Nghiên cứu phát triển một số nghề sản xuất truyền thống ở Huyện Ân thi, Tỉnh Hưng Yên

Tài liệu Nghiên cứu phát triển một số nghề sản xuất truyền thống ở Huyện Ân thi, Tỉnh Hưng Yên: ... Ebook Nghiên cứu phát triển một số nghề sản xuất truyền thống ở Huyện Ân thi, Tỉnh Hưng Yên

doc108 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1604 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu phát triển một số nghề sản xuất truyền thống ở Huyện Ân thi, Tỉnh Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I- MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài ngiên cứu Ở nước ta khu vực nông thôn chiếm tới 74,5% dân số cả nước[1], đất canh tác ngày càng bị thu hẹp do tốc độ đô thị hoá và công nghiệp hoá. Do vậy vấn đề giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn là bài toán khó cho tất cả các cấp các ngành cần phải giải quyết cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Một trong những cách giải quyết cho bài toán trên là nghiên cứu để phát triển các nghề truyền thống cho khu vực nông thôn. Bởi các nghề truyền thống ở khu vực nông thôn góp phần giải quyết một phần lớn các lao động dư thừa, lao động lúc nông nhàn. Hiện nay trên cả nước có khoảng mười hai triệu lao động đang làm việc thuộc nghề truyền thống, chiếm khoảng 30% lực lượng lao động ở nông thôn[2], con số này có ý nghĩa rất lớn cả về mặt kinh tế và về mặt xã hội. Ngoài ra nghề truyền thống còn góp phần nâng cao thu nhập cho người dân ở nông thôn, góp phần xoá đói, giảm nghèo, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn.Đặc biệt các nghề truyền thống còn góp phần tích cực trong chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn hiện nay. Hàng năm các nghề truyền thống đóng góp 700trUSD trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước[3].Mặt khác Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nên việc phát huy lợi thế so sánh của mình là việc làm cần thiết.Một trong những lợi thế so sành hàng đầu của Việt Nam là các sản phẩm của các nghề truyền thống trong cả nước. Trong quá trình hội nhập, sản phẩm nói chung, sản phẩm của các nghề truyền thống nói riêng luôn luôn phải được quan tâm đúng mức. Bởi trên thị trường nhu cầu luôn luôn thay đổi cả về chất và mặt lượng, mẫu mã sản phẩm.Tuy nhiên theo thực tế khảo sát thì những sản phẩm của các nghề truyền thống nói chung Nghệ của Việt Nam chưa phát huy được lợi thế so sánh của mình trên thị trường quốc tế do: Khả năng tiếp cận thị trường còn hạn chế; việc thiết kế, sang tạo mẫu mã chưa đáp ứng được thị yếu của khách hàng nước ngoài ; đội ngũ lao động có tay nghề còn thiếu và cơ sở sản xuất còn thiếu mặt bằng về vốn và kỹ thuật. Đặc biệt trong điều kiện hiện tại như ngày nay, phát triển các nghề truyền thống được coi là một trong những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở giai đoạn hiện nay và các giai đoạn tiếp theo.Chính vì vậy, việc nghiên ra các giải pháp nhằm khôi phục và phát triển các nghề truyền thống ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên là một huyện có nghề truyền thống phát triển tương đối mạnh mẽ. Ngoài những nghề truyền thống có từ lâu đời thì những năm gần đây có them một số nghề truyền thống mới của các làng khác như Hải Dương Và Hà Nội. Phát triển nghề truyền thống ở Huyện đang là chiến lược phát triển kinh tế nhằm mục tiêu quan trọng để thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn của huyện. Khi cả nước đang tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt “Cơn bão tài chính” của thế giới vừa đi qua thì vấn đề giải quyết cho sản phẩm nghề ở huyện nói riêng là vấn đề cân thiết và cấp bách. Xét tới tầm quan trọng của những vấn đề nêu trên nên tôi đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu phát triển một số nghề sản xuất truyền thống ở Huyện Ân thi, Tỉnh Hưng Yên”. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Mục tiêu chung Đề tài tập chung nghiên cứu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển các nghề truyền thống tại Huyện Ân thi, Tỉnh Hưng Yên từ đó đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của một số nghề truyền thống của huyện nhằm giải quyết lao động dư thừa nâng cao thu nhập cho người dân và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về phát triển nghề truyền thống - Đánh giá thực trạng phát triển và các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất của các nghề truyền thống trên địa bàn huyện. - Đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản để phát triển các nghề truyền thống 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề kinh tế phát triển nghề truyền thống ở Huyện Ân Thi- Hưng Yên như: Quy mô, hình thức tổ chức sản xuất, phương hướng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm… 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Đề tài tập trung đi sâu vào nghiên cứu thực trạng cà giải pháp nhăm phát triển các nghề truyền thống trên địa bàn huyện. - Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu 4 nghề truyền thống trên địa bàn huyện: Nghề trạm Bạc, nghề nón lá, nghề thêu ren, nghề bánh đa gạo - Về thời gian: Đề tài thu thập số liệu thứ cấp từ năm 2005-2008 và số liệu điều tra năm 2008. PHẦN II- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở lý luận về phát triển nghề truyền thống 2.1.1 Cơ sở lý luận về phát triển 2.1.1.1. Khái niệm về tăng trưởng và phát triển Tăng trưởng được hiểu là sự gia tăng về số lượng của một sự vật nhất định. Trong kinh tế tăng trưởng thể hiện sự gia tăng hơn trước về sản phẩm hay lượng đầu ra cỷa một quá trình sản xuất hay hoạt động. Tăng trưởng kinh tế có thể hiểu là kết quả của mọi quá trình hoạt động kinh tế trong lĩch vực sản xuất cũng như trong lĩnh vực dịch vụ được tạo ra trong một kỳ nhất định[4]. Nếu sản phẩm hàng hoá và dịch vụ trong một quốc gia tăng lên, nó được coi là tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng cũng được áp dụng để đánh giá cụ thể đối với từng ngành sản xuất, từng vùng của một quốc gia[5]. Phát triển bao hàm nghĩa rộng hơn, phát triển bên cạnh bình quân thu nhâp trên đầu người còn bao gồm nhiều khía cạch khác. Sư tăng trưởng cộng thêm các thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế, sự tăng lên của sản phẩm quốc dân do ngành công nghiệp tạo ra, sự đô thị hoá, sự tham gia của một quốc gia trong quá trình tạo ra các thay đổi nói trên là một nội dung của sự phát triển. Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân, nâng cao các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức khoẻ và đảm bảo sự bình đẳng cũng như quyền công dân. Phát triển còn được định nghĩa là sự tăng trưởng bền vững về các tiêu chuẩn sống bao gồm tiêu dung, vật chất, giáo dục, sức khoẻ và bảo vệ môi trường[6]. 2.1.1.2. Khái niệm về phát triển bền vững Trong những năm gần đây, do sự tăng dân số mạnh mẽ, do nhu cầu nâng cao mức sống, hoạt động của con người nhằm khai thác các nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên đã làm cho môi trường bị cạn kiệt. Sự can thiệp quá sâu của con người vào thiên nhiên đã dẫn đến cân bằng sinh thái bị phá vỡ. Nhiều nơi trên trái đất, con người đang phải đối mặt với những thảm hoạ thiên nhiên to lớn. Với những mô hình phát triển không cân bằng, nhiều quốc gia đã và đang phải trả giá cho những sai lầm về quan điểm phát triển của mình . Trước những vấn đề nêu trên của phát triển vào nửa cuối thế kỷ XX Liên hợp Quốc đã đưa ra khái niệm về phát triển bền vững. Theo quan điểm của Liên hợp Quốc thì một thế giới phát triển bền vững là một thế giới không sử dụng các nguồn tài nguyên có thể tái tạo nhanh hơn khả năng tự tái tạo chúng, không sử dụng các nguồn tài nguyên không thể tái tạo nhanh hơn quá trình tìm ra những loại thay thế chúng và không thải ra môi trường những chất độc hại nhanh hơn quá trình trái đất hấp thụ và đồng hoá chúng. Như vậy phát triển bền vững là sự phát triển lành mạnh, tồn tại lâu dài, vừa đáp ứng nhu cầu hiện tại, vừa không xâm phạm đến lợi ích của thế hệ tương lai. Một vấn đề đặt ra là những người đang hưởng thụ những thành tựu của sự phát triển kinh tế ngày nay có thể sẽ làm cho các thế hệ tương lai phải chịu đựng tình cảnh tồi tệ do môi trường sinh thái bị suy thoái quá mức. Các thế hệ tương lai không chỉ kế thừa tình trạng ô nhiễm và cạn kiệt tài nguyên của hiện tại, mà còn thừa hưởng các thành quả của lao động hiện tại dưới dạng chất lượng giáo dục, kỹ thuật và kiến thức cũng như vốn vật chất. Hội nghị thượng đỉnh về trái đất năm 1992 đã kế thừa những phân tích ở trên và đã đưa ra khái niệm vắn tắt về phát triển bền vững là: Phát triển bền vững là phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu của thế hệ ngày nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai. 2.1.2. Cơ sở lý luận về nghề truyền thống 2.1.2.1 Khái niệm về nghề truyền thống và làng nghề truyền thống a. Khái niệm về nghề truyền thống Nghề truyền thống trước hết là những nghề tiểu thủ công nghiệp được hình thành và phát triển lâu đời trong lịch sử, được sản xuất tập trung tại một vùng hay một làng nào đó. Từ đó đã hình thành các làng nghề, xã nghề. Đặc trưng cơ bản của mỗi nghề truyền thống là phải có kỹ thuật và công nghệ truyền thống, đồng thời có các nghệ nhân và các đội ngũ thợ lành nghề. Sản phẩm làm ra vừa có tính chất hàng hoá đồng thời vừa có tính nghệ thuật và mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc dân tộc[7]. Nghề truyền thống ở nước ta rất đa dạng, phong phú có những nghề đã tồn tại hàng trăm năm. Nhiều sản phẩm truyền thống đã từng nổi tiếng ở trong nước và trên thế giới như nghề: Dệt lụa Hà Đông, nghề chiếu cói Thái Bình, nghề gốm sứ Bát Tràng…. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã khiến cho việc sản xuất các sản phẩm có tính truyền thồng được hỗ trợ bởi quy trình công nghệ với nhiều loại nguyên liệu mới. Do vậy khái niệm nghề truyền thống cũng được nghiên cứu và mở rộng hơn , khái niệm này được hiểu như sau: Nghề truyền thống bao gồm những nghề tiểu thủ công nghiệp xuất hiện từ lâu trong lịch sử, được truyền từ đời này qua các đời khác còn tồn tại đến ngày nay, kể cả những nghề đã sử dụng máy móc, được cải tiến hoặc sử dụng những loại máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống, và đặc biệt sản phẩm của nó vẫn thể hiện những nét đặc sắc văn hoá của dân tộc[8] . b. Làng nghề truyền thống Có nhiều ý kiến đưa ra về khái niệm làng nghề. Giáo Sư Trần Quốc Vượng đã đưa ra khái niệm về làng nghề như sau: Làng nghề là một thiết chế kinh tế- xã hội ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa. Xét về mặt định tính, làng nghề ở nông thôn nước ta được hình thành và phát triển do yêu cầu của phân công lao động và chuyên môn hoá nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và chịu sự tác động mạnh của nông nghiệp và nông thôn Việt Nam với những đặc trưng của nền văn hoá lúa nước, và nền kinh tế hiện vật, sản xuất nhỏ tự cấp tự túc. Xét về mặt định lượng, làng nghề là những làng ở đó có số người chuyên làm nghề thủ công nghiệp và sống chủ yếu bằng nguồn thu nhập từ nghề đó chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng dân số của làng. Tiêu chí để xem xét một cách cụ thể đối với một làng nghề điển hình là: - Số hộ chuyên làm một hoặc nhiều nghề thủ công chiếm từ 40- 50% - Thu nhập từ nghề thủ công chiếm trên 50% tổng giá trị sản lượng của làng. Tuy nhiên những tiêu chí trên không phải là tuyệt đối mà chỉ có ý nghĩa tương đối về mặt định lượng. Bởi vì ở mỗi làng nghề bao giờ cũng có sự khác nhau về quy mô sản xuất, quy trình công nghệ, tính chất sản phẩm và số người tham gia vào trong quá trình sản xuất. Do vậy sự phát triển của các làng nghề thường khác nhau và có những biến động khác nhau trong từng thời kỳ. Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật và công nghệ cùng với sự phân công lao động đã phát triển ở mức độ cao hơn thì khái niệm làng nghề cũng được mở rộng hơn, nó không chỉ bó hẹp ở những làng chỉ có các hộ chuyên làm nghề thủ công. Điều này có thể hiểu dưới hai giác độ: Thứ nhất là, công nghệ sản xuất không hoàn toàn là công nghệ thủ công như trước đây, mà ở nhiều làng nghề đã áp dụng công nghệ cơ khí và bán cơ khí. Thứ hai là, trong các làng nghề khi sản xuất phát triển ở mức độ cao hơn thì sẽ làm nảy sinh sự phát triển của nhiều nghề khác nhằm phục vụ cho nó. Do vậy xuất hiện nhiều người chuyên làm dịch vụ cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm cho các hộ và cơ sở sản xuất chuyên làm nghề thủ công, từ đó hình thành và phát triển những làng nghề với mô hình kết hợp nhiều nghề. Chẳng hạn như ở Ninh Hiệp xuất hiện thêm nhiều nghề mới ngoài những nghề truyền thống và dần dần hình thành nên một mô hình kết hợp nông- công- thương - dịch vụ. Tóm lại, khái niệm làng nghề cần được hiểu là những làng ở nông thôn có các ngành nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, lao động và tỷ trọng thu nhập so với nghề nông. Khái niệm làng nghề truyền thống được khái quát dựa trên hai khái niệm nghề truyền thống và làng nghề được trình bày ở trên. Như vậy làng nghề truyền thống trước hết là làng nghề được tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, trong đó gồm có một hoặc nhiều nghề thủ công truyền thống, là nơi quy tụ các nghệ nhân va đội ngũ thợ lành nghề, là nơi có nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có sự liên kết, hỗ tợ nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt các thành viên luôn có ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc. 2.1.2.2. Phân loại nghề truyền thống Hiện nay nước ta tồn tại rất nhiều nghề truyền thống khác nhau, được phân bố khắp nơi trong cả nước, song được tập trung nhiều nhất ở vùng đồng bằng sông Hồng. Việc phân loại các nhóm nghề truyền thống tương đối khó khăn, chỉ mang tính chất tương đối. + Phân loại theo trình độ kỹ thuật: - Loại có kỹ thuật đơn giản: Sản phẩm của nghề này có tính chất thông dụng, phù hợp với nền kinh tế tự cung tự cấp như: Nghề đan lát, chế biến lương thực, thực phẩm, nghề nung gạch, nung vôi…. - Loại nghề có trình độ kỹ thuật phức tạp: Các nghề này không chỉ có kỹ thuật công nghệ phức tạp mà còn đòi hỏi ở người thợ sự sáng tạo, khéo léo. Sản phẩm vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá trị nghệ thuật cao. Do vậy sản phẩm không chỉ tiêu thụ ở trong nước mà còn có thể xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới như: Nghề thêu thùa, dệt lụa, làm gốm, khảm gỗ…. + Phân theo tính chất kinh tế: - Loại nghề thường phụ thuộc vào nền kinh tế nông nghiệp tự nhiên: Đây là nghề phụ của hầu hết các gia đình nông dân, sản phẩm ít mang tính hàng hoá, chủ yếu phục vụ nhu cầu tại chỗ như: Nghề chế biến nông sản, sản xuất công cụ như cày bừa, liềm hái…. - Loại nghề mà hoạt động của nó độc lập với quá trình sản xuất nông nghiệp: Những nghề này được phát triển bởi sự tiến bộ của trình độ kỹ thuật công nghệ và trình độ tay nghề của người thợ. Sản phẩm của nó thể hiện một trình độ nhất định của sự tách biệt giữa thủ công nghiệp với nông nghiệp, của tài năng sáng tạo và sự khéo léo của người thợ, tiêu biểu là nghề dệt, gốm, kim hoàn….. + Theo giá trị sử dụng của các sản phẩm: Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: Gốm sứ, chạm khảm gỗ, chạm khắc đá, thêu ren, vàng bạc… Các nghề phục vụ chi ản xuất và đời sống như: Nề, mộc, hàn, đúc đồng, gang, nhôm, sản xuất vật liệu xây dựng… Các nghề sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thông thường như: Dệt vải, dệt chiếu, khâu nón… Các nghề chế biến lương thực, thực phẩm: Xay xát, nấu rượu, làm bánh…. 2.1.2.3 Khái niệm về phát triển nghề truyền thống Trên cơ sở lý luận về tăng trưởng, phát triển và nghề truyền thống, tôi cho rằng phát triển nghề truyền thống là sự tăng lên về quy mô, số lượng và người tham gia vào sản xuất, chế biến các sản phẩm của nghề truyền thống và phải đảm bảo được hiệu quả sản xuất, chế biến sản phẩm. Sự tăng lên về số lượng, quy mô của người tham gia vào sản xuất, chế biến các sản phẩm thuộc nghề truyền thống có nghĩa là số lượng người được tăng lên cả về số lượng, quy mô sản xuấ của họ. Trong đó những nghề cũ được củng cố, nghề mới được hình thành. Từ đó giá trị sản lượng không ngừng tăng lên, nó thể hiện sự tăng trưởng của một nghề. Sự phát triển của một nghề truyền thống phải đảm bảo hiệu quả cả về mặt kinh tế- xã hôi- môi trường. Trên quan điểm phát triển bền vững, phát triển nghề truyền thống phải thoả mãn yêu cầu: Sự phát triển phải có kế hoạch, quy hoạch sử dụng các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn… Phải đảm bảo hợp lý và có hiệu quả. Nâng cao mức sống cho người lao động, không gây ô nhiểm môi trường, giữ gìn bản sắc, văn hoá dân tộc… 2.1.3. Đặc điểm phát triển của các nghề truyền thống 2.1.3.1 Đặc điểm kỹ thuật, công nghệ và sản phẩm a. Đặc điểm kỹ thuật và công nghệ Đặc điểm đặc trưng đầu tiên của nghề thủ công truyền thống là kỹ thuật thủ công mang tính truyền thống, dòng họ. Công cụ sản xuất la công cụ thô sơ do chính người thợ thủ công chế tạo ra. Công nghệ của nghề thủ công hầu như phụ thuộc vào tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của người thợ. Sản phẩm đòi hỏi khéo léo và kinh nghiệm tích luỹ được. Một đặc tính quan trọng của công nghệ truyền thống là không thể thay thê hoàn toàn bằng một công nghệ hiện đại, mà chỉ có thể thay thế ở một số khâu sản xuất nhất định. Đây là một trong những yếu tố tạo nên tính truyền thống của sản phẩm. Một đặc điểm khác cần được xem xét là kỹ thuật công nghệ trong các nghề truyền thống hầu hết kà thô sơ, lạc hậu. Xuất phát từ nhiều lý do như vốn ít, mặt bằng sản xuất chật hẹp, cộng thêm với thói quen sản xuất của người tiểu nông nên công nghệ chậm được cải tiến và thay thê. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã tạo nên một sự kết hợp giữa công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại. Sự kết hợp này đã đem lại những ưu thế đặc biệt quan trọng: Tạo ra năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm cao hơn, giảm bớt được sự nặng nhọc và độc hại cho người lao động. Do vậy nhiều nghề truyền thống đã được đầu tư máy móc, thiết bị. Đặc điểm về sản phẩm Đặc điểm riêng nhất, đặc sắc nhất của sản phẩm truyền thống là độc đáo và có tính nghệ thuật cao. Đặc điểm này được quy định bởi `kỹ thuật công nghệ sản xuất thủ công đã có hàng trăm năm và hàng ngàn năm còn tồn tại cho đến ngày nay. Sản phẩm của mỗi làng, mỗi vùng có đặc trưng riêng, trình độ kỹ thuật riêng. Các sản phẩm đều có sự kết hợp giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Ở mỗi sản phẩm là sự diễn tả các hoạt động của con người đang lao động sản xuất, là phong tục, truyền thống, là tín ngưỡng, tôn giáo, là ước muốn của con người trong chinh phục thiên nhiên. Sản phẩm truyền thống có tính riêng lẻ, đơn chiếc vì sản phẩm được sản xuất ra do từng cá nhân thực hiện bằng một công cụ thủ công nên không thể sản xuất hàng loạt mà sản xuất từng chiếc một. Điều đó tạo nên sự hấp dẫm riêng, một sắc thái riêng. Sản phẩm truyền thống rất đa dạng, phong phú do phải đáp ứng các nhu cầu của đời sống kinh tế và văn hoá của người lao động. Nó bao gồm nhiều chủng loại như sản phẩm là tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt và sản phẩm nghệ thuật. Sản phẩm không chỉ đáp ứng các nhu cầu trong nước mà còn để xuất khẩu. Đặc điểm về kinh tê, xã hội Đặc điểm về sự gắn bó với sản xuất nông nghiệp và nông thôn Nghề truyền thống của nước ta ra đời và phảt triển từ làng sản xuất nông nghiệp. Vì vậy trong lịch sử lâu dài đó là mối quan hệ hai chiều chặt chẽ được thể hiện dưới nhiều mức độ khác nhau. Xuất phát từ nhu cầu sản xuất và tiêu dung của người nông dân trong một nền kinh tế tự cung tự cấp. Nghề thủ công dần dần xuất hiện với tư cách là nghề phụ, việc phụ trong gia đình. Nghề phụ, việc phụ này giúp giải quyết việc làm lúc nông nhàn, tăng thu nhập. Như vậy người nông dân đồng thời là người thợ thủ công và ngược lại. Các cơ sở sản xuất của nghề truyền thống được phân bố taịi chỗ trên địa bàn nông thôn, phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế xã hội nông thôn như: Tiêu thụ nguyên vật liệu, cung cấp vật tư, hàng hoá làm ra, thu hút lao động nông thôn, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và hoạt động dịch vụ cùng phát triển, góp phần tăng thu nhập cho người nông dân, tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nâng cao trình độ văn hoá, dân trí nông thôn, đổi mới nông thôn đồng thời chịu sự quản lý hành chính của các cấp chính quyền địa phương. Đặc điểm về lao động Đặc điểm nổi bật trong sản xuất nghề truyền thống là sử dụng lao động thủ công là chính. Do sản phẩm của nghề truyền thống đòi hỏi trình độ kỹ thuật, thẩm mỹ cao, đường nét tỷ mỉ, có tính đơn chiếc nên lao động làm nghề thủ công truyền thống có tính thủ công, trình độ kỹ thuật cao, tay nghề khéo léo, có đầu óc thẩm mỹ và sáng tạo. Đặc điểm về thị trường Thị trường là một yếu tố rất quan trọng, nó có ý nghĩa quyết định tới sự tồn tại và phát triển của mỗi nghề truyền thống. Thị trường cung ứng vật liệu: Nói chung là nhỏ hẹp, chủ yếu là thị trường mua, bán tại chỗ Thị trường công nghệ: Việc tạo ra công cụ sản xuất là khả năng tạo ra vốn của thợ thủ công, họ có thể làm ra công cụ từ đơn giản đến phức tạp. Hiện nay với sự phát triển của khoa học và công nghệ thì có sự “ Hiện đại hoá công nghệ truyền thống”, thay thế công nghệ thủ công lạc hậu bằng công nghệ hiện đại để nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất. - Thị trường vốn: Tuy đã được hình thành nhưng vẫn còn nhỏ bé so với sức phát triển của sản xuất. Các nguồn vốn tự có, vốn chiếm dụng và vốn vay vẫn là nguồn vốn chủ yếu, có tác động quan trọng tới sự mở rộng quy mô sản xuất và duy trì sự phát triển. Hình thức tín dụng chủ yếu như vay mượn, cho vay lấy lãi, chơi họ, lập phường hội vẫn là phổ biến - Thị trường lao động: Được hình thành và phát triển có nhiều yếu tố mới, ngoài lao động tại chỗ có lao động tại các vùng khác, các nơi khác. Ngoài lao động thời vụ còn có lao động thường xuyên - Thị trường tiêu thụ sản phẩm: Loại thị trường này rất quan trọng, nó đóng vai trò quyết định tới sự sống còn của từng nghề. Về cơ bản vẫn là thị trường tại chỗ, nhỏ hẹp, sản phẩm được tiêu thụ chủ yếu ở nông thôn. - Tuy nhiên sản phẩm truyền thống hiện nay đã hấp dẫn đối với nhiều khách nước ngoài. Các sản phẩm như: Gốm, sứ, dệt tơ tằm…..