Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số nângcao hiệu quả quản lý đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội

Tài liệu Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số nângcao hiệu quả quản lý đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội: ... Ebook Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số nângcao hiệu quả quản lý đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội

doc103 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1162 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số nângcao hiệu quả quản lý đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu H iện nay có một điều không thể phủ nhận là vai trò đất đai đang ngày càng trở nên quan trọng, nó gắn liền với sự tồn vong của một quốc gia, là tài sản quý giá, là điểm tựa cho mọi hoạt động lao động sản xuất và sinh hoạt của con người. Đặc biệt khi nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, quá trình đô thị hoá diễn ra trên quy mô toàn cầu gây ra những hậu quả đáng lo ngại như: bùng nổ dân số, hiện tượng ô nhiễm môi trường, mất cân đối trong cơ cấu sử dụng đất…thì việc sử dụng đất như thế nào là một bài toán khó. Tất cả những trở ngại đó là áp lực nặng nề đặt lên vai các nhà quản lý đất đai. Nước ta sau 20 năm đổi mới đã có những thành tựu vượt bậc nhưng hiện vẫn đang là một nước nông nghiệp. Vì vậy, đất nông nghiệp đối với nước ta có ý nghĩa to lớn. Là một huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, Thanh Trì cũng không nằm ngoài thực tế đó. Huyện Thanh Trì nằm ở “ngã ba đường”, là một nút nối giữa Hà Nội, Hà Tây và các tỉnh phía nam như Hà Nam, Nam Định, Nghệ An…Do vậy, nó có vai trò hết sức quan trọng đối với Thủ đô Hà Nội. Trong xu thế đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ, huyện Thanh Trì cũng đang thay đổi từng ngày tác động to lớn đến việc sử dụng đất trên địa bàn huyện. Hiện nay huyện Thanh Trì có số lao động nông nghiệp chiếm tới 60.8%, diện tích đất nông nghiệp chiếm trên 56%. Qua con số đó có thể thấy đất nông nghiệp hết sức có ý nghĩa đối với huyện này. Tuy nhiên, tình hình sử dụng đất nông nghiệp cũng như tình hình chung của cả nước đang diễn biến rất phức tạp. Thực tế đang có những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất nông nghiệp và sự phát triển bền vững của huyện Thanh Trì. Qua thời gian thực tập tại Phòng Tài nguyên và môi trường huyện, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề quản lý đất nông nghiệp, tôi đã lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội”. Quản lý đất nông nghiệp là một vấn đề rộng lớn nên trong phạm vi nghiên cứu đề tài này tôi chỉ xin đề cập đến nội dung là quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Tôi lựa chọn đề tài này với mục đích củng cố, bổ sung, mở rộng những lý thuyết đã được học và hệ thống hoá được các vấn đề lý luận liên quan đến quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Trên cơ sở đó tìm hiểu một cách sâu sắc về tình hình quản lý, sử dụng đất nông nghiệp của huyện Thanh Trì – nơi tôi thực tập trong thời gian qua. Qua đó có thể đưa ra một số giải pháp và kiến nghị với các cấp, các ngành có thẩm quyền nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất nông nghiệp, mong muốn được đóng góp một phần công sức vào công cuộc xây dựng và phát triển của huyện. Báo cáo thực tập tốt nghiệp là sản phẩm kết tinh tất cả những kiến thức tôi đã được học trên giảng đường đại học và đặc biệt là những bài học rút ra từ thực tế trong thời gian thực tập cũng như toàn bộ những số liệu, tài liệu thu thập được trong thời gian qua. Chuyên đề thực tập này được hoàn thành dựa trên việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản : phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh kết hợp với phương pháp phân tích, đánh giá các số liệu, tài liệu của địa phương để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp này có các nội dung