Nghiên cứu thống kê hiệu quả Sản xuất kinh doanh của Công ty chế tạo dầm thép & xây dựng Thăng Long

Lời nói đầu Từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều khởi sắc đáng mừng. Trong cơ chế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh và tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi, giúp cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự đổi mới cho phù hợp với sự phát tr

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1182 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu thống kê hiệu quả Sản xuất kinh doanh của Công ty chế tạo dầm thép & xây dựng Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iển chung của xã hội và phải vươn lên tự khẳng định mình. Chỉ có những doanh nghiệp tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh của mình một cách có hiệu quả thì mới có thể tồn tại và phát triển. Vì thế hiệu quả sản xuất kinh doanh là vấn đề vô cùng quan trọng đối với mọi doanh nghiệp. Không doanh nghiệp nào hoạt động lại không tính đến hiệu quả kinh doanh. Vì vậy cho nên trong thời gian qua thực tập tại công ty chế tạo dầm thép và xây dựng Thăng Long, em đã chọn vấn đề “Nghiên cứu thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp” làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Nội dung của đề tài gồm 3 chương, không kể lời nói đầu và kết luận: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chương II: Xác định hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp thống kê để đánh giá và phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chương III: Vận dụng hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp thống kê đã đề xuất để đánh giá, phân tích hiệu quả và kết quả sản xuất kinh doanh ở Công ty chế tạo dầm thép và xây dựng Thăng Long. chương I. Những vấn đề lý luận chung về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp I. khái niệm, các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh và các giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh 1. Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế đã và đang được nhiều doanh nghiệp quan tâm đến. Khi bàn về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các nhà kinh tế đã đưa ra rất nhiều khái niệm khác nhau: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm sản xuất ra tức là giá trị sử dụng của nó; hoặc là doanh thu và nhất là lợi nhuận thu được sau quá trình kinh doanh. Quan điểm này lẫn lộn giữa hiệu quả với kết quả sản xuất kinh doanh, giữa hiệu quả với mục tiêu kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế, được phản ánh qua nhịp độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế. Quan điểm này là phiến diện chỉ đứng trên giác độ biến động theo thời gian. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và mức tăng kết quả kinh tế. Quan điểm này chỉ biểu hiện bản chất chứ không phải là khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là các chỉ tiêu được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả với chi phí. Định nghĩa này chỉ đề cập đến cách xác lập các chỉ tiêu,chứ không nói lên ý niệm của vấn đề. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức tăng của kết quả sản xuất kinh doanh trên mỗi lao động hay mức doanh lợi của vốn sản xuất kinh doanh. Quan điểm này muốn quy hiệu quả sản xuất kinh doanh về một chỉ tiêu tổng hợp cụ thể nào đó. Từ nhận xét về các khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh ở trên, ta có một khái niệm tổng hợp và bao quát hơn: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Như vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. 2.Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh 2.1.Thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của doanh nghiệp Thị trường là nơi diễn ra mọi hoạt động giao dịch buôn bán, là nơi xuất hiện các cuộc cạnh tranh gay gắt về giá cả, chất lượng, mẫu mã, quy cách, chủng loại...sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần chiếm lĩnh được thị trường. Vì thế, thị trường của doanh nghiệp là yếu tố hết sức quan trọng. Nó là yếu tố quyết định và cũng là yếu tố phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường đầu vào ảnh hưởng tới tính liên tục và tính hiệu quả sản xuất. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cung ứng cho thị trường đầu ra của doanh nghiệp. Thị trường đầu vào của doanh nghiệp đòi hỏi phải cung cấp hợp lý và kịp thời. Thị trường đầu ra của doanh nghiệp quyết định quá trình tái sản xuất mở rộng và hiệu quả kinh doanh. Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu nhu cầu thị trường, thị hiếu khách hàng, dân số, khả năng của bản thân doanh nghiệp, các yếu tố đầu vào của sản xuất,..., đồng thời dự đoán được thị trường tương lai để từ đó, doanh nghiệp ra các quyết định và hướng đi đúng đắn. 2.2. Nhân tố con người. Nhân tố con người trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đóng vai trò cực kỳ quan trọng, vì con người là chủ thể của quá trình sản xuất kinh doanh, trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, nhân tố con người ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp nào có đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, thể hiện ở trình độ phân công lao động hợp lý thì hiệu quả của lao động sẽ tăng, còn ngược lại, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng do xảy ra tình trạng nơi thiếu lao động nơi thừa lao động...Bên cạnh đó, tay nghề của mỗi người lao động cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả sản xuất của doanh nghiệp, vì nếu người lao động có tay nghề cao thì sản phẩm của họ làm ra sẽ đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, giảm phế phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu. Trong trường hợp ngược lại, lượng hao phí nguyên vật liệu sẽ lớn, phế phẩm nhiều,...làm tăng chi phí sản xuất dẫn đến giảm hiệu quả kinh doanh. Do nhân tố con người có tầm quan trọng, đòi hỏi doanh nghiệp phải có kế hoạch đào tạo tay nghề cho lao động, đảm bảo quyền làm chủ của mỗi cá nhân, chăm lo tới đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân viên, đồng thời có hình thức thưởng phạt hợp lý nhằm khuyến khích người lao động có ý thức trách nhiệm, gắn bó, tâm huyết với doanh nghiệp, và từ đó luôn sẵn sàng làm việc hết khả năng. 2.3. Nhân tố về quản lý. Bộ máy quản lý gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả cao sẽ cho phép doanh nghiệp sử dụng hợp lý và tiết kiệm các yếu tố vật chất của quá trình sản xuất kinh doanh, giúp lãnh đạo doanh nghiệp đề ra những quyết định chỉ đạo kinh doanh chính xác, kịp thời và nắm bắt được thời cơ. Muốn đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao đòi hỏi doanh nghiệp phải chú ý tới nhiều nhân tố trong đó có vấn đề về quản lý. Quản lý tốt tức là đã tạo được sự phối hợp hoạt động nhịp nhàng giữa các phòng ban, phân xưởng, khai thác tối đa tiềm năng về lao động, tạo điều kiện cho mọi người, mọi khâu, mọi bộ phận phát huy đầy đủ quyền chủ động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Để quản lý tốt, doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ quản lý nhanh nhạy, nhiệt tình và có kinh nghiệm. 