Nghiên cứu thống kê biến động lao động có việc làm ở Việt Nam giai đoạn 1996 - 2001

Lời cảm ơn Luận văn “Nghiên cứu thống kê biến động lao động có việc làm ở Việt Nam giai đoạn 1996 - 2001” được hoàn thành tại Bộ môn Lý thuyết thống kê - Khoa Thống kê - Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Trong quá trình thực hiện tác giả nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo Khoa Thống kê - Trường Đại học Kinh tế quốc dân và Viện Khoa học lao động - Bộ Lao động thương binh và xã hội. Nhân dịp này tác giả xin chân thành cảm ơn Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Ngọc Phác, Thạc sỹ Phạm Đại

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu thống kê biến động lao động có việc làm ở Việt Nam giai đoạn 1996 - 2001, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đồng cùng các thầy cô giáo Khoa Thống kê, Khoa Sau đại học - Trường Đại học Kinh tế quốc dân đã dành thời gian công sức để thực hiện bản luận văn này. Xin chân thành cảm ơn Viện Khoa học lao động, Thư viện Viện Khoa học lao động đã cung cấp số liệu để tác giả thực hiện tốt bản luận văn của mình. Hà Nội, tháng 10 năm 2003 Mục lục Trang Danh mục bảng Trang Bảng 31: Biến động lao động có việc làm giai đoạn 1996-2001 56 Bảng 3-2: Cơ cấu lao động có việc làm theo nhóm tuổi. 57 Bảng 3-3: Lao động có việc làm theo trình độ học vấn, 1996 – 2001. 58 Bảng 3-4: Lao động có việc làm theo trình độ Chuyên môn kỹ thuật (CMKT), 1996 – 2001. 59 Bảng 3-5: Cơ cấu lao động các vùng kinh tế theo CMKT giai đoạn 1996 - 2001. 61 Bảng 3-6: Lao động có việc làm chia theo nhóm ngành kinh tế giai đoạn 1996 - 2001 62 Bảng 3-7: Cơ cấu lao động có việc làm theo ngành kinh tế. 63 Bảng 3-8: Lao động có việc làm theo thành phần kinh tế giai đoạn 1996-2001. 64 Bảng 3-9: Cơ cấu lao động có việc làm theo thành phần kinh tế giai đoạn 1996-2001. 65 Bảng 3-10: Cơ cấu lao động có việc làm theo vùng kinh tế giai đoạn 1996 - 2001 66 Bảng 3-11: Vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội (theo giá so sánh năm 1994). 67 Bảng 3-12: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội chia theo các ngành bình quân năm thời kỳ 1996 - 2001. 68 Bảng 3-13: So sánh mức đầu tư vốn bình quân/LĐ giữa các khu vực kinh tế. 69 Bảng 3-14: Quy mô lao động xuất khẩu qua các năm. 71 Bảng 3-15: Số lao động có việc làm được tạo ra trong khu vực FDI. 73 Bảng 3-16: Hệ số sử dụng lao động trong các ngành xuất khẩu. 75 Bảng 3-17: Tình hình thực hiện vốn ODA qua các năm. 77 Bảng 3-18: Dự đoán lao động có việc làm của cả nền kinh tế. 78 Bảng 3-19: Dự đoán số lao động có việc làm của ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp 79 Bảng 3-20: Dự đoán số lao động có việc làm ngành Công nghiệp- Xây dựng: 80 Bảng 3-21: Dự đoán số lao động có việc làm ngành Dịch vụ và các ngành khác. 80 Phần Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Bước vào thập kỷ 90 của thế kỷ 20, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta khá hơn, nhu cầu lao động tăng lên, sức ép việc làm có giảm xuống nhưng vẫn còn gay gắt đặc biệt là từ năm 1997 đến nay. Vì vậy giải quyết việc làm cho người lao động là mục tiêu quan trọng của mỗi quốc gia, đó cũng là mục tiêu hàng đầu mà các nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX và chương trình quốc gia giải quyết việc làm đã đề ra. Để đạt được các mục tiêu về lao động, việc làm một cách hiệu quả đòi hỏi chúng ta phải có đầy đủ các thông tin để đánh giá thực trạng về việc làm. Những thông tin này chỉ có thể có được thông qua hệ thống thống kê về việc làm. Mặt khác, để có cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện chính sách việc làm cũng cần có những thông tin chi tiết về tình hình lao động có việc làm ở từng khu vực, ngành nghề, địa phương. Những thông tin này chỉ có được qua công tác thống kê lao động việc làm như các báo cáo thống kê, điều tra thống kê, phân tích và dự báo thống kê về việc làm. Hiện nay trong xu thế toàn cầu hoá, việc mở rộng quan hệ với các quốc gia cũng như sự gia nhập các tổ chức quốc tế, đòi hỏi hệ thống thông tin thống kê về việc làm phải có những bước phát triển tương đồng, đây cũng là vấn đề mà tổ chức lao động quốc tế (ILO) quan tâm. Do vậy kết quả phân tích thống kê về việc làm sẽ là căn cứ quan trọng để nước ta tham gia phê chuẩn và thực hiện các công ước có liên quan, cung cấp thông tin trong lĩnh vực một cách chính xác, đầy đủ, hiệu quả, đồng thời là căn cứ quan trọng để Nhà nước đưa ra các quyết định đúng đắn, phù hợp với tình hình. Với các lý do trên tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu thống kê biến động lao động có việc làm ở Việt Nam giai đoạn 1996 - 2001”. 2. Mục đích nghiên cứu. - Trình bày khái quát những vấn đề lý luận về lao động có việc làm, nhằm khẳng định sự cần thiết khách quan của công tác thống kê lao động có việc làm. - Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê lao động có việc làm, đồng thời vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình biến động lao động có việc làm và dự báo cho thời gian tới. - Trình bày một số quan điểm, đề xuất các kiến nghị và giải pháp để giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng Nghiên cứu thống kê biến động lao động có việc làm ở nước ta, vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích biến động lao động có việc làm, một số nhân tố cơ bản tác động đến biến động lao đông có việc làm và dự báo số người có việc làm cho những năm tới. 3.2. Phạm vi Luận văn tập trung nghiên cứu vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích biến động lao động có việc làm và một số nhân tố cơ bản tác động đến biến động lao động có việc làm ở Việt Nam giai đoạn 1996 -2001. 4. Phương pháp Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp như: - Phương pháp biện chứng. - Phân tích hệ thống. - Các phương pháp thống kê (Phân tổ thống kê, hồi qui tương quan, phân tích và dự báo thống kê...). 5. Những đóng góp khoa học của luận văn - Hệ thống hoá và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về lao động có việc làm. - Làm rõ mối quan hệ giữa việc làm và các vấn đề kinh tế xã hội khác. - Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê lao động có việc làm, làm cơ sở để quản lý và giải quyết việc làm cho người lao động. - Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình lao động có việc làm ở Việt Nam giai đoạn 1996 - 2001. - Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp để nâng cao chất lượng lao động có việc làm. 6. Bố cục của luận văn Tên luận văn: “Nghiên cứu thống kê biến động lao động có việc làm ở Việt Nam giai đoạn 1996-2001”. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được cấu trúc thành 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về lao động có việc làm. Chương 2: Phương pháp nghiên cứu thống kê lao động có việc làm. Chương 3: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích biến động lao động có việc làm ở nước ta giai đoạn 1996 - 2001. Chương 1 Một số vấn đề lý luận cơ bản về lao động có việc làm 1.1. ý nghĩa của giải quyết việc làm đối với sự phát triển kinh tế xã hội. 1.1.1. Giải quyết việc làm đối với sự phát triển kinh tế. Lao động sống của con người có hai chức năng: di chuyển giá trị nguyên vật liệu, máy móc vào giá trị của hàng hoá và sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị chính bản thân nó. Vì vậy việc sử dụng tiềm năng lao động xã hội không phải chỉ duy trì giá trị sẵn có của xã hội mà còn làm gia tăng nhanh chóng tổng giá trị đó, do có giá trị mới được tạo ra. Giải quyết việc làm cho người lao động, bảo đảm khả năng lao động được đáp ứng là yêu cầu quan trọng nhất về mặt kinh tế để tăng tổng sản phẩm xã hội và đạt được tăng trưởng kinh tế. Lãng phí lao động là lãng phí lớn nhất vì: Thứ nhất: khả năng lao động đã được xã hội đầu tư ứng trước để nuôi con người từ lúc lọt lòng đến khi có khả năng lao động. Sự đầu tư ứng trước đó sẽ không được sử dụng nếu con người đến tuổi lao động mà không có việc làm. Thứ hai: mặc dù người lao động không có việc làm, không tạo ra giá trị nào cho xã hội song họ vẫn phải tồn tại, vẫn phải tiêu dùng một số lượng nhất định sản phẩm của xã hội để tồn tại. Do đó giải quyết việc làm cho người lao động là biện pháp góp phần tiết kiệm các nguồn lực xã hội, bảo đảm tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị- xã hội. 1.1.2. Giải quyết việc làm đối với sự phát triển xã hội: Tạo việc làm không chỉ có ý nghĩa đối với đời sống con người , tạo cho người lao động có điều kiện hoàn thiện mình mà còn tạo thêm nguồn thu cho ngân sách. Tạo việc làm không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn về mặt xã hội, đó là thực hiện công bằng xã hội, làm giảm bớt các tệ nạn xã hội như trộm cắp, cờ bạc, mại dâm, ma tuý... Một xã hội không giải quyết được việc làm cho người lao động, tỷ lệ người thất nghiệp cao là một trong những nguyên nhân của các tệ nạn xã hội. Rõ ràng tình trạng không có việc làm để tạo nguồn sống đã đẩy người thất nghiệp tới sự vi phạm pháp luật để bù vào phần thiếu hụt do không tìm được việc làm hợp pháp. Cũng có thể thấy rằng tình trạng không có những phương tiện sống do không có việc làm hoặc không có khả năng nhận được việc làm, đặc biệt đối với thanh niên, có tác động tiêu cực đối với tâm thần con người do bế tắc, chán nản. Những trạng thái này đẩy người thất nghiệp tới chỗ dùng ma tuý, mại dâm, cờ bạc, số đề…Từ đó tệ nạn xã hội gia tăng ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Tệ nạn xã hội thường rơi vào lứa tuổi thanh niên chưa có việc làm là nguyên nhân gây nên tội phạm, bệnh xã hội phát triển, lây nhiễm HIV/AIDS, gây thiệt hại nghiêm trọng về của cải vật chất, làm băng hoại đạo đức con người; suy thoái giống nòi; làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, gây mất an toàn xã hội và trật tự công cộng. Tệ nạn xã hội phát triển dẫn đến những hậu quả xã hội cực kỳ nghiêm trọng. Vì vậy, việc làm là vấn đề kinh tế xã hội bức xúc và nhạy cảm nhất, vì nó đã gõ cửa đến từng gia đình. Giải quyết việc làm cho người lao động không chỉ là sự cần thiết đối với bản thân người lao động mà còn là một đòi hỏi của sự ổn định xã hội, làm lành mạnh môi trường và các quan hệ xã hội. Một trong những vấn đề xã hội lớn nhất ở nước ta hiện nay là giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nhất là thanh niên. Bởi vậy, giải quyết việc làm cho người lao động nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tệ nạn xã hội. Ngoài ra, giải quyết tốt việc làm cho người lao động còn có liên quan chặt chẽ với việc thưch hiện nhiều chính sách kinh tế xã hội khác của Đảng và Nhà nước như: chính sách dân số, các chính sách về giáo dục, y tế, chính sách xoá đói giảm nghèo… 1.1.3. Giải quyết việc làm với nâng cao mức sống của người lao động. Nước ta là một trong những nước nghèo trên thế giới, thu nhập quốc dân bình quân đầu người còn thấp, vấn đề tích luỹ của nền kinh tế và người dân có hạn, nếu không nói là thấp. Do vậy số người có thu nhập thông qua các hoạt động như kinh doanh bất động sản, kinh doanh tiền…chỉ là số ít, đại bộ phận người lao động phải nhờ vào thu nhập từ việc làm để đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình mình. Nói cách khác chỉ có thông qua thu nhập từ việc làm thì người lao động mới có điều kiện để đảm bảo và cải thiện đời sống của mình, không còn con đường nào khác. Trong điều kiện là một nước có dân số trẻ, tỷ lệ phụ thuộc của dân số còn cao, cho nên để góp phần cải thiện đời sống của người dân cần phải tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao hiệu quả nền kinh tế để trên cơ sở đó nâng cao tiền lương, tiền công, tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động và giảm tỷ lệ phát triển