chính sau: Lời mở đầu. Chương I: Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Chương II: Thực trạng quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì. Kết luận. Tài liệu tham khảo Do trình độ và thời gian có hạn nên đề tài nghiên cứu này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi mong nhận được sự góp ý quý báu của các thầy cô giáo, các cán bộ Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Thanh Trì để đề tài hoàn thiện hơn. Trong thời gian qua, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các thầy cô giáo, các trợ lý của Trung tâm đào tạo địa chính và kinh doanh bất động sản Trường Đại học Kinh tế quốc dân và các cấp lãnh đạo cũng như các cán bộ Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Thanh Trì. Qua đây, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới Quý cơ quan đã nhiệt tình giúp đỡ, đặc biệt tới Giáo viên hướng dẫn GS.TSKH. Lê Đình Thắng đã hết lòng quan tâm, giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề thực tập này. CHƯƠNG I CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP KHÁI NIỆM ĐẤT NÔNG NGHIỆP Đ ất đai được hình thành qua quá trình lịch sử lâu dài nhờ sự phong hoá đá mẹ dưới sự tác động của các yếu tố: nước, không khí, sinh vật…Theo thời gian, sản phẩm phong hoá tích luỹ thêm chất hữu cơ và tồn tại trong đó sự sống - vật chất đó được gọi là đất. Về thuật ngữ khoa học, đất đai được hiểu theo nghĩa sau: “Đất đai là một khoảng không gian có giới hạn theo chiều thẳng đứng (gồm khí hậu của bầu khí quyển, lớp đất phủ bề mặt, thảm thực vật, động vật, diện tích mặt nước, tài nguyên nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất); theo chiều nằm ngang (là sự kết hợp của thổ nhưỡng, địa hình, thuỷ văn, thảm thực vật cùng các thành phần khác)”. Nhìn vào lịch sử tồn tại hàng ngàn năm của con người, có thể thấy rằng mục đích sử dụng đất đầu tiên của con người là nông nghiệp. Từ thưở sơ khai, những bộ lạc khai thác bề mặt đất đai để trồng trọt và chăn nuôi tạo ra các sản phẩm nuôi sống cộng đồng. Ngày nay, khái niệm đất nông nghiệp đã được sử dụng rộng rãi. “Đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản xuất các ngành nông nghiệp như: trồng trọt, chăn nuôi, làm muối, nuôi trồng thuỷ sản…hoặc sử dụng để nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp”. Đất đai sử dụng trong nông nghiệp được gọi là ruộng đất. Con người tác động vào ruộng đất thông qua canh tác tạo ra sản phẩm phục vụ cho chính cuộc sống của mình. Lúc ban đầu, con người canh tác chỉ để đáp ứng nhu cầu cho cộng đồng theo phương thức “tự cung tự cấp” nhưng xã hội ngày càng phát triển, nông phẩm đã trở thành hàng hoá, ngày nay nó đã là sản phẩm đặc biệt quan trọng xuất hiện nhiều khái niệm mới như: “sản phẩm xanh”, “sản phẩm sạch”… Đất đai sử dụng vào nông nghiệp chiếm vị thế đáng kể đối sự phát triển toàn diện nền kinh tế nhất là với những nước lấy ngành nông nghiệp làm mũi nhọn. Khi con người canh tác trên đất sẽ tạo ra được một khối lượng sản phẩm lớn hơn lượng đủ để nuôi sống người lao động. Từ thực tiễn sinh động đó, Ađam Smith đã nhận định: “Đất, trong hầu hết các tình huống sản sinh ra một lượng lương thực nhiều hơn so với số lượng đủ để duy trì sự sống của người lao động”. Qua đó ta cũng phần nào thấy được vai trò và ý nghĩa của đất nông nghiệp. II. VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẤT NÔNG NGHIỆP 1.Vai trò của đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt, không thể thay thế. Trong nông nghiệp, đất đai đóng vai trò là yếu tố hàng đầu. Nó không chỉ đơn giản là địa điểm, là chỗ đứng để lao động sản xuất mà còn là tư liệu lao động đồng thời là đối tượng lao động. Hoạt động sản xuất nông nghiệp đặc biệt là ngành trồng trọt chính là quá trình con người tác động vào ruộng đất một cách trực tiếp (cày bừa, làm cỏ, đổ ải…) hay gián tiếp (bón phân, làm thuỷ lợi…) nhằm làm thay đổi độ phì nhiêu của đất tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển. Khi tác động vào đất mục tiêu cuối cùng của con người là nâng cao năng suất cây trồng. Trong khi đó sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng chủ yếu dựa vào thuộc tính tự nhiên của đất đó là độ phì nhiêu. Bởi vậy, con người luôn vận dụng những yếu tố kỹ thuật mới nhất kết hợp với các biện pháp: bón phân, cày ải, bố trí cây trồng hợp lý với từng loại đất nhằm tái tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đất. Trong quá trình này ruộng đất đóng vai trò là đối tượng lao động. Song song với đó, con người còn sử dụng đất như là một công cụ để tác động lên cây trồng, con người làm tăng độ màu mỡ của đất nhằm thu được khối lượng sản phẩm lớn hơn đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Khi đó, ruộng đất được coi là tư liệu lao động. Như vậy, trong nông nghiệp đất đai vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động. Với ý nghĩa to lớn này mà đất nông nghiệp được coi là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt, không thể thay thế, là cơ sở tự nhiên sản sinh ra của cải vật chất cho xã hội. Bởi vậy, Wiliam Petis đã khẳng định: “Lao động là cha, đất là mẹ của mọi của cải vật chất”. Đất nông nghiệp là nguồn cung cấp đất đai cho các ngành kinh tế khác. Đối với nước ta cũng như đối với nhiều quốc gia trên thế giới, diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong quỹ đất đai. Ở Việt Nam hiện nay diện tích loại đất này khoảng 21 triệu ha. Mặt khác, diện tích đất nông nghiệp được sử dụng không mấy hiệu quả, năng suất thấp dẫn đến thu nhập trên một đơn vị diện tích nhỏ. Vì vậy, khi cần thiết có thể chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang các loại đất phi nông nghiệp đặc biệt là đất ở, đất xây dựng giao thông, đất khu công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Trong quá trình đô thị hoá, thương mại hóa, quốc tế hoá đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu, nước ta đang trên đà tăng trưởng nhanh thì xu hướng chuyển diện tích đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ. Mặc dù Luật đất đai Việt Nam đã có quy định rất chặt chẽ và nghiêm ngặt trong việc chuyển mục đích sử dụng đất nhất là đất nông nghiệp nhưng tình trạng chuyển đất nông nghiệp sang mục đích khác vẫn xảy ra ồ ạt. Vì vậy, chúng ta cần phải có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn vì sử dụng hợp lý và hiệu quả đất nông nghiệp có ý nghĩa đối với toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa, việc sử dụng đất nông nghiệp còn có ý nghĩa quan trọng với nhiệm vụ bảo đảm an ninh lương thực. Để thực hiện được nhiệm vụ này, trong quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp cần phải chú ý giữ một diện tích đất nông nghiệp phù hợp, không để việc chuyển đổi diễn ra tự phát. 1.3.Đất nông nghiệp là yếu tố quyết định bảo vệ môi trường sinh thái. Đất đai là một trong những yếu tố cấu thành nên môi trường, gắn liền với môi trường tự nhiên và điều kiện sinh thái. Nếu môi trường đất bị phá hoại sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường sinh thái. Nếu đất đai bị ô nhiễm, hậu quả tất yếu là ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí…và ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng cây trồng, vật nuôi. Tuy nhiên, hiện tượng khai thác kiệt quệ đất đai, sử dụng không hợp lý đất đai đang diễn biến hết sức phức tạp. Người sử dụng đất chỉ chú ý đến cái lợi trước mắt mà bỏ qua lợi ích lâu dài. Chính tầm nhìn “lợi bất cập hại” đó đã dẫn đến những thảm họa môi trường vô cùng nghiêm trọng: lở đất, lũ quét, lũ lụt…làm cho cuộc sống của con người luôn bị đe dọa. Trong sử dụng đất nông nghiệp, con người cũng đang có những hành vi làm thay đổi môi trường đất như: dùng quá nhiều phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, khai thác đất mà không bồi dưỡng đất…nghiêm trọng hơn là những hành vi huỷ hoại môi trường: phá rừng, đốt rừng làm nương