đã được các thương nhân nước ngoài mua với số lượng lớn, chúng có mặt ở nhiều nơi trên thế giới như: Pháp, Nhật, Trung Quốc…Hiện nay sự đòi hỏi khắt khe của thị trường nước ngoài về chất lượng, chủng loại và sự thay đổi mẫu mã nhưng vẫn phải thể hiện sắc thái riêng của văn hoá Việt Nam trong từng sản phẩm cũng là một khó khăn. Đặc điểm về hình thức tổ chức kinh doanh Trong lịch sử phát triển các nghề truyền thống hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến nhất là hình thức hộ gia đình. Ngoài ra còn một số hình thức khác hiện nay đã được ra đời và phát triển là: Tổ hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty Trách nhiệm hữu hạn. 2.1.3 Vai trò của phát triển nghề truyền thống đối với các vấn đề kinh tế, xã hội ở nông thôn Vịêc phát triển nghề truyền thống ở nông thôn có vai trò rất to lớn đó là: ◊ Nghề truyền thống ở nông thôn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn là nhằm phát triển kinh tế nông thôn lên một bước mới về chất, làm thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động, cơ cấu việc làm, cơ cấu giá trị sản lượng và cơ cấu thu nhập của dân cư nông thôn bằng các nguồn lợi từ các lĩnh vực trong nông nghiệp và phi nông nghiệp.Với mục tiêu như vậy, vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ngày càng được thúc đẩy, nó diễn ra ngay trong nội bộ ngành nông nghiệp và cả các bộ phận hợp thành khác của cơ cấu kinh tế nông thôn. Trong quá trình vận động và phát triển, các nghề truyền thống có vai trò tích cực trong việc góp phần tăng tỷ trọng của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỉ trong nông nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất nông nghiệp có thu nhập thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn.Thực tế trong lịch sử, sự ra đời và phát triển của các nghề truyền thống ngay từ đầu đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế xã hội nông thôn. Ở nông thôn, khi nghề thủ công xuất hiện thì kinh tế nông thôn thôn không chỉ còn ngành nông nghiệp thuần nhất, mà bên cạnh là các ngành thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ cùng tồn tại và phát triển. ◊ Phát triển nghề truyền thống góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động nông thôn: Các nghề truyền thống góp phần tạo việc làm, nâng cao đời sống cho dân cư nông thôn là vấn đề quan trọng ở nước ta hiện nay. Khi đất đai canh tác ngày càng bị thu hẹp, lao động ngày càng dư thừa thì vấn đề đặt ra là phải làm sao giải quyết được công ăn việc làm cho lực lượng dư thừa này, đồng thời tăng thu nhập cho các hộ gia đình trong điều kiện sản xuất còn hết sức hạn chế. Theo tình toán của cac chuyên gia thì hiện nay thời gian lao động dư thừa ở nông thôn còn khoảng 1/3 chưa sử dụng. Do vậy vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho số la động này là rất khó khăn.Phát triển các nghề truyền thống ở nông thôn là một trong những cách giải cho bài toán này. Sự phát triển của các nghề truyền thống đã kéo theo sự phát triển và hình thành của nhiều nghề khác, nhiều hoạt động dịch vụ liên quan xuất hiện, tạo thêm nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động. Nghề chế biến lương thực, thực phẩm không chỉ có tác dụng Hơn nữa, sản phẩm của các nghề truyền thống ở Việt Nam ngày càng được du khách nước ngoài chú ý, do vậy kim ngạch xuất khẩu cho các sản phẩm này ngày càng tăng, góp phần cải thiện đời sống, cơ sở vật chất cho người dân nông thôn. ◊ Góp phần thu hút vốn nhà rỗi, tận dụng thời gian lao động dư thừa, hạn chế di dân tự do: Đặc điểm sản xuất của các nghề truyền thống là quy mô nhỏ, cơ cấu vốn và lao động ít nên rất phù hợp với khả năng huy động vốn và nguồn lực vật chất của các hộ gia đình.Với mức vốn đầu tư không lớn, trong điều kiện hiện nay thì đó là một lợi thế để có thể huy động vốn nhàn nhãn rỗi trong dân cho hoạt động sản xuất của các nghề. Mặt khác, do đặc điểm sản xuất của các nghề truyền thống là sử dụng lao động thủ công là chủ yếu, nơi sản xuất cũng chính là nơi ở của người lao động nên bản thân nó có thể tận dụng và thu hút nhiều lao động, từ lao động thời vụ nông nhàn đến lao động trên độ tuổi hay dưới độ tuổi. Trẻ em tham gia sản xuất dưới hình thức học nghề hay giúp việc. Lực lượng lao động này chiềm một tỷ lệ rất đáng kể trong tổng số lao động ở các nghề. Cùng với việc tận dụng thời gian và lực lượng lao động, sự phát triển của cac nghề truyền thống đã có vai trò tích cực trong việc hạn chế di dân tự do ở nông thôn ra thành thị, từ vùng này sang vùng khác. Sức ép về việc làm và thu nhập đã thúc đẩy người nông dân di dân để tìm nơi mới có việc làm và thu nhập khá hơn. Khi nghề truyền thống ở nông thôn phát triển sẽ là một động lực lớn để cản trở vấn đề di dân tự do này. ◊ Đa dạng hoá kinh tế nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá: Đa dạng hoá kinh tế nông thôn là một biện pháp thúc đẩy kinh tế hàng hoá ở nông thôn phát triển, tạo ra một sự chuyển biến mới về chất, góp phần phát triển kinh tế, xã hội nông thôn.Vì vậy trong kinh tế nông thôn phát triển nghề truyền thống được coi là cơ sở và là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện quá trình này.Trong thực tế nó đã thể hiện rõ vai trò thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, kích thích sự ra đời và phát triển của các nghề khác như dịch vụ, thương mại. ◊ Góp phần cải thiện đời sống nhân dân và góp phần xây dựng nông thôn mới: Việc cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở ổn định việc làm và nâng cao thu nhập, Ở những vùng có nghề truyền thống phát triển đều thể hiện sự văn minh, giàu có, dân trí cao hơn hẳn những vùng chỉ có thuần tuý san xuất nông nghiệp.Ở những nơi có nghề thì tỉ lệ hộ khá và giàu thường rất cao, tỉ lệ hộ nghèo thường rất thấp và hầu như không có hộ đói. Thu nhập từ nghề thủ công chiểm tỉ lệ lớn trong tổng thu nhập đã đem lại cho người dân một cuộc sống đầy đủ, phong lưu hơn cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Ở những nơi có nghề thủ công thì người nông dân cùng với sự đổi mới trong đời sống kinh tế , văn hoá của người dân là quá trình xây dựng và đổi mới nông thôn theo hướng hiện đại hoá. ◊ Góp phần bảo tồn giá trị văn hoá dân tộc: Sản phẩm của nghề thủ công truyền thống là sự kết tinh của lao động vật chất và lao động tinh thần, nó được tạo nên bởi bàn tay tài hoa và óc sáng tạo của người thợ thủ công. Nhiều sản phẩm truyền thống có tính nghệ thuật cao, mỗi sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật, trong đó chứa đựng những nét đặc sắc văn hoá dân tộc, đồng thời thể hiện những sắc thái riêng, đặc tính riêng của mỗi nghề. Với những đặc điểm ấy chúng không chỉ còn là hàng hoá đơn thuần mà còn trở thành sản phẩm văn hoá có tính nghệ thuật cao và được coi là biểu tượng nghề truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nghề truyền thống, đặc biệt là nghề thủ công mỹ nghệ là những di sản quý giá mà các thế hệ cha ông đã sáng tạo ra và truyền lại cho các thế hệ sau. 2.1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các nghề truyền thống Thứ nhẩt, yếu tố thị trường: Yếu tố này đóng vai trò quyết định đến sự sống còn của từng nghể. Những nghề sản xuất ra những sản phẩm có khả năng thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường thường có tốc độ. Đó là những sản phẩm có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và luôn đổi mới cho phủ hợp với nhu cầu và thị hiếu tiêu dung của xã hội. Đặc biệt là khi chúng ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì sức cạnh tranh để giữ vững và mở rộng được thị trường là việc làm rất quan trọng, được đặt lên hàng đầu. Ngược lại một số nghề truyền thống không phát triển được, ngày càng mai một, thậm chí có nguy cơ bị mất đi và không đáp ứng được nhu cầu thị trường hoặc nhu cầu thị trường không cần đến loại sản phẩm đó nữa như: Tranh Đông Hồ, nghề đan quạt… Như vậy, rõ ràng thị trường và phát triển thị trường đã tác động mạnh tới phương hướng phát triển, cách thức tổ chức sản xuất, cơ cấu sản phẩm và là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên nếu thị trường không ổn định sẽ gây ra khó khăn và bấp bênh cho sản xuất. Thứ hai, trình độ kỹ thuật và công nghệ: Việt Nam đã chính thức là thành viên của WTO, nền kinh tế toàn cầu đã được mở rộng do vậy việc ứng dụng khoa học công nghệ mới có ý nghĩa quyết định, các tác động trực tiếp tới đảm bảo và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Nhận thức được điều này, nhiều nghề truyền thống đã được đẩy mạnh việc áp dụng khoa học kỹ thuật và đổi mới công nghệ, cải tiến phương pháp sản xuất để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra một sự phát triển mạnh mẽ và ổn định cho các làng nghề. Thứ ba, nguồn vốn: Việt Nam vừa trải qua thời kỳ lạm phát cao đồng thời “ cơn bão tài chính” trên toàn thế giới đã làm ảnh hưởng rất lớn đến các thành phẩn kinh tế nói chung và đến sản xuất nghề truyền thống nói riêng. Hiện nay nhu cầu về vốn là một vấn đề khó khăn chung cho toàn bộ nền kinh tế cần phải được tháo gỡ, với sự hỗ trợ tích cực và cụ thể từ phía Nhà nước, đặc biệt là đề ra những chính sách phù hợp với đặc điểm sản xuất của các nghề truyền thống. Thứ tư, cơ sở hạ tầng: Yếu tố này bao gồm: Hệ thống giao thông, thông ti._.n liên lạc, cấp thoát nước. Các yếu tố này càng phát triển, thuận lợi càng tạo ra điều kiện cho các nghề truyền thống phát triển. Tuy nhiên cho đến ngay sự phát triển trong các nghề truyền thống vẫn gặp không ít khó khăn do yếu kém và thiếu đồng bộ của cở sở hạ tầng. Thứ năm, nguồn nhân lực: Là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển. Nguồn nhân lực của sản xuất nghề truyền thống bao gồm những nghệ nhân, thợ thủ công và những chủ cơ sở sản xuất kinh doanh. Hiện nay một hạn chế rất lớn là chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, trình độ chuyên môn và trình độ văn hoá còn thấp, nhất là đối với các chủ doanh nghiệp, là một cản trở lớn trong việc phát triển sản xuất theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Thứ sáu: Nguồn vật liệu: Trong những giai đoạn trước đây gần nguồn nguyên liệu, vật liệu được coi là một trong những điều kiện tạo nên sự hình thành và phát triển sản xuất các nghề truyền thống. Song hiện nay giao thông và phương tiện vận chuyển phát triển hơn nên vấn đề này không còn quan trọng hơn so với trước đối với sự phát triển các cơ sở nghề truyền thống. Thứ bẩy: yếu tố truyền thống: Yếu tố truyền thống có tác dụng bảo tồn những nét văn hoá đặc trưng của từng vùng hay từng nơi có nghề truyền thống, làm gia tăng giá trị nghệ thuật cúa sản phẩm. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, yếu tố truyền thống cũng phải được duy trig một cách có chọn lọc nhằm phát huy những mặt tích cực của nó phù hợp với những thay đổi của xã hội hiện tại. Thứ tám: Cơ chế chính sách: Quá trình đổi mới kinh tế cùng với hệ thống chính sách kinh tế vĩ môi của Nhà nước đã có những tác động to lớn có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của các nghề truyền thống. Với chính sách phát triển của các thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể, hộ gia đình, các doanh nghiệp tư nhân được công nhận và tồn tại trong sản xuất các sản phẩm truyền thống, làm cho các nghề truyền thống được khôi phục và phát triển mạnh mẽ. Chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đã kích thích sản xuất phát triển, mở rộng thêm nhiều thị trường mới. Ngoài ra còn có các chính sách khác như chính sách miễn thuế, chính sách hỗ trợ vốn, chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ… đã có tác động tích cực đến các nghề truyền thống. 