2.4. Nhân tố về kỹ thuật và công nghệ. Kỹ thuật và công nghệ có ảnh hưởng mạnh tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó cho phép doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng vòng quay vốn lưu động, tăng lợi nhuận, đảm bảo quá trình tái sản xuất mở rộng được diễn ra nhanh và mạnh. 3. Những biện pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, ta so sánh kết quả đầu ra và chi phí đầu vào trong một quá trình. Ta có: Muốn tăng H thường có những biện pháp sau: Thứ nhất: giảm đầu vào, đầu ra không đổi. Thứ hai: giữ nguyên đầu vào, tăng đầu ra. Thứ ba: giảm đầu vào, tăng đầu ra. Thứ tư: tăng đầu vào, tăng đầu ra nhưng tốc độ tăng đầu ra lớn hơn tốc độ tăng đầu vào. Thực tế cho thấy, đất nước ta chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước đã có nhiều đổi sắc về mọi mặt của đời sống xã hội. Song quá trình quản lý, điều hành sản xuất còn bất hợp lý dẫn đến việc sử dụng lãng phí các nguồn lực làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi ta giảm đầu vào thì đầu ra khó có thể không đổi hoặc tăng. Nên hiện nay có hai biện pháp chủ yếu được doanh nghiệp chú ý quan tâm đó là biện pháp thứ hai và biện pháp thứ tư. Trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn đứng vững và đi lên đòi hỏi phải thường xuyên đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm. Tức là, doanh nghiệp cần tăng chất lượng đầu vào với nguyên vật liệu tốt hơn, lao động có tay nghề cao hơn...sẽ giảm được hao phí nguyên vật liệu, hao phí lao động, năng lượng thiết bị trên từng đơn vị sản phẩm...Từ đó, ta có được sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ. Nhưng để sản phẩm đáp ứng được nhu cầu thị trường và mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải xem xét việc quyết định sản xuất sản phẩm đó có tối ưu hay không... Vì vậy, để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp cần chú ý các vấn đề sau: Nghiên cứu khảo sát nắm bắt nhu cầu của thị trường để xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh tối ưu. Chuẩn bị tốt các điều kiện, các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh như nguyên vật liệu, thiết bị sản xuất, kho tàng, bến bãi...nhằm góp phần duy trì tính liên tục, đáp ứng yêu cầu của sản xuất, tăng khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường đầu ra cũng như thị trường đầu vào của doanh nghiệp. Thường xuyên nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, có các biện pháp kích thích tinh thần sáng tạo, tích cực trong công việc và gắn bó với doanh nghiệp. Mạnh dạn chủ động đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất cho phép tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu đầu vào...dẫn đến hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh, tăng lợi nhuận và có điều kiện để tái sản xuất mở rộng. Nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp vì người quản lý có chức năng cơ bản là hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra các hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh. Nên trình độ của các nhà quản lý là một trong những nguyên nhân làm cho doanh nghiệp đi đến thua lỗ phá sản hoặc phát triển đi lên. Xác định mục tiêu và chiến lược của doanh nghiệp. Để xác định được mục tiêu chính xác cần dựa vào hiện trạng thực tế và môi trường hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các chiến lược tối ưu nhằm thực hiện được mục tiêu đề ra. Sắp xếp lại cơ cấu tổ chức cho hợp lý, vì khi cơ cấu tổ chức gọn nhẹ sẽ giúp cho doanh nghiệp kết hợp được các nguồn lực đồng thời thúc đẩy nguồn lực phát triển, ngược lại cơ cấu tổ chức cồng kềnh trì trệ là một trong những nguyên nhân phổ biến làm cho doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. II. Các quan điểm cơ bản đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Để thực hiện được nhiệm vụ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải nghiên cứu và nhận thức một cách đầy đủ bản chất và các quan điểm đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ việc đánh giá đúng hiệu quả, cho phép doanh nghiệp phát hiện khả năng và tìm đúng biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Thứ nhất, cần phân biệt "kết quả" với "hiệu quả": Kết quả sản xuất kinh doanh là những sản phẩm được con người tạo ra trong quá trình sản xuất và mang lại lợi ích tiêu dùng xã hội. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được xây dựng bằng cách so sánh giữa đầu vào và đầu ra, so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được. Do đó, thước đo hiệu quả là sự tiết kiệm chi phí lao động xã hội và tiêu chuẩn của hiệu quả là việc tối đa hoá kết quả hoặc tối thiểu hoá chi phí dựa trên điều kiện nguồn lực sẵn có. Thứ hai, phân biệt "hiệu quả kinh tế" và "hiệu quả xã hội": Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế mà doanh nghiệp đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả xã hội của doanh nghiệp là phạm trù phản ánh kết quả việc thực hiện các mục tiêu về mặt xã hội như cải thiện đời sống người lao động, cải thiện môi trường,...Hiệu quả xã hội của doanh nghiệp còn thể hiện ở đóng góp của doanh nghiệp vào việc đạt mục tiêu kinh tế xã hội của toàn bộ nền kinh tế quốc dân như đóng góp vào ngân sách, vào sự tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm... Khi bàn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phải chú ý tới hiệu quả xã hội. Chỉ khi nào đảm bảo hiệu quả kinh tế thì mới có thể tạo ra hiệu quả xã hội bền vững. Hiệu quả kinh tế là tiền đề vật chất của hiệu quả xã hội. Nếu hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp giảm, tức là doanh nghiệp mất đi khả năng cạnh tranh, thiếu sức sống và trở thành gánh nặng cho nhà nước. Vì thế, doanh nghiệp không thể đạt được mục tiêu xã hội. Hiệu quả sản xuất kinh doanh liên quan đến nhiều yếu tố và phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố đó. Khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh cần chú ý các quan điểm sau: 1. Bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và sản xuất kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Phải xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, thể hiện ở chỉ tiêu pháp lệnh hoặc đơn đặt hàng của nhà nước giao cho doanh nghiệp, vì nó là nhu cầu, là điều kiện bảo đảm sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân. 2. Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa các lợi ích: Lợi ích xã hội, lợi ích tập thể, lợi ích người lao động. Quan điểm này đòi hỏi nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phải thoả mãn các mối quan hệ của các lợi ích trên, trong đó lợi ích người lao động là nhân tố quyết định cho việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh một cách trực tiếp. 3. Đảm bảo tính thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi đánh giá và xác định mục tiêu biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phải xuất phát từ đặc điểm kinh tế, điều kiện kinh tế xã hội của ngành, địa phương và của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. 4. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải được xem xét một cách toàn diện cả về thời gian và không gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung toàn bộ nền kinh tế. 4.1. Về mặt thời gian. Hiệu quả mà công ty đạt được trong từng giai đoạn, từng kỳ kinh doanh không được làm giảm sút hiệu quả các giai đoạn, kỳ kinh doanh tiếp theo. Điều đó đòi hỏi bản thân mỗi công ty phải chú ý không vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài. Trong thực tế sản xuất kinh doanh, vì mục tiêu lợi nhuận trước mắt, một số doanh nghiệp tư nhân có thể khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên mà không chú ý đến bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái...Không thể coi việc giảm chi và tăng thu là có hiệu quả khi giảm tuỳ tiện chi phí cải tạo tự nhiên, cải tạo đất đai, nâng cao trình độ người lao động...Cũng không thể coi là hiệu quả khi ta từ bỏ khách hàng quen mà chạy theo khách hàng mới nhưng không ổn định. 4.2. Về mặt không gian. Hiệu quả sản xuất kinh doanh chỉ có thể coi là đạt được một cách toàn diện khi toàn bộ hoạt động của bộ phận, phân xưởng, tổ đội,...mang lại hiệu quả không làm ảnh hưởng đến hiệu quả chung. Hiệu quả các bộ phận có đạt được mới thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả được tính từ một giải pháp kinh tế, tổ chức kỹ thuật hay hoạt động