rẫy…Những việc làm đó làm ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước làm giảm năng suất cây trồng và chất lượng nông phẩm. Đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng rất có ý nghĩa với môi trường và hệ sinh thái. Bởi vậy, khai thác và sử dụng đất đai phải hợp lý không những đối với đất trực tiếp tham gia vào canh tác trong nông nghiệp mà cả đối với đất đai khác để bảo đảm một môi trường sinh thái bền vững. 2. Đặc điểm đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp là một loại đất trong quỹ đất đai vì thế nó mang những đặc điểm chung của đất đai là điều tất yếu. Sau đây là một số đặc điểm chung của đất đai và một vài điểm riêng biệt của đất nông nghiệp. Đặc tính hai mặt: không thể sản sinh và có khả năng tái tạo Đặc điểm đầu tiên mà tôi muốn đề cập đến là tính hai mặt của đất đai. Đất đai có giới hạn về diện tích và không gian, nó bị giới hạn bởi ranh giới đất liền trên bề mặt trái đất và bị giới hạn trong lãnh thổ mỗi quốc gia. Đất đai được hình thành do quá trình biến đổi lâu dài của tự nhiên nên được coi là không có khả năng sản sinh tạo nên đặc tính cơ bản nhất của đất đai. Cũng vì vậy mà đất đai có tính khan hiếm và ngày càng trở nên có giá trị. Do đặc điểm cấu tạo của tự nhiên mà đất có vị trí cố định không thể di dời được. Chính vị trí đã quy định tính giới hạn về quy mô theo không gian của đất đai. Vị trí có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt kinh tế trong quá trình khai thác, sử dụng đất. Đối với đất phi nông nghiệp thì vị trí có một ý nghĩa đặc biệt, nó quyết định phần lớn lợi nhuận mang lại từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Còn đất nông nghiệp, cái quan trọng không phải là vị trí mà là thuộc tính tự nhiên của đất tức là khả năng hấp phụ nước, các chất khoáng, điều kiện thổ nhưỡng… Đất đai không thể sản sinh nhưng bù lại nó có khả năng tái tạo. Khả năng phục hồi và tái tạo của đất chính là khả năng phục hồi và tái tạo độ phì thông qua tự nhiên hay do hoạt động của con người. Lợi dụng khả năng tái tạo của đất trong lịch sử con người đã có những hình thức canh tác như: bỏ hoang, bỏ hóa,…chủ yếu dựa vào khả năng phục hồi tự nhiên của đất. Ngày nay con người đã tác động vào đất bằng các biện pháp kỹ thuật nhằm cải tạo, bồi dưỡng đất đai qua đó đất được bảo vệ và có thể tái sử dụng. Tính hai mặt của đất đai có ý nghĩa to lớn trong quá trình sử dụng đất. Một mặt phải hết sức tiết kiệm đất đai, trong nông nghiệp phải bố trí các loại cây trồng hợp lý. Mặt khác, phải chú ý ứng dụng khoa học công nghệ, sử dụng các biện pháp thâm canh, luân phiên cây trồng để tăng khả năng phục hồi và tái tạo của đất. 2.2. Tính sở hữu và sử dụng Từ thưở ban đầu, khi con người còn là những bầy đàn nguyên thủy thì chưa hề có khái niệm chiếm hữu và sở hữu đất đai. Xã hội phát triển hơn, họ đã biết đánh dấu địa phận của mình và chăn nuôi, trồng trọt, sinh hoạt trên đó thì đất đai thuộc sở hữu chung của cộng đồng hay một nhóm nguời. Nhận thức của con người ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng đất tăng lên dẫn tới sự chiếm hữu ruộng đất và biến quyền sở hữu đất đai thành sở hữu tư nhân. Trong chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, quyền sở hữu không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn đem lại quyền lực chính trị cho người sở hữu đất đai. Những người chủ đất tự sản xuất trên đất của mình hoặc cho thuê. Người không có đất trở thành người làm thuê và bắt đầu có sự tách rời giữa người sở hữu và người sử dụng đất đai. Còn trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân, quan hệ về đất đai dựa trên việc giải quyết quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các đối tượng liên quan đến đất đai. Ở Việt Nam, Nhà nước đã quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Tại Điều 5 – Luật đất đai 2003 đã khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”. Nhà nước thể hiện vai trò đại diện chủ sở hữu của mình thông qua quyền năng định đoạt đối với đất đai: Quyết định mục đích sử dụng đất Quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất Quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất Định giá đất Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất thông qua các chính sách tài chính về đất đai. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người dân thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất…Việc quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân sẽ giúp Nhà nước quản lý thống nhất nguồn lực đất đai đồng thời có biện pháp sử dụng hiệu quả, hợp lý trong điều kiện đất đai ngày càng khan hiếm. 2.3. Tính đa dạng và phong phú. Tính đa dạng và phong phú của đất đai trước hết do đặc tính tự nhiên của đất đai và tính cố định của nó quyết định. Đất đai được hình thành do quá trình phong hóa đá mẹ, đá mẹ khác nhau hình thành nên các loại đất khác nhau. Vì vậy, có nhiều loại đất phù hợp cho sản xuất nông nghiệp bởi chất đất màu mỡ phù hợp cho cây trồng như: đất phù sa, đất đỏ bazan, đất feralit đỏ vàng…Mỗi loại đất có thể sử dụng với nhiều mục đích khác nhau nhưng tùy thuộc vào vị trí, tính chất của đất mà có sự phân bổ cho phù hợp. Với đất nông nghiệp, chất đất là yếu tố quan trọng bậc nhất, mặt khác mỗi loại cây trồng lại có điều kiện về nhiệt độ, độ ẩm, dinh dưỡng khác nhau nên cần phải biết khai thác triệt để lợi thế của từng loại đất để thu được nguồn lợi kinh tế lớn cao nhất. 3. Phân loại đất nông nghiệp. Hiện nay có nhiều quan điểm về phân loại đất nông nghiệp, tuỳ vào từng tiêu chí phân loại mà đất nông nghiệp được chia thành những loại đất khác nhau. Theo Luật đất đai (cả năm 1993 và năm 2003) đều phân loại đất đai theo mục đích sử dụng. Theo đó, Điều 11 Luật Đất đai 1993 và các văn bản hướng dẫn thi hành đất được chia thành 6 loại trong đó đất nông nghiệp bao gồm các loại đất: (1) Đất trồng cây hàng năm: + Đất ruộng lúa, lúa màu Ruộng 3 vụ Ruộng 2 vụ Ruộng 1 vụ Ruộng chuyên mạ + Đất trồng cây hàng năm khác: Đất trồng màu và cây công nghiệp hàng năm Đất trồng rau Đất trồng cây hàng năm khác (2) Đất vườn tạp (3) Đất trồng cây lâu năm (4) Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: Nuôi cá Thuỷ sản khác Còn Điều 13 - Luật Đất đai 2003 quy định cụ thể như sau: Đất đai chia làm ba nhóm là: Nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng. Trong đó, nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất: a, Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất trồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác; b, Đất trồng cây lâu năm; c, Đất rừng sản xuất; d, Đất rừng phòng hộ; đ, Đất rừng đặc dụng; e, Đất nuôi trồng thuỷ sản; g, Đất làm muối; h, Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ Qua việc phân loại đất như trên ta thấy rằng Luật Đất đai 2003 đã quy định cụ thể rõ ràng hơn về các loại đất và cũng có sự thay đổi lớn: một số loại đất thuộc đất chuyên dùng và đất lâm nghiệp đã chuyển sang đất nông nghiệp. Ví dụ: đất làm muối trước đây được xếp và đất chuyên dùng nay đã được coi là đất nông nghiệp…Sự đổi mới trong việc phân loại đất trong Luật đất đai 2003 so với Luật đất đai 1993 thể hiện tư duy mới, các loại đất không trùng lặp nhau tránh việc quản lý chồng chéo. Đất nông nghiệp hiện nay gồm 8 loại đất như trên tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý. Ngoài quan điểm phân loại đất nông nghiệp theo mục đích sử dụng còn một số quan điểm khác. Xét theo đặc tính đất đai hay theo thổ nhưỡng có các loại đất nông nghiệp như sau: Đất phù sa Đất glây Đất cát biển Đất xám Đất bazan Đất đỏ vàng 4. Phân bố đất nông nghiệp. Đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của xã hội. Vì vậy, việc phân bố quỹ đất nông nghiệp cũng bị chi phối bởi hai yếu tố đó. Đất nông nghiệp phân bố rộng khắp trên tất cả các vùng trên cả nước tạo nên một cơ cấu cây trồng đa dạng và phong phú. Quá trình phân bố đó