2.2. Cơ sở thực tiễn về phát triển nghề truyền thống 2.2.1. Kinh nghiệm phát triển các nghề truyền thống trên thế giới * Kinh nghiệm ở Nhật Bản Ở Nhật Bản, bên cạnh những ngành kinh tế hiện đại với các khu công nghiệp tập trung quy mô lớn thì ở các vùng thị trấn, thị tứ, làng xã ở nông thôn, một mạng lưới các cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ đã được xây dựng và đặc biệt các cơ sở công nghiệp gia đình ở nông thôn, các hộ làm nghề thủ công được chú trọng phát triển. Chính trên cơ sở đó nhiều vùng trên đất nước Nhật Bản đã tồn tại nhiều nghề thủ công truyền thống như: nghề đan lát, dệt chiếu, may áo kimono, rèn kiếm, dệt lụa… Để hỗ trợ các nghề thủ công phát triển thì chính phủ Nhật Bản đề ra một luật pháp đặc biệt để khôi phục và phát triển các nghề thủ công truyền thống và pháp luật này được gọi là “ Luật nghề truyền thống”. Luật này có tác dụng để bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng để giúp đỡ các làng nghề truyền thống vay vốn mà không cần thế chấp. Trên cơ sở các luật nghề truyền thống thì các chính sách trợ giúp theo kế hoạch khôi phục và phát triển nghề truyền thống được ban hành. Trên cơ sở lập kế hoạch để khôi phục hay phát triển các nghề truyền thống thì các chủ cơ sở sẽ được hỗ trợ về mọi mặt. Ngoài ra ở Nhật Bản còn thành lập hiệp hội nghề truyền thống. Hiệp hội này có chức năng và vai trò rất to lớn trong việc phát triển các nghề truyền thống như: Tổ chức đào tạo và dạy nghề, hỗ trợ vốn cho các cơ sở, cấp học bổng cho thanh niên học nghề truyền thống, cho 300.000 Yên/1năm đối với những người nâng cao kỹ thuật; vinh doanh các nghệ nhân giỏi; phát giấy chứng nhận hành công nghệ nghề truyền thống. Đồng thời hiệp hội này còn giới thiệu hàng công nghệ truyền thống thông qua sách vở, áp phích, báo chí.. Bằng hàng loạt những hỗ trợ như trên, nghề truyền thống ở Nhật Bản đã phát triển mạnh mẽ và hàng năm hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống mang lại nhiều USD cho đất nước[9]. * Kinh nghiệm ở Ấn Độ Ấn Độ có nhiều nghề truyền thống và làng nghề truyền thống được hình thành từ rất lâu trong lịch sử và còn tồn tại đến ngày nay. Hiện nay có hàng triệu người đang sống bằng nghề thủ công truyền thống. Các nghề truyền thống ở Ấn Độ bao gồm chế tác kim hoàn, đồ trang sức, gốm mỹ nghệ, sản xuất tơ lụa. Trong số những nghề thủ công truyền thống thì nghề chế tác kim hoàn và trang sức là một trong những nghề mũi nhọn, nghề hoạt động có hiệu quả cao và thu ngoại tệ nhiều nhất. Ngành công nghiệp đá quý của Ấn Độ đứng đầu trên thị trường thế giới, các mặt hàng này chủ yếu được xuất khẩu sang Mỹ, HồngKông. Ấn Độ cũng rất chú trọng và có nhiều biện pháp, chính sách để hỗ trợ các nghề truyền thống. Ngoài chính sách hỗ trợ về vốn, đầu tư cơ sở hạ tầng thì chính phủ còn rất chú trọng đến việc tăng cường và bồi dưỡng nguồn nhân lực, Thợ thủ công được chính phủ quan tâm cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, trong đó các nghệ nhân và thợ cả được coi như vốn quý của quốc gia. Hàng năm chính phủ tổ chức cấp giải thưởng quốc gia cho thợ cả. Những sự quan tâm đó đã khuyến khích, động viên những người thợ giỏi tâm huyết với nghề, góp phần vào việc duy trì và phát triển các nghề truyền thống của đất nước[10]. * Kinh nghiệm ở Trung Quốc Trung Quốc là nước các nhiều nghề truyền thống phát triển. Từ xa xưa nó đã thực sự nổi tiếng với các sản phẩm của nghề dệt, nghề gốm, nghề giấy, nghề đúc kim hoàn… trải qua nhiều biến đổi trong các thời kỳ lịch sử, nhiều nghề thủ công truyền thống vẫn được bảo tồn và phát triển. Phát triển nghề truyền thống được chính phủ Trung Quốc rất quan tâm coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá nông thôn. Nhiều chính sách đã được ban hành và thực hiện thành công. Các chính sách hỗ trợ nghề thủ công truyền thống bao gồm: Chính sách hỗ trợ về vốn, chính sách thuế, chính sách xuất khẩu, chính sách bảo hộ hành nội địa… Trung Quốc đã có một thời gian, hàng của các nghề truyền thống được sản xuất ra hầu hết không bán được do không đáp ứng được nhu cầu thị trường về chất lượng, mẫu mã sản phẩm nhiều cơ sở đã bị thua lỗ, phá sản. Nguyên nhân của khó khăn trên là do kỹ thuật thủ công lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ và phân tán, năng suất thấp, chất lượng kém. Để khắc phục những khó khăn này thì chính phủ Trung Quốc đã đề ra chương trình “Đốm lửa” nhằm chuyển giao công nghệ và khoa học ứng dụng tiên tiến tới những vùng nông thôn, kết hợp khoa học kỹ thuật với kinh tế. Với chương trình “Đốm lửa” thì nghề thủ công của Trung Quốc đã dần dần ra khỏi khó khăn và tạo ra một đột phá mới trong phát triển các nghề thủ công truyền thống của mình [11]. * Kinh nghiệm ở Thái Lan: Chính phủ đã đầu tư một khoản vốn nhất định để xây dựng trung tâm dạy nghề truyền thống co những nông dân nghèo. Trung tâm dạy nghề cho thanh niên nông thôn nghèo làn các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống do Hoàng Hậu đỡ đầu, hàng năm thu hút hàng trăm thanh niên nghèo ở các địa phương về học nghề. Trong thời gian học tập được cấp học bổng và tạo các điều kiện học tập, không phải đóng học phí hoặc bất kỳ một khoản lệ phí nào. Kết thúc khoá học họ được giới thiệu trở lại địa phương và được tạo điều kiện để hành nghề, vừa đảm bảo có thu nhập vừa đảm bảo duy trì phát triển và bảo tồn nghề truyền thống của các dân tộc[12]. * Kinh nghiệm ở Inđônêxia: Chính phủ đã mở một mạng lưới các ngân hàng nông thôn quy mô nhỏ được thành lập ở khắp mọi miền đất nước nhằm tạo điều kiện cho việc cấp tín dụng cho nông thôn mà chủ yếu là những người nghèo thiếu việc làm. Hàng năm tổng thống đã đứng ra phát động chương trình giúp đỡ người nghèo và chọn ra những làng kinh tế kém phát triển, cung cấp cho mỗi làng một khoản tín dụng để các hộ nông dân nghèo luân phiên nhau vay vốn dùng vào sản xuất nông nghiệp và phát triển nghề thủ công truyền thống[13]. 2.2.2 Kinh nghiệm phát triển các nghề truyền thống ở Việt Nam Trong những năm gần đây, nhiều sản phẩm của các nghề truyền thống đã được khẳng định trên thị trường nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, do vậy sản phẩm ổn định và phát triển, quy mô ngày càng mở rộng. Sự mở rộng của quy mô sản xuất không chỉ thể hiện ở mở rộng mặt bằng sản xuất, mà ở sự tăng nguồn vốn đầu tư, đổi mới kỹ thuật công nghệ, tạo nhiều việc làm cho người lao động, tăng khối lượng sản phẩm, tăng giá trị tổng sản lượng. Về lao động và việc làm ở nông thôn thì hiện nay lao động trong nông thôn chiếm 74,5% lao động trong cả nước (khoảng 32 triệu người), nhưng trong đó mới sử dụng hơn 70% quỹ thời gian. Do vậy lao động ở nông thôn vẫn còn dư thừa, không đủ việc làm. Ở một số làng nghề phát triển mạnh như Bát Tràng (Hà Nội); La Xuyên (Nam Định); La Phù Hà Tây… Lao động có việc làm quanh năm. Nhưng ở các làng nghề kém phát triển hơn thì lao động chỉ làm việc 3-4 tháng trong năm. Mức thu nhập thực tế của người lao động trong các nghề truyền thống rất khác nhau. Nó tuỳ thuộc vào công việc và khả năng phát triển của mỗi nghề. Hiện nay các nghề có thu nhập cao phải kể đến nghề gốm sứ, đồ thủ công mỹ nghệ, rèn đúc sắt thép… Thu nhập bình quân của các nghề này đạt từ 800.000đ đền 1.000.000đ/người/tháng. Các nghề dệt, thêu ren, chế biến nông sản có thu nhập thấp hơn khoảng 500.000đ đến 700.000đ/người/ tháng[14]. Chất lượng lao động và trình độ chuyên môn kỹ thuật ở các nghề truyền thống nhìn chung còn thấp, chủ yếu là lao động thủ công, lao động lành nghề chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Ở Nam Định, Hà Nam, số lao động bậc cao và tinh xảo chỉ chiếm 2,1%. Cán bộ quản lý có trình độ đại học hầu như rất ít[15]. Trong điều kiện mới, sự phát triển của nghề truyền thống đòi hỏi một lượng vốn rất lớn để mở rộng sản xuất và cải tiến kỹ thuật và đổi mới công nghệ, đáp ứng nhu cầu thị trường. Song tình trạng thiếu vốn vẫn còn phổ biến, sự tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức bán chính thức còn gặp nhiều khó khăn. Sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học kỹ thuật có những tác động quan trọng tới sự đổi mới kỹ thuật công nghệ trong các nghề. Ở nhiều nơi đã có sự áp dụng khoa học kỹ thuật mới, thay thế thiết bị, máy móc cũ bằng thiết bị máy móc mới, hiện đại. Vì vậy các sản phẩm của các nghề truyền thống dần dần đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và trên thế giới. Nhiều nghề đã dung điện lực làm động lực chạy máy như xay xát, nghiền bột, máy cưa, máy bào…Làng Bát Tràng đã dùng ga và điện cho lò nung, đào đất bằng máy thay bằng tay… Nghề Vạn Phúc Hà Tây đã thay máy dệt cho khung cửi…. Việc đổi mới công nghệ vẫn giữ được những yếu tố truyền thống của snả phẩm. Song sự đổi mới công nghệ diễn ra còn chậm, chưa đồng bộ, chưa hệ thống. Sự đổi mới công nghệ chưa chú ý đến vấn đề môi trường và an toàn lao động. Tình trạng ô nhiểm môi trường đang trở thành vấn đề bức xúc trong các làng nghề. Đó là sự ô nhiễm không khí do bụi, tiếng ồn, nhiệt độ cao. Hoặc ô nhiễm nguồn nước do hoá chất, chất thải của các cơ sở sản xuất không được xử lý. Sản phẩm làm ra của các nghề truyền thống hiện nay chủ yếu là được tiêu thụ ở thị trường trong nước (Chiếm 90%). Các sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ ngay tại chỗ hoặc các vùng lân cận. Khi Việt Nam hội nhập thì thị trường nước ngoài có thể mở rộng hơn, tuy nhiên các cơ sở phải nỗ lực để đáp ứng thị hiếu của khách hàng về chất lượng, mẫu mã sản phẩm. 2.2.3 Thực trạng phát triển các nghề truyền thống ở tỉnh Hưng Yên Hiện nay Hưng Yên có khoảng 62 làng nghề truyền thống hoạt động ở các lĩnh vực và các mức độ khác nhau, thu hút và giải quyết cho trên 19.600 lao động. Từ năm 1997 đến nay làng nghề và ngàng nghề tiểu thủ công nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân là 12,5%, giá trị xuất khẩu của các làng nghề chiếm trên 30% trong tổng giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp[16]. Làng nghề ở Hưng Yên bao gồm các nghề truyền thống như: Nghề làm tương bần, nghề đúc đồng, nghề làm cày bừa, nghề làm hương xạ… Trong những năm gần đây có thêm một số nghề mới như nghề gốm sứ, nghề kim hoàn, nghề mây tre đan, chế biến nông sản… Các nghề của tỉnh đã góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận không nhỏ nhân dân, góp phần quan trọng nâng cao đời sống, phát triển kinh tế địa phương. 2.2.4 Chính sách của nhà nước trong việc phát triển các nghề truyền thống Nhà nước đang có mục tiêu cho phát triển 240 làng nghề mới, bảo tồn và phát triển trên 320 làng nghề truyền thống đang bị mai một, đồng thời kết hợp phát triển du lịch ở 114 làng nghề khác[17]. Để thực hiện được mục tiêu trên, việc quy hoạch làng nghề sẽ được tiến hành đồng bộ với quy hoạch vùng nguyên liệu và bảo vệ môi trường; Phát triển Làng nghề lồng ghép với chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.Nhà nước sẽ hỗ trợ phần lớn kinh phí cho khâu xây dựng cơ sở hạ tầng và xử lý các vấn đề môi trường tại các làng nghề, đồng thời tăng cường chính sách ưu đãi về thuế đất, khuyến khích công tác đào tạo nghề và xúc tiến thương mại cho sản phẩm của các làng nghề.Với mục tiêu trên dự kiến trên 11.000 tỷ sẽ được rót vào lĩnh vực bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam đến năm 2020. 2.3 Tổng quan các nghiên cứu có liên quan đến nghề truyền thống Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đã làm cho nền kinh tế nói chung có nhiều thay đổi theo hướng tích cực: Đó là thu nhập của người dân ngày càng được nâng lên, đời sống của dân chúng ngày càng được cải thiện…Tuy nhiên bên cạnh đó vấn đề thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp đã làm cho một lượng lao động ở nông thôn không có việc làm tăng lên rất nhiều. Các nhà nghiên cứu kinh tế đã có nhiều hướng giải quyết cho phát sinh trên, một trong những hướng giải quyết mang tính tích cực và hiệu quả đó là phát triển các nghề sản xuất truyền thống ở nông thôn. Chính vì lý do trên mà trong nhiều năm qua đã có rất nhiều nghiên cứu liên quan đến phát triển các nghề truyền thống. - Tác giả Nguyễn Điền (1997), Công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn các nước Châu Á và Việt Nam, Hà Nội.Bài viết đã nhấn mạnh muốn công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì phải phát triển công nghiệp nông thôn và thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn. Nội dung quan trọng công nghiệp hoá hiện đại hóa nông thôn là khôi phục va phát triển làng nghề. - Tác giả Trần Minh Yến (2004), Làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá: Với bài viết này tác giả đưa ra khái niệm về nghề truyền thống, làng nghề truyền thống. Nêu lên được đặc điểm phát triển, những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nghề truyền thống và tác giả cũng nêu lên kinh nghiệm phát triển nghề truyền thống trên thế giới. Ngoài ra tác giả cũng đã khái quát lại toàn cảnh tình hình phát triển các làng nghề truyền thống của nước ta trong giai đoạn 1990-2000, từ những thực trạng phát triển đó tác giả cũng đưa ra một số định hướng và giải pháp cho phát triển nghề truyền thống của nước ta trong các giai đoạn tiếp theo. PHẦN III: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 3.1.1. Đặc điểm tự nhiên 3.1.1.1. Vị trí địa lý Ân Thi là huyện ở giữa, phía đông của tỉnh Hưng Yên - tỉnh trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, Phía Đông Nam giáp huyện Phù Cừ, góc phía Nam giáp huyện Tiên Lữ, phía Tây, Tây Nam giáp huyện Kim Động, phía Tây Bắc giáp huyện Khoái Châu Phía Bắc giáp huyện Yên Mỹ, huyện Mỹ Hào, ranh giới là sông Bắc Hưng Hải (các huyện này đều thuộc tỉnh Hưng Yên) Phía Đông Bắc giáp huyện Bình Giang, phía Đông giáp huyện Thanh Miện của tỉnh Hải Dương (kể từ Bắc xuống Nam), phần lớn ranh giới là sông Kẻ Sặt (một sông nhánh thuộc hệ thống sông Thái Bình). Diện tích tự nhiên của huyện là 128,22 km2. 