nào đó trong từng đơn vị hay toàn bộ doanh nghiệp nếu không làm hại đến hiệu quả chung kể cả về hiện tại và tương lai thì mới được coi là hiệu quả. 4.3. Đứng trên giác độ nền kinh tế quốc dân, phải có sự thống nhất giữa hiệu quả kinh tế quốc dân và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Sự thống nhất thể hiện khi hiệu quả kinh doanh có mức lợi nhuận đạt được trên cơ sở tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị,...tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp ứng nhu cầu thị trường. Ngược lại, nếu hoạt động của các doanh nghiệp kém hiệu quả, thậm chí thua lỗ kéo dài hoặc đạt được lợi nhuận nhờ những thủ đoạn phi pháp (trốn lậu thuế, làm hàng giả,...) đều dẫn tới tổn hại cho hiệu quả kinh tế quốc dân. Hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được phải gắn chặt với hiệu quả xã hội. Tức là đạt được hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp vẫn chưa đủ mà còn đòi hỏi mang lại hiệu qủa kinh tế cao cho xã hội. III. ý nghĩa, nhiệm vụ của thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1. ý nghĩa của thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh. Năm 2000 là năm mà đất nước ta phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, nâng cao mức sống dân cư, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đất nước phát triển nhanh vào đầu thế kỷ XXI. Để khắc phục nguy cơ tụt hậu nói trên, điều quyết định là có đưa nền kinh tế tiếp cận được các mục tiêu đã định hay không. Vấn đề đó hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp phải đặc biệt coi trọng vấn đề chất lượng và hiệu quả vì mỗi doanh nghiệp được tự do kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh. Do đó, phải coi trọng hiệu quả sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, vì nó đưa doanh nghiệp tới thành công hay thất bại, có đạt được mục tiêu kinh doanh hay không. Nói cách khác, hiệu quả sản xuất kinh doanh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, vai trò của thống kê là rất quan trọng trong việc nghiên cứu đánh giá và phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi phấn đấu đạt được hiệu quả cao trong nền kinh tế quốc dân có ý nghĩa rất lớn, biểu hiện: Tận dụng và tiết kiệm nguồn lực hiện có. Như ta đã biết, sự khan hiếm nguồn lực (thiếu vốn, đất sản xuất giảm, tài nguyên thiên nhiên đang bị cạn kiệt...) làm hạn chế các yếu tố phát triển theo chiều rộng. Đồng thời trong điều kiện sử dụng có tính cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm...nghĩa là doanh nghiệp cần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là yếu tố thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ. Ngược lại, khi khoa học kỹ thuật công nghệ phát triển cao sẽ làm giảm chi phí sức người, sức của, tiết kiệm nguyên vật liệu, tăng số lượng và chất lượng sản phẩm,...dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh có nghĩa là đưa doanh nghiệp phát triển theo chiều sâu với tốc độ nhanh. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ đưa đến kết quả cuối cùng là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Như trên ta thấy, bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế, gắn liền với hai quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội là quy luật tăng năng suất lao động và quy luật tiết kiệm thời gian. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí. Thống kê nghiên cứu hiệu quả sản xuất kinh doanh có ý nghĩa rất lớn trong việc định hướng phát triển của một doanh nghiệp cũng như một quốc gia trong từng thời kỳ. Do đó, tuỳ theo yêu cầu từng giai đoạn mà mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia chọn cho mình một hướng phát triển kinh tế theo chiều rộng hay chiều sâu. Phát triển kinh tế theo chiều rộng tức là phát huy mọi nguồn lực vào sản xuất, tăng thêm vốn, bổ sung lao động và kỹ thuật, mở mang thêm nhiều ngành nghề, xây dựng thêm nhiều xí nghiệp, tạo ra nhiều mặt hàng mới...Phát triển kinh tế theo chiều rộng áp dụng chủ yếu cho thời kỳ đầu của sự phát triển, nó tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, tích luỹ được tiềm lực kinh tế. Phát triển kinh tế theo chiều sâu là đẩy mạnh cách mạng khoa học công nghệ vào sản xuất, tiến nhanh lên hiện đại hoá, tăng cường chuyên môn hoá và hợp tác hoá, nâng cao cường độ sử dụng các nguồn lực, chú trọng chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Phát triển kinh tế theo chiều sâu được áp dụng trong giai đoạn phát triển. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc chú trọng phát triển kinh tế theo chiều rộng là chủ yếu. Bởi vì, đất nước ta đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển do vậy rất cần các yếu tố như vốn, lao động và kỹ thuật,...nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật tốt tạo đà cho phát triển. Tuy nhiên, ta cũng cần chú trọng ngày càng nhiều hơn tới phát triển kinh tế theo chiều sâu vì mục tiêu phát triển lâu dài của đất nước. Nghiên cứu thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh giúp cho các nhà quản lý kinh tế hiểu sâu hơn về các mặt hoạt động của doanh nghiệp mình, từ đó đưa ra cơ chế điều hành, đảm bảo tạo ra kết quả, hiệu quả cao nhất của mọi quá trình, mọi giai đoạn, vì hiệu quả sản xuất kinh doanh là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức quản lý kinh doanh và sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. 2. Nhiệm vụ của thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh. Thu thập thông tin ban đầu một cách đầy đủ, các thông tin đó là GO, VA, IC, doanh thu, lợi nhuận, lao động bình quân, vốn đầu tư, vốn sản xuất kinh doanh... Xây dựng hệ thống chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu được xây dựng, ta tính toán và tổng hợp các chỉ tiêu. Đánh giá chung và phân tích chi tiết tình hình hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Dự báo về hiệu quả sản xuất kinh doanh trong thời kỳ tới và đề xuất những kiến nghị, biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Thông tin cuối cùng sẽ giúp cho các nhà lãnh đạo hay chủ doanh nghiệp thấy rõ thực trạng và bản chất tình hình nguyên nhân thành công hay thất bại để kịp thời có những chủ trương, biện pháp nhằm duy trì và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bảo đảm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường. Chương II. Xác định hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp thống kê để đánh giá và phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. I. Mục tiêu, yêu cầu của hệ thống chỉ tiêu. Trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, các mối quan hệ xã hội và sự ràng buộc giữa các bên trong hoạt động sản xuất kinh doanh bị xoá nhoà, tiêu chuẩn để đánh giá doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả là hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh do nhà nước giao. Do vậy, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hầu như không tồn tại, không thúc đẩy được doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Với thực trạng hoạt động như vậy, công tác báo cáo thống kê là không cấp thiết, mang tính hình thức, các cơ quan chức năng khó nắm bắt được chính xác tình hình sản xuất kinh doanh. Cùng với sự mở cửa nền kinh tế là sự thay đổi lớn lao trong tư duy kinh tế của nhà nước, mọi thành phần kinh tế đều có điều kiện tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ hoạt động với phương thức tự chủ về tài chính và tự thực hiện hạch toán thu chi. Do đó, hệ thống chỉ tiêu đánh giá cũ không còn hợp lý, đòi hỏi phải có sự thay đổi trong hệ thống chỉ tiêu nói chung và thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh nói riêng. Hệ thống chỉ tiêu thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh phải đảm bảo bao quát được mọi mặt của các yếu tố cấu thành hiệu quả, phải mang tính tổng hợp bao gồm các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận và phản ánh các khía cạnh khác nhau của hiệu quả chung. Hệ thống chỉ tiêu thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh cần bảo đảm các yêu cầu sau: Số lượng các chỉ tiêu phải đủ lớn để bao quát hết những mặt cơ bản có liên quan tới hiệu quả chung. Các chỉ tiêu được chọn phải là những chỉ tiêu đặc trưng nhất, đồng thời phải phản ánh và phân tích được mối quan hệ tồn tại khách quan giữa các mặt, các bộ phận. Các chỉ tiêu được chọn phải đảm bảo có nội dung, phạm vi và đơn vị tính phù hợp với yêu cầu đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu hiệu quả, lợi nhuận của doanh nghiệp. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh được chia thành hai phần: hiệu quả sử dụng nguồn lực và hiệu quả chi phí thường xuyên, trong đó mỗi loại lại bao gồm hiệu quả toàn phần và hiệu quả cận biên. Để đánh giá một cách chính xác hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nhất là doanh nghiệp nhà nước thì doanh nghiệp đó cần phải hội đủ 6 tiêu chuẩn sau: Bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh, trích khấu hao tài sản cố định theo đúng quy định của chế độ hiện hành. Kinh doanh có lãi, nộp đủ tiền thu sử dụng vốn và lập đủ các quãy doanh nghiệp: dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm cho người lao động, đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi... Trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn (tức không có nợ quá hạn). Nộp đủ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động theo quy định. Nộp đủ các khoản thuế theo quy định. Trả lương cho người lao động tối thiểu phải bằng mức bình quân của các doanh nghiệp trên cùng địa bàn. II. Xác định hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp thống kê để đánh giá và phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1. Công thức tổng quát xác định các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đo lường bằng các chỉ tiêu tương đối cường độ phản ánh mối quan hệ so sánh giữa đầu vào (chi phí kinh tế C) và đầu ra (kết quả kinh tế Q). Quan hệ so sánh đó được xác lập theo phương pháp ma trận, tức là nếu có m chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh tế Q và n chỉ tiêu phản ánh chi phí kinh tế C thì ta có 2.m.n chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó có ít nhất m.n chỉ tiêu có ý nghĩa. Để phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh, ta xác lập hai loại chỉ tiêu: a) Dạng thuận Chỉ tiêu H biểu thị mỗi đơn vị đầu vào có khả năng tạo ra bao nhiêu đơn vị đầu ra. Chỉ tiêu H được dùng để xác định ảnh hưởng của hiệu quả sử dụng nguồn lực hay chi phí thường xuyên đến kết quả kinh tế. b) Dạng nghịch Chỉ tiêu E cho biết để có được một đơn vị đầu ra cần bao nhiêu đơn vị đầu vào. Chỉ tiêu E là cơ sở để xác định quy mô tiết kiệm hay lãng phí nguồn lực và chi phí thường xuyên. 2. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh tế (Q) và chi phí kinh tế (C). 2.1. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh tế (Q). Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những sản phẩm mang lại lợi ích tiêu dùng xã hội được thể hiện là sản phẩm vật chất hoặc sản phẩm dịch vụ. Những sản phẩm này phải phù hợp với lợi ích kinh tế và trình độ văn minh của tiêu dùng xã hội. Nó phải được người tiêu dùng chấp nhận. Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được biểu thị bằng các chỉ tiêu hiện vật và các chỉ tiêu giá trị. Kết quả kinh doanh có liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh, phân tích kết quả cùng với phân tích điều kiện sản xuất kinh doanh sẽ giúp ta đánh giá được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì thế, việc phân tích kết quả sản xuất kinh doanh là vô cùng quan trọng và cần thiết. a) Các chỉ tiêu tính bằng đơn vị hiện vật. Nửa thành phẩm là chỉ tiêu theo dõi kết quả sản xuất của một sản phẩm hoặc một chi tiết sản phẩm. Nửa thành phẩm là kết quả sản xuất đã qua chế biến ở một hoặc một số giai đoạn công nghệ nhưng chưa qua chế biến ở giai đoạn công nghệ cuối cùng trong qui trình công nghệ chế biến sản phẩm. Chỉ tiêu sản phẩm hoàn thành (thành phẩm) là những sản phẩm đã qua chế biến ở tất cả các giai đoạn công nghệ cần thiết trong qui trình công nghệ chế tạo sản phẩm và đã hoàn thành việc chế biến ở giai đoạn cuối cùng, đã qua kiểm tra và đạt tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Chỉ tiêu sản phẩm qui ước (tính theo sản phẩm tiêu chuẩn) phản ánh lượng sản phẩm tính đổi từ các lượng sản phẩm cùng tên nhưng khác nhau về mức độ, phẩm chất và qui cách. Sản phẩm qui ước được tính theo công thức: Lượng sản phẩm qui ước = b) Các chỉ tiêu tính bằng đơn vị tiền tệ Chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất (GO). Khái niệm: Tổng giá trị sản xuất là toàn bộ của cải vật chất và dịch vụ được tạo ra trong một thời kỳ nhất định của doanh nghiệp, thường tính cho một năm. Tổng giá trị sản xuất bao gồm: giá trị những sản phẩm vật chất và giá trị những hoạt động dịch vụ phi vật chất. Mỗi doanh nghiệp thường hoạt động trên nhiều lĩnh vực, vì vậy để tính tổng giá trị sản xuất của doanh nghiệp, thống kê cần phải tính ra giá trị sản xuất của từng loại hoạt động của doanh nghiệp, sau đó tổng hợp lại mới có chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất. Chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất phản ánh qui mô kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong thời kỳ nghiên cứu. Chỉ tiêu này biểu hiện thành tựu hoặc kết quả của tập thể lao động của một doanh nghiệp. Theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), GO được xác định theo phương pháp xí nghiệp, phương pháp ngành, phương pháp nền kinh tế quốc dân. Để xác định GO một doanh nghiệp, trong thống kê sử dụng phương pháp xí nghiệp, GO của doanh nghiệp công nghiệp làm cơ sở để xác định GO của ngành và của nền kinh tế quốc dân. Nội dung kinh tế: Tuỳ từng điều kiện mỗi doanh nghiệp có thể tính GO theo hai loại giá. - Chỉ tiêu GO tính theo giá so sánh (cố định) bao gồm: + Giá trị thành phẩm làm bằng nguyên vật liệu của xí nghiệp gồm cả thành phẩm bán ra, tồn kho và gửi bán. + Giá trị thành phẩm làm bằng nguyên vật liệu của khách hàng (kể cả giá trị vật tư và giá trị chế biến). Trong thực tế nếu doanh nghiệp nào không có giá trị thành phẩm làm bằng nguyên vật liệu của khách hàng thì không phải tính nội dung này. + Giá trị phế liệu, phế phẩm, thứ phẩm, phụ phẩm thu hồi đã tiêu thụ được. Phụ phẩm: là những sản phụ phát sinh khi sản xuất sản phẩm chính. + Giá trị dịch vụ công nghiệp đã hoàn thành cho bên ngoài như: sửa chữa máy móc thiết bị, phương tiện vận tải cho khách hàng, gia công ngắn và hoàn chỉnh sản phẩm cho khách hàng. + .Những chênh lệch giữa cuối và đầu kỳ của sản phẩm trung gian (sản phẩm dở dang và nửa thành phẩm). Có hai loại dấu: dương (+) và (-). Đầu kỳ dùng nhiều hơn so với cuối kỳ mang dấu âm và ngược lại. + Giá trị cho thuê máy móc thiết bị trong dây chuyền sản xuất chính. - Chỉ tiêu GO tính theo giá hiện hành bao gồm: + Doanh thu tiêu thụ sản phẩm chính. + Doanh thu tiêu thụ sản phẩm phụ. + Doanh thu bán phế liệu, phế phẩm, thứ phẩm, phụ phẩm thu hồi trong kỳ. + Doanh thu cho thuê máy móc thiết bị trong dây chuyền sản xuất chính. + Chênh lệch cuối và đầu kỳ thành phẩm tồn kho. + Chênh lệch cuối và đầu kỳ thành phẩm gửi bán. + Chênh lệch giữa cuối và đầu kỳ sản phẩm trung gian. + Giá trị công việc dịch vụ công nghiệp. ý nghĩa: Chỉ tiêu tổng giá trị sản ._.xuất được sử dụng để tính toán hàng loạt các chỉ tiêu kinh tế khác như: năng suất lao động, giá thành tổng hợp, hiệu năng sử dụng lao động, tài sản,...Muốn tính được phần giá trị tăng thêm, trước hết phải tính được chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất. Chỉ tiêu giá trị gia tăng (VA). Khái niệm: Giá trị gia tăng là một chỉ tiêu tổng hợp tính bằng tiền biểu hiện phần giá trị do hai yếu tố tích cực của sản xuất tạo ra là lao động và tư liệu lao động. Chỉ tiêu phản ánh toàn bộ kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất và dịch vụ được tạo ra ở doanh nghiệp đó trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Nội dung kinh tế: Chỉ tiêu giá trị gia tăng xét theo yếu tố bao gồm: - Thu nhập của người lao động (hay thu nhập lần đầu của người lao động) gồm các khoản sau: Tiền lương, tiền công. Tiền thưởng có liên quan đến sản xuất kinh doanh: thưởng tiết kiệm vật tư; thưởng năng suất hoặc chất lượng... Các khoản trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế...mà doanh nghiệp trả thay cho người lao động. Các khoản trợ cấp mà doanh nghiệp hoặc cơ quan bảo hiểm trả thay lương do nghỉ ốm, trợ cấp khó khăn, trợ cấp thai sản... Chi phí đi du lịch nghỉ mát (doanh nghiệp chi cho người lao động) lấy từ kết quả sản xuất kinh doanh từ năm tính toán. Tiền phụ cấp công tác phí (không kể tiền tàu xe, tiền thuê chỗ ở...) - Khấu hao tài sản cố định: giá trị khấu hao tài sản cố định phát sinh trong năm được coi là một bộ phận giá trị gia tăng của doanh nghiệp. - Thuế sản xuất bao gồm tất cả các loại thuế đánh vào sản xuất như thuế môn bài, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, các loại lệ phí coi như thuế... - Lãi (lỗ) của doanh nghiệp: đây là phần lãi gộp mà doanh nghiệp thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh (thường gọi là thu nhập lần đầu của doanh nghiệp). ý nghĩa: Chỉ tiêu giá trị gia tăng phản ánh tổng hợp toàn bộ thành quả của đơn vị trong một thời gian nhất định. Nó là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất mở rộng, cải thiện đời sống người lao động và là cơ sở để tính thuế VAT thay cho thuế doanh thu. Thuế doanh thu đánh vào doanh thu của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh và thu nhập của doanh nghiệp. Thuế VAT là thuế gián thu, người tiêu dùng phải chịu nhưng lại thông qua kết quả sản xuất của doanh nghiệp nên không ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh và thu nhập của doanh nghiệp. Chỉ tiêu VA được tính theo phương pháp SNA, là một bộ phận của giá trị sản xuất của doanh nghiệp, là cơ sở để tính tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của nền kinh tế quốc dân. Nó phản ánh phần giá trị mới sáng tạo của từng doanh nghiệp đóng góp vào chỉ tiêu chung của nền kinh tế. Chỉ tiêu giá trị gia tăng thuần (NVA). Khái niệm: Giá trị gia tăng thuần là chỉ tiêu biểu hiện toàn bộ giá trị mới được sáng tạo trong năm của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của doanh nghiệp. Nội dung kinh tế: Chỉ tiêu giá trị gia tăng thuần bao gồm: +Thu nhập lần đầu của người lao động. +Thuế sản xuất. +Lãi (lỗ) của doanh nghiệp. ý nghĩa: Chỉ tiêu NVA phản ánh kết quả tổng hợp nhất những cố gắng của doanh nghiệp trong quản lý và tổ chức sản xuất. Đối với mọi doanh nghiệp, điều kiện tiên quyết để tồn tại và phát triển là giá trị gia tăng thuần phải không ngừng tăng lên. Giá trị gia tăng thuần là nguồn gốc cho việc cải thiện mức sống cho người lao động. Một phần của nó đóng góp cho xã hội, phần còn lại được sử dụng để trích lập các quỹ của doanh nghiệp như: quỹ đầu tư phát triển, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng,... Chỉ tiêu doanh thu: Khái niệm: Doanh thu là chỉ tiêu tổng hợp tính bằng tiền bao gồm toàn bộ giá trị sản phẩm mà doanh nghiệp đã tiêu thụ và thu tiền về trong một thời kỳ dưới dạng tiền mặt hay thông qua chuyển khoản ở ngân hàng. Nội dung kinh tế: Chỉ tiêu doanh thu được tính theo giá hiện hành bao gồm: - Giá trị sản phẩm vật chất và các dịch vụ đã hoàn thành được tiêu thụ ngay trong kỳ báo cáo. - Giá trị sản phẩm vật chất hoàn thành trong các kỳ trước tiêu thụ được trong kỳ báo cáo. - Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ hoàn thành đã giao cho người mua trong các kỳ trước và nhận được thanh toán trong kỳ báo cáo. Do tính theo giá bán thực tế nên chỉ tiêu doanh thu của doanh nghiệp chia ra các mức độ: .Doanh thu thuần: là tổng doanh thu bán hàng đã trừ đi các khoản giảm trừ như thuế sản xuất, giảm giá hàng, giá trị hàng đã bán bị trả lại, các khoản đền bù sửa chữa hàng hư hỏng còn trong thời hạn bảo hành. Doanh thu thuần là chỉ tiêu dùng để tính chỉ tiêu lãi lỗ trong kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. ý nghĩa: Doanh thu là chỉ tiêu dùng để đánh giá quan hệ tài chính, xác định lỗ lãi hiệu quả kinh doanh, đồng thời đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và xác định số vốn đã thu hồi. Chỉ tiêu này có tác dụng khuyến khích chẳng những ở khâu sản xuất tăng thêm số lượng, chất lượng mà còn ở cả khâu tiêu thụ. Chỉ tiêu lợi nhuận. Khái niệm: Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi phần chi phí sản xuất hay giá thành sản phẩm. Nội dung kinh tế: Lãi kinh doanh là phần chênh lệch dương giữa doanh thu và chi phí bao gồm: - Lãi thu từ kết quả tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và các công việc có tính chất công nghiệp của doanh nghiệp (gọi là lãi thu từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh). - Lãi thu từ kết quả hoạt động tài chính như: lãi tiền gửi tiết kiệm ngân hàng, lãi mua trái phiếu, tín phiếu kho bạc, lãi vốn mang đi liên doanh, lãi mua cổ phần,... - Lãi thu từ kết quả hoạt động bất thường như: kết quả kinh doanh bị bỏ sót từ các kỳ trước kỳ này tìm ra, tiền phạt vi phạm hợp đồng,... Trong ba bộ phận nói trên, lãi thu từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tổ chức hạch toán doanh nghiệp thường tính các chỉ tiêu lãi sau: - Tổng lãi gộp (LG) là chỉ tiêu lãi chưa trừ đi chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp, hay nói cách khác chỉ tiêu lãi chưa trừ đi các khoản chi phí tiêu thụ. - Tổng lãi thuần trước thuế (LT) là chỉ tiêu lãi sau khi đã trừ đi các khoản chi phí tiêu thụ. - Tổng lãi thuần sau thuế (L) là chỉ tiêu lãi sau khi đã trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp nộp ngân sách nhà nước. ý nghĩa: Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh một trong các mục tiêu quan trọng về kinh doanh và dùng để tính các chỉ tiêu kinh tế như: mức lợi nhuận bình quân mỗi lao động, mức doanh lợi của vốn,...Lợi nhuận quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. 2.2.Nhóm các chỉ tiêu phản ánh chi phí kinh tế (C). 2.2.1. Chi phí tạo ra nguồn lực. (Đây là điều kiện cần thiết cho sản xuất kinh doanh) Chỉ tiêu vốn đầu tư. Vốn đầu tư cơ bản là việc bỏ tiền để tiến hành các hoạt động xây dựng cơ bản gồm xây dựng mới, xây dựng lại, mở rộng và khôi phục các tài sản cố định của doanh nghiệp. Để nghiên cứu hiệu quả vốn đầu tư, thống kê tính các chỉ tiêu: thời hạn thu hồi vốn đầu tư, hệ số thu hồi vốn đầu tư, xuất vốn đầu tư hệ số vốn đầu tư, hệ số hiệu quả vốn đầu tư. Trong đó chỉ tiêu hệ số hiệu quả vốn đầu tư là quan trọng nhất. Chỉ tiêu vốn sản xuất kinh doanh. Vốn sản xuất kinh doanh là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn sản xuất kinh doanh giúp doanh nghiệp hoạt động được liên tục, đảm bảo mục tiêu đề ra. Quy mô của doanh nghiệp lớn hay nhỏ cũng phụ thuộc nhiều vào vốn sản xuất kinh doanh. Nếu xét theo nguồn hình thành thì vốn sản xuất kinh doanh được hình thành từ các nguồn sau: - Vốn do ngân sách nhà nước cấp. - Vốn tự bổ sung. - Vốn vay. - Vốn huy động khác. Nếu xét theo tính chất hoạt động thì vốn sản xuất kinh doanh gồm hai bộ phận là vốn cố định và vốn lưu động. - Vốn cố định là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giữ chức năng của các tư liệu lao động, chúng tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, sau