính thử thách và muốn được tham gia vào việc lập kế hoạch và sắp xếp công việc của chính mình. Họ cũng mong muốn có thu nhập cao, được đánh giá công bằng và được thừa nhận thành tích, bên cạnh đó là môi trường làm việc thuận lợi, nhiều cơ hội phát triển và một hệ thống phúc lợi tốt. Khi một DN làm cho người lao động cảm thấy mình có ích, có giá trị, họ sẽ không ngừng tự hoàn thiện trong công việc và cảm thấy họ là một phần của DN. Văn hóa doanh nghiệp. Theo Joyce M. Hoffman and Satish Mehra (1999) [9], một DN cần phải tăng cường và xây dựng một nền văn hóa làm việc theo nhóm (Teamwork). Điều quan trọng là vấn đề nầy phải được thấm nhuần trong toàn tổ chức, tất cả mọi người đều tham gia và thể hiện điều nầy một cách rõ nét trong công việc của mình. Cần phải có một sự thay đổi về nhận thức của nhân viên, tạo ra một bước đột phá trong phương pháp làm việc trước khi một sự tăng trưởng về năng suất có thể đạt được. Sự làm việc theo nhóm phải trở thành một quy tắc. Sự truyền thông hợp lý, sự kết hợp hiệu quả giữa các bộ phận trong DN và sự liên kết chặt chẽ giữa các công đoạn trong quy trình sản xuất là biểu hiện sự hợp tác, tham gia của toàn thể nhân viên. Tóm lại, năng suất chính là sự tối đa hóa giá trị của sản phẩm mà DN cung cấp. Nó tạo ra giá trị đích thực mà qua đó DN, nhân viên, các bên có liên quan, cổ đông cũng như khách hàng, nhà nước và xã hội nhận được. 2.1.5. Đo lường năng suất. Trong phần này sẽ trình bày cách đo lường năng suất theo quan điểm của các nhà nghiên cứu khác nhau. Easton & Jarrell (1998) [5], cho rằng việc đo lường năng suất chỉ cần dựa vào các thông số tài chính của DN. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu khác là Kaplan & Norton (1992); Raaum (1992); Gao (1990) [5] đã phát biểu rằng trong cạnh tranh toàn cầu, các công ty không chỉ đo lường năng suất dựa trên các tỷ số tài chính mà còn phải đo lường sự thỏa mãn của khách hàng và sự thỏa mãn trong nội bộ DN. Trong số những nghiên cứu này, nghiên cứu của Gao là bao hàm toàn diện nhất, ông chia sự đo lường năng suất trong các DN sản xuất làm ba nhóm. 1) Đo lường những vấn đề về tài chính: thị phần, doanh thu trên mỗi nhân viên, lợi nhuận trên tài sản, lợi nhuận trên doanh thu. 2) Đo lường mức độ phục vụ khách hàng: sự thỏa mãn khách hàng, những than phiền từ khách hàng, duy trì khách hàng, thời gian thực hiện đơn hàng, sự tin cậy... 3) Đo lường sự thỏa mãn trong nội bộ DN: sự thỏa mãn nhân viên, thu nhập, an toàn sức khoẻ, những đề nghị của nhân viên... Nanni et al. (1990) [5] cho rằng, việc đo lường năng suất phải bổ sung cho chiến lược toàn cầu của công ty. Vì thế, đo theo cách 2) và 3) ở trên là cần thiết để liên kết sự đo lường năng suất với chiến lược công ty trong dài hạn. Vitale & Mavrinac (1995) [5] cũng thừa nhận rằng, nếu việc đo lường năng suất không liên kết với chiến lược công ty thì các nỗ lực hướng về việc đo lường năng suất là lãng phí. Những nghiên cứu trên đều cho rằng hệ thống đo lường thích hợp "cho phép công ty tập trung chú ý vào những gì là cần thiết và có tính chiến lược, tạo ra sự rõ ràng trong các nhiệm vụ và các bộ phận trong DN để đảm bảo sự phối hợp, tạo ra hành động và gia tăng truyền thông". Các tác giả đều cho rằng việc đo lường sự thỏa mãn khách hàng và thỏa mãn trong nội bộ DN thì cần thiết hơn việc đo lường các