3.1.1.2. Hành chính, xã hội Dân số 168.650 người (theo thống kê năm 2009), gồm 20 xã và 1 thị trấn. Ân Thi có huyện lỵ là thị trấn Ân Thi và các xã: Phù Ủng, Bãi Sậy, Bắc Sơn, Đào Dương, Tân Phúc, Văn Nhuệ, Hoàng Hoa Thám (xã), Quang Vinh, Vân Du, Xuân Trúc, Quảng Lãng, Đặng Lễ, Cẩm Ninh, Nguyễn Trãi, Đa Lộc, Tiền Phong, Hồ Tùng Mậu, Hồng Vân, Hồng Quang, Hạ Lễ. Là một huyện đồng bằng thuần nông, chuyên canh lúa nước. Mật độ dân cư 997 người/km², dân trí tương đối cao, dân bản địa dân tộc Kinh. Tập quán thuần hậu, chủ yếu theo đạo Phật, đạo Mẫu (số ít theo Thiên chúa giáo). Có nhiều di tích văn hóa, lịch sử như: đền thờ Đế Thích ở Cẩm Ninh, đền thờ Thái thượng Lão quân ở Hồng Vân, đền thờ Tể tướng Lữ Gia, tướng Lang Công, Cao Biền, Tả Ao ở Đặng Lễ, đền thờ Phạm Ngũ Lão 3.1.1.3. Khí hậu và thời tiết Do nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng nên khí hậu thời tiết của Ân Thi mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm với hai mùa rõ rệt. Mùa khô lạnh bắt đầu từ tháng 11 năm trước kết thúc vào tháng tư năm sau, mùa nóng bắt đầu từ tháng năm đến tháng 10. 3.1.1.4. Giao thông Có 3 quốc lộ đi qua: quốc lộ 38, đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng (hoàn thành năm 2012) và quốc lộ 39 mới (dự án). Đường quốc lộ 38 chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, từ thị trấn Kẻ Sặt huyện Bình Giang, cắt ngang huyện, qua thị trấn Ân Thi, sang nối với đường quốc lộ 39 ở Kim Động. 3.1.1.5. Đặc điểm đất đai của huyện (Biểu 3.1) Huyện Ân Thi có tổng diện tích đất tự nhiên là 12.821,89ha (chiếm 13,89% diện tích tự nhiên của toàn tỉnh), được phân bố đều giữa các đơn vị hành chính, diện tích tự nhiên giữa các xã và thị trấn giao động khoản từ 65 đến 80ha. Tuy nhiên có hai đơn vị hành chính có chênh lệch nhiều nhất đó là xã Phù Ủng có diện tích lớn nhất là 117,3ha, xã Hồng Quang có diện tích nhỏ nhất là 48,06.Diện tích đất tự nhiên bình quân trên đầu người là 0,73ha, đây là mức tương đối cao so với toàn tỉnh và so với các huyện khác trong các tỉnh Miền Bắc. Bảng 3.1 Ta thấy tình hình sử dụng đất đai của huyện Ân Thi qua các năm 2005-2008. Đất nông nghiệp có diện tích lớn nhất trong các loại đất (chiếm 68,63% năm 2008), tiếp đó là đất chuyên dùng và đất ở. Diện tích đất nông nghiệp trong những năm qua liên tục giảm và chủ yếu là đất trồng cây hàng năm. Diện tích đất nông nghiệp năm 2005 là 9.358,51 ha đến năm 2008 chỉ còn 8.800,01 ha, giảm 558,3 ha, tương ứng với 5,7%, trong đó diện tích cây hàng năm giảm cao nhất là 706 ha, tương ứng là 23,71%.Tuy nhiên đất nuôi trồng thuỷ sản, đất trồng cây hàng năm tăng. Đê giải thích cho lý do tăng ở trên thì chúng ta thấy rằng trong định hướng phát triển kinh tế chúng ta có chính sách chuyển dịch cơ câu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là trong một vài năm gần đây nhà nước ta quan tâm nhiều đến phát triển hệ thống đường giao thông nên đất nông nghiệp bị giảm mạnh cho những mục đích này. Bảng 3.1: Đặc điểm đất đai huyện Ân Thi (2005-2008) Chỉ tiêu Diện tích (ha) So sánh 2008/2005 2005 2006 2007 2008 (+, - ) (%) BQ (%) Tổng diện tích đất tự nhiên 1. Đất nông nghiệp 1.1. Đất trồng cây hàng năm 1.2. Đất nuôi trồng thuỷ sản 1.3. Đất nông nghiệp khác 12.821,89 9.358,31 9.253,01 96,1 9,2 12.821,89 9.258,01 9.296,01 105,0 48,0 12.821,89 8.948,01 8.886,01 155,0 98,0 12.821,89 8.800,01 8.547,01 155,0 98,0 - -558,3 -706 589 6 100,00 94,03 76.29 161,29 106,52 100,00 4,55 4,24 5,44 4,74 Đất chuyên dùng Đất sản xuất kinh doanh Đất có mục đích công cộng Đất chuyên dùng khác 2.021,66 55,52 1.921,01 45,13 2.071,67 80,53 1.944,01 47,13 2.301,6 180,53 2.054,01 67,13 2.401,6 190,50 2.144,04 67,13 379,94 134,98 222,94 22 118,79 343,12 111,61 148,74 4,92 7,0 4,81 5,29 3. Đất ở 914,56 966,56 1.063,03 1.103,01 188,45 120,60 4,94 4. Đất phi nông nghiệp khác 527,36 525,36 535,36 543,38 16,02 103,03 4,68 3.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội 3.1.2.1. Đặc điểm dân số lao động (Biểu 3.2) Tình hình dân số và lao động của huyện qua các năm 2005-2008 được thể hiện qua bảng 3.2 Dân số trong huyện Ân Thi liên tục tăng, năm 2005 dân số của toàn huyện là 160.581 người, đến năm 2008 là 168.650 người, tương ứng với 13,871% so với năm 2005, trung bình mỗi năm dân số tăng 4,65%. Cùng với sự thay đổi về dân số thì số hộ cũng tăng qua các năm, từ 35.373 hộ năm 2005 thì năm 2008 là 41.542 hộ, tăng 4.769 hộ tương ứng với 13,48%. Do sự biến động về đất đai trong nông nghiệp, đất khu công nghiệp đã kéo theo sự thay đổi lao động trong các ngành nghề sản xuất của huyện. Số hộ nông nghiệp năm 2005 kà 19.051 hộ (chiếm 53,85% tổng số hộ) đến năm 2008 là 15.440 hộ, giảm 3.611 hộ (tương ứng với 37,17%) Lao động nông nghiệp giảm mạnh qua các năm từ 55.052 lao động năm 2005 còn 51.19 năm 2008, giảm 3.862% lao động (tương ứng với 5.2%) so với năm 2005. Ngược lại lao động CN-TTCN và dịch vụ lại tăng nhanh, năm 2005 lao động CN-TTCN là 12.8 lao động, đến năm 2008 là 22.7 lao động, tăng 9.21 lao động tương ứng với 171.95% so với năm 2005. lao động dịch vụ tăng 8.098 lao động tương ứng với 145.69%. Qua đó cũng phản ánh được sự phát triển của ngành nghề TCN của huyện trong các năm qua. Bảng 3.2 Tình hình dân số, lao động huyên Ân Thi (2005-2008) Chỉ tiêu ĐVT Năm So sánh 2008/2005 2005 2006 2007 2008 (+, - ) (%) BQ (%) 1. Tổng số hộ 1.1 Hộ nông nghiệp 1.2 Hộ phi nông nghiệp Trong đó: Hộ nghề TCN hộ hộ hộ hộ 35.373 19.051 16.322 7.472 36.022 17.051 18.025 6.124 37.546 15.750 21.796 40.142 14.440 25.102 4.769 -4.611 8.780 113,48 75,80 153,79 4,84 4,23 5,36 2.Tổng số nhân khẩu 2.1 Theo giới tính: - Nam - Nữ 2.2 Theo khu vực: - Thành thị - Nông thôn Khẩu Khẩu Khẩu Khẩu Khẩu 160.581 80.261 80.240 12.470 148.411 161.388 81.120 80.268 13.108 148.280 161.750 81.320 80.450 17.150 144.600 161.948 81.515 80.433 20.632 141.316 13.368 891 193 8.162 7.095 100,85 101,101 100,24 165,45 95,22 4,65 4,66 4,65 5,49 4,57 Tổng số lao động 3.1 Lao động nông nghiệp 3.2 Lao động CN-TTCN 3.3 Lao động dịch vụ Lao động Lao động Lao động Lao động 85.577 55.052 12.8 17.725 87.122 55.001 13.2 18.921 95.100 54.89 18.9 21.31 99.023 51.19 22.01 22.823 13.446 -0.862 9.21 8.098 115,71 92.98 171.95 145,69 4,87 -2,28 4,89 4,82 Một số chỉ tiêu bình quân/ hộ 4.1 Số nhân khẩu bình quân/ hộ 4.2 Số lao động bình quân/ hộ Khẩu/hộ Lđ/hộ 4,54 2.42 4.48 2.42 4.31 2.43 4,03 2.32 -0,51 0,1 88,76 95,7 0,79 0,46 3.1.2.3. Đặc điểm cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất - Cấp điện: Huyện có đường dây cao thế với tổng chiều dài 114,4km, trong đó đường dây 35KV là 64,5km, đường dây 10KV là 49,9km; có 80 trạm biến áp, trong đó có 38 trạm biến áp 35/0,4KV, có 41 trạm biến áp 10/0,4KV, 1 trạm biến áp 35/10KV. Đường dây trung thế dài 114 km và hàng trăm km đường dây hạ thế khác. Tổng số trạm biến áp của lưới điện Ân Thi là 79 trạm/86 máy biến áp với tổng dung lượng 22.345 KVA. - Cấp nước: Hệ thống cấp nước của huyện nhìn chung còn thiếu, huyện có 2 trạm cấp nước sạch cho nhân dân 2 khu vực xã Hồng Quang và thị trấn Ân Thi, còn chủ yếu dùng giếng khoan  nước ngầm để cung cấp nước sinh hoạt. Nước tự nhiên, nước sông ngòi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. - Giao thông: Huyện Ân Thi được chia cắt làm 4 phần theo hình chữ thập bởi 2 tuyến đường quốc lộ 38 và tỉnh lộ 200.  Hiện nay, huyện quản lý 56,6 km đường với các tuyến đường như: đường 38B, đường 200B, 200C, 200D, đường đê 199. Đã rải nhựa 19,8km, đá cấp phối 30,5km. Hệ thống đường liên xã, liên thôn dài 452 km được nối với các trục đường liên tỉnh, liên huyện được rải bằng vật liệu cứng là 187,6 km (đạt 41,5%). Hệ thống đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải được xây dựng hoà cùng hệ thống sông ngòi của huyện, tạo thành mạng lưới thuỷ nông, giao thông thuận tiện cho việc phát triển kinh tế. - Thông tin liên lạc: Toàn huyện có 300km cáp các loại với 4 tổng đài, 17 bưu điện văn hoá xã. Các dịch vụ bưu chính viễn thông như vận chuyển bưu phẩm, bưu kiện, chuyển tiền, chuyển phát nhanh,... phát triển tương đối nhanh và đa dạng, chất lượng ngày càng được nâng cao, tổng số máy điện thoại thuê bao đến tháng 6/2004 đạt 3.874 máy, bình quân 2,9 máy/100 dân. - Y tế: Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, các mặt văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, dân số KHHGĐ triển khai có hiệu quả. Đến năm 2003 huyện Ân Thi tiếp tục duy trì và nâng cấp  bệnh viện  trung tâm thị trấn  với 90 giường bệnh, 1 trạm khám đa khoa khu vực, 21 trạm y tế xã, thị trấn, mỗi trạm có 4 - 7 giường bệnh. - Giáo dục đào tạo: Bũng có bước phát triển về quy mô, chất lượng. Huyện đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, hoàn thành phổ cập giáo dục THCS (2002). Huyện có 4 trường đạt chuẩn quốc gia.  Các hoạt động văn hoá, thể thao có chuyển biến tiến bộ, đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân được nâng lên. - Văn hoá: Đến hết năm 2003 toàn huyện có 47 làng văn hóa và 24.100 hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hoá. Công tác đền ơn đáp nghĩa được quan tâm chú trọng, đã  xây mới hàng trăm nhà tình nghĩa tặng cho các đối tượng chính sách. Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn dưới 10%. 