từng bước tạo nên các vùng tập trung chuyên canh theo hướng phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Tuy nhiên, sự phân bố đất nông nghiệp không đều giữa các vùng, giữa các loại cây trồng dẫn đến mất cân đối giữa các loại cây trồng chủ yếu là giữa đất lúa và đất hoa màu, giữa trồng trọt và chăn nuôi. Phân bố đất nông nghiệp cũng gắn liền với lịch sử khai thác và sử dụng đất đai, kế hoạch khai hoang xây dựng các vùng kinh tế mới và dựa trên đặc tính tự nhiên của đất như: địa hình, nông hóa, thổ nhưỡng, khí hậu tiếp đến là tình hình phát triển kinh tế - xã hội, tập quán canh tác, kinh nghiệm sản xuất của dân cư và phướng hướng phát triển nông nghiệp của từng vùng, từng địa phương. Ở nước ta, phân bố đất nông nghiệp được thống kê theo vùng và theo cơ cấu cây trồng. Biểu 1: PHÂN BỐ ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO VÙNG STT Vùng Hiện trạng Quy hoạch 2010 1000 ha Cơ cấu (%) 1000 ha Cơ cấu (%) 1 Núi và trung du Bắc Bộ 5166.1 24.7 7798.2 29.7 2 Đông bắc Bắc Bộ 827.1 4.0 853.6 3.3 3 Bắc Trung Bộ 2952.0 14.1 4228.0 15.8 4 Duyên hải Nam Trung Bộ 2510.0 12.0 3344.1 12.8 5 Tây Nguyên 4227.0 20.7 4875.0 18.5 6 Đông Nam Bộ 1935.3 9.2 1881.8 7.2 7 Đồng bằng Sông Cửu Long 3367.1 15.8 3295.6 12.5 8 Tổng 21 629.7 100.00 26278.3 100.00 Nguồn: Số liệu Bộ Tài nguyên và môi trường Từ biểu thống kê trên, ta thấy rằng diện tích đất nông nghiệp phân bố rất không đồng đều giữa các khu vực trên lãnh thổ nước ta. Diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn nhất là vùng núi và trung du Bắc Bộ (24.7%) tiếp đến là vùng Tây Nguyên chiếm tới 1/5 diện tích đất nông nghiệp của cả nước. Vùng núi và trung du Bắc Bộ là vùng núi non hiểm trở, nhiều bà con dân tộc ít người sinh sống nên hoạt động sản xuất ở đây chủ yếu là nông nghiệp và tập quán canh tác còn lạc hậu, năng suất cây trồng thấp. Khí hậu và thổ nhưỡng nơi đây rất thích hợp cho một số loại cây như: chè, sắn....Đặc biệt khu vực này rất phù hợp cho chăn nuôi phát triển bởi có những đồng cỏ xanh tốt nên vùng này có đàn bò lớn nhất cả nước. Còn Tây Nguyên, có thể nói đây là một vùng đất mới, Nhà nước ta đã có chính sách đưa dân đi xây dựng vùng kinh tế mới. Nhờ chủ trương này mà rất nhiều bà con ở vùng Tây Bắc và Đông bắc bộ đã tự nguyện đưa gia đình vào vùng này khai phá. Mặt khác đây là vùng đẩt đỏ bazan màu mỡ rất thích hợp cho trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày. Diện tích đất nông nghiệp ở đây chủ yếu là trồng cà phê, hồ tiêu, ca cao, sắn…Vùng có quỹ đất nông nghiệp nhỏ nhất cả về diện tích và cơ cấu là vùng Đông Bắc Bộ. Vùng này có 9 tỉnh, thành chủ yếu thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đây là vùng đất đai màu mỡ nhưng “đất chật người đông” nên diện tích cho nông nghiệp rất hạn chế. Tuy vậy, đây lại là vựa lúa lớn thứ hai cả nước sau đồng bằng sông Cửu Long. Biểu 2: PHÂN BỐ ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO CƠ CẤU CÂY TRỒNG STT Vùng Hiện trạng Quy hoạch 2010 1000 ha Cơ cấu (%) 1000 ha Cơ cấu (%) Tổng diện tích 9345 100.00 9914 100.00 1 Cây hàng năm Trong đó đất lúa + đất màu 6129 4268 65,6 5924 3923 59,8 2 Cây lâu năm 2182 23,3 2829 28,5 3 Nuôi trồng thủy sản 388 11,1 501 11,7 Nguồn: Số liệu Bộ Tài nguyên và môi trường Trong cơ cấu đất nông nghiệp, diện tích trồng cây hàng năm chiếm tới trên 65% diện tích đất nông nghiệp toàn quốc trong đó đất trồng lúa và trồng màu là chủ yếu. Đó là điều hoàn toàn hợp lý với một quốc gia đang phát triển. Nhưng cũng chính vì lẽ đó mà Việt Nam từ một nước thiếu ăn đã trở thành một cường quốc về xuất khẩu gạo (đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Thái Lan). Trong thời gian tới, Nhà nước ta có biện pháp chuyển một số diện tích trồng lúa, màu không hiệu quả sang các loại đất khác có khả năng sinh lợi hơn. Việc giảm tỷ trọng trồng cây lương thực là xu thế tất yếu vì nhu cầu về mặt hàng này sẽ giảm khi thu nhập của người dân tăng