vấn đề về tài chính. Theo Han. F. Leong D. (1996) [7], đo lường năng suất giúp cho các DN giám sát mọi hoạt động và nhận ra lĩnh vực cần cải tiến. Ở cấp độ quốc gia và cấp độ ngành, việc đo lường năng suất trở thành một tiêu chuẩn để so sánh hiệu quả giữa các ngành khác nhau để nhận ra những điểm mạnh và điểm yếu. Cấp doanh nghiệp: Các chỉ số sau đây thường được sử dụng: Tổng doanh thu / Tổng chi phí Tổng doanh thu / Số lượng lao động Tổng sản lượng / Số lượng lao động Giá trị gia tăng / Số giờ công hay Giá trị gia tăng / Số lượng lao động Giá trị gia tăng / Chi phí lao động Cấp quôc gia: Các chỉ số sau đây thường được sử dụng: GDP (Gross Domestic Product) / Số lượng lao động Vốn / Tổng chi phí lao động GDP / (Lao động + Vốn) 2.2. Tóm tắt các nghiên cứu trước đây có liên quan. Hơn hai thập kỷ qua, vấn đề năng suất đã được đem ra thảo luận, phân tích. Có rất nhiều bài viết về năng suất (dựa vào nhiều phương pháp khác nhau). Phần sau đây trình bày tóm tắt kết quả của các nghiên cứu có liên quan và những điều chúng tôi học hỏi được từ những nghiên cứu này. Nghiên cứu thứ nhất của Joyce M. Hoffman & Satish Mehra (1999) [9]. Nghiên cứu này đã nhận ra những yếu tố ảnh hưởng có tính quyết định đối với các chương trình cải tiến năng suất và phân tích mối liên quan của các yếu tố này với những khái niệm về chất lượng. Các giai đoạn của nghiên cứu bao gồm việc thiết lập một nhóm các nhà chuyên môn để được phỏng vấn bằng phương pháp Delphi. Nhóm gồm 5 thành viên có kinh nghiệm đặc biệt trong những vấn đề có liên quan đến năng suất, các thành viên của nhóm đến từ những tổ chức sản xuất có khoảng 500 công nhân, tiêu biểu cho các ngành kinh doanh khác nhau. Nghiên cứu này đã đưa ra một danh sách gồm 20 yếu tố có thể đưa đến sự thất bại của các chương trình cải tiến năng suất. Sử dụng danh sách này làm nền tảng, một bảng câu hỏi được thiết kế và gởi cho 100 nhà quản lý sản xuất được chọn ngẫu nhiên trong phạm vi APICS (American Production and Inventory Control group). Bảng câu hỏi yêu cầu những người tham gia xếp theo thứ tự những yếu tố có thể đưa đến thất bại trong các chương trình cải tiến năng suất dựa vào kinh nghiệm của họ. Nghiên cứu này có tỷ lệ hồi đáp là 41%, đối tượng hồi đáp là các nhà quản lý trong các DN sản xuất có 300 - 500 công nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 7 yếu tố chính và 5 yếu tố phụ có thể dẫn đến sự thất bại của chương trình cải tiến năng suất. Danh sách các yếu tố chính và phụ được trình bày theo mức độ giảm dần trong bảng 2.1. Bảng 2.1: Các yếu tố chính và phụ. Các yếu tố chính Các yếu tố phụ Thiếu sự quyết tâm và cam kết của quản lý cấp cao. Việc thực hiện cải tiến năng suất không có kế hoạch và rời rạc. Thiếu sự đào tạo người giám sát liên quan đến vấn đề năng suất. Sự phối hợp giữa các bộ phận không thích đáng và không hiệu quả. Thiếu đầu tư trong việc đào tạo nguồn nhân lực. Sự truyền thông trong tổ chức kém. 7. Mối quan hệ nhân viên không tốt. Các nhà quản lý cấp trung yếu kém. Thiếu chính sách khuyến khích, khen thưởng. Thiếu đầu tư trong việc đào tạo người quản lý và giám sát. Sự yếu kém trong kỹ thuật sản xuất. Sự kiểm soát tài chính và hệ thống thông tin yếu kém. Nghiên cứu cũng cho thấy chất lượng là yếu tố quyết định đến sự thành công của việc cải tiến năng suất. Và kết luận rằng các yếu tố bất lợi của các chương trình cải tiến năng suất có thể được ngăn ngừa bằng một chương trình TQM được thiết lập tốt. Nghiên cứu này giúp chúng ta có một cái nhìn tương đối toàn diện hơn về năng suất, về mối quan hệ gắn bó giữa năng suất và chất lượng. Danh sách 20ù yếu tố mà nghiên cứu này đưa ra là cơ sở cho việc thiết kế bảng câu hỏi cho đề tài. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ khảo sát về những tổ chức sản xuất nói chung, mà chưa xem xét cho từng ngành nghề cụ thể theo những đặc trưng riêng của mỗi ngành. Do đó, các yếu tố cần phải được sửa đổi lại cho phù hợp với mục tiêu nghiên cứu, phù hợp với ngôn ngữ Việt Nam và ngôn ngữ sử dụng trong ngành may. Nghiên cứu thứ 2 của Ross Chapman & Khleef Al- Khawaldeh (2002) [20]. Nghiên cứu này xác định mức độ ứng dụng TQM, sau đó nghiên cứu mối liên hệ giữa TQM và năng suất lao động trong các công ty công nghiệp ở Jordan. Dựa trên một nghiên cứu khái quát trước đó về TQM, tám yếu tố quyết định cho sự thành công của TQM được nhận ra và sử dụng trong nghiên cứu, đó là: 1) Sự hợp tác của nhân viên. 2) Giáo dục và đào tạo. 3) Sự truyền thông trong tổ chức. 4) Tập trung vào khách hàng. 5) Ra quyết định dựa trên sự kiện. 6) Kiểm soát chất lượng bằng thống kê. 7) Cam kết của tổ chức về chất lượng và cải tiến liên tục. 8) Sự thống nhất trong mục đích. Tổng thể của nghiên cứu là 90 công ty công nghiệp ở Jordan, dữ liệu được thu thập thông qua bảng câu hỏi và phỏng vấn cá nhân, thang đo Likert 5 điểm (từ hoàn toàn đồng ý đến hoàn toàn không đồng ý) được sử dụng trong bảng câu hỏi. Bảng câu hỏi được triển khai, thử nghiệm, sửa đổi và sau đó gởi đến các nhà quản lý chất lượng trong tất cả các công ty ở Jordan, 76 nhà quản lý đồng ý hợp tác qua việc hoàn thành bảng câu hỏi, năm nhà quản lý từ 5 công ty có mức độ áp dụng TQM cao được chọn để phỏng vấn sâu. Phân tích dữ liệu dựa trên phân tích thống kê mô tả, phân tích nhân tố và phân tích hồi quy đa biến. Kết quả của phân tích hồi quy cho thấy có một mối quan hệ tuyến tính giữa TQM và năng suất lao động. Đường hồi quy có độ dốc cao trong các công ty có chứng nhận ISO 9000 và có độ dốc thấp hơn đáng kể (nhưng vẫn > 0) trong các công ty không có chứng nhận ISO 9000. Các kết quả của nghiên cứu thừa nhận ISO 9000 là một nền tảng tốt, hợp lý cho hệ thống TQM. Điểm đặc biệt trong nghiên cứu này là các công ty được khảo sát không phân loại theo ngành, số nhân viên hay doanh thu mà được xếp thành hai nhóm: các công ty có chứng nhận ISO 9000 và không có chứng nhận ISO 9000. Nghiên cứu chỉ khảo sát những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động. So với nghiên cứu của hai tác giả Joyce M. Hoffman & Satish Mehra, nghiên cứu này được thực hiện khoa học và bài bản hơn trong cách thức tiếp cận vấn đề nghiên cứu. Do đó, chúng tôi sẽ học hỏi từ nghiên cứu này về cách thu thập dữ liệu, phỏng vấn sâu, thang đo sử dụng trong bảng câu hỏi và phương pháp phân tích dữ liệu. Nghiên cứu thứ 3 của Damodar Y. Golhar & Satish P. Deshpande (1999) [5]. Nghiên cứu này so sánh năng suất giữa các công ty áp dụng TQM trong ngành công nghiệp tự động ở Mỹ và Canada. Sự so sánh giúp các công ty nhận ra điểm mạnh và điểm yếu của họ. Việc nhận ra những điểm mạnh tạo cho các công ty một sự cạnh tranh tốt hơn trên thị trường thế giới. Hơn nữa, những thông