3.1.2.3. Tình hình phát triển về kinh tế (Biểu 3.3) Trước kia huyện Ân Thi được coi là một huyện đồng bằng độc canh cây lúa, nhưng trong những năm gần đây toàn Đảng toàn dân đã cùng dốc sức để thoát nghèo từ một vùng nông thôn thuần tuý. Cho đến nay toàn huyện đã có bộ mặt phát triển hoàn toàn mới, với lợi thế vị trí tự nhiên thuận lợi cho phát triển các ngành dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp nên toàn huyện đã phát huy được lợi thế so sánh của mình, cụ thể là: Công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp Huyện đã khuyến khích, quy hoạch và phát triển các cụm công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, hỗ trợ đầu tư để khôi phục nghề truyền thống, phát triển làng nghề, mở rộng tổ chức các HTX mới. Tập trung đầu tư các ngành kinh tế mũi nhọn như: cơ khí, vật liệu xây dựng, may mặc, thêu ren xuất khẩu, chế biến lương thực thực phẩm. Quy hoạch một số cơ sở chế biến thức ăn gia súc tổng hợp để phát triển đàn gia súc, gia cầm. Đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, tăng thu nhập, góp phần ổn định trật tự xã hội ở địa phương. Căn cứ tiềm năng đất đai, lao động kêu gọi các doanh nghiệp vào địa bàn đầu tư xây dựng một số cơ sở sản xuất công nghiệp như: giày da, may mặc xuất khẩu, hoặc chế biến nông sản thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng... Thương mại, dịch vụ Đã củng cố và phát triển để hệ thống thương nghiệp quốc doanh vươn lên chiến lĩnh thị truờng, đáp ứng nhu cầu phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân địa phương. Đồng thời thúc đẩy đa dạng hóa các hoạt động thương mại-dịch vụ, đưa một số sản phẩm nông nghiệp như lúa, dưa chuột tham gia xuất khẩu.Tiếp tục đổi mới phương thức phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của huyện. Nông nghiệp, thủy sản Toàn huyện đã tập trung chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp theo hướng ổn định sản xuất lương thực là trọng tâm, chuyển diện tích trong cây lúa năng suất thấp, bấp bênh kém hiệu quả sang trồng cây có giá trị kinh tế cao. Đưa nhanh giống lúa có năng suất cao, chất lượng tốt và sản xuất, tăng diện tích cây vụ đông hàng năm lên 50% diện tích canh tác. Đến năm 2008 toàn huyện có khoảng 180 trang trại, trong đó có 30% trang trại đạt tiêu chí của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Kết quả phát triển kinh tế của Huyện được thể hiện qua bảng 3.3 Tổng giá trị sản xuất của Huyện không ngừng tăng lên qua các năm, năm 2005 tổng giá trị sản xuất là 2.810.150 triệu đồng, đến năm 2008 là 3.412.844 triệu đồng, tăng 602.694 triệu đồng tương ứng với 121,42% so với năm 2005, bình quân giá trị sản xuất mỗi năm tăng 4,95% Đóng góp lớn nhất cho tổng giá trị sản xuất của huyện là ngành CN- TTCN, năm 2009 là 1.819.572,13 triệu đồng, so với năm 2005 giá trị sản xuất ngành CN- TTCN tăng 571.466,37 triệu đồng tương ứng là 131,41% và là ngành có tốc độ tăng hàng năm cao nhất là 5,08%. Trong khi đó ngành nông nghiệp, thuỷ sản có giá trị sản xuất nhỏ nhất trong các ngành, giá trị sản xuất năm 2008 là 3.412.844 triệu đồng, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 3,73%. Nguyên nhân chính là do chính sách chuyển đổi cơ cấu kinh tế nên đất nông nghiệp bị mất nhiều diện tích để chuyển đổi sang phục vụ các khu, các cụm công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng. Bảng 3.3 Kết quả phát triển kinh tế huyên Ân Thi (2005-2008) Chỉ tiêu ĐVT Năm So sánh 2008/2005 2005 2006 2007 2008 (+, - ) (%) BQ (%) 1. Tổng giá trị sản xuất 1.1 Ngành nông nghiệp, thuỷ sản - Nông nghiệp - Ngành thuỷ sản 1.3 Ngàng CN- TTCN 1.4 Ngàng dịch vụ Tr. đ Tr. đ Tr. đ Tr. đ Tr. Đ 2.810.150 424.572,65 403.116,02 4.424,06 1.819.572,13 566.245,23 2.954.370 363.978,38 342.139,68 21.838,70 1.954.315,76 636.075,86 3.190.177 295.091,37 271.484,06 26.607,31 2.178.890,89 716.194,74 3.412.844 233.097 207.456,55 25.640,70 2.391.038,51 788.708,25 602.694 191.235,40 403.115,50 4.424,06 571.466,38 222.463,02 121,45 54,93 120,85 51,86 131,41 139,29 4,95 3,8 4,94 3,73 5,08 5,18 2. Chỉ tiêu bình quân 2.1 Tổng GTSX/ hộ 2.2 Tổng GTSX/ khẩu 2.3 Tổng GTSX/lđ Tr. đ/hộ Tr. đ/khẩu Tr. đ/lđ 79.44 17.49 32.84 86.62 19.21 35.81 90.02 21.10 37.44 97.47 22.43 39.51 18.03 4.94 6.67 122,69 128.24 120,31 4,97 5,04 4,94 Qua số liệu về cơ cấu giá trị sản xuất theo các ngành thì chúng ta thấy đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế qua các năm theo hướng tăng dần tỷ trọng CN- TTCN và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, thuỷ sản. Để thấy rõ được hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế này được thể hiện qua biểu đồ 3.1 Biều đồ 3.1 cơ cấu kinh tế huyện Ân Thi, Hưng Yên (2005-2008) Qua biểu đồ 3.1 cho ta thấy cơ cấu kinh tế của huyện trong những năm qua chuyển dịch theo hướng CN, TTCN- Dịch vụ- Nông nghiệp. Trong đó giá trị ngành CN- TTCN có cơ cấu lớn nhất trong các ngành, từ 64,75% năm 2005 tăng lên 70,06% cơ cấu kinh tế của huyện. Giá trị sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản có ccơ cấu giảm dần, năm 2005 chiếm 15,01% thì đến năm 2008 chiếm chỉ còn 6,83% cớ cấu giá trị sản xuất của toàn huyện. Ngành dịch vụ cũng có tốc độ tăng trưởng về giá trị sản xuất qua các năm, cơ cấu kinh tế đứng thứ hai sau ngành CN- TTCN, cơ cấu giá trị sản xuất tăng từ 20,15% năm 2005 lên 23, 11% năm 2008. 3.2 Phương pháp nghiên cứu 3.2.1 Phương pháp Thu thập số liệu ._.n khó có thể đảm bảo cuộc sống của người dân. Tuy nhiên các nghề truyền thống trong huyện đã góp phần lớn vào việc giải quyết việc làm cho bà con trong huyện, người nông dân có làm việc trong thời gian rảnh rỗi lúc không phải mùa vụ, ngoài ra nghề còn tạo công ăn việc làm lúc trưa, chiều nắng, lúc mưa bão không ra đồng được. Với các nghề truyền thống của huyện người nông dân trong huyện hoàn toàn yên tâm với những việc làm có thể tranh thủ được mọi lúc để nâng cao thu nhập và đời sống của mình. Như vậy nghề truyền thống trong địa bàn huyện đã góp phần lớn vào giải quyết việc làm khi diện tích đất canh tác rất it và góp phần nâng cao thu nhập hộ người nông dân. 4.6.2 Vấn đề về xã hội Nhờ tạo việc làm cho người lao động đã góp phần hạn chế các tai nạn, tệ nạn xã hội tại địa phương. Tình hình an ninh trật tự tại thôn xóm luôn được bảo đảm, người dân cần cù, tu chí tạo dựng cuộc sống. Hiện nay toàn huyện có 100% hộ gia đình có giếng khoan, dùng nước sạch trong sinh hoạt, với 100% hộ gia đình có ti vi, hơn 95% hộ có xe máy, đường làng ngõ xóm 100% được trải vật liệu cứng. Mặc dù đời sống vật chất của người dân chưa giàu có, dư giả nhưng với nhịp độ phát triển như hiện nay thì tỷ lệ hộ giàu có trong làng ngày càng phát triển 4.6.2 Vấn đề về môi trường Hiện nay trong toàn huyện vấn đề ô nhiễm môi trường do các nghề sản xuất truyền thống chưa đến mức báo động. Tuy nhiên, nghề Kim hoàn hàng ngày các hộ sử dụng máy phân kim cũ kỹ, lạc hậu, lượng kim loại tạp chất và hoá chất được thải ran nay trong nơi chế tác mà chưa có biện pháp xử lý thích hợp, người thợ thủ công vẫn nghiễm nhiên tiếp xúc rực tiếp với những hoá chất độc hại đó mà không có bất cứ một phương tiện bảo hộ lao động nào như mũ và khẩu trang. Đối với nghề bánh đa cac hộ sử dụng bếp than lớn cho làm bánh, gần khu vực các hộ làm bánh đa thì không khí rất ngột ngạt, khó chịu trong khi đó người dân xung quanh vẫn phải chịu hàng ngày. Đối với nghề nón các hộ làm trắng lá phải hơ lá nón trên hơi diêm sinh bốc ra, do vậy vấn đề ô nhiễm không khí cũng được đặt ra cho nghề này, đòi hỏi các hộ phải có biện pháp tự xử lý để đảm bảo sức khoẻ của chính bản thân mình, đồng thời các cấp, các ngành phải có biện pháp quy hoạch thật kịp thời và hợp lý. Với những vấn đề nêu trên nếu toàn huyện không có biện pháp can thiệp kịp thời, đúng lúc thì vấn đề ô nhiễm môi trường sẽ trở thành mối quan tâm cho toàn xã hội. 4.7 Những thuận lợi và khó khăn trong phát triển các nghề 4.7.1 Những thuận lợi Huyện Ân Thi là huyện cuả tỉnh Hưng Yên, là huyện giáp với thủ đô, gần các quốc lộ 5, là nơi có thể nói là cầu nối giữa các khu vực kinh tế phát triển ở bắc bộ. Do có vị trí thuận lợi như vậy nên Ân Thi rất thuận tiện trong việc trao đổi giao lưu hàng hoá nên sản xuất ở đây có điều kiện để phát triển, tạo nhiều công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho toàn dân trong huyện. Sản phẩm nghề truyền thống của Ân Thi có nghề trạm bạc, vàng là nghề sản xuất ra các sản phẩm là các đồ trang sức như dây chuyền, vòng xuyến, nhẫn... Đây là những sản phẩm thích hợp với cuộc sống hiện đại sang trọng nên sản phẩm có xu hướng, tương lai được người tiêu dùng đón nhận nhiều hơn. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong huyện được đầu tư xây dựng tương đối khang trang, đầy đủ, giao thông nông thôn phát triển tạo điều kiện cho việc giao lưu phát triển kinh tế xã hội của huyện. Dân cư là đồng bằng thuần nông, có thói quen chăm chỉ, chịu khó chịu khổ, ham làm giàu, họ đã giữ gìn và phát huy được nghề truyền thống để góp phần phát triển kinh tế phục vụ đời sống của mình. Việt Nam đã là một thành viên chính thức của WTO nên cơ hội được lĩnh hội công nghệ hiện đại để kết hợp với công nghệ truyền thống, cơ hội để quảng bá sản phẩm truyền thống, thu hút vốn đầu tư vào địa phương là rất lớn. Trong thời gian vừa qua Đảng và nhà nước vừa có nhiều chính sách nhằm khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống nên đây cũng là cơ hội để huyện có thêm được điều kiện để đầu tư cho sản xuất 4.7.2 Những khó khăn. * Đối với nghề Kim hoàn Trước hết là về mặt nguyên liệu: nguồn vàng, bạc, đồng thu mua trôi nổi trên thị trường, không ổn định, xăng ga tăng cao ảnh hưởng lớn đến giá thành sản phẩm. Nhiều khi do hợp đồng đã ký, cơ sở phải chấp nhận hòa vốn, thậm chí là lỗ. Việc dạy nghề, truyền nghề lấy nòng cốt gia đình, cha truyền con nối là chủ yếu, chưa có điều kiện hình thành các lớp dạy tập trung cho thợ trẻ nên trình độ không đồng đều, những kỹ xảo tinh hoa độc đáo, bí truyền dễ bị mai một.Đây lại là mặt hàng lưu niệm, không phải là sản phẩm tiêu dùng thiết yếu, tiếp cận thị trường khó khăn, nên đơn đặt hàng không đều, dẫn đến việc không chủ động trong sản xuất. Trình độ văn hoá, chuyên môn của người lao động trong nghề ở huyện Ân Thi là rất thấp. Trình độ mặt bằng chung là mới hết cấp 2, số người có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghệ nhân thợ giỏi đặc biệt là trình độ kỹ sư tốt nghiệp đại học không có nên hạn chế khả năng áp dụng các kỹ thuật mới vào sản xuất. Để có năng lực hoạt động, đầu tư cho sản xuất, mở rộng thị trường thì đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn tuy cái khó ở đây do vốn ít nên làm ăn cò con, vả lại, người nông dân lại chưa biết tiếp thị, quảng cáo.Nhà nước và chính quyền địa phương không có chính sách cho vay ưu đãi đối với nghề này. Do vậy vấn đề đầu tư máy móc, trang thiết bị còn nhiều hạn chế, sản xuất thủ công là chính. Quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ chủ yếu là hình thức hộ gia đình nhỏ lẻ, các hình thức khác thì hầu như không có.Sản phẩm còn mang tính đơn điệu, ít sản phẩm.Thị trường tiêu thụ sản phẩm còn nhiều hạn chế vì sản phẩm của huyện chưa đủ sức để có thương hiệu trên toàn quốc và trên thế giới. Tuy sản phẩm đã được xuất khẩu sang một số nước nhưng với số lượng rất ít và sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại khác như Kim hoàn của Đồng Xâm Thái Bình… Các sản phẩm thường sản xuất cung cấp cho các cửa hàng vàng bạc trong tỉnh và ngoại tỉnh.Tuy nhiên vốn bị đọng lại tại các cửa hàng rất nhiều nên đây là một khó khăn cho việc sử dụng vốn của các chủ cơ sở. * Đối với nghề thêu ren và nghề nón lá Hai nghề này đang có xu hướng đi xuống vì do nhu cầu tiêu dùng của xã hội đang hướng đến những sản phẩm sản xuất bằng những công nghệ hiện đại, sản xuất được hàng loạt, sản phẩm có nhiều mẫu mã, giá cả lại rẻ. Đặc biệt là với cuộc sống công nghiệp hiện đại đang xâm nhập vào các vùng nông thôn thì nón lá không còn là sản phẩm thích hợp để tiêu dùng nữa. Do vậy hai nghề này đang gặp rất nhiều khó khăn. * Đối với nghề bánh đa: Nghề này cũng đang có xu hướng đi xuống rất nhanh vì hiện nay các sản phẩm công nghiệp rất nhiều hơn nữa đời sống của dân chúng ngày càng được nâng lên nên nhu cầu về sản phẩm này ngày càng giảm. 4.8 Đánh giá chung về vấn đề phát triển các nghề truyền thống Hiện nay tại Ân Thi số nghề truyền thống không nhiều, các nghề hiện đang tồn tại đều là những nghề được du nhập từ các nơi khác trong vòng vài chục năm gần đây, tuy nhiên hiện nay do được sự quan tâm đúng mức của các cấp, các ngành và của lãnh đạo địa phương nên các nghề truyền thống phát triển tương đối mạnh mẽ, góp phần lớn vào việc cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập của người dân trong toàn huyện, đặc biệt là người dân xã Phù Ủng nhờ phát triển nghề kim hoàn mà người dân giàu lên trông thấy, bộ mặt của toàn xã được thay đổi hoàn toàn. Tuy các nghề truyền thống có bước phát triển mạnh nhưng sự phát triển này vẫn