mỗi chu kỳ giá trị của chúng được chuyển từng phần vào giá thành sản phẩm và giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu của nó. Vốn cố định là phần giá trị còn lại của tài sản cố định sau khi đã trừ đi phần khấu hao. Vốn lưu động là một bộ phận thứ hai của vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là biểu hiện bằng tiền của giá trị tài sản lưu động được sử dụng vào quá trình tái sản xuất. Nó chủ yếu giữ chức năng của đối tượng lao động, sau khi hoàn thành một chu kỳ của quá trình sản xuất, đối tượng lao động bị biến đổi hoàn toàn về hình thái vật chất và được chuyển toàn bộ giá trị của nó vào giá trị sản phẩm. Chỉ tiêu giá trị bình quân tài sản cố định. Tài sản cố định là những tư liệu lao động có giá trị lớn và có thời gian sử dụng qua nhiều kỳ sản xuất kinh doanh. Tài sản cố định là cơ sở vật chất kỹ thuật của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, chủ doanh nghiệp nào chú trọng đầu tư và đổi mới cơ cấu đầu tư trang bị kỹ thuật cho sản xuất kinh doanh sẽ tạo điều kiện giải phóng sức lao động của con người, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm và do đó tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với mọi doanh nghiệp. Tài sản cố định là chỉ tiêu thời điểm, cho nên để đánh giá được hiệu quả sử dụng tài sản cố định thì cần tính giá trị tài sản cố định bình quân dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ. Chỉ tiêu giá trị tài sản lưu động bình quân. Tài sản lưu động khác với tài sản cố định ở tính chất tái sản xuất và mức độ chuyển dịch giá trị của chúng vào sản phẩm. Tài sản lưu động tham gia một lần vào quá trình sản xuất, do đó toàn bộ giá trị của nó được chuyển dịch một lần vào giá trị sản phẩm. Vì thế tài sản lưu động có tốc độ chu chuyển nhanh hơn, không phải nhiều năm như máy móc thiết bị và nhà xưởng thuộc tài sản cố định, mà thông thường thời hạn quay vòng tối đa là một năm. Vì vậy, trong mỗi vòng quay, khối lượng vốn lưu động không cần nhiều như khối lượng vốn cố định. Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động ta tính giá trị bình quân theo công thức: Hoặc: Trong đó: V1,V2...Vn là giá trị tài sản lưu động tại các thời điểm thống kê trong kỳ nghiên cứu. Chỉ tiêu số lao động bình quân. Số lượng lao động của doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng vì con người là chủ thể của quá trình sản xuất kinh doanh, mọi quá trình sản xuất kinh doanh được thông qua người lao động với những trình độ nhất định về nghề nghiệp, quan điểm, thái độ về kinh tế chính trị xã hội. Số lao động sử dụng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ có thể nghiên cứu theo hai chỉ tiêu: số lao động hiện có và số lao động bình quân. Số lao động hiện có của doanh nghiệp là những người lao động đã ghi tên vào danh sách lao động của doanh nghiệp, do doanh nghiệp quản lý và sử dụng sức lao động, trả thù lao lao động theo hợp đồng đã thoả thuận giữa người lao động và chủ doanh nghiệp. Số lao động bình quân của doanh nghiệp được tính theo công thức: hoặc hoặc Trong đó: TĐK: số lao động có tại thời điểm đầu kỳ nghiên cứu. TCK: số lao động có tại thời điểm cuối kỳ nghiên cứu. Ti: số lao động có ở ngày thứ i trong kỳ nghiên cứu. ni (i=1,n): Số ngày có số lao động là Ti (hay tần số xuất hiện lặp lại của Ti trong kỳ nghiên cứu). 2.2.2. Chi phí sử dụng nguồn lực. Đó là sự tiêu hao và chi phí các yếu tố sản xuất theo không gian và thời gian được gọi là chi phí thường xuyên, được phản ánh qua các chỉ tiêu: Tổng giá thành. Chi phí trung gian. Tổng số thời gian làm việc của lao động. 3. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các chỉ tiêu kết quả kinh tế thường là giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, doanh thu, lợi nhuận... Có hai chỉ tiêu kết quả cần phải xem xét khi tính các chỉ tiêu hiệu quả đó là: giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm. Đối với chỉ tiêu hiệu quả kinh tế nguồn lực sản xuất thì kết quả kinh tế là chỉ tiêu giá trị tăng thêm. Bởi nếu sử dụng chỉ tiêu giá trị sản xuất để xác định hiệu quả kinh tế nguồn lực dẫn đến vi phạm nguyên tắc so sánh được vì nguồn lực sản xuất không bao hàm tính trùng chi phí lao động quá khứ, còn giá trị sản xuất bao gồm yếu tố này. Mặt khác, việc sử dụng giá trị sản xuất để xác định hiệu quả kinh tế nguồn lực không phản ánh được ảnh hưởng của tiết kiệm hao phí lao động quá khứ (IC). Đại lượng này không phản ánh cả trong đại lượng kết quả kinh tế và nguồn lực sản xuất. Còn chỉ tiêu giá trị tăng thêm so sánh được với chỉ tiêu nguồn lực sản xuất. Vì chỉ tiêu (VA) không bao gồm tính trùng hao phí lao động quá khứ, đồng thời phản ánh được ảnh hưởng của tiết kiệm chí phí lao động quá khứ (IC). Đối với chỉ tiêu hiệu quả kinh tế chi phí thường xuyên thì kết quả kinh tế là chỉ tiêu giá trị sản xuất. Bởi vì chi phí thường xuyên gồm cả chi phí lao động vật hoá và bao gồm tính trùng yếu tố này. Tiết kiệm lao động vật hoá làm giảm chi phí thường xuyên và do vậy làm tăng chỉ tiêu hiệu quả tính được. Chỉ tiêu VA về cơ bản không gồm yếu tố chi phí lao động vật hoá, khi tiết kiệm chi phí trung gian làm tăng VA do vậy sẽ làm tăng chỉ tiêu hiệu quả tính được, nếu chọn chỉ tiêu này làm kết quả kinh tế đem ra so sánh thì ảnh hưởng tiết kiệm lao động quá khứ được tính đến hai lần: một lần ở chỉ tiêu chi phí và một lần ở chỉ tiêu kết quả. Chỉ tiêu GO tính toàn bộ giá trị sản phẩm trong đó gồm toàn bộ chi phí lao động vật hoá. Nên chỉ tiêu giá trị sản xuất đảm bảo nguyên tắc so sánh được với chi phí thường xuyên. 3.1. Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng lao động. Chỉ tiêu mức năng suất lao động. Công thức: Trong đó: Q thường là các chỉ tiêu GO, VA, giá trị sản lượng hàng hoá, mức lưu chuyển hàng hoá, doanh thu. Ngoài ra, nó còn được tính với đơn vị hiện vật và hiện vật quy ước. T thường là các chỉ tiêu: tổng số giờ người làm việc thực tế (Tgc), tổng số ngày làm việc thực tế (Tnc) và tổng số công nhân hiện có bình quân. Như vậy, tuỳ theo cách tính mức năng suất lao động với các cặp chỉ tiêu phản ánh Q và T khác nhau mà ta có: Mức năng suất lao động tính bằng đơn vị hiện vật (Whv) Mức năng suất lao động tính bằng đơn vị tiền tệ (Wtt) Mức năng suất lao động bình quân 1 giờ làm việc (Wg) Mức năng suất lao động bình quân 1 ngày làm việc (Wg) Mức năng suất lao động bình quân 1 công nhân (WCN) Trường hợp tổng thể bao gồm nhiều bộ phận cùng tham gia sản xuất ta có mức năng suất lao động bình quân chung của tổng thể () Trong mỗi cách tính đều có mặt ưu, nhược điểm khác nhau, nhưng năng suất lao động tính theo đơn vị giá trị phản ánh chính xác hơn cả. Tuy nhiên, nó còn có nhược điểm là chịu ảnh hưởng lớn của nhân tố giá cả. Khắc phục tình trạng này, người ta tính mức năng suất lao động theo giá so sánh hoặc giá cố định. Chỉ tiêu lượng lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị kết quả sản xuất (t): Công thức: Mức doanh lợi theo lao động: Công thức: ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết bình quân mỗi lao động của doanh nghiệp làm ra bao nhiêu triệu đồng lợi nhuận trong kỳ. Thu nhập bình quân của người lao động: Nâng cao thu nhập người lao động cũng là tiêu chuẩn đánh giá doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, tốc độ tăng thu nhập bình quân phải nhỏ hơn tốc độ tăng năng suất lao động thì mới đảm bảo tái sản xuất mở rộng và nâng cao thu nhập của người lao động mới bền vững. Công thức: 3.2. Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng tài sản. 3.2.1. Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Chỉ tiêu hiệu suất (hay hiệu năng) TSCĐ : Công thức: Trong đó: + Q: là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh thường dùng GO, VA, tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá (G), tổng doanh thu thuần (DT). +: giá trị TSCĐ bình quân dùng vào sản xuất kinh doanh. ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 1 triệu đồng giá trị tài sản cố định đầu tư cho sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được mấy triệu đồng kết quả sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu suất hao phí TSCĐ : Công thức: ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết để tạo ra 1 triệu đồng kết quả sản xuất kinh doanh thì cần phải tiêu hao mấy triệu đồng giá trị tài sản cố định. Chỉ tiêu mức doanh lợi TSCĐ : Công thức: Trong đó: Ln là lợi nhuận kinh doanh (thường dùng tổng lãi thuần trước thuế và lãi thuần sau thuế). ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 1 triệu đồng giá trị tài sản cố định bình quân đầu tư cho sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được mấy triệu đồng lợi nhuận. 3.2.2. Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản lưu động. a. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả chung của TSLĐ Chỉ tiêu hiệu suất (hay hiệu năng) TSLĐ : Công thức: Trong đó: Q là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất thường dùng G, DT. ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 1 triệu đồng giá trị TSLĐ bình quân dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được mấy triệu đồng tổng doanh thu hay tổng doanh thu thuần. Chỉ tiêu mức doanh lợi tài sản lưu động (Rv) Công thức: ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 1 triệu đồng giá trị tài sản lưu động bình quân dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu triệu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu mức doanh lợi tổng doanh thu (): Công thức: ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 1 triệu đồng tổng doanh thu tạo ra trong kỳ thì có mấy triệu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu mức doanh lợi tổng doanh thu thuần (): Công thức: ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 1 triệu đồng tổng doanh thu thuần tạo ra trong kỳ thì có mấy triệu đồng lợi nhuận. b. Các chỉ tiêu phản ánh tốc độ chu chuyển vốn lưu động. Chỉ tiêu số vòng quay (hay số lần chu chuyển) của vốn lưu động (): Công thức: ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết trong kỳ vốn lưu động của doanh nghiệp quay được mấy vòng hay chu chuyển được mấy lần. Chỉ tiêu độ dài bình quân một vòng quay vốn lưu động (t): Công thức: Trong đó: N là số ngày theo lịch của kỳ nghiên cứu ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết thời gian vật chất cần thiết để thực hiện một vòng quay vốn lưu động. Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động : Công thức: ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết để tạo ra 1 triệu đồng tổng doanh thu thuần thì cần phải tiêu hao mấy triệu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu số vốn lưu động tiết kiệm (hay lãng phí) do tốc độ chu chuyển vốn nhanh hay chậm gây ra (): Công thức: =.DT1 (hay G1) hoặc: Trong đó: -DT1 (hay G1): tổng doanh thu thuần kỳ nghiên cứu (hay tổng doanh thu kỳ nghiên cứu). -t1, t0: độ dài bình quân một vòng quay vốn lưu động kỳ nghiên cứu và kỳ gốc. 3.3. Các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. Như ta đã biết, kết quả sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu thời kỳ, vốn sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu thời điểm, nên để đảm bảo yêu cầu so sánh được thì vốn sản xuất kinh doanh phải được tính bình quân. hay =Vốn cố định BQ + Vốn lưu động BQ Chỉ tiêu hiệu suất (hay hiệu năng) tổng vốn: Công thức: ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 1 triệu đồng vốn tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được mấy triệu đồng giá trị sản xuất (hay giá trị gia tăng hoặc tổng doanh thu). Chỉ tiêu mức doanh lợi tổng vốn (hay doanh lợi chung) : Công thức: ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 1 triệu đồng bỏ vào sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được mấy triệu đồng lợi nhuận. 4. Một số phương pháp phân tích hiệu quả và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 4.1. Phương pháp dãy số thời gian. Phương pháp này dùng để phân tích xu hướng biến động của hiện tượng theo thời gian. Qua dãy số thời gian có thể nghiên cứu các đặc điểm về sự biến động của hiện tượng, vạch rõ được xu hướng và tính quy luật của sự phát triển, đồng thời dự đoán được hiện tượng trong tương lai. Tuy nhiên trong bài viết này, ta chỉ sử dụng các chỉ tiêu của dãy số thời gian để phân tích sự biến động của hiệu quả và kết quả sản xuất kinh doanh. Các chỉ tiêu của dãy số thời gian gồm có: Mức độ trung bình theo thời gian. Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối. Tốc độ phát triển. Tốc độ tăng (hoặc giảm). Giá trị tuyệt đối của 1% tăng (hoặc giảm). 4.2. Phương pháp chỉ số. Trong phân tích kinh tế doanh nghiệp, thống kê thường dùng hệ thống chỉ số tổng hợp. Hệ thống chỉ số tổng hợp được dùng để phân tích ảnh hưởng của các nhân tố cấu thành đối với một hiện tượng phức tạp, cho ta các thông tin mới về sự biến động của hiện tượng theo sự tác động của các nhân tố cấu thành đó. Như đã biết, các nhân tố hiệu quả có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh.Vì vậy, thông qua phương pháp chỉ số, ta thấy được việc sử dụng các yếu tố đầu vào nào là chưa có hiệu quả để từ đó đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời, vận dụng phương pháp chỉ số để phân tích biến động hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp như phân tích biến động của năng suất lao động bình quân do ảnh hưởng của hiệu suất sử dụng vốn và mức trang bị vốn cho lao động... Ta theo các hướng phân tích sau đây: Giá trị sản xuất = Mức NSLĐ bình quân x Số lao động bình quân Doanh thu = Mức doanh thu bình quân mỗi lao động x Số lao động bình quân hoặc = Mức doanh thu trên mỗi đơn vị vốn SXKD x Khối lượng vốn tương ứng (hay từng bộ phận vốn) Lợi nhuận = Mức doanh lợi bình quân mỗi lao động x Số lao động bình quân (Lãi thuần) hoặc = Mức doanh lợi của vốn sản xuất x Khối lượng vốn tương ứng kinh doanh của từng bộ phận v.v... Chương III. Vận dụng hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp thống kê đã đề xuất để đánh giá, phân tích hiệu quả và kết quả sản xuất kinh doanh ở Công ty chế tạo dầm thép và xây dựng Thăng Long. I. Khái quát về công ty chế tạo dầm thép và xây dựng Thăng Long. 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty. Công ty chế tạo dầm thép và xây dựng Thăng Long được thành lập ngày 26/8/1974 với tên gọi Công ty cơ giới 4 thuộc Liên hiệp các xí nghiệp xây dựng cầu Thăng Long, nhiệm vụ chủ yếu là: sản xuất, gia công cơ khí phục vụ thi công công trình cầu Thăng Long. Vốn của công ty chủ yếu là do nhà nước cấp. Khi công trình cầu Thăng Long sắp hoàn thành và để phù hợp với nhiệm vụ mới, ngày 19/12/1984 Bộ giao thông vận tải quyết định đổi tên công ty thành Nhà máy cơ khí 4. Với những nhiệm vụ của từng thời kỳ khác nhau, đến tháng 3/1993 nhà máy đổi tên thành nhà máy cơ khí Thăng Long. Năm 1997, lãnh đạo nhà máy thấy rằng tên nhà máy vẫn chưa bao quát được hết chức năng nhiệm vụ hiện nay, nên ngày 27/3/1997 nhà máy đổi tên thành nhà máy chế tạo dầm thép và kết cấu thép Thăng Long. Ngày 9/3/1998 Bộ giao thông vận tải đồng ý đổi tên nhà máy thành công ty chế tạo dầm thép và xây dựng Thăng Long cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Công ty chế tạo dầm thép và xây dựng Thăng Long là doanh nghiệp nhà nước, tự tổ chức sản xuất kinh doanh, hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản tại ngân hàng và được sử dụng dấu riêng. -Vốn kinh doanh của công ty (1/1/1992): 2260 triệu đồng. Trong đó:+Vốn cố định: 1581 triệu đồng. +Vốn lưu động: 679 triệu đồng Bao gồm các nguồn vốn:+Vốn ngân sách nhà nước