tin cũng sẽ hữu ích cho các công ty chưa thực hiện TQM trong việc Benchmarking với những công ty đã áp dụng TQM. Tổng thể ngghiên cứu là tất cả các công ty sản xuất trong ngành công nghiệp tự động ở tỉnh Ontario (Canada) và bang Michigan (Mỹ). Bảng câu hỏi gồm 17 câu với ba nội dung chính: các vấn đề về tài chính, mối quan hệ khách hàng, công việc kinh doanh nội bộ liên quan đến việc đo lường năng suất của một công ty. Thang đo Likert 5 điểm được sử dụng. Bảng câu hỏi được gởi tới các CEOs/ chủ tịch của 360 công ty ở Mỹ và 358 công ty ở Canada để biết ý kiến và nhận thức của họ về năng suất của công ty. Tỷ lệ hồi đáp là 35,5% và 20% tương ứng đối với các công ty ở Mỹ, Canada. Phân tích dữ liệu dựa trên thống kê mô tả, kiểm định t hai phía được tiến hành để so sánh sự khác nhau về giá trị trung bình giữa các công ty của hai nước. Hệ số Cronbach's Alpha của các vấn đề về tài chính, mối quan hệ khách hàng, công việc kinh doanh nội bộ lần lượt là 0,85; 0,73; 0,65. Giá trị Alpha lớn hơn 0,60 cho thấy thang đo có độ tin cậy cao (Nunnally, 1978). Phát hiện chính của nghiên cứu này là tất cả các công ty của hai nước đều gia tăng năng suất từ khi thực hiện TQM. Nghiên cứu cũng cho thấy có một mối liên hệ giữa việc đo lường mối quan hệ khách hàng và công việc kinh doanh nội bộ. Các kết quả của nghiên cứu cũng đã chứng minh việc thực hiện TQM trong DN là đáng làm. Nghiên cứu của hai tác giả Damodar Y. Golhar & Satish P. Deshpande (1999) đã cho chúng ta một sự hiểu biết về các cách đo lường năng suất trong DN. Chúng tôi cũng học hỏi từ nghiên cứu này về phương pháp phân tích dữ liệu. Hệ số Cronbach's Alpha lớn hơn 0,60 dùng để kiểm định độ tin cậy của thang đo trong nghiên cứu này cũng sẽ được chúng tôi sử dụng trong luận văn. Nghiên cứu thứ tư của tác giả Quách Tố Dung (2002) [19]. Nghiên cứu này phân tích, đánh giá thực trạng và tiềm năng phát triển ngành dệt may; xác định những định hướng và giải pháp nhằm phát triển ngành dệt may trên địa bàn TP. HCM đến năm 2005. Giải pháp "Hoàn thiện hệ thống quản lý năng suất và chất lượng cho ngành dệt may" là một trong 10 giải pháp mà tác giả đã đưa ra. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới chỉ đề ra những định hướng chiến lược mà chưa đưa ra những cách thực hiện cụ thể. Nghiên cứu thứ 5 do các chuyên gia của Mekong Project Development Facility-MPDF (2000) [13] thực hiện. Nghiên cứu này cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà tài trợ, các cơ sở đào tạo, người mua... một cái nhìn thấu đáo hơn về các vấn đề của ngành may nói chung và các DN may tư nhân nói riêng đang gặp phải. Một trong những vấn đề mà nghiên cứu này quan tâm là năng suất lao động trong ngành may. Các chuyên gia của MPDF đã khảo sát thực tế và phân tích về các nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động thấp ở các công ty may mặc tư nhân như sau : Năng suất lao động Thấp Các quản đốc thiếu kỹ năng quản lý nhân sự Thiết bị lạc hậu hoặc không đồng bộ Các nhà máy không muốn đâu tư vào đào tạo Công nhân thiếu kiến thức & các kỹ năng cơ bản Điều kiện lao động không đảm bảo Tiền lương/ Thời gian Về: kỹ thuật may Về: Kỹ thuật dựng sản phẩm thưởng thấp làm việc dài Về: Cắt mẫu, Về: Các chỉ tiêu kỹ thuật Cơ sở vật chất Tổ chức sản căng vải chất lượng kém xuất kém Về: Sử dụng máy móc Sợ công nhân Thiếu