chưa tương xứng với khả năng của nó, sự quan tâm của các cấp chính quyền vẫn chưa được triệt để, điều này được thể hiện: Thứ nhất là về vốn cho các cơ sở nghề: Tình trạng thiếu vốn xảy ra phổ biến ở các hộ sản xuất, đặc biệt là đối với hộ làm nghề kim hoàn thì lượng vốn cần là rất lớn có hộ vốn cần lên đến tỷ đồng trong khi đó nguồn vay ngân hàng lại rất hạn chế và vô cùng khó khăn. Tình trạng vốn thiếu dẫn đến việc đầu từ công cụ, trang thiết bị phục vụ sản xuất là rất khó khăn, thiếu công cụ sản xuất, công cụ sản xuất cũ kỹ lạc hậu vẫn được sử dụng, không có điều kiện để thay đổi điều này ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản sản xuất. Thứ hai là về trình độ văn hoá của lao động trong các nghề còn thấp, tỷ lệ thợ giỏi, có tay nghề và thợ được đào tạo còn ít. Trình độ văn hoá thấp dẫn đến tình khả năng tiếp thu những sang tạo trong công việc, thích ứng với cuộc sống năng động và những điều này ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất. Thứ ba về nguyên liệu đầu vào cho sản xuất: Vấn đề nguyên liệu đầu vào cho các hộ hầu hết còn bếp bênh, thiếu ổn định về số lượng và về giá cả, thị trường cùng cấp nguyên liệu còn hạn chế, các hộ chưa chủ động tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào mà vẫn còn phụ thuộc vào các mối giao hàng truyền thống. Thứ tư là về thị trường tiêu thụ sản phẩm: Các hộ sản xuất phải tự tìm kiếm thị trường, khách hàng do vậy thị trường tiêu thụ hết sức nhỏ hẹp, số lượng tiêu thụ ít và thương hiệu sản phẩm chưa có. Trong thời đại thông tin, việc tìm hiểu thông tin thị trường là rất phổ biến và dễ dàng nhưng đối với các hộ sản xuất nghề truyền thống trong huyện lại là việc xa vời, khó tiếp cận. Thứ năm về diện tích đất dùng cho các hộ sản xuất còn chật hẹp, bình quân diện tích có khoảng 30m2/hộ nghề. diện tích đất đai ít ảnh hưởng rất lớn đến việc đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hộ. Thứ sáu là sự quan tâm của các cấp chính quyền đến sự phát triển của các nghề chưa sâu, chưa có sự lên tiếng kêu gọi các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, hỗ trợ, chưa có ý tưởng thành lập các phòng ban, hiệp hội giúp đỡ các hộ sản xuất về vấn đề nghiên cứu thị trường, nguyên liệu đầu vào, vốn.. 4.9 Định hướng và những giải pháp chủ yếu phát triển nghề truyền thống ở huyện Ân Thi 4.9.1 Căn cứ đề ra phương hướng - Một thực tế tại tất cả các vùng nông thôn nói chung và huyện Ân Thi nói riêng là hiện nay đất sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do tốc độ đô thị hoá, trong khi đó các nghề truyền thống sẽ giải quyết được việc làm cho các lao động trong lúc nông nhàn, tăng thu nhập cho người nông dân góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn huyện Ân Thi. Do vậy việc phát triển các nghề truyền thống là một trong những hướng giải quyết tích cực trong quá trình đô thị hoá nông thôn. - Căn cứ vào nhu cầu thị trường, thị phần tiêu thụ sản phẩm của các nghề truyền thống có tiềm năng mở rộng trong thời gian tới. - Chủ trương của Đảng bộ và UBND tỉnh Hưng Yên và huyện Ân Thi cũng đã xác định rõ. Trong những giai đoạn tiếp theo tập trung và phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, một nền kinh tế đa ngành nghề phát triển nghề truyền thống là một trong những mũi nhọn kinh tế. - Chủ trương của Đảng và nhà nước về công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, đòi hỏi phải phát triển ngành nghề nói chung và nghề truyền thống nói riêng là cấp bách, là nhiệm vụ kinh tế xã hội của toàn đảng toàn dân. Từ những thuận lợi và khó khăn đã đặt ra trong việc phát triển các nghề truyền thống thì đây đựợc coi là những căn cứ quan trọng trong việc đề ra các phương hướng để phát triển các nghề truyền thống trên địa bàn huyện. 4.9.2 Định hướng phát triển nghề truyền thống ở huyện Ân Thi Để thúc đẩy mạnh phát triển các nghề truyền thống chúng ta cần có những định hướng chiến lược thật rõ ràng, phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể. Định hướng phát triển tổng quát kinh tế-xã hội của huyện Ân Thi là thoát khỏi tình trạng một huyện nghèo, thuần nông, độc canh cây lúa.Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ thương mại, giảm dần khoảng cách chênh lệch GDP bình quân đầu người so với mức bình quân trong tỉnh và khu vực, tạo tiền đề cơ bản cho quá trình phát triển vào những năm sau.Phấn đầu GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 540 - 580 USD. Nhịp độ tăng trường kinh tế thời kỳ năm 2006 - 2010 đạt khoảng 12%/năm. Để thực hiện được định hướng chung như trên thì riêng đối với các nghề truyền thống có các định hướng cụ thể như sau: - Củng cố các nghề truyền thống hiện có như nghề kim hoàn xã Phù Ủng, Nghề nón lá Mão Cầu, Thuê ren xã Ngũ Lão, Bánh đa Gạo Trà Phương. - Thực hiện triển khai khu công nghiệp làng nghề Phù Ủng - Chú trọng phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm sang các nước bạn như Lào, Campuchia, Thái Lan cho nghề kim hoàn. - Khôi phục lại thị trường xuất khẩu hàng thuê ren áo Kimono sang thị trường Nhật Bản và Trung Quốc. - Chú trọng việc hỗ trợ vốn cho các cơ sở sản xuất, đặc biệt là đối với các sơ sở làm chế tác vàng, bạc. 4.9.3 Mục tiêu phát triển các nghề truyền thống đến năm 2020 Căn cứ vào thực trạng phát triển của các nghề tại huyện Ân Thi, căn cứ phương hướng phát triển các nghề trong huyện tôi mạnh dạn đề ra mục tiêu cho phát triển các nghề đến năm 2020 thể hiện ở bảng 4.16. Đến năm 2020 thì khu quy hoạch nghề kim hoàn 2ha chắc chắn sẽ hoàn thành, đồng thời các doanh nghiệp đã và sẽ thành lập sẽ đi vào hoạt động và cộng thêm với các chính sách hỗ trợ cho khôi phục và phát triển các nghề truyền thống thì các nghề trong huyện sẽ có điều kiện để phát triển và thu hút thêm nhiều lao động hơn. Dự kiến đến năm 2020 số lao động sản xuất nghề sẽ có khoảng 14.500.000lao động, tăng 2.800 lao động so với năm 2008. Mỗi hộ xây mới thêm một nơi khoảng 30m2dành riêng cho sản xuất nghề, như vậy bình quân mỗi hộ sẽ có diện tích khoảng 61,2m2 dùng cho sản xuất nghề. Giá trị sản xuất tăng 1.5 lần, tức là tăng lên bình quân từ 310.025trđ/năm lên tới 450.375trđ/năm Thu nhập bình quân/1 lao động cũng tăng, bình quân một năm từ năm 2005-2008 mỗi lao động làm trong nghề có thu nhập bình quân là 0.625 trđ/tháng, năm 2020 khoảng 1.55trđ/1lao động nghề, trong đó nghề kim hoàn có thu nhập cao nhất là bình quân 2.1 trđ/1lđ Bảng 4.17 Mục tiêu phát triển các nghề của huyện Ân Thi đến năm 2020 Các chỉ tiêu chính ĐVT BQ năm (2005-2008) Mục tiêu năm 2020 Tổng số Nghề kim hoàn Nghề nón lá Nghề thêu Nghề bánh đa 1. Số lượng lao động trong các nghề Người 11.375.000 14.500 8.000 3.000 2.000 1.500 2. Diện tích đất cho CN-TTCN m2 31.2 - 61.2 61.2 61.2 61.2 3. Giá trị sản xuất CN-TTCN Tr. đ 310.025 450.375 215.727 94.330 16.250 124.068 4. Thu nhập BQ/1lao động Tr. đ 0.625 1.55 2.1 1.5 1.3 1.3 4.9.4 Những giải pháp chủ yếu phát triển nghề truyền thống ở huyện Ân Thi * Tăng cường đầu tư vốn cho sản xuất Hiện nay nhu cầu về vốn cho các nghề truyền thống đang rất cấp bách, đặc biệt là đối với nghề chế tác kim hoàn. Thực tế cho thấy các nguồn vốn để cung cấp cho các nghề còn rất hạn chế, sự thiếu vốn thường xuyên diễn ra do khả năng tích luỹ để đầu tư phát triển sản xuất của các cơ sở còn thấp, đồng thời khả năng tiếp cận các nguồn vốn chính thức hay bán chính thức còn rất hạn hẹp. Các nguồn vốn của các cơ sở sản xuất thường chủ yếu là vốn tự có và vốn vay của các đối tượng khác như vay người thân,chơi họ... trong khi đó nguồn vốn vay của ngân hàng thường rất ít và theo chủ các cơ sở cho biết thì khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng là rất khó khăn. Do vậy, để tháo gỡ vấn đề về vốn hiện nay thì nhà nước cần có chính sách: - Mở rộng và phát triển hệ thống ngân hàng phục vụ cho các cơ sở nghề, cho các chủ cơ sở được vay vốn với lãi suất ưu đãi.Ngoài hệ thống các ngân hàng nên phát triển mạnh các quỹ tín dụng nhân dân. - Thực hiện đơn giản hoá các thủ tục cho vay trung hạn và dài hạn, điều chỉnh lại mức vốn và thời hạn cho vay phù hợp với từng đối tượng và từng chu kỳ sản xuất ra sản phẩm.Việc vay vốn để mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, hiện đại hoá trang bị máy móc đầu tư xử lý môi trường phải được ưu tiên hàng đầu trong chính sách cho vay vốn. - Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng để tạo điều kiện cho hộ và các cơ sở sản xuất vay vốn phát triển sản xuất và giải quyết một phần những khó khăn khi thế chấp cho vay vốn. - Khuyến khích các tổ chức như: Hội phụ nữ, thanh niên, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể khác đứng ra bảo lãnh cho các hộ làm nghề được vay vốn đầu tư cho sản xuất. * Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các nghề: Thị trường bao giờ cũng là căn cứ ban đầu của phát triển sản xuất và là tiêu điểm hướng tới các nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Tuy nhiên tình hình thị trường tiêu thụ của các nghề truyền thống hiện nay tuy đã có những bước phát triển hơn hẳn so với thời kỳ trước song thực tế vẫn còn mang tính tự phát và thiếu ổn định, gây ảnh hưởng trực tiếp đến tới sản xuất. Đặc biệt là đối với nghề thêu ren trước đây còn có thị trường nước ngoài xong hiện nay chỉ còn bó hẹp ở thị trường trong nước, đối với nghề kim hoàn tìm kiếm thị trường mới thực sự là vấn đề khó khăn do chưa có thương hiệu sản phẩm nên chưa được mọi người trong nước và trên thế giới biết đến. Để mở rộng thị trường cho các nghề truyền thống trong huyện Ân Thi hiện nay cần có các giải pháp đó là: - Tăng cường khả năng tiếp cận thị trường trong nước và thị trường quốc tế thông qua hình thức quảng cáo, triển lãm, hội chợ. Tổ chức nghiên cứu, nắm bắt và cung cấp thông tin về thị trường, trong đó bao gồm những thông tin về hàng hoá, chất lượng và giá cả hàng hoá, khách hàng và điều kiện mua bán của khách hàng, phương thức mua bán và thị hiếu của người tiêu dùng. - Chính quyền địa phương phải có chính sách giúp đỡ để tạo thương hiệu sản phẩm cho nghề kim hoàn - Đối với nghề thuê ren phải có biện pháp tìm được mối quan hệ để lấy lại được thị trường thêu áo Kimono Nhật bản và Hàn quốc. - Tiềm năng xuất khẩu sang các nước bạn láng giềng như nước Lào, Campuchia... của sản phẩm nghề kim hoàn là rất lớn. Do vậy các chủ sơ sở phải tích cực nghiên cứu thăm dò để tìm hiểu thị trường, chính quyền địa phương nên tổ chức cho các chủ cơ sở sản xuất giỏi đi thực tế sang các nước bạn để tìm hiểu nhu cầu thực tế của họ để từ đó có được những sản phẩm cung ứng cho phù hợp với nhu cầu, với phong tục tập quán của khách hàng. - Nhà nước có những chính sách hỗ trợ ứng khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm để sản phẩm được thị trường chấp nhận. * Đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý và nâng cao tay nghề của người lao động của các nghề. Qua khảo sát thực tế cho thấy lao động trong các nghề truyền thống trong huyện vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng và chất lượng. Đa số lao động có trình độ văn hóa thấp (hầu hết chỉ mới tốt nghiệp hết cấp một và cấp hai). Nhiều người chưa qua đào tạo, bồi dưỡng một cách bài bản mà chủ yếu là chỉ mới qua một thời gian ngắn học việc. Đối với nghề chế tác kim hoàn thì lao động có tay nghề trong địa bàn huyện là rất ít mà chủ yếu các chủ sơ sở phải thuê ở các tỉnh khác do vậy vấn đề tim lao động có tay nghề cho các chủ cơ sở nhiều khi rất khó khăn. Do vậy để đáp ứng vấn đề lao động cả về số lượng và chất lượng là rất khó khăn cần có hưởng giải quyết và cụ thể đó là: - Nâng cao trình độ dân trí và trình độ học vấn cho người lao động trong các nghề truyền thống. Hiện nay trên địa bàn huyện việc bỏ học