cấp: 1567 triệu đồng. +Vốn doanh nghiệp tự bổ sung: 471 triệu đồng. +Vốn vay: 222 triệu đồng. Ngành nghề kinh doanh chủ yếu là: chế tạo kết cấu thép và dầm cầu thép, lắp đặt quản lý hệ thống điện 35KV, sản xuất và sửa chữa các loại thiết bị thi công công trình sản xuất, lắp đặt các thiết bị nâng, hạ, các loại cần trục chạy trên ray, xây dựng các công trình giao thông công nghiệp và sản xuất sản phẩm công nghiệp khác. Qua 25 năm xây dựng và trưởng thành, công ty đã tham gia thi công nhiều công trình trên phạm vi toàn quốc và cả nước Lào. Tất cả các công trình và sản phẩm của công ty đã thi công đều được đánh giá cao về chất lượng công trình và đảm bảo tiến độ của chủ đầu tư. Công ty không những bảo toàn được vốn mà còn làm cho vốn tăng thêm. Vốn kinh doanh của công ty đầu năm 2000 là 118.696 triệu đồng tăng 5152,04% so với năm 1992, trong đó vốn doanh nghiệp tự bổ sung là 3.465 triệu đồng tăng 635,67%. Giá trị sản xuất của công ty năm 1999 đạt 42.236 triệu đồng tăng 45,08% so với năm 1997 (là 29.112 triệu đồng), doanh thu năm 1999 đạt 37.536 triệu đồng tăng 51,99% so với năm 1997 (đạt 24.696 triệu đồng), lợi nhuận năm 1999 đạt 3.328 triệu đồng tăng 21,24% so với năm 1997 (đạt 2.745 triệu đồng). Thu nhập của người lao động ổn định và không ngừng được nâng lên. Thu nhập bình quân năm 1999 là 1.242 ngàn đồng/người/tháng. Công ty đã tạo được đầy đủ việc làm cho cán bộ công nhân viên, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ. Đồng thời, công ty còn nộp đủ thuế cho ngân sách nhà nước. Hiện nay, công ty còn đầu tư thêm một dây chuyền hiện đại cho công nghiệp chế tạo dầm thép và các sản phẩm về kết cấu thép được nhập từ Pháp với trị giá 63 tỷ đồng. Dây chuyền đã đi vào hoạt động nên công suất kết cấu thép của công ty rất lớn, rất đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng với mọi sản phẩm, mọi lĩnh vực xây dựng công nghiệp cũng như dân dụng. Trong suốt thời gian qua, công ty đã được tặng huân huy chương các loại của các cấp, các ngành và cấp nhà nước. 2. Quy mô, cơ cấu tổ chức của công ty. Toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty chế tạo dầm thép và xây dựng Thăng Long đều chiụ sự lãnh đạo thống nhất của ban giám đốc. Ban giám đốc chịu trách nhiệm chung về mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, đời sống công nhân viên trong công ty. Trong ban giám đốc có một phó giám đốc đảm nhiệm công tác kinh doanh điều hành kế hoạch tác nghiệp hàng ngày và công tác nội chính; một phó giám đốc phụ trách việc điều hành sản xuất theo kế hoạch tác nghiệp, phụ trách công tác chất lượng kỹ thuật, công nghệ, đào tạo, bảo hộ lao động, sáng kiến, tiết kiệm, duyệt các luận chứng kinh tế đầu tư mua sắm và thanh lý tài sản thiết bị; một phó giám đốc có trách nhiệm giải quyết mọi việc về công tác đối ngoại, chuẩn bị sản xuất từ xa, thanh quyết toán công nợ và đôn đốc kiểm tra việc thực hiện và thanh lý các hợp đồng kinh tế, hoạt động sản xuất, xây dựng chiến lược sản phẩm của công ty, đồng thời quản lý điều hành tổ chức sản xuất và tìm thêm việc làm cho nhà máy dầm thép. Dưới ban giám đốc có 5 phòng ban, 4 phân xưởng và 3 đội với chức năng như sau: Sơ đồ hệ thống tổ chức bộ máy công ty Phòng tổ chức điều hành: đây là một bộ phận tổng hợp từ các ban tổ chức cán bộ và hành chính quản trị. Nhiệm vụ của phòng là bố trí sắp xếp lại lao động trong công ty về số lượng, trình độ nghiệp vụ tay nghề từng phòng, ban, phân xưởng, đội. Phòng kinh doanh bao gồm điều độ, kế hoạch, tiền lương, vật tư và định mức. Phòng có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch tháng, quý, năm và soạn thảo các hợp đồng kinh tế trình giám đốc nhà máy ký. Xây dựng và điều độ kế hoạch tác nghiệp hàng ngày, xác định khối lượng hoàn thành hàng tháng cho các đơn vị để có cơ sở trả lương. Thống kê kế hoạch tuần, tháng, quý, năm báo cáo cho giám đốc và cấp trên. Soạn thảo các hợp đồng và thanh lý hợp đồng với khách hàng. Xây dựng giá sản phẩm và đảm bảo công tác cung ứng, thanh toán vật tư thiết bị, kỹ thuật và hàng hoá theo kế hoạch. Quản lý sổ sách, hoá đơn chứng từ, bảo quản vật tư hàng hoá. Đồng thời xây dựng quỹ tiền lương, chia lương, thưởng, xây dựng định mức lao động và cùng với các phòng ban chức năng khác xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật đảm bảo cho việc chuẩn bị sản xuất và ký kết các hợp đồng kinh tế. Phòng kỹ thuật gồm có kỹ thuật và KCS có nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng và tổ chức thực hiện các quy trinh công nghệ và phương án thi công công trình, kế hoạch đầu tư, xây dựng nâng cấp nhà máy và xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật khác. Thiết kế các công trình, sản phẩm để phục vụ sản xuất nội bộ. Bóc tách các bản vẽ chi tiết để triển khai sản xuất và giải quyết các vướng mắc về kỹ thuật từ sản xuất yêu cầu. Xây dựng định mức vật tư kỹ thuật tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, quy cách từng mặt hàng trước khi bắt tay vào sản xuất. Đồng thời soạn thảo các đề thi, chấm thi nâng cấp nâng bậc cho công nhân hàng năm. Phòng tài chính kế toán: nhiệm vụ của phòng là chịu trách nhiệm trước giám đốc và công ty về công tác tài chính của công ty, theo dõi quá trình chi tiêu, tổ chức bộ máy kế toán và hạch toán toàn bộ quá trình kinh doanh của công ty. Ban giá: có nhiệm vụ chủ yếu là tiếp cận với các chủ dự án để chuẩn bị các tài liệu dự thầu gồm lập hồ so tuyển, tổng hợp hồ sơ dự thầu, phối hợp với phòng kế hoạch, kỹ thuật và các bộ phận có liên qua để tham gia đấu thầu công trình. Biên dịch tài liệu thầu đồng thời lưu giữ, quản lý hồ sơ có liên quan đến công tác đấu thầu. Ban giám đốc cùng các phòng ban phối hợp hoạt động nhịp nhàng, mỗi phòng ban có nhiệm vụ riêng song có sự liên hệ mật thiết với nhau trong phạm vi chức năng quyền hạn của phòng ban mình. Dưới phòng ban là bộ phận sản xuất gồm 1 nhà máy, 3 phân xưởng và 3 đội. Quản đốc phân xưởng là người chịu trách nhiệm mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh nội bộ của phân xưởng mình: bố trí công nhân từng tổ sao cho phù hợp với trình độ khả năng từng người, thường xuyên giám sát kỹ thuật cho công nhân viên. Như ta đã biết, sự thành bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh phụ thuộc nhiều vào bộ máy quản lý. Bộ máy quản lý là nơi có thể nói đến sự quyết định tồn tại phát triển hay phá sản của một doanh nghiệp. Bộ máy tổ chức quản lý của công ty theo mô hình quản lý trực tuyến chức năng, chỉ có một cấp lãnh đạo, các điểm chức năng có nhiệm vụ tham mưu cho cấp trên theo lĩnh vực chức năng của mình. Do vậy, mô hình này kết hợp được ưu điểm của mô hình trực tuyến và mô hình chức năng: mỗi bộ phận chỉ nhận lệnh từ cấp trên duy nhất, các phòng ban tham mưu cho giám đốc về các nghiệp vụ chức năng của mình, giám đốc căn cứ vào các đề xuất đó để đưa ra các quyết định. Các phòng ban có chức năng thực hiện, theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thi hành các quyết định đó. Với mô hình này, cơ cấu đơn giản, dễ vận hành, dễ theo dõi và kiểm tra. Đây cũng là mô hình đang được áp dụng rộng rãi ở nước ta. 3. Thực trạng về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian qua. Trong những năm qua, do tình hình kinh tế đất nước có nhiều sự chuyển biến lớn nên đã góp phần ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Hiện nay, được sự lãnh đạo của tổng công ty và các phòng ban tổng công ty hết sức giúp đỡ tạo điều kiện giao việc giao vốn để công ty ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống cho gần 500 cán bộ công nhân viên. Đặc biệt được tổng công ty đầu tư một dây chuyền hoàn chỉnh chế tạo dầm thép khẩu độ lớn với thiết bị hiện đại. Bên c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docS0028.doc
Tài liệu liên quan