vốn sẽ bỏ việc Cán bộ quản lý và công nhân thiếu hiểu Các xí nghiệp Thiếu các dịch biết về công nghệ mới thiếu vốn để vụ phù hợp Không thấy hết thay thế / giá trị của đào tạo nâng cấp Nghiên cứu này tập trung khảo sát các DN may tư nhân ở Việt Nam, có xét đến những đặc thù của ngành, cho chúng ta một cái nhìn tương đối toàn diện về thực trạng sản xuất trong ngành may. Nhưng chỉ nghiên cứu về năng suất lao động, chưa đề cập đến tất cả những khía cạnh của năng suất cũng như vai trò và trách nhiệm của quản lý cấp cao đối với vấn đề năng suất. 2.3. Giới thiệu về doanh nghiệp vừa & nhỏ. Trong lịch sử phát triển kinh tế của các nước, các DN vừa & nhỏ luôn có vai trò rất quan trọng. Gần đây, trong thời điểm khoa học công nghệ phát triển nhanh, trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, thực tiển quản lý kinh tế và quản lý DN có những chuyển biến sâu sắc thì các DN vừa & nhỏ lại càng được chú trọng ở khắp các nước. Ở nước ta, các DN vừa & nhỏ cũng có vai trò quan trọng, do sự phát triển còn thấp của nền kinh tế quốc dân, do tiềm năng còn rất lớn của nội lực dân tộc, do yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đầu năm 2001, báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng lần thứ IX đã vạch rõ: " Chú trọng phát triển các DN vừa & nhỏ..." Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 nhấn mạnh: "Phát triển rộng khắp các cơ sở sản xuất công nghiệp vừa & nhỏ với ngành nghề đa dạng" [29]. 2.3.1. Tiêu chuẩn về DN vừa & nhỏ. 2.3.1.1. Ở nước ngoài. Nhìn chung trên thế giới, hai tiêu chuẩn được sử dụng phổ biến để phân loại DN là: số lao động sử dụng và số vốn. Trong hai tiêu chuẩn ấy, khá nhiều nước coi tiêu chuẩn về số lao động sử dụng là quan trọng hơn. Như vậy, tiêu chuẩn phân loại DN không tính đến phạm vi quan hệ của DN, trình độ công nghệ, khả năng quản lý và hiệu quả hoạt động của DN. Trong từng nước, từng ngành nghề, từng thời gian, tiêu chuẩn DN vừa & nhỏ là rõ ràng, có tính định lượng. Giữa các nước, các ngành nghề, các thời điểm khác nhau, tiêu chuẩn DN vừa & nhỏ là tương đối, nghĩa là có một số nét chung, đồng thời cũng có những nét riêng, khác nhau và có thể thay đổi. Ở hầu hết các nước, người ta hay nói gộp chung DN nhỏ với DN vừa thành DN vừa & nhỏ, vì các nhà nước thường có chính sách chung cho cả 2 loại DN nầy. Bảng 2.2 trình bày các quy định về quy mô DN ở một số nước. 2.3.1.2. Tiêu chuẩn của Việt Nam về DN vừa & nhỏ. Ở Việt Nam, theo Công văn số 681/ CP-KTN ngày 20 tháng 6 năm 1998 của Văn Phòng Chính Phủ, DN vừa & nhỏ là những DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng (tương đương 387.600 USD vào thời điểm ban hành công văn số 681) và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Chính phủ cũng lưu ý rằng tiêu chí nầy chỉ là quy ước hành chính để xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ DN vừa & nhỏ. Công văn cũng quy định thêm rằng trong quá trình hỗ trợ các DN vừa & nhỏ, các bộ, ngành và._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChuong 2.doc
  • docBia LV.doc
  • docChuong 1.doc
  • docChuong 3.doc
  • docChuong 4.doc
  • docChuong 5.doc
  • docChuong 6.doc
  • docNhiem vu LV.doc
  • docPhu luc A.doc
  • docPhu luc B.doc
  • docPhu luc C.doc
  • docPhu luc D.doc
  • docTai lieu tham khao.doc
  • docTom tat + Muc luc.doc
Tài liệu liên quan