của các em học sinh vẫn còn rât phổ biến. Do vậy cần cần phải có được sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình, phải có những chính sách phù hợp của nhà nước và địa phương để các em học sinh trong huyện tránh bỏ học sớm. - Mở rộng quy mô và đa dạng hoá các hình thức dạy nghề.Cải tiến chương trình và tổ chức lại hệ thống các trường dạy nghề. Ngoài các tổ chức, các trung tâm dạy nghề trong tỉnh, cần có cơ sở đào tạo dành riêng cho cha các nghề thông qua các lớp tập huấn tại địa phương. Thông qua các cơ sở này nhà nước có sự hỗ trợ về đội ngũ cán bộ giảng dạy và nội dung trương trình. Kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành thực tế tại các cơ sở nghề, giữa truyền nghề trực tiếp với đào tạo cơ bản. - Vấn đề đào tạo phải gắn với giải quyết việc làm, tránh đào tạo tràn lan như hiện nay, vấn đề thừa thầy thiếu thợ vẫn còn phổ biến. Ngoài ra nhà nước nên miễn phí cho những người học nghề ở các trường mà trực tiếp làm việc cho các cơ sở sản xuất thuộc các nghề truyền thống. - Chú trọng quan tâm tới đội ngũ cán bộ quản lý trong các cơ sở nghề, giúp họ có kiến thức, kỹ năng quản lý tốt. Muốn vậy địa phương nên có những buổi tổ chức mời các chuyên gia giỏi về địa phương để tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức về quản lý, kiến thức về kinh tế thị trường cho đội ngũ cán bộ, cho các chủ cơ sở sản xuất. Nội dung đào tạo cần đặc biệt quan tâm đến việc phổ biến kiến thức pháp luật có liên quan đến tổ chức sản xuất kinh doanh, kinh doanh các sản phẩm thuộc các nghề truỳên thống. - Nhận thức rõ vai trò của các nghệ nhân, các thợ giỏi.Phải có những chính sách ưu đãi thích hợp đối với hai đối tượng trên. Huyện nên trao giấy chứng nhận và có những phần thưởng thích hợp đối với những nghệ nhân và thợ giỏi. * Tìm nguồn cung ứng nguồn nguyên liệu tốt nhất với giá thích hợp nhất cho các cơ sở sản xuất - Đôi với nghề chế tác vàng bạc thì nguồn nguyên liệu đầu vào tương đối khó khăn vì hiện nay giá cả vàng bạc trên toàn thế giới nói chung là không ổn định gây rất nhiều khó khăn cho các cơ sở sản xuất. Với giá có xu hướng ngày càng tăng thì các chủ cơ sở nên có những biện pháp huy động vốn để dự trữ hàng. - Đối với nghề nón lá thì nguồn nguyên liệu hiện nay mới chỉ lấy chủ yếu ở phú thọ Do vậy cần mở rộng thị trường cung cấp khác như:…. - Đối với nghề thêu ren thì vải do các khách hàng giao còn chỉ và kim nhập chủ yếu tại Trung Quốc, tuy nhiên cũng phải chú ý đến vấn đề về chất lượng. * Tăng cường nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ cho các nghề sản xuất truyền thống. Hiện nay công nghệ sản xuất của các nghề truyền thống thường còn rất lạc hậu đã làm giảm chất lượng, mẫu mã và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Trước nhu cầu phát triển của sản xuất, sức ép của thị trường và nền kinh tế hội nhập, sự đổi mới công nghệ đã trở thành nhu cầu bức thiết đảm bảo sự tồn tại và phát triển của các cơ sở sản xuất. Vì vậy tăng cường nghiên cứu ứng dụng tiến bộ công nghệ mới cho các nghề là một trong những nhiễm vụ ưu tiên hàng đầu. Bên cạnh đó việc nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ mới phải được thực hiện kết hợp với kỹ thuật công nghệ truyền thống, nhằm tạo nên một hệ thống kỹ thuật linh hoạt thúc đẩy nhau phát triển, đảm bảo cho các sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Để đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất cần có sự hỗ trợ vốn ban đầu cho những cá nhân hay tập thể có đề tài nghiên cứu phục vụ việc đổi mới công nghệ trong các nghề. Bên cạnh đó địa phương cũng cần có cơ chế, chính sách ưu đãi để thu hút các nhà khoa học tích cực nghiên cứu, sáng chế các thiết bị, máy móc phục vụ cho các nghề truyền thống. * Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng Việc xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ sẽ có tác dụng kích thích phát triển của các nghề truyền thống. Nhìn chung kết cấu hạ tầng trên địa bàn huyện Ân Thi tương đối phát triển so với mặt bằng chung của toàn tỉnh. Tuy nhiên để đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của toàn huyện thì vấn đề xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng cần chú ý những điểm sau: - Đối với hệ thống đường giao thông: Về cơ bản trên địa bàn toàn huyện đã được đầu tư tương đối lớn, hầu như các đường liên thôn, liên xã đã được bê tông hoá.Tuy nhiên còn có một số trục đường vẫn chưa được làm mới và đang bị xuống cấp trầm trọng, một trong số đó là các trục đường thuộc thôn Huệ Lai, xã Phù Ủng. Thôn Huệ Lai là nơi tập chung 99% hộ và một số công ty TNHH làm nghề kim hoàn. Để làm được các trục đường này đòi hỏi phải có sự góp sức của chính quyền địa phương va nhân dân cùng làm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở nghề. - Phát triển mạng lưới cung cấp điện: Hiện nay các nghề trong huyện đã được cấp điện phục vụ chiếu sáng và sản xuất. Tuy nhiên vấn đề về cung cấp điện còn tồn tại đó là: + Lượng điện phục vụ cho sản xuát và sinh hoạt còn thiếu, cắt điện luân phiên thường xuyên diễn ra làm cho cớ sở sản xuất bị ngừng trệ sản xuất. + Giá điện còn quá cao so với các hộ không sản xuất nghề. Với những vấn đề trên thì nhà nước nên có những chính sách cho phù hợp đó là: + Nhà nước nên có chính sách ưu đãi về giá điện cho các cơ sở nghề, coi các cơ sở nghề là đối tượng được ưu tiên không phải chiụ chi phí điện là điện kinh doanh như hiện nay. + Nhà nước có chính sách quản lý, đầu tư xây dựng các công trình khai thác điện sao cho toàn dân nói chung có đủ điện dùng không bị cắt điện, gây khó khăn trong sản xuất. - Phát triển hệ thống thông tin liên lạc: Hiện nay hệ thống thông tin liên lạc nói chung tương đối phát triển với giá cả tương đối thích hợp. Để hệ thống thông tin liên lạc góp phần tích cực hơn trong hoạt động của các nghề thì nhà nước và chính quyền địa phương nên tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở nghề có điều kiện để giới thiệu sản phẩm của mình trên mạng Internet, phục vụ đắc lực cho sản xuất kinh doanh hiệu quả. * Giải pháp về môi trường Như đã trình bày ở phần trên về vấn đề môi trường thị ở Ân Thi hiện nay việc giải quyết vấn đề về môi trường là vấn đề cần thiết và bức xúc. Theo tôi để giải quyết về vấn đề môi trường cần có các giải pháp sau: - Thực hiện quy hoạch tổng thể cho phát triển các nghề truyền thống: Quy hoạch phát triển các nghề sản xuất truyền thống có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nông thôn mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Việc quy hoạch tổng thể cho sản xuất nhằm đạt được hiệu quả cả về mặt kinh tế và kiểm soát được môi trường nhưng vẫn giữ được đặc trưng truyền thống của các nghề. Đối với nghề kim hoàn đã có vạch ra quy hoạch 2ha cho nghề này tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa thực hiện. Do vậy Huyện Ân Thi nên sớm có biện pháp để vùng quy hoạch này nhanh chóng được thực hiện. - Áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất: Khoa học - công nghệ là một trong những biện pháp quan trọng để đạt được mục tiêu nâng cao năng xuất lao động, bảo đảm chất lượng sản phẩm và cải thiện môi trường. + Đối với nghề chế tác kim hoàn hiện nay các chủ cơ sở chủ yếu là sử dụng máy cũ làm cho chất lượng sản phẩm không được tốt, hơn thế máy cũ làm cho tỷ lệ hao hụt vàng bạc nhiều và gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn + Đối với nghề bánh đa hiện nay các hộ vẫn sử dụng bếp than là chính, vì vậy các chủ hộ nên chuyển sang bếp ga hoặc bếp điện.Tuy chi phí có cao hơn nhưng sẽ không làm ảnh hưởng đến chính sức khoẻ của mình và sản phẩm được làm nhanh hơn, với số liệu nhiều hơn. - Nâng cao ý thức cho người dân trong bảo vệ môi trường. Xuất phát từ trình độ và ý thức của người dân còn lạc hậu, thấp kém nhiều khi chỉ chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt mà không chú ý đến vấn đề môi trường và sức khoẻ, vì vậy đây là một trong những giải pháp cần được coi trọng. Trước hết nên cung cấp thông tín đầy đủ và thường xuyên về vấn đề cấp thiết trong lĩnh vực môi trường, giới thiệu luật và chính sách bảo vệ môi trường, hiện trạng ô nhiễm môi trường và hậu quả của nó đối với sức khoẻ con người. Làm rõ quyền lợi, trách nhiệm và khả năng xua người dân đối với vấn đề bảo vệ môi trường. Đồng thời tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho các cán bộ phụ trách môi trường ở làng nghề để nâng cao trình độ nhận thức cũng như năng lực xử lý ô nhiễm do sản xuất gây ra. PHẦN V: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 Kết luận Phát triển nghề truyền thống được coi là một trong những chính sách kinh tế quan trọng của nhà nước, một hướng đi đúng đắn và cần thiết trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Thông qua việc phát triển các nghề truyền thống sẽ góp phần lớn vào việc tạo việc làm cho lao động dư thừa trong nông thôn, góp phần nâng cao thu nhập cải thiện đời sống của dân cư nông thôn. Ngoài ra phát triển nghề truyền thống còn góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và trật tự an toàn xã hội. Số lượng các nghề truyền thống trong địa bàn huyện là ít, tỷ lệ số hộ và người lao động làm việc trong các nghề truyền thống là rất thấp (tỷ lệ số hộ chiếm 26,01% tổng số hộ trong toàn huyện và tỷ lệ lao động chiếm 11,82% tổng số lao động toàn huyện. Xong các nghề vẫn đóng góp được vai trò to lớn của mình trong việc tạo việc làm, nâng cao mức sống của người dân trong huyện và góp phần hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Khi nền kinh tế thế giới được hội nhập và cơn khủng hoảng tài chính vừa đi qua thì các nghề truyền thống của huyện bị gặp rất nhiều khó khăn và thách thức, số hộ và số lao động làm việc trong các nghề truyền thống bị giảm đáng kể. Trong quá trình phát triển cho đến nay các nghề vẫn còn gặp nhiều khó khăn đó là về: Vốn dùng cho sản xuất, về chất lượng và tay nghề cho người lao động, công nghệ sản xuất, thị trường tiêu thụ sản phẩm và nguồn nguyên liệu đầu vào. Vấn đề ô nhiễm môi trường chưa đến mức báo động, xong cũng đã đến lúc cần được quan tâm giải quyết để tránh tình trạng ô nhiễm nặng xảy ra ảnh hưởng đến người dân địa phương và toàn xã hội. Sự quan tâm của nhà nước và chính quyền chưa được triệt để, sự kêu gọi đầu tư cho phát triển các nghề chưa có, quy hoạch phát triển nghề đã được đề ra nhưng nhiều năm nay vẫn chưa được thực hiện. 5.2 Kiến nghị 5.2.1 Đối với nhà nước Nhà nước cần phải có chính sách cụ thể cho hỗ trợ phát triển các nghề, đặc biệt là có những biện pháp cụ thể cho việc triển khai và thực hiện quy hoạch phát triển các nghề. Kết hợp với địa phương tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng nông thôn. Thực hiện đồng bộ chính sách thị trường,hỗ trợ, mở rộng thị trường cho các nghề. 5.2.2 Đối với chính quyền địa phương Có biện pháp liên kết với hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng để các hộ nghề vay vốn được dễ dàng. Tổ chức các buổi hướng dẫn, đào tạo nghề cho các nghề Hình thành các cơ quan chuyên môn cung cấp thông tin về thị trường cho các nghề Có những tham mưu cho lãnh đạo huyện về quy hoạch phát triển nghề, những hỗ trợ kịp thời cho phát triển nghề khi cần thiết 5.2.3 Đối với các hộ sản xuất nghề Các hộ phải năng động hơn trong việc tìm hiểu thị trường tiêu thụ sản phẩm và thông tin khách hàng. Tăng cường đầu tư trang thiết bị, máy móc phục vụ cho sản xuất. Tích cực học hỏi, nâng cao trình đội văn hoá và trình độ tay nghề. Tranh thủ sự hỗ trợ của địa phương, của nhà nước về mọi mặt Bố trí sử dụng nguồn lực hiện có cũng như các nguồn lực được hỗ trợ một cách đầy đủ và hợp lý. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCHKT09024.doc
Tài liệu liên quan