dân số xuống mức hợp lý. Trong số các giải pháp để nâng cao đời sống của nhân dân thì giải pháp tạo việc làm cho người lao động được coi là giải pháp tích cực bền vững và có ý nghĩa về nhiều mặt. Giải quyết việc làm cho người lao động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, giảm tỷ lệ nghèo khổ, nâng cao thu nhập và mức sống của các gia đình làm mức tiêu dùng tăng lên, từ đó làm tăng mức cầu về hàng hoá và dịch vụ kích thích sự tăng trưởng về kinh tế, tăng thu cho ngân sách, góp phần làm giảm tội phạm, tệ nạn xã hội. 1.2. Các khái niệm cơ bản về lao động và việc làm. 1.2.1. Dân số. - Theo nghĩa rộng: dân số là tập hợp những người cư trú thường xuyên và sống trên một lãnh thổ nhất định (một nước, một vùng kinh tế, một đơn vị hành chính - lãnh thổ...) -Theo nghĩa hẹp: dân số là tập hợp người hạn định trong phạm vi nào đó (về lãnh thổ và xã hội...) và có một số tính chất gắn liền với sự tái sản xuất liên tục của nó. - Dân số trong độ tuổi lao động: là những người ở trong độ tuổi lao động theo qui định của luật pháp. Việt Nam hiện nay theo điều 6 và điều 145 Bộ luật lao động do Chủ tịch nước ký ban hành vào ngaỳ 05 tháng 7 năm 1994 qui định độ tuổi lao động là từ 15 đến 60 đối với nam, từ 15 đến 55 đối với nữ. 1.2.2. Dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế. 1.2.2.1. Dân số hoạt động kinh tế. Theo khuyến nghị của APR (Tổ chức khu vực châu á- Thái bình dương về điều tra dân số và nhà ở) thì dân số hoạt động kinh tế bao gồm những người có việc làm và những người thất nghiệp. Trong cuốn thực trạng lao động- việc làm năm 1996 đưa ra khái niệm sau: Dân số hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hay không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. + Dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động (lực lượng lao động trong độ tuổi lao động) bao gồm những người trong độ tuổi lao động (nam từ 15 - 60 tuổi, nữ 15 - 55 tuổi) đang có việc làm và không có việc làm nhưng có nhu cầu và sẵn sàng làm việc. + Dân số hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng qua là những người đủ 15 tuổi trở lên có tổng số ngày làm việc và ngày có nhu cầu làm thêm lớn hơn hoặc bằng 183 ngày. + Dân số hoạt động kinh tế không thường xuyên trong 12 tháng qua là những người đủ 15 tuổi trở lên có tổng số ngày làm việc và ngày có nhu cầu làm thêm nhỏ hơn hoặc bằng 183 ngày. Căn cứ vào tình trạng việc làm trong 12 tháng qua, dân số hoạt động kinh tế thường xuyên được chia làm hai loại: Dân số có việc làm thường xuyên: gồm những người thuộc bộ phận dân số hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng qua có tổng số ngày làm việc thực tế lớn hơn hoặc bằng tổng số ngày có nhu cầu làm thêm. Dân số có việc làm không thường xuyên: gồm những người thuộc bộ phận dân số hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng qua có tổng số ngày làm việc thực tế nhỏ hơn tổng số ngày có nhu cầu làm thêm. 1.2.2.2. Dân số không hoạt động kinh tế. Theo APR thì dân số không hoạt động kinh tế bao gồm những người từ 15 tuổi trở lên làm công việc nội trợ (nấu ăn, giặt giũ, trông trẻ…trong gia đình), đang đi học, mất khả năng lao động và những người có khả năng lao động nhưng không có nhu cầu làm việc và tình trạng khác. Trong cuốn thực trạng lao động- việc làm năm 1996 đưa ra khái niệm sau: Dân số không hoạt động kinh tế gồm toàn bộ số người từ đủ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm, những người này không hoạt động vì các lý do: đang làm công việc nội trợ cho bản thân gia đình mình, đang đi học, già cả ốm đau, tàn tật không có khả năng lao động và những người có khả năng lao động nhưng không có nhu cầu làm việc, những người nghỉ hưu trước tuổi theo qui định của Bộ luật lao động (tình trạng khác). 1.2.3. Nguồn lao động. Theo từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Liên Xô (cũ): Nguồn lao động là toàn bộ những người lao động dưới dạng tích cực (đang tham gia lao động) và tiềm tàng (có khả năng lao động nhưng chưa tham gia lao động). Theo từ điển thuật ngữ Pháp quan niệm nguồn lao động hẹp hơn, không gồm những người có khả năng lao động nhưng không có nhu cầu làm việc. Theo giáo trình kinh tế lao động của trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội thì khái niệm nguồn lao động là toàn bộ dân số trong độ tuổi trừ đi những người trong độ tuổi này hoàn toàn mất khả năng lao động. Với quan niệm như trên nguồn lao động sẽ không tính những người ngoài tuổi lao động đang thực tế làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Theo giáo trình thống kê lao động của trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội thì nguồn lao động là bộ phận dân số có khả năng lao động bao gồm cả những người đang làm việc hay không làm việc, bao gồm cả những người ngoài tuổi lao động thực tế đang làm việc. Nguồn lao động = Dân số trong tuổi lao động - Dân số trong tuổi lao động mất sức lao động + Dân số ngoài tuổi lao động thực tế đang làm việc Công thức 1-1: Nguồn lao động. 1.2.4. Lực lượng lao động. Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về lực lượng lao động: - Từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Liên Xô (cũ) (Matxcơva 1977, Tiếng Nga): Lực lượng lao động là toàn bộ những người lao động dưới dạng tích cực (đang tham gia lao động) và tiềm tàng (có khả năng lao động). Đây là khái niệm định lượng của nguồn lao động vì nó bao gồm những người không tham gia lao động như học sinh, người nội trợ… nhưng vẫn có khả năng tham gia lao động trong tương lai. - Từ điển thuật ngữ Pháp (1977-1985): Lực lượng lao động là số lượng và chất lượng những người lao động được quy đổi theo các tiêu chuẩn trung bình về khả năng lao động có thể sử dụng. - Một số giáo sư kinh tế học người Anh quan niệm: Lực lượng lao động là tất cả các cá nhân đang làm việc hoặc đang tìm kiếm việc làm. - Nhà kinh tế học Anh David Begg cho rằng “Lực lượng lao động có đăng ký bao gồm số người có công ăn việc làm cộng với số người thất nghiệp có đăng ký” - Theo quan niệm của ILO: Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi qui định (tuỳ thuộc từng nước) thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp. Các nước thành viên của tổ chức ILO về cơ bản đều thống nhất với quan niệm của ILO. Giữa các nước chỉ có sự khác nhau về độ tuổi qui định. ở đây có hai sự khác biệt. Khác biệt trong quy định về giới hạn tuổi tối thiểu, ví dụ: Braxin là 10 tuổi; ôxtralia là 15 tuổi; Mỹ là 16 tuổi. Hiện nay phần lớn các nước đã lấy tuổi tối thiểu là 15. Khác biệt thứ hai trong quy định giới hạn tuổi tối đa. Tuỳ theo tình hình phát triển kinh tế- xã hội của mỗi nước mà quy định tuổi tối đa. ở một vài nước công nghiệp như: Đan Mạch, Thuỵ Sỹ, Na Uy, Phần Lan qui định là 74 tuổi. Còn ở một số nước đang phát triển như: Ai Cập, Malaysia, Mêhicô quy định là 65 tuổi…các trị số tối đa về tuổi thường trùng với tuổi về hưu. Cơ sở thực tế để xác định giới hạn tuổi tối thiểu và tối đa của lực lượng lao động là: các nước thường dựa vào tuổi học sinh rời khỏi trường phổ thông để xác định tuổi tối thiểu và tuổi cao nhất quy định cho người được nghỉ hưu để xác định giới hạn tuổi tối đa. Hiện nay nhiều nước và ngay cả Tổ chức Lao động quốc tế đã không quy định giới hạn tuổi tối đa và để mở ở độ tuổi này. Riêng ở Ôtxtralia thì không qui định tuổi về hưu và cũng không có giới hạn tuổi tối đa. Sơ đồ 1.1: Cơ cấu về lực lượng lao động theo ilo. N E Dân số trong tuổi lao động quy định Có việc làm (b) Không có việc làm (c) Muốn làm việc Không muốn làm việc -Chủ động tìm việc. - Sẵn sàng tìm việc. Không chủ động tìm việc. Lực lượng lao động Không thuộc lực lượng lao động U N Trong đó: E: Người có việc làm. U: Người thất nghiệp. N: Người không tham gia hoạt động kinh tế. ở Việt Nam cũng có những quan niệm khác nhau về lực lượng lao động. Theo giáo trình kinh tế lao động của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, lực lượng lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp song đang có nhu cầu tìm việc làm. Những năm trước đây, theo Tổng cục Thống kê, khoảng tuổi có thể tham gia lực lượng lao động là từ 13 tuổi trở lên, do đó lực lượng lao động phân theo nhóm tuổi thường được chia thành ba nhóm tuổi chính: + Nhóm 1: Lực lượng lao động trẻ (gồm những người từ 13 đến 24 tuổi). + Nhóm 2: Lực lượng lao động trung niên (gồm những người trong khoảng từ 25 đến 59 tuổi). + Nhóm 3: Lực lượng lao động cao tuổi (gồm những người 60 tuổi trở lên đang làm việc trong các nghành kinh tế quốc dân). Hiện nay ở Việt Nam khi xác định tỷ lệ tham gia lực lượng lao động , trong “Hướng dẫn nghiệp vụ chỉ tiêu xã hội ở Việt Nam” của Tổng cục Thống kê, đã qui định: Lực lượng lao động là những người từ 15 tuổi trở lên có việc làm và không có việc làm (biểu thị dân số hoạt động kinh tế). Tuổi lao động đã qui định là nam đủ 15 đến 60 tuổi và nữ từ đủ 15 đến 55 tuổi , độ tuổi quy định cho lực lượng lao động là phù hợp với điều kiện tâm sinh lý tự nhiên của con người cũng như điều kiện về kinh tế - xã hội của người Việt Nam. Vì vậy, khi tính toán thống kê lực lượng lao động cần phải xác định cả cận trên đối với số thất nghiệp, và cận trên này lấy theo trị số tối đa của độ tuổi lao động. Từ đó lực lượng lao động được hiểu là gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp, hay lực lượng lao động đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế. So với trước đây ta thấy có sự khác nhau về giới hạn dưới của tuổi lao động. Khái niệm trên về cơ bản đã thống nhất với quan niệm của ILO cũng như qui định hiện nay của Tổng cục Thống kê về lực lượng lao động (tức là dân số hoạt động kinh tế), chỉ khác là những người thất nghiệp được tính vào lực lượng lao động chỉ giới hạn trong tuổi lao động chứ không nói chung là những người không có việc làm. Điều này cũng là hợp lý do những người ngoài tuổi lao động khả năng lao động đã suy giảm nhiều nên việc nghiên cứu nhu cầu lao động của nhóm này không quan trọng. Vì vậy khái niệm này đang được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sử dụng làm căn cứ tính toán Thống kê lao động ở Việt Nam. Sơ đồ 1.2: Cấu thành lực lượng lao động ở việt nam Dân số từ 15 tuổi trở lên Dân số có việc làm Việc làm ổn định (đầy đủ) Việc làm tạm thời (thiếu việc làm) Người có việc làm Người thất nghiệp Lực lượng lao động Dân số không thuộc lực lượng lao động Dân số không có việc làm Muốn tìm việc làm Không muốn tìm việc làm Số không hoạt động kinh tế thường xuyên Trong đó: +Việc làm ổn định là 12 tháng qua làm việc từ 6 tháng trở lên. Làm việc 6 tháng trong 12 tháng qua và sẽ tiếp tục làm việc đó ổn định. + Việc làm tạm thời là làm việc dưới 6 tháng trong 12 tháng qua, tại thời điểm điều tra đang làm một công việc tạm thời hay không có việc làm dưới 1 tháng. + Muốn tìm việc làm là có hoạt động tìm việc trong 7 ngày. +Số không hoạt động kinh tế: Học sinh, sinh viên; người nội trợ; người hưởng lương hưu; người mất khả năng lao động. 1.2.5. Việc làm: Việc làm là hoạt động lao động được thể hiên ở một trong 3 dạng sau: - Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật cho công việc đó. - Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân, bao gồm sản xuất nông nghiệp trên đất do chính thành viên đó sở hữu quản lý hay có quyền sử dụng. Hoặc hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hay từng phần. - Làm công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền công, tiền lương cho công việc đó, bao gồm sản xuất nông nghiệp trên đất do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ sở hữu, quản lý hay có quyền sử dụng hoặc hoạt động kinh tế do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ làm chủ hoặc quản lý. Khái niệm việc làm là tiền đề cơ bản giúp chúng ta nhận dạng và phân loại đối tượng một cách chính xác và thống nhất. Cho đến nay khái niệm việc làm đã có một số quan điểm chủ yếu sau: - Để bao quát tất cả các loại hình công việc khác nhau, khái niệm việc làm cũng được ILO định nghĩa rất rộng, định nghĩa này có liên quan tới khái niệm sản xuất được định nghĩa trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) của Liên hợp quốc: Bất cứ hoạt động nào nằm trong đường biên sản xuất SNA đều được coi là việc làm. Về cơ bản, định nghĩa này cũng thống nhất với định nghĩa việc làm được nêu trong Bộ Luật lao động của nước ta. - Theo Bộ Luật lao động Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, khái niệm việc làm được xác định là: “ Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Phân tích từ các quan điểm trên cho thấy: khái niệm việc làm bao hàm các nội dung sau: Là hoạt động lao động của con người; hoạt động lao động nhằm tạo ra thu nhập; hoạt động lao động đó không bị pháp luật cấm. Việc làm gồm: việc làm chính và việc làm phụ. Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất so với công việc khác. Việc làm phụ: là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất sau công việc chính. Nếu công việc chính và phụ có thời gian làm việc bằng nhau thì công việc có thu nhập cao hơn sẽ là công việc chính. 1.2.5.1. Người có việc làm. - Theo Viện nghiên cứu thị trường lao động và nghề nghiệp Cộng hoà Liên bang Đức (1995) thì người có việc làm được hiểu là người đang làm việc (kể cả người đang làm nghĩa vụ quân sự và những thành viên hộ gia đình tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ cùng gia đình mình) hoặc là những người tự tạo việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp hay là tiểu thủ công nghiệp, hoặc là những người làm nghề tự do. - Theo tài liệu của Cục thống kê Ôtxtralia, khái niệm người có việc làm được hiểu là người từ 15 tuổi trở lên mà trong tuần lễ điều tra: + Làm việc từ một giờ trở lên để hưởng tiền lương, tiền công hay lợi nhuận, tiền hoả hồng hoặc được trả bằng hiện vật trong một công việc hay một cơ sở kinh doanh nào đó hoặc trong nông trại (bao gồm những người làm công ăn lương, chủ việc làm và lao động tự hạch toán). + Làm việc từ một giờ trở lên không hưởng lương trong doanh nghiệp gia đình hoặc nông trại (có nghĩa là lao động tham gia của gia đình). +Là người làm thuê có việc làm nhưng không làm việc và đang nghỉ theo các dạng sau: . Nghỉ phép có lương hoặc nghỉ phép không có lương dưới bốn tuần tính đến thời điểm điều tra. . Nghỉ việc không có lương do thời tiết xấu hoặc do sự cố nhà máy tại nơi họ làm việc dưới bốn tuần tính đến thời điểm điều tra. . Tham gia đình công hoặc đóng cửa, được hưởng bồi thường theo luật định và đang chờ quay lại làm việc; . Đang đi học theo chế độ có hưởng tiền lương, tiền công; . Đang là chủ việc làm, lao động tự hạch toán hoặc lao động tham gia của gia đình có việc làm, chủ gia đình hoặc trang trại nhưng không làm việc. - Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13, các nhà thống kê về lao động của Tổ chức ILO đã đưa ra quan niệm về người có việc làm như sau: Người có việc làm là người làm một việc gì đó, có được trả tiền công, lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không nhận tiền công hay hiện vật. - Theo tài liệu “ Phân tích kết quả điều tra lao động- việc làm khu vực thành thị” 1997 thì khái niệm “Người có việc làm” được hiểu là những người từ đủ 15 tuổi trở lên mà trong tuần lễ trước khi điều tra người đó: + Đang làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật; + Đang làm các công việc kinh doanh hay sản xuất nông nghiệp cho hộ gia đình mình không nhận tiền lương, tiền công hay lợi nhuận; + Đã có việc làm trước đó, song trong tuần lễ điều tra tạm thời không làm việc và sẽ trở lại tiếp tục làm việc ngay sau thơì gian tạm nghỉ. Đó là những người: . Tạm thời nghỉ việc có hưởng lương hoặc không hưởng lương trong thời gian chưa đến 4 tuần tính cho đến thời điểm điều tra. . Tạm thời nghỉ việc trên 4 tuần và được hưởng lương suốt thời gian nghỉ việc hoặc hưởng một phần lương trong thời gian nghỉ và sẽ trở lại làm việc sau thời gian đó. - Qua các tài liệu trên, ý kiến của một số chuyên gia về lĩnh vực lao động, có thể thấy rằng về cơ bản các nước đều thống nhất với quan niệm của ILO về khái niệm “Người có việc làm”. Tuy nhiên tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi nước mà có những qui định riêng cho phù hợp như: + Thông tin về người có việc làm thường được thu thập từ các thời điểm điều tra nhưng chu kỳ điều tra lặp lại của mỗi nước lại khác nhau. Có nước điều tra một năm một lần như Ôtxtralia, có nước điều tra một quí một lần và tiến hành liên tục 8 quí liền trong hai năm như ở Anh. ở Việt Nam chưa có qui định về vấn đề này. + Về độ tuổi tối thiểu của người có việc làm, phần lớn các nước đều lấy người có độ tuổi từ 14-16; có một số nước như Ai Cập lấy từ 6 tuổi và Brazil từ 10 tuổi. + Về độ tuổi tối đa của người có việc làm, nhiều nước không qui định giới hạn. + Về thời gian làm việc của người có việc làm trong tuần tham khảo: ở Ôtxtralia, Nhật Bản và một số nước khác trong tuần lễ điều tra dù người đó chỉ làm việc 1 giờ trở lên cũng được tính là người có việc làm. Nếu trong tuần lễ điều tra người đó không làm việc do các nguyên nhân bất khả kháng, được hưởng lương hay không được hưởng lương nhưng sẽ tiếp tục trở lại làm việc sau thời gian nghỉ thì cũng được tính là người có việc làm. Trên thực tế, các nước vận dụng rất đa dạng và linh hoạt, chỉ tiêu thời gian làm việc; các nước thường căn cứ vào số liệu điều tra về giờ làm việc thực tế của lực lượng lao động để xử lý cho từng nhóm cụ thể. ở Mỹ người ta lấy mốc 15 giờ để xếp lao động gia đình không được trả công là người có việc làm. Phần lớn các nước không coi những người làm công việc nội trợ là người có việc làm, trừ khi những ngưòi làm công việc này được hưởng tiền lương hoặc tiền công. Đối với sinh viên, người đang đi học, nếu trong tuần lễ điều tra, họ có làm việc 1 giờ trở lên thì cũng được liệt kê là người có việc làm. Còn những người khác không làm việc để kiếm thu nhập thì không được liệt kê là người có việc làm. Dựa trên khái niệm tổng quát về người có việc làm của tổ chức lao động quốc tế ILO, khi thu thập thông tin về người có việc làm các nước đều đưa ra các điều kiện cụ thể về: Giới hạn thời gian làm việc; giới hạn về độ tuổi; những nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới tình trạng không làm việc trong tuần lễ điều tra nhưng họ sẽ tiếp tục trở lại làm việc sau thời gian nghỉ. Tổng hợp, phân tích kết quả điều tra lao động- việc làm hàng năm giai đoạn 1996 - 2001 ở Việt Nam do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội phối hợp với Tổng cục thống kê khái niệm người có việc làm như sau: “Người có việc làm là những người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, mà trong tuần lễ trước điều tra: - Đang làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật. - Đang làm công việc không được hưởng tiền lương, tiền công hay lợi nhuận trong các công việc sản xuất kinh doanh của hộ gia đình mình. - Đã có công việc trước đó song trong tuần lễ trước điều tra tạm thời không làm việc và sẽ trở lại tiếp tục làm việc ngay sau thời gian tạm nghỉ.” Mức chuẩn qui định cho người được coi là có việc làm trong tuần lễ tham khảo theo ILO là 1 giờ nhưng thực tế tuỳ theo vào trình độ phát triển, mức sống và khả năng tạo thu nhập của mỗi nước ở từng giai đoạn phát triển mà có sự điều chỉnh cho phù hợp. ở Việt Nam, do khả năng tạo thu nhập hay năng suất lao động còn thấp, nên việc xác định người có việc làm dựa trên mức sống tối thiểu cho các hộ nghèo đói đó là thu nhập trên ngưỡng nghèo đói được coi là có việc làm. Tính toán từ kết quả điều tra hộ gia đình 1999, một lao động muốn đảm bảo đủ cuộc sống tối._. thiểu phải làm khoảng 1 ngày trong tuần. Từ đó mức chuẩn qui định cho những người được coi là có việc làm trong tuần lễ tham khảo trước điều tra là 8 giờ. Với những người trong tuần lễ tham khảo không làm việc do các nguyên nhân bất khả kháng như đau ốm, thai sản, nghỉ phép… có hưởng lương và trước đó có làm việc không ít hơn 8 giờ trong 1 tuần và họ sẽ tiếp tục trở lại làm việc bình thường sau thời gian tạm nghỉ thì vẫn được tính là người có việc làm. Vì vậy, trong điều kiện Việt Nam khái niệm người có việc làm được hiểu như sau: “Người có việc làm là người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân, mà trong tuần lễ liền kề thời điểm điều tra (gọi tắt là tuần lễ tham khảo) có thời gian làm việc không ít hơn 8 giờ”. Tuỳ theo tình trạng việc làm và thời gian làm việc trong kỳ báo cáo hoặc trong tuần tham khảo người có việc làm được chia thành người có việc làm ổn định (đầy đủ) và người có việc làm tạm thời (thiếu việc làm) Người có việc làm ổn định là: + Những người trong 12 tháng làm việc từ 6 tháng trở lên. + Hoặc những người làm việc dưới 6 tháng trong 12 tháng và sẽ tiếp tục làm việc đó ổn định. 1.2.5.2. Người đủ việc làm. Trong phạm vi được coi là có việc làm, người đủ việc làm được quan niệm ngược lại với người thiếu việc làm. ở Việt Nam trong điều tra, tổng hợp, đánh giá thực trạng lao động - việc làm giai đoạn 1996 - 2001 đã sử dụng khái niệm người đủ việc làm như sau: Người đủ việc làm gồm những người có số giờ làm việc trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra lớn hơn hoặc bằng 40 giờ; hoặc những người có số giờ nhỏ hơn 40 nhưng không có nhu cầu làm thêm; hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 40 nhưng bằng hoặc lớn hơn giờ qui định đối với những người làm các công việc nặng nhọc độc hại theo qui định hiện hành . Mức giờ chuẩn qui định cho đủ việc làm trong điều tra lao động việc làm hàng năm ở Việt Nam [21]: - Làm việc 40 giờ ( 5 ngày) trở lên trong tuần lễ tham khảo; - Trong tuần lễ tham khảo không làm việc vì lý do bất khả kháng, nhưng trong 4 tuần trước đó làm việc 160 giờ (20 ngày) trở lên; - Làm việc dưới 40 giờ (5 ngày) trong tuần lễ tham khảo, hoặc trong tuần lễ tham khảo không làm việc vì lý do bất khả kháng, nhưng trước đó 4 tuần vẫn làm việc bình thường dưới 160 giờ (20 ngày) và sau đó lại đi làm việc bình thường, mà không có nhu cầu làm thêm. 1.2.5.3. Người thiếu việc làm. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì người thiếu việc làm là người trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức qui định chuẩn cho người có đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm và có đi tìm kiếm việc làm thêm. Người thiếu việc làm có hai dạng: Thiếu việc làm vô hình và thiếu việc làm hữu hình. - Người thiếu việc làm vô hình (dạng không nhìn thấy được) là người có thời gian làm việc tuy đủ hoặc vượt mức chuẩn qui định về đủ số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo nhưng việc làm có năng suất thấp, thu nhập thấp, công việc không phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ và họ có nhu cầu tìm kiếm việc làm thêm hoặc việc làm khác. - Người thiếu việc làm hữu hình (dạng nhìn thấy được) là người có việc làm nhưng số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo ít hơn mức qui định chuẩn và họ có nhu cầu làm việc thêm. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng khuyến nghị các nước nên dùng khái niệm người thiếu việc làm hữu hình (dạng nhìn thấy được) còn dạng người thiếu việc làm vô hình rất khó xác định. Việc qui định mức chuẩn về đủ số giờ làm việc trong tuần tham khảo tuỳ theo tình hình cụ thể của mỗi nước. Ví dụ: mức qui định chuẩn về đủ số giờ làm việc trong tuần tham khảo của một số nước như sau: . Êquađo, Nigiêria, Thổ Nhĩ Kỳ 40 giờ . Nhật Bản, Ôtxtralia 35 giờ . Canađa, Jamaica 30 giờ . Malaixia 25 giờ Theo một số chuyên gia về chính sách lao động việc làm thì: Người thiếu việc làm là những người đang làm việc có mức thu nhập dưới mức lương tối thiểu và họ có nhu cầu làm thêm. Qua đó chúng ta thấy nếu dựa cả vào yếu tố thu nhập và số giờ làm việc để xác định người thiếu việc làm là rất khó. Bởi vì trên thực tế khó mà xác định chính xác được mức thu nhập của đối tượng điều tra, hơn nữa có nhiều người trong tuần lễ tham khảo, tuy có số giờ làm việc trên 40 giờ, nhưng họ vẫn có nhu cầu làm thêm, vì thu nhập từ việc làm của họ thấp, không đảm bảo đủ sống tối thiểu. Vì vậy, khi xác định số người thiếu việc làm ở Việt Nam nên dựa vào khái niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đưa ra và cũng chỉ xác định người thiếu việc làm ở dạng nhìn thấy được, còn các trường hợp khác thì đưa vào nhóm có việc làm không ổn định. Để phục vụ cho công tác quản lý và hoạch định các chính sách về lao động- việc làm trong những năm tới chúng ta chỉ xem xét số người thiếu việc làm còn trong độ tuổi lao động và không tính những người nghỉ hưu trước tuổi theo qui định của Bộ Luật lao động. ở Việt Nam trong điều tra, tổng hợp, đánh giá thực trạng lao động - việc làm giai đoạn 1996 - 2001 đã sử dụng khái niệm người thiếu việc làm như sau: “ Người thiếu việc làm gồm những người trong tuần lễ tham khảo tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 40 giờ hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn giờ qui định đối với những người làm các công việc nặng nhọc, độc hại theo qui định hiện hành của Nhà nước; có nhu cầu làm thêm giờ và đã sẵn sàng làm việc nhưng không có việc để làm (trừ những người có số giờ làm việc dưới 8 giờ, có nhu cầu làm việc và đã sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc)”. Khái niệm trên cho thấy người thiếu việc làm là người có thời gian làm việc dưới 40 giờ (5 công) trong tuần lễ tham khảo hoặc trong tuần lễ tham khảo không làm việc vì lý do bất khả kháng, nhưng 4 tuần trước đó làm việc dưới 160 giờ (20 công) nhưng có nhu cầu làm thêm; giới hạn dưới là làm việc ít nhất 8 giờ/tuần. 1.2.5.4. Người thất nghiệp. - Khái niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) Hội nghị quốc tế thống kê lao động lần thứ 13 tại Geneva năm 1982 đã thống nhất khái niệm về thất nghiệp như sau: “Thất nghiệp bao gồm toàn bộ số người ở độ tuổi qui định mà trong suốt thời gian khảo sát đã: không có việc làm, có khả năng làm việc, đang đi tìm việc làm”. + Không có việc làm- nghĩa là đã không có bất kỳ một công việc được trả công hoặc công việc tự làm; + Hiện tại có khả năng làm việc- nghĩa là có khả năng làm bất kỳ một công việc được trả công hoặc công việc tự làm; + Đang đi tìm việc- nghĩa là trong thời gian khảo sát đã có những hoạt động tìm kiếm việc làm được trả công hoặc công việc tự làm; Khái niệm trên về cơ bản được sử dụng ở nhiều nước trong các cuộc điều tra lao động- việc làm. Tuy nhiên, giữa các nước đôi khi cũng có sự khác nhau về chuẩn tuổi và mức thời gian được coi là có việc làm. - Khái niệm của Việt Nam. Trong tài liệu “Sổ tay hướng dẫn Thống kê thị trường lao động ở Việt Nam” tháng 10 năm 1996 của Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội xác định: Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, trong tuần lễ tham khảo không có việc làm đang có nhu cầu tìm việc làm và có đăng ký tìm việc làm theo qui định. Trong cuộc điều tra mẫu quốc gia về lao động- việc làm hàng năm giai đoạn 1996-2001 do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Tổng cục Thống kê thực hiện xác định: “Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế (đồng nghĩa với lực lượng lao động) mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc; có hoạt động đi tìm việc làm trong 4 tuần qua hoặc không có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua vì lý do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm mãi mà không được; hoặc trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ, muốn và sẵn sàng làm thêm nhưng không tìm được việc”. Như vậy, người thất nghiệp là người hoàn toàn không làm việc hoặc có làm việc nhưng có số giờ dưới mức giờ chuẩn qui định cho người có việc làm- 8 giờ/tuần. Khái niệm về người thất nghiệp của Việt Nam về cơ bản là thống nhất với quan niệm của ILO. Tuy vậy, vẫn có một số khác biệt nhỏ, cụ thể là: + Người thất nghiệp ở Việt Nam không căn cứ vào có hay không có hoạt động đi tìm việc làm trong thời gian khảo sát mà căn cứ vào hai yếu tố cơ bản để xác định là: đang không có việc làm; có nhu cầu làm việc. + Về độ tuổi, cận dưới qui định từ đủ 15 tuổi còn cận trên không giới hạn mà căn cứ vào có hay không tham gia hoạt động kinh tế. - Phân loại: Tuỳ theo thời gian thất nghiệp liên tục, người thất nghiệp được chia ra: người thất nghiệp dài hạn và người thất nghiệp ngắn hạn. Người thất nghiệp dài hạn là người thất nghiệp liên tục từ 12 tháng trở lên tính từ ngày đăng ký thất nghiệp hoặc tuần lễ điều tra trở về trước. Người thất nghiệp ngắn hạn là người thất nghiệp dưới 12 tháng tính từ ngày đăng ký thất nghiệp hoặc từ tuần lễ điều tra trở về trước. 1.2.5.5. Người được giải quyết việc làm. Người được giải quyết việc làm là những người trong độ tuổi lao động mà trong 12 tháng qua kể từ thời điểm điều tra đã ký được hợp đồng lao động theo Bộ Luật lao động và những người tự tạo việc làm. 1.3. Các nhân tố tác động đến giải quyết việc làm cho người lao động. 1.3.1. Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12- 1986) đã nghiêm khắc tự phê bình những sai lầm chủ quan duy ý chí trên những chủ trương, chính sách lớn ở tầm chỉ đạo chiến lược trong xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, đồng thời đề ra đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định và phát triển. Tiếp đó, Đại hội VII, Đại hội VIII, Đại hội IX của Đảng đã tiếp tục phát triển, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối đổi mới do Đại hội VI khởi xướng. Những thay đổi hợp qui luật, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới và đã thu được những thắng lợi quan trọng. Từ chỗ chỉ coi những người lao động làm việc trong khu vực Nhà nước, trong các hợp tác xã là chủ thể của xã hội, đã thay bằng quan niệm mới, coi lao động có ích ở bất kỳ đâu cũng có giá trị, có vị trí xã hội như nhau. Điều này đã làm thay đổi cơ cấu lao động và sự chuyển dịch lao động tự do ở tất cả các thành phần kinh tế. Từ đó quan hệ lợi ích cũng có những thay đổi sâu sắc. Từ kiểu quan hệ lợi ích trên cơ sở chế độ công hữu và tập thể là chủ yếu đã chuyển sang quan hệ lợi ích mới từ kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế và đa dạng các hình thức sở hữu. Lợi ích cá nhân của người lao động được tôn trọng, coi đó là động lực và cơ sở của lợi ích xã hội. Trên lĩnh vực lao động việc làm đổi mới được thể hiện về thay đổi trong nhận thức, quan điểm, luật pháp, cơ chế quản lý kinh tế, tạo điều kiện và môi trường để phát triển kinh tế, phát triển thị trường lao động, mở rộng quyền làm việc và tự do lao động. Người lao động được xác định vào vị trí trung tâm, họ được quyền tự do và chủ động tự tạo việc làm cho mình và cho người khác trong các thành phần kinh tế, không bị phân biệt đối xử về chính sách chế độ, không thụ động trông chờ vào sự bố trí việc làm của Nhà nước. Đảng và Nhà nước rất coi trọng việc kích cầu sử dụng lao động, chuyển dịch cơ cấu, chất lượng lao động và giá cả sức lao động nhằm làm cho cung cầu lao động phù hợp với nhau. Cùng với tạo việc làm trong nước, chính sách xuất khẩu lao động và chuyên gia đã được coi trọng góp phần nâng cao tay nghề, kiến thức và kinh nghiệm quản lý, tăng thu nhập cho người lao động. Thực hiện chính sách tăng trưởng và phát triển kinh tế cao trên nền tảng giữ vững ổn định xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Chính sách của Đảng và Nhà nước đã hướng vào phát triển kinh tế với tốc độ cao, kiểm soát lạm phát, giải quyết việc làm, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ vững ổn định xã hội. Chính sách đó đã có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm. Đạt được nhịp độ tăng trưởng liên tục trong các năm 1986-2000 (bình quân 7% năm) là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển việc làm, giảm thất nghiệp. Tăng trưởng kinh tế bảo đảm cho nền kinh tế năng động hơn bởi vì có điều kiện để nâng cao tích luỹ nội bộ nền kinh tế cho đầu tư vào sản xuất kinh doanh và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao mức tiêu dùng của dân cư cũng như xuất khẩu là cơ sở để tạo việc làm. Từ năm 1991 đến năm 2001, số người có việc làm tăng từ 30,1 triệu lên 37,7 triệu, tăng 25,2%, hàng năm tăng khoảng 2,3%. Những năm gần đây, mặc dù số việc làm được tạo ra không ngừng tăng lên, nhưng tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn khá cao (chưa kể tình trạng thiếu việc làm) mà nguyên nhân là do sự phát triển số lượng và biến động nguồn lao động xã hội, đổi mới cơ cấu kinh tế và quản lý. Tăng trưởng kinh tế khá trong trong những năm qua ngoài tạo ra số việc làm mới còn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao động trong ngành sản xuất công nghiệp, xây dựng từ 11% lên 14,4%, lao động trong các ngành dịch vụ từ 20% lên 25,1% , giảm lao động nông- lâm-ngư nghiệp từ 69% xuống còn 60,5%. Như vậy chính sách tăng trưởng kinh tế thời kỳ 1986 - 2000 và việc xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa các nhân tố kinh tế và giữ vững ổn định xã hội đã có tác dụng cực kỳ quan trọng trong giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động. Phát triển mạnh kinh tế nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn: Xuất phát từ thực trạng mà nền kinh tế có trên 70% lao động xã hội sống ở nông thôn, tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn tương đương 30%- 35% quĩ thời gian làm việc (nếu qui đổi) thì bằng 1/3 số lao động nông nghiệp hiện có theo thống kê [2]. Để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã định hướng và đề ra giải pháp thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất hàng hoá, phát triển công nghiệp, dịch vụ nông thôn, thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động. cùng với các chính sách kinh tế khác, chính sách phát triển nông nghiệp- nông thôn đã tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích sử dụng có hiệu quả hơn các nhân tố sản xuất của nông thôn (lao động, vốn, đất đai…) góp phần cải thiện cơ cấu lao động nông thôn, giảm dòng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị, giảm bớt sức ép về việc làm ở khu vực thành thị, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Mở rộng kinh tế đối ngoại: Mở rộng kinh tế đối ngoại, phát triển một nền kinh tế mở, hoà nhập vào thị trường quốc tế, tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế là chính sách đúng đắn tạo điều kiện phát triển công nghiệp hiện đại và giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Thời kỳ 1991- 2000 đánh dấu những sự kiện lớn về đối ngoại: Việt Nam tham gia ASEAN; ký hiệp định khung hợp tác với EU; bình thường hoá quan hệ Việt- Mỹ. Đối ngoại thuận lợi tạo môi trường cho ngoại thương phát triển, kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng. Tăng nhanh giá trị xuất nhập khẩu đã tác động đến việc làm của hàng triệu người lao động làm các nghề công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Hàng hoá của Việt Nam có điều kiện vươn ra thị trường các nước trên thế giới, tạo mở việc làm ngày càng nhiều cho người lao động. Tăng cường kinh tế đối ngoại còn thúc đẩy chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư nước ngoài và thương mại để hiện đại hoá nền kinh tế, tạo khả năng hình thành lớp các nhà kinh doanh, nhà quản lý doanh nghiệp có kinh nghiệm trên thương trường quốc tế, đây là yếu tố quan trọng liên quan tới tạo việclàm mới, việc làm có thu nhập cao. Tác động của đổi mới cơ chế chính sách: Việc ban hành một loạt điều luật từ những năm 1991 đã tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi, khuyến khích các hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, tạo điều kiện cho việc thuê mướn, sử dụng lao động, thúc đẩy quan hệ lao động và thị trường lao động phát triển, mở ra khả năng mới giải phóng tiềm năng lao động và tăng số lao động có việc làm. Các qui định pháp luật chủ yếu có tác động trực tiếp đến việc làm bao gồm: Luật đất đai 1993; Luật khuyến khích đầu tư trong nước; Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài; Luật doanh nghiệp; luật thuế các loại; các qui định về lãi suất; Luật lao động. Các qui định pháp luật này thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh; phát triển việc làm dựa trên việcbảo đảm các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường; đảm bảo quyền sở hữu cá nhân, thù lao lao động theo giá trị sức lao động bỏ ra, có lợi cho kinh tế phát triển. 1.3.2.Tác động của các biện pháp giải quyết việc làm 1.3.2.1 Tác động của vốn đầu tư trong nước. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã có tác động lớn đến huy động vốn đầu tư từ nhiều nguồn cho đầu tư sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm. Trong 5 năm từ 1996- 2000 với chính sách đổi mới, các khu vực kinh tế đã thu hút được tổng số vốn rất lớn cho đầu tư phát triển, bao gồm: đầu tư của Nhà nước, tín dụng đầu tư Nhà nước và đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước, đầu tư tư nhân (kể cả đầu tư của hợp tác xã), nguồn vốn trong dân (vào thời điểm tháng 12 - 1995 là 25.000 tỷ đồng và Việt kiều hàng năm gửi về khoảng 600 - 700 triệu USD). Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển đã góp phần tạo ra nhiều chỗ làm việc giải quyết việc làm cho người lao động và bình quân mỗi năm giai đoạn 1996- 2000 nguồn vốn đầu tư trong nước tạo thêm khoảng 1 triệu chỗ làm việc. 1.3.2.2. Tác động của chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài là nhân tố mang tính chiến lược thúc đẩy đổi mới cơ cấu kinh tế, hiện đại hoá nền kinh tế, giải quyết việc làm. Từ năm 1996- 2000 những sửa đổi về thủ tục, ưu đãi ... thông thoáng hơn trong luật đầu tư nước ngoài, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân và tổ chức nước ngoài bỏ vốn làm ăn, quyền lợi kinh tế và tài sản của chủ đầu tư được bảo đảm, các quan hệ lao động được điều chỉnh hợp lý. Chính vì vậy mà đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế không ngừng được tăng lên, dẫn đến thu hút lao động vào khu vực này cũng ngày một tăng, nhưng lại chủ yếu là lao động thành thị (90%), còn lao động nông thôn được thu hút vào hoạt động cung ứng đầu vào, hoạt động xây dựng và dịch vụ có liên quan đến hoạt động của các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất… Thu hút lao động nhờ vốn đầu tư nước ngoài, không chỉ làm giảm sức ép việc làm của lao động thành thị mà còn tác động phát triển việc làm cho lao động nông thôn. 1.3.2.3. Tác động của chương trình quốc gia giải quyết việc làm. Các chương trình kinh tế tập trung hướng vào nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước, các chương trình việc làm thường chú trọng hơn tính xã hội. Nội dung của các chương trình việc làm là tiến hành các công việc tổ chức, hướng dẫn khuyến khích bằng các cơ chế chính sách và cơ chế phối hợp hành động để người lao động và các tổ chức kinh tế tạo lập chỗ làm việc mới cho người lao động yếu thế, phụ nữ. Sự sáng tạo trong tiến hành các chương trình việc làm trong thực tiễn đời sống của các cơ quan chức năng Nhà nước đã đem lại kết quả đáng kể trong giải quyết việc làm, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, góp phần ổn định tình hình kinh tế- xã hội của đất nước. Trong đó chương trình quốc gia giải quyết việc làm được triển khai thực hiện có kết quả với sự quan tâm của các ngành các cấp, sự hưởng ứng tích cực của các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể và bản thân người lao động. Quĩ quốc gia giải quyết việc làm được hình thành từ năm 1992 đến năm 2000 đã có khoảng 2000 tỷ đồng, đã tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm cho người lao động như hoạt động dịch vụ việc làm và tư vấn nghề nghiệp, cho vay vốn, đào tạo nghề …được đẩy mạnh. 1.3.2.4. Tác động của xuất khẩu lao động. Sự đổi mới cơ chế, chính sách đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài trong những năm 1996- 2000 theo hướng: Nhà nước chỉ quản lý quan hệ lao động xuất khẩu mang tính chất vĩ mô, các hoạt động khác liên quan đến đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài được coi như là các hoạt động của doanh nghiệp. Nhờ đó giai đoạn 1996- 2000 đã đưa được trên 100.000 lao động đi làm việc ở các nước: Hàn Quốc, khu vực Trung Đông, Nhật Bản và lãnh thổ Đài Loan. Ngoài ra còn duy trì chỗ làm việc cho hàng triệu lao động đang làm việc ở nước ngoài. Đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài không những tạo nên việc làm trực tiếp cho người lao động Việt Nam ở nước ngoài mà còn kéo theo giải quyết việc làm cho bộ máy quản lý kinh doanh hoạt động này (khoảng 500 người). Tạo việc làm cho giáo viên dạy tiếng nước ngoài, giáo viên các trường nghề. ở khía cạnh khác những người đi làm việc ở nước ngoài khi về nước có vốn, có tay nghề, trình độ tổ chức sản xuất, tác phong công nghiệp (nhờ tiếp xúc với quan hệ sản xuất công nghiệp) và có sự trợ giúp, hỗ trợ của Nhà nước, họ có điều kiện để tạo lập doanh nghiệp, thu hút lao động, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Bên cạnh các nhân tố tích cực, còn có một số nhân tố tiêu cực tác động làm giảm số lao động có việc làm. Đó là việc sắp xếp lại hoạt động của khu vực sản xuất kinh doanh Nhà nước, tinh giảm biên chế của bộ máy hành chính sự nghiệp: Thực hiện các quyết định 176 và 111/HĐBT trong các năm 1991,1992 khu vực sản xuất kinh doanh và hành chính sự nghiệp đã cho nghỉ việc khoảng 1 triệu người nhằm hoàn thiện tổ chức cơ chế và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu vực này. Quá trình này đã làm cho nhiều người bị mất việc làm, làm giảm số người có việc làm. Gia tăng dân số: mức tăng dân số ở nước ta đã giảm rõ rệt từ 2,3% năm 1991 xuống 1,7% năm 1999 là một thành tựu quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và giảm sức ép việc làm. Tuy nhiên mức tăng 1,7% vẫn còn khá cao, thực tế cho thấy không có quốc gia nào thực hiện công nghiệp hoá thành công trong 100 năm qua mà tốc độ tăng dân số lại vượt quá 1,1%. Lý do là 1% tăng dân số thì GDP phải tăng 4% và sẽ làm gay gắt thêm vấn đề giải quyết việc làm. Do vậy phấn đấu giảm mức tăng dân số là yếu tố quan trọng để giảm sức ép việc làm. Kết luận chương 1 Chương này phân tích và làm rõ ý nghĩa của giải quyết việc làm cho người lao động đối với phát triển kinh tế, giữ vững ổn định xã hội, giảm thiểu các tệ nạn xã hội và cải thiện, nâng cao thu nhập cho người lao động. Luận văn đã phân tích làm rõ các nhân tố tác động tích cực đến giải quyết việc làm cho người lao động như đường lối chính sách, các biện pháp giải quyết việc làm cho người lao động…; các nhân tố có ảnh hưởng tiêu cực đến giải quyết việc làm cho người lao động, như vấn đề tăng dân số, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước... Phân tích các khái niệm về lao động việc làm của các nước và Việt Nam, từ đó làm rõ những khác biệt mang tính đặc thù trong một số khái niệm đang dùng của Việt Nam với khái niệm của ILO và các nước, như qui định số giờ làm việc trong tuần tham khảo để được coi là có việc làm và không có việc làm. Luận văn khái quát những lý luận cơ bản về lao động và việc làm ở Việt Nam hiện nay làm tiền đề tiếp tục nghiên cứu ở các chương tiếp theo. Chương 2 phương pháp nghiên cứu thống kê lao động có việc làm 2.1. vai trò nghiên cứu thống kê lao động có việc làm. Thống kê lao động có việc làm là một bộ phận không thể thiếu của thống kê lao động. Đây là một trong những nội dung thống kê qui định bắt buộc đối với các quốc gia thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế công ước số 160 ngày 25 tháng 6 năm 1985 về thống kê lao động). Cho đến nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đã phê chuẩn và thực hiện công ước này. Cũng như thống kê các lĩnh vực khác, thống kê lao động có viêc làm cũng quan tâm trước hết vấn đề có tính chất tổng thể của hiện tượng như: tỷ lệ lực lượng lao động; tổng số người có việc làm; tỷ lệ người có việc làm; người có việc làm đầy đủ; người thiếu việc làm; người được giải quyết việc làm… từ đó rút ra được tính qui luật của hiện tượng trong quá trình phát triển của xã hội. Trên cơ sở đó dự báo được xu hướng biến động của lao động có việc làm, từ đó có thể định hướng cho công tác quản lý lao động, đặc biệt là công tác giải quyết việc làm cho người lao động hạn chế tình trạng thất nghiệp. Biến động lao động có việc làm diễn ra trong nền kinh tế hết sức đa dạng vì vậy chỉ có thông qua thống kê mới có thể thấy được xu hướng biến động và các nhân tố ảnh hưởng đến nó từ đó có các biện pháp để giải quyết việc làm cho người lao động. Các thông tin thu được qua thống kê lao động có việc làm có ý nghĩa quan trọng trong công tác hoạch định, xây dựng các chính sách giải quyết việc làm cho người lao động, định hướng phát triển các ngành nghề lĩnh vực có thể giải quyết nhiều việc làm cho người lao động. Thông qua kết quả nghiên cứu để giúp cho các nhà quản lý định hướng cho đào tạo, đào tạo lại nghề cho người lao động, tổ chức các dịch vụ môi giới việc làm, tư vấn lao động, tư vấn nghề nghiệp, hỗ trợ vốn mở rộng sản xuất, khuyến khích tự tạo việc làm… để ngày càng có nhiều lao động có việc làm. 2.2. Thực trạng hệ thống chỉ tiêu thống kê lao động có việc làm hiện nay. Hệ thống chỉ tiêu thông tin thống kê phục vụ quản lý lao động việc làm đã được Bộ lao động- Thương binh và Xã hội quan tâm xây dựng rất sớm. Từ năm 1988, tức là những năm đầu của thời kỳ đổi mới, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu thường xuyên thu thập, xử lý và cung cấp một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời các số liệu thống kê cơ bản về lao động việc làm phục vụ cho yêu cầu quản lý của Ngành. Ngày 29-1-1992 Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê đã ký quyết định liên Bộ số 37 về việc ban hành thử nghiệm chế độ ghi chép ban đầu, sổ sách và báo cáo thống kê về Lao động- Thương binh và xã hội áp dụng cho việc cung cấp, quản lý thông tin của Ngành từ cấp xã, phường đến cấp quận, huyện, tỉnh, thành phố và ở Trung ương. Ngày 5-7-1996, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và xã hội đã ra chỉ thị 06/LĐTBXH về việc tăng cường thực hiện chế độ ghi chép ban đầu, cập nhật và tổng hợp thành các chỉ tiêu thống kê cho các cấp quản lý Ngày 14-12-1998, Bộ trưởng Bộ lao động -Thương binh và Xã hội đã có quyết định số 1731/1998/QĐ-LĐTBXH về Công tác Thống kê Lao động - Thương binh và xã hội, ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê tổng hợp về Lao động - thương binh và Xã hội. Ngày 19- 1- 2001, Bộ trưởng Bộ lao động thương binh và xã hội đã ra quyết định số 51/2001/QĐ-LĐTBXH về ban hành chế độ báo cáo thống kê định kỳ và hệ thống chỉ tiêu thu thập qua điều tra để phục vụ quản lý Nhà nước về lĩnh vực Lao động - Thương binh và Xã hội. Quyết định 51 gồm 11 biểu với tổng số 53 chỉ tiêu báo cáo và 90 tiêu thức phân tổ; chỉ tính riêng lĩnh vực lao động - việc làm có 5 biểu với 16 chỉ tiêu báo cáo và 29 tiêu thức phân tổ. Quyết định 51 ngoài việc khẳng định và tiếp tục hoàn thiện các chỉ tiêu báo cáo thống kê định kỳ, còn quy định rõ hệ thống chỉ tiêu thu thập tổng hợp qua điều tra chuyên môn áp dụng đối với các đơn vị quản lý, đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ từ năm 2001 trở đi. Các chỉ tiêu về lao động có việc làm qui định trong QĐ 51 gồm: 2.2.1. Các chỉ tiêu lao động có việc làm thu thập qua báo cáo thống kê định kỳ. - Chỉ tiêu 1: Tổng số lao động được tạo việc làm mới. Là tổng số lao động ở các xã/phường; quận/huyện; tỉnh/thành phố không có việc làm được giải quyết việc làm hoặc tự tạo việc làm và những người được chuyển sang làm việc ở các ngành nghề mới (không phân biệt tự làm hay làm việc ở khu vực thành phần kinh tế nào). Phạm vi thu thập là tổng số lao động được tạo việc làm mới của toàn tỉnh/thành phố trong kỳ báo cáo. Nguồn số liệu lấy từ báo cáo hành chính hàng quí về lao động được tạo việc làm mới nói chung và chia theo 3 nhóm ngành nói riêng của các đơn vị báo cáo là: Nông- lâm- thuỷ sản; công nghiệp- xây dựng; dịch vụ và các ngành khác. - Chỉ tiêu 2: Số lao động trên địa bàn bị mất việc làm. Là tổng số người đã từng làm việc hoặc ở khu vực sản xuất kinh doanh (không phân biệt ở thành phần kinh tế nào) hoặc ở khu vực không sản xuất kinh doanh (không phân biệt là thuộc Nhà nước hay không thuộc Nhà nước) bị mất việc làm không phải do ý muốn của họ. Phạm vi thu thập: tổng số người lao động trên địa bàn bị mất việc làm trong kỳ của toàn tỉnh/thành phố, không phân biệt thuộc khu vực sản xuất kinh doanh hay không sản xuất kinh doanh, hoặc thành phần kinh tế nào. Nguồn số liệu lấy từ báo cáo hành chính hàng quí về lao động được tạo việc làm mới nói chung và chia theo 3 nhóm ngành nói riêng của các đơn vị báo cáo là: Nông- lâm- thuỷ sản; công nghiệp- xây dựng; dịch vụ và các ngành khác. - Chỉ tiêu 3: Số lao động được giải quyết việc làm từ vay vốn quĩ quốc gia. Phạm vi thu thập: Tổng hợp số lao động được tạo việc làm từ các dự án vay vốn thuộc phạm vi của tỉnh/thành phố trong kỳ báo cáo. Nguồn số liệu lấy từ báo cáo hành chính tháng, quí của ban chỉ đạo cho vay vốn quốc gia giải quyết việc làm. - Chỉ tiêu 4: Tổng số lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài. + Lao động đi làm việc ở nước ngoài: là số lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo các dạng hợp đồng; không tính những người đi làm việc ở nươc ngoài theo các Hiệp định hợp tác khoa học kỹ thuật và hợp tác đào tạo với nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế, đi làm việc cho các tổ chức phi kinh tế ở nước ngoài. + Công ty được cấp phép đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài: là các Tổ chức kinh tế của Nhà nước hoặc ngoài nhà nước được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cấp giấy phép hoạt động về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Nguồn số liệu là báo cáo quí, 6 tháng và năm của các công ty xuất nhập khẩu lao động; của các ngành; các địa phương có hợp tác song phương với nước ngoài trong phạm vi thu thập cả nước. 2.2.2. Hệ thống chỉ tiêu thu thập và tổng hợp qua điều tra về lao động việc làm. - Chỉ tiêu 1: Số lao động có việc làm. - Chỉ tiêu 2: Cơ cấu lao động có việc làm chia theo nhóm tuổi, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, khu vực thành thị - nông thôn, nhóm ngành. - Chỉ tiêu 3: Số lao động thiếu việc làm. - Chỉ tiêu 4: Cơ cấu lao động thiếu việc làm chia theo nhóm tuổi, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, khu vực thành thị - nông thôn, nhóm ngành. - Chỉ tiêu 5: Tỷ lệ lao động thiếu việc làm chia theo nhóm tuổi, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, khu vực thành thị - nông thôn, nhóm ngành. Nguồn số liệu của các chỉ tiêu trên: Tổng hợp qua cuộc điều tra hàng năm về Lao động việc làm của Trung tâm Thông tin - thống kê - lao độn._.chưa phù hợp chuẩn mực của thị trường lao động quốc tế, khâu tổ chức quản lý kém, đào tạo bồi dưỡng cho người lao động không được chăm lo vì vậy, lao động còn yếu về tay nghề, ngoại ngữ, tác phong công nghiệp, có hiện tượng vi phạm pháp luật lao động và bỏ trốn; khả năng thu thập, nghiên cứu, tiếp cận thị trường lao động của các cơ sở dịch vụ xuất khẩu lao động và các cơ quan chức năng còn có hạn chế nhất định; thiếu khả năng kinh tế từ những người muốn tham gia thị trường lao động thế giới; tín dụng cho lao động nghèo đi xuất khẩu lao động chưa phổ biến và còn nhiều bất cập. 3.1.2.3. Tác động của đầu tư nước ngoài đến biến động lao động có việc làm. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) bình quân hàng năm giai đoạn 1996 - 2001 chiếm tỷ lệ 25,8% tổng vốn đầu tư cơ bản của toàn xã hội (riêng năm 1996 là 31,44% ). Dòng vốn FDI chảy vào nước ta đã làm tăng số lao động có việc làm trong nền kinh tế quốc dân. Bảng 3-15: Số lao động có việc làm được tạo ra trong khu vực FDI. Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Người (1000 lao động) 215 250 270 296 379 439 Nguồn: Tổng hợp tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài- Bộ kế hoạch và đầu tư. So với số lao động có việc làm hàng năm tăng thêm của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thì số lao động có việc làm tăng thêm trong khu vực FDI chiếm tỷ lệ đáng kể. Dòng FDI là nguồn vốn quan trọng giải quyết việc làm cho người lao động nước ta trong các năm chuyển đổi nền kinh tế. Trong các năm 1996 - 2001 khu vực FDI hàng năm giải quyết việc làm cho số lao động bằng 2 -3% (riêng năm 2000 là 2,83%) số lao động có việc làm tăng thêm hàng năm của toàn bộ nền kinh tế. Số lao động làm việc trực tiếp trong khu vực FDI không ngừng tăng lên. Bình quân trong giai đoạn 1996 - 2001 tốc độ tăng là 15% với quy mô 44,8 nghìn lao động. Tính đến năm 2001 tổng số lao động có việc làm trong khu vực FDI là 439 nghìn chiếm 0,94% tổng số lao động có việc làm trong toàn bộ nền kinh tế. Mức cầu lao động có chuyên môn kỹ thuật của khu vực này khá cao. Năm 2000 số lao động mới có việc làm có chuyên môn kỹ thuật trong khu vực FDI: Công nhân kỹ thuật và sơ cấp 19,47 nghìn lao động; trung cấp chuyên nghiệp 2,14 nghìn lao động; cao đẳng, đại học trở lên 4,85 nghìn lao động. Khu vực FDI còn tạo ra số việc làm gián tiếp cao hơn gấp nhiều lần so với số việc làm trực tiếp, thông qua các hợp đồng cung ứng dịch vụ, gia công và đại lý…Tổng số lao động có việc làm của khu vực FDI = số lao động làm việc trực tiếp + số lao động làm việc gián tiếp. Khu vực góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho người lao động kể cả lao động ở nông thôn liên quan đến sản xuất nguyên vật liệu: như trồng mía, trồng cây lấy gỗ, nuôi trồng thuỷ sản…Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng làm tăng số lao động có việc làm trong các ngành công nghiệp xuất khẩu. 3.1.2.4. Tác động của xuất khẩu hàng hoá. Phát triển xuất khẩu hàng hoá có mối quan hệ khăng khít với tăng số lao đông có việc làm. Nghiên cứu của Rama và Artecona (2000) theo số liệu của WB tại nhiều nước cho thấy, số lao động có việc làm phụ thuộc vào mức độ mở cửa thương mại, tỷ lệ giữa khối lượng thương mại và GDP (XK và NK/GDP) càng lớn thì tỷ lệ người có việc làm trong lực lượng lao động càng cao, khả năng tốt nhất của nền kinh tế là phải có tỷ lệ thương mại tính theo GDP đạt 100% trở lên. Các nhà nghiên cứu nước ngoài (Wood và Mayer, 1999) đã ước lượng được hệ số lao động trong các ngành xuất khẩu thay thế nhập khẩu ở Việt Nam như sau: Bảng 3-16: Hệ số sử dụng lao động trong các ngành xuất khẩu. Khu vực sản xuất Số lượng lao động trên 1000 USD giá trị sản lượng Các ngành công nghiệp xuất khẩu ( DNNN) 0,259 Các ngành công nghiệp xuất khẩu ( ĐTNN) 0,232 Các ngành công nghiệp xuất khẩu ( chung) 0,245 Các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu 0,108 Có thể thấy khu vực xuất khẩu có mức sử dụng lao động cao gấp 2 lần so với khu vực sản xuất thay thế nhập khẩu. Điều này có nghĩa là nếu Việt Nam khai thác được các lợi thế so sánh trong sản xuất hàng công nghiệp để xuất khẩu đặc biệt là các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, sản xuất hàng mỹ nghệ, sản phẩm truyền thống (có hàm lượng lao động cao)... sẽ tăng được số lao động có việc làm. Bộ Thương mại cũng đã nghiên cứu tổng kết rút ra kết luận: xuất khẩu được 1 triệu USD hàng thủ công, mỹ nghệ thì có thêm 3000 – 3500 lao động có việc làm. Chỉ mới tính ngành công nghiệp nhẹ và thủ công mỹ nghệ số lao động có việc làm đã gấp 2,1 lần tổng số lao động làm việc trực tiếp của khu vực FDI và lao động xuất khẩu đang làm việc ở nước ngoài cộng lại (1339,3 nghìn người so với 640 nghìn người). Trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế số lao động có việc làm do xuất khẩu tạo ra rất lớn. Năm 2000 số lượng lao động có việc làm do xuất khẩu tạo ra của một số ngành là: giầy dép 272,7 ngàn người; dệt may 256,9 ngàn người; mây, tre, cói, ngô, dừa 154,5 ngàn người; hàng mỹ nghệ 150,4 ngàn người; hàng thêu 96,6 ngàn người; gốm sứ 241 ngàn người; chế biến hải sản 166,5 ngàn người... Đối với các ngành công nghiệp xuất khẩu và các ngành thủ công mỹ nghệ có xu hướng tăng nhanh số lao động có việc làm do xuất khẩu. 3.1.2.5. Tác động của vốn ODA: Trong các năm 1993 -2000 ODA thực hiện đạt 14,3 tỷ USD ( bằng 81,5% tổng số ODA cam kết ), trong đó vốn vay 12 tỷ USD, viện trợ không hoàn lại 2,3 tỷ và nguồn vốn này trong các năm gần đây vẫn có xu hướng tăng lên. Bảng 3.17: Tình hình thực hiện vốn ODA qua các năm. Đơn vị: triệu USD Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 ODA cam kết 2.430 2.400 2.700 2.800 2.400 2500 ODA giải ngân 958 1015 1242 1350 1680 1800 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Bình quân hàng năm giai đoạn 1996 - 2001, tỷ trọng lao động có việc làm do vốn ODA tạo ra trong tổng số lao động có việc làm của toàn bộ nền kinh tế quốc dân là 3,48% (45,27 nghìn lao động/năm). Nguồn vốn ODA góp phần thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước, cơ cấu lại vốn cho ngân hàng, phát triển khu vực kinh tế tư nhân hướng vào xuất khẩu (mỗi năm các nguồn vốn ODA có thể thu hút khoảng 40 – 50 nghìn lao động làm việc trực tiếp trong các dự án, công trình bằng vốn ODA). Trong các ngành có vốn ODA, qui mô hoạt động được mở rộng thu hút được nhiều lao động. Tuy nhiên mức độ tác động của vốn ODA tới số lao đông có việc làm thấp hơn nhiều so với FDI và chủ yếu là tác động gián tiếp do vốn ODA được đầu tư phần lớn vào các công trình cơ sở hạ tầng 3.1.2.6. Tác động của đầu tư gián tiếp của nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư vào cổ phiếu từ các công ty siêu quốc gia có vị trí rất quan trọng để giải quyết việc làm cho người lao động. Đối với nước ta do sự phát triển chậm của thị trường chứng khoán, các chính sách huy động vốn đầu tư vào cổ phiếu từ nước ngoài chưa được chú trọng đúng mức nên thu hút vốn dạng này còn ít, ví dụ, trong các doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá số cổ đông là người nước ngoài chỉ chiếm 0,04% tổng số cổ đông. Có 64,37% cổ đông trong tổng số cổ đông là người nước ngoài có cổ phần với mức giá trị cổ phiếu 10 triệu trở xuống và 35,63% cổ đông có cổ phần với mức giá trị cổ phiếu trên 10 – 20 triệu. Trên thị trường chứng khoán tại Thành phố HCM việc giao dịch của người nước ngoài còn rất ít. Trong các doanh nghiệp cổ phần tỷ lệ cổ phiếu của người nước ngoài hầu như không đáng kể. Vì vậy nếu có chính sách mạnh hơn thì có thể huy động được nguồn vốn này góp phần tạo việc làm cho người lao động. 3.1.2.7. Quĩ quốc gia hỗ trợ việc làm. Trong giai đoạn 1996 –2001 quĩ đã thực hiện cho vay hơn 3000 tỷ đồng, đã thu hút 1,8 triệu lao động trong đó 0,8 triệu người có việc làm mới và khoảng 1 triệu người có thêm việc làm. Nguồn vốn cho vay từ quĩ này đã tạo cú huých kích thích dân đầu tư vốn giải quyết việc làm. Thực tế cho thấy phần vốn đối ứng dân bỏ ra gấp 2 lần (khoảng 6000 tỷ), vì vậy vốn ngân sách đầu tư cho Quĩ quốc gia hỗ trợ việc làm tuy nhỏ (bằng 0,35% vốn đầu tư phát triển toàn xã hội) song đã có tác động tích cực làm tăng qui mô số lao động có việc làm. 3.2. Dự đoán lao động có việc làm. 3.2.1. Dự đoán số lao động có việc làm của cả nền kinh tế: Trong các mô hình dự đoán đã được đề cập đến ở trong chương 2, cần chọn ra mô hình dự đoán tốt nhất, tức là mô hình có tổng bình phương sai số: SSE = min. Xuất phát từ tài liệu ở bảng 3-1 (trang 55): Biến động lao động có việc làm giai đoạn 1996-2001, xây dựng các mô hình dự đoán dựa vào tốc độ phát triển bình quân, dựa vào hàm xu thế, dựa vào san bằng mũ và được kết quả sau đây: SSE 1- Tốc độ phát triển bình quân 43375,67 2- Hàm xu thế tuyến tính 26394,90 3- San bằng mũ 6646981,73 Như vậy, hàm xu thế tuyến tính có tổng bình phương sai số nhỏ nhất. Do đó để dự đoán số lượng lao động của các ngành kinh tế cho các năm tiếp theo, ta có thể dựa vào hàm xu thế tuyến tính: = 32945 + 770t Với khoảng tin cậy 95%, sẽ có: Bảng 3-18: Dự đoán lao động có việc làm của cả nền kinh tế. Đơn vị: 1000 người Năm Cận dưới Cận trên 2002 38028,0 38644,0 2003 38762,0 39449,0 2004 39492,0 40259,0 3.2.2. Dự đoán số lao động có việc làm của các ngành. Xuất phát từ số liệu bảng 3-6 (trang 61), ta có thể xây dựng các mô hình dự đoán số lao động có việc làm trong những năm tiếp theo của các ngành như sau: 3.2.2.1. Dự đoán số lao động có việc làm của ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp. SSE 1- Tốc độ phát triển bình quân 370956,90 2- Hàm xu thế - Tuyến tính - Hypebol 270484,16 264139,00 3- San bằng mũ 316124,14 Như vậy mô hình thích hợp để dự đoán cho lao động có việc làm cho các ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp là Hypebol: = 22883 + 325. Với khoảng tin cậy 95%, sẽ có: Bảng 3-19: Dự đoán số lao động có việc làm của ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp: Đơn vị: 1000 người Năm Cận dưới Cận trên 2002 22113,0 23746,0 2003 22100,0 23747,0 2004 22091,0 23748,0 3.2.2.2. Dự đoán số lao động có việc làm của ngành Công nghiệp- Xây dựng. SSE 1- Tốc độ phát triển bình quân 161432,6 2- Hàm xu thế tuyến tính 147710,2 3- San bằng mũ 1487670,27 Như vậy mô hình thích hợp để dự đoán cho lao động có việc làm của ngành Công nghiệp- Xây dựng là hàm xu thế tuyến tính: = 3345 + 314t Với khoảng tin cậy 95%, sẽ có: Bảng 3-20: Dự đoán số lao động có việc làm ngành Công nghiệp- Xây dựng: Đơn vị: 1000 người Năm Cận dưới Cận trên 2002 4815,0 6273,0 2003 5045,0 6671,0 2004 5264,0 7070,0 3.2.2.3. Dự đoán số lao động có việc làm của ngành Dịch vụ và các ngành khác. SSE 1- Tốc độ phát triển bình quân 159771,3 2- Hàm xu thế tuyến tính 64066,3 3- San bằng mũ 131035,58 Như vậy mô hình thích hợp để dự đoán cho lao động có việc làm của ngành Công nghiệp- Xây dựng là hàm xu thế tuyến tính: = 6406 + 507t Với khoảng tin cậy 95%, sẽ có: Bảng 3-21: Dự đoán số lao động có việc làm ngành Dịch vụ và các ngành khác. Đơn vị: 1000 người Năm Cận dưới Cận trên 2002 9474,0 10435,0 2003 9926,0 10997,0 2004 10371,0 11566,0 3.3. Một số kiến nghị và giải pháp. Trong quá trình phân tích đề tài đã chỉ ra những biến động chưa hợp lý của lao động có việc làm. Để đáp ứng các đòi hỏi của nền kinh tế tăng trưởng, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của người lao động, đáp ứng các yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đề tài đề xuất một số kiến nghị và giải pháp sau: - Thứ nhất: Nhà nước cần có các chính sách để tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo lại nghề, chuyên môn kỹ thuật cho người lao động để nâng cao năng suất lao động và đủ khả năng, trình độ đáp ứng yêu cầu của công nghệ mới. Giải pháp: Tăng tỷ lệ lao động được đào tạo đến năm 2005 lên 30% ,trong đó đào tạo nghề là 22% như nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra. Nhà nước phải có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên, được phát triển không hạn chế trong tương lai, rèn luyện khả năng thích nghi tự cập nhật kiến thức và năng lực tư duy độc lập, sáng tạo. Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ tri thức. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề. Thực hiện tiêu chuẩn hoá, hiện đại hoá, đổi mới nội dung , chương trình, phương pháp giảng dạy, đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng, đặc biệt trong các ngành kỹ thuật mũi nhọn, công nghệ cao. Gắn việc hình thành các khu công nghiệp, khu công nghệ cao với hệ thống trường đào tạo. Khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư đào tạo nghề, đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá của xã hội. Tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước một cách có trọng điểm, khắc phục tình trạng phân tán dàn trải kém hiệu quả. Qui hoạch lại hệ thống trường dạy nghề nhằm phát triển mạnh và phân bố hợp lý hệ thống trường dạy nghề trong địa bàn cả nước. Mở rộng các hình thức đào tạo nghề đa dạng, linh hoạt, năng động. Tránh tình trạng như trước đây đào tạo theo quy trình "cứng" nặng về lý thuyết nhẹ về thực hành và theo công nghệ cũ, không theo kịp với sự phát triển của khoa học công nghệ. Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, dạy nghề phù hợp với yêu cầu chuyển giao và nâng cấp trình độ công nghệ của các ngành, các doanh nghiệp. Hệ thống các trường đào tạo nghề cần nhanh chóng được trang bị bổ sung, đổi mới các phương tiện, máy móc, thiết bị để thực hiện việc giảng dạy theo phương pháp hiện đại của thế giới. Đào tạo kết hợp giữa lý thuyết và rèn luyện thực hành hữu ích để cung cấp nguồn lao động có kỹ năng và khả năng sáng tạo nghề nghiệp, đáp ứng được nhu cầu của các tổ chức, doanh nghiệp và xuất khẩu lao động. Đào tạo người lao động phải đạt được yêu cầu phát triển người lao động một cách toàn diện: chú trọng cả tài, đức, sức khoẻ. Vì thực tế hiện nay cho thấy, trong khu vực FDI, trong số lao động Việt Nam được đánh giá không đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp thì 46,61% là do trình độ chuyên môn kỹ thuật và 53,395 do các phẩm chất khác như: kỷ luật công nghệ thấp, thiếu tác phong công nghiệp, thiếu khả năng hợp tác, thể lực không đảm bảo, không có ngoại ngữ...(điều tra doanh nghiệp FDI- viện KHLĐXH 1999, 2000) Xây dựng các trường trọng điểm quốc gia về đào tạo trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và dạy nghề (riêng đào tạo nghề đến 2005 là 25 trường và đến 2010 là 45 trường ). Trong đó có một số trường phải đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Gọi vốn FDI để thành lập các trường đào tạo đại học và dạy nghề 100% vốn nước ngoài. Mở các lớp đào tạo kỹ sư tài năng thuộc các ngành công nghệ cao, công nghiệp mũi nhọn để nhanh chóng có được đội ngũ đầu đàn tầm cỡ quốc tế Khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá của xã hội, tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước một cách có trọng điểm. Quy hoạch, phân bố hợp lý hệ thống trường dạy nghề trong cả nước, mở rộng hình thức đào tạo nghề đa dạng, linh hoạt, năng động. -Thứ hai: Nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động. Giải pháp thực hiện. Hiện nay trình độ văn hoá bình quân của người lao động nước ta là 7,4 năm/12 thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực. Tỷ lệ tuyển vào PTTH của các nước trong khu vực: Inđônêxia 47% (nữ 39%); Malaixia 58% (nữ 62%); Philipin 71% (nữ 75%); Xingapo 70% (nữ 71%)... so tổng số học sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở, trong khi đó ở Việt Nam con số này khoảng trên 30%. Để đảm bảo nâng cao chất lượng lao động thì phải nâng trình độ văn hoá bình quân của người lao động lên 9/12 năm vào năm 2005 và 11/12 vào năm 2010 đồng thời với nâng cao chất lượng giáo dục: + Phát triển qui mô giáo dục trung học cơ sở và trung học phổ thông tại các vùng miền của đất nước, quan tâm các vùng chậm phát triển (vùng sâu, vùng xa...). + Để nâng cao chất lượng giáo dục, cần tập trung đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy phù hợp với xu thế hội nhập, phát huy được tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo cũng như có tính đến các yếu tố nhận thức tâm sinh lý của từng lứa tuổi học sinh. Tăng cường bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên ngang tầm với chương trình cải cách giaó dục. Giảng dạy tin học và ngoại ngữ trong các trường phổ thông. + Thực hiện xoá mù chữ cho bộ phận lao động có việc làm trong độ tuổi đang mù chữ (4,1%), đa dạng hoá các nguồn lực cho phát triển giáo dục (từ Nhà nước, nhân dân, các tổ chức quốc tế...), khuyến khích các hình thức giáo dục khác để nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động như: bổ túc văn hoá, các lớp học thêm. + Đưa ra các quy định khung hợp lý về học phí, các khoản đóng góp thêm để khắc phục các tồn tại trong thực hiện xã hội hoá giáo dục. + Mở rộng hợp tác quốc tế để đào tạo giáo viên và tranh thủ các nguồn lực cho việc nâng cấp các cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy. - Thứ ba: Về xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động và chuyên gia được coi là mũi nhọn, trên cơ sở mở rộng thị trường phấn đấu mỗi năm đưa thêm 15-20 vạn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Giải pháp thực hiện. Thực hiện đa dạng hoá thị trường và các tổ chức kinh tế tham gia xuất khẩu lao động; đa dạng hoá hình thức và ngành nghề đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Xúc tiến mạnh về thị trường lao động ngoài nước; có chính sách đối ngoại phù hợp với các nước và vùng lãnh thổ có khả năng tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam. + Phải có thiết chế quản lý và qui mô đầu tư đủ mạnh, đào tạo nghề, ngoại ngữ, rèn luyện kỷ luật và có chính sách tín dụng cho người đi xuất khẩu lao động. Xây dựng và hoàn thiện chính sách đầu tư cho đào tạo về tay nghề, ngoại ngữ, kiến thức luật pháp phục vụ xuất khẩu lao động và chuyên gia. Đưa đào tạo lao động và chuyên gia xuất khẩu vào trong chương trình đào tạo nghề của các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ trong trường phổ thông.có chính sách khuyến khích người lao động tự đào tạo, doanh nghiệp tự tổ chức đào tạo để tăng nguồn lao động và chuyên gia. Cần phải phát triển từng bước hệ thống trung tâm dạy nghề riêng biệt để chuẩn bị đội ngũ lao động đi làm việc ở nước ngoài phù hợp với yêu cầu lao động của thị trường lao động quốc tế. Đưa chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài cũng là chương trình cần phát triển nhất là một số ngành mà Việt Nam có ưu thế (y tế, giáo dục...), dần dần hình thành đội quân chuyên nghiệp đi làm việc ở nước ngoài, từng bước hoà nhập vào thị trường lao động quốc tế. Đổi mới chính sách mở rộng đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hướng đa dạng hoá phương thức và hình thức (kể cả đưa đi trực tiếp thông qua nước trung gian đưa đến nước thứ ba, làm việc trong các công ty nước ngoài trên đất nước ta), đảm bảo mục tiêu hiệu quả cao. Mở rộng địa bàn sang tất cả các nước có nhu cầu sử dụng lao động của Việt Nam, kể cả các nước có quan hệ truyền thống, các nước phát triển và các nước trong khu vực châu á - Thái Bình Dương. Nhà nước sớm ban hành qui chế hoặc pháp lệnh xuất khẩu lao động và chuyên gia. Bổ sung hoàn thiện chính sách chế độ liên quan đến lợi ích của các bên (Nhà nước, tổ chức kinh tế đưa lao động đi và bản thân người lao động), tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh trên cơ sở quản lý thống nhất của Nhà nước trong một chương trình tổng thể tạo việc làm ở nước ngoài (nhằm khắc phục các tiêu cực). Xây dựng và hoàn thiện chính sách ưu đãi về thuế trong hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia; thực hiện công khai và giảm tối đa các khoản người lao động đóng góp khi đi làm việc ở nước ngoài. Cải cách thủ tục hành chính, tạo sự thông thoáng và giảm phiền hà cho người lao động và doanh nghiệp. Xây dựng các doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu lao động và chuyên gia mạnh, có khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Kết hợp chặt chẽ việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài với tạo nguồn thu để phát triển viêc làm trong nước (ít nhất 50% nguồn thu từ lao động ngoài nước để bổ sung vào quĩ quốc gia giải quyết việc làm đề tạo việc làm trong nước). Sắp xếp lại và nâng cao năng lực các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, xây dựng các doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu lao động và chuyên gia mạnh có khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Phát triển hệ thống tín dụng đối với lao động xuất khẩu, tạo cho người lao động nghèo, lao động nông thôn có đủ điều kiện về chuyên môn kỹ thuật có thể đi lao động ở nước ngoài. Phấn đấu đến năm 2010 trở đi có từ 0,8 - 1 triệu lao động và chuyên gia làm việc ở nước ngoài, góp phần nâng cao tay nghề cho người lao động, thực hiện CNH, HĐH đất nước, thu nhập hàng năm từ xuất khẩu lao động khoảng 1 tỷ USD. - Thứ tư: Về nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Cần có chính sách đủ mạnh để khuyến khích đầu tư, huy động mọi nguồn lực, phát triển thị trường lao động để tăng trưởng kinh tế giải quyết việc làm. Giải pháp tiến hành: + Tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, thu hút đầu tư, giải phóng và phát huy mọi tiềm năng của dân. + Phát triển thị trường chứng khoán để thu hút vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài thông qua cổ phiếu. - Thứ năm: Về hoạt động xuất khẩu: Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá nhất là những hàng hoá mà chúng ta có lợi thế để tăng thêm số người có việc làm trong nước. + Thành lập cục xúc tiến thương mại và các chi cục xúc tiến thương mại ở các địa phương. + Phát triển hệ thống phòng công nghiệp thương mại, các hiệp hội nghề nghiệp có chức năng xúc tiến thương mại. + Hệ thống xúc tiến thương mại thực hiện việc hỗ trợ xuất khẩu như: cung ứng thông tin (thị trường xuất khẩu, giá cả xuất khẩu, công nghệ...), giúp tìm kiếm thị trường, giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu, trợ giúp phát triển hệ thống giám định chất lượng hàng hoá thế giới. Phát triển các ngành nghề truyền thống mà chúng ta có thế mạnh xuất khẩu như: mây tre đan ... - Thứ sáu:Về công tác thống kê. - Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động đảm bảo cung cấp các thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời đặc biệt là thông tin về cầu sức lao động theo ngành nghề và cấp trình độ. + Tổ chức điều tra lao động việc làm hàng năm ở nông thôn và hàng qui ở thành thị. + Chuyển 2 nhóm chỉ tiêu: số lao động có việc làm mới và số lao động mất việc làm trong kỳ từ hình thức báo cáo thống kê định kỳ sang hình thức điều tra thống kê lao đông việc làm hàng năm. + Bổ sung vào hoạt động điều tra thống kê hàng năm nhiệm vụ điều tra về nhu cầu lao động, đặc biệt lao động kỹ thuật cao ở những ngành nghề, khu vực, địa phương khác nhau để phục vụ cho công tác quản lý nhằm giảm bớt mâu thuẫn cung cầu lao động. Hoặc có thể thiết lập các trạm quan sát tại các vùng, các khu vực nhằm phản ánh nhanh một số chỉ tiêu cơ bản về cầu lao động. Kết luận chương 3 Qua phân tích các chỉ tiêu thống kê biến động lao động có việc làm ở Việt Nam giai đoạn 1996 –2001, có một số nhận xét chung như sau. Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, nhất là giai đoạn 1996 – 2001, cùng với tăng trưởng và phát triển kinh tế, thì vấn đề lao động cũng được Đảng, Nhà nước đặc biệt coi trọng và đã đạt được những tiến bộ nhất định trong thay đổi nhận thức, quan niệm và chủ trương giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường có sự quảnlý của Nhà nưóc. Nghị quyết đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “ Đã tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội:... thêm mỗi năm hơn 1 triệu lao động có việc làm, người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong giải quyết việc làm...” Lao động có việc làm ngày càng tăng về quy mô và có sự biến đổi dần về cơ cấu phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Trình độ học vấn của lao động có việc làm ngày càng nâng cao đáp ứng các yêu cầu để đào taọ nghề. Trình độ chuyên môn kỹ thuật có cải thiện nhưng nhìn chung còn thấp chưa đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi của sự phát triển kinh tế; phân bố lao động còn nhiều bất hợp lý giữa các ngành, vùng, thành phần kinh tế. Có nhiều nhân tố tác động đến biến động lao động có chiều hướng khá thuận lợi làm tăng số lao động có việc làm, tăng khả năng đáp ứng việc làm cho người lao động. Trong quá trình phân tích đề tài cũng chỉ rõ những hạn chế từ đó đề xuất các kiến nghị và giải pháp để tăng nhanh hơn nữa cả về số lượng và chất lượng lao động có việc làm trong thời gian tới. Phần kết luận Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp, luận văn hoàn thành các nhiệm vụ cơ bản sau: - Trình bày một cách có hệ thống và làm rõ khái niệm lao động có việc làm và các khái niệm có liên quan. Nêu rõ tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến biến động lao động có việc làm. - Vai trò của thống kê: Luận văn đã khẳng định vai trò của công tác thống kê lao động có việc làm trong nghiên cứu biến động lao động có việc làm nhằm cung cấp cơ sở dữ liệu cho công tác quản lý của Nhà nước về giải quyết việc làm, đào tạo nghề, nâng cao chất lượng lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động. - Trên cơ sở phân tích, đánh giá những hạn chế của hệ thống chỉ tiêu thống kê lao động có việc làm hiện hành như: (Một số chỉ tiêu không thực hiện được do không thu thập được số liệu từ các báo cáo thống kê cơ sở. Ví dụ chỉ tiêu “Số lao động được tạo việc làm mới” và chỉ tiêu “Số lao động bị mất việc làm trong kỳ”, hiện chưa có một cơ chế nào khả dĩ có thể phát hiện kịp thời. Chỉ tiêu “Số lao động được giải quyết việc làm từ vay vốn Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm” không thống kê được chính xác vì rất khó tách bạch đâu là việc làm được tạo ra từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, đâu là kết quả có được từ các nguồn khác. Do đó, số liệu có hiện tượng trùng lắp, nhiều khi mâu thuẫn không giải thích nổi. Trong khi đó ở hầu hết các xã phường đều không có cán sự lao động để làm công tác ghi chép ban đầu và làm báo cáo thống kê). Luận văn nêu lên sự cần thiết phải bổ sung, hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu và trình bày một số cơ sở khoa học trong việc hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu lao động có việc làm. Từ đó xây dựng và đề xuất hệ thống chỉ tiêu lao động có việc làm phù hợp (chuyển nguồn số liệu thu thập từ hình thức báo cáo thống kê định kỳ sang hình thức điều tra chuyên môn), có khả năng thực thi trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam và phù hợp với những qui định của Tổ chuức lao động quốc tế. Để có thông tin đảm bảo cho việc tính toán các chỉ tiêu thống kê đã đề xuất, luận văn đề cao vai trò của điều tra thống kê định kỳ về tình hình lao động có việc làm với thông tin ban đầu có chất lượng. - Vận dụng một số phương pháp phân tích để phân tích biến động lao động có việc làm ở Việt Nam giai đoạn 1996- 2001, luận văn đã làm rõ sự biến động lao động có việc làm về qui mô, cơ cấu, các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động lao động có việc làm. Các kết quả phân tích có được là cơ sở đề xuất các giải pháp để tăng số lao động có việc làm. Nhiệm vụ của đề tài đã được hoàn thành nhưng không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, tác giả rất mong được sự đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp. dAnh mục Tài liệu tham khảo Bộ Lao động thương binh và xã hội: Báo cáo kết quả thiết lập thí điểm hệ thống quan sát cầu về lao động, năm 2001. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Báo cáo tổng hợp kết quả khảo sát thực trạng và nhu cầu lao đông kỹ thuật của doanh nghiệp, năm 2001. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Các giải pháp phát triển thị trường lao động Việt Nam đúng hướng – năm 2001. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Chính sách lao động - thương binh và xã hội trong công cuộc đổi mới, NXB LĐ - XH, năm 2001. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Đánh giá tác động của xu thế toàn cầu hoá kinh tế đến lao động, việc làm và phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001 -2005, năm 2001. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết việc làm - NXB LĐ - XH năm 2002. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Phát triển hệ thống chỉ tiêu, báo cáo thống kê lao động - thương binh và xã hội, năm 1996. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Quyết định 51/2001/QĐ-LĐTBXH, năm 2001. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống tiêu thức thất nghiệp/ thiếu viêc làm và phương pháp xác định chỉ tiêu thất nghiệp, thiếu việc làm ở Việt Nam, năm 2000. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Một số công ước của Tổ chức lao động quốc tế, năm 1993. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Kết quả điều tra lao động việc làm 2001. Bộ Lao động Thương binh và xã hội: Kết quả điều tra lao động - việc làm 1996 - 2000. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Sổ tay thông tin thống kê thị trường lao động, năm 2000. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Số liệu thống kê lao động - thương binh và xã hội ở Việt Nam 1996 -2000, NXB LĐ- XH. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Xây dựng đề án thiết lập cơ sở dữ liệu thông tin chuyên ngành lao động - thương binh và xã hội, năm 2002. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ thực hiện chế độ báo cáo thống kê định kỳ về lao động - thương binh và xã hội năm 2001. Bộ Lao động thương binh và xã hội: Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, NXB Thống kê, năm 2000. Bộ Luật lao động nước CHXHCN Việt Nam, NXB chính trị quốc gia. TS. Trần Xuân Cầu: Giáo trình phân tích lao động xã hội- Trường đại học Kinh tế quốc dân, NXB LĐ-XH, năm 2002. PTS. Nguyễn Hữu Dũng, PTS Trần Hữu Trung: Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, NXB chính trị quốc gia, năm 1997. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đảng VIII, NXB chính trị quốc gia, năm 1996. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đảng IX, NXB chính trị quốc gia, năm 2001. PGS. TS . Phan Công Nghĩa: Giáo trình thống kê lao động, NXB Thống kê, năm 1999. Nolwen HENAFF - Jean-Yves MARTIN: Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới, NXB thế giới, năm 2001. PGS. TS. Tô Xuân Phượng: Giáo trình lý thuyết thống kê- Trường đại học Kinh tế quốc dân, NXB Giáo dục, năm 1996. GS. TS Phạm Đức Thành: Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam, tr.3, Tạp chí kinh tế và phát triển số 64 - 10/2002- Đại học KTQD Hà Nội. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia: Thị trường lao động trong cơ chế thị trường, năm 1999. Tổng cục thống kê: Số liệu thống kê dân số và kinh tế- xã hội Việt Nam 1975 -2001, năm 2002. Tổng cục thống kê: Kinh tế Việt Nam trong những năm đổi mới, NXB TK, năm 2001. Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê 2001. Vũ Văn Toán (1998, Lượng hoá mối quan hệ giữa việc làm với các yếu tố kinh tế - xã hội và ứng dụng trong kế hoạch hoá lao động ở Việt Nam, luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội.) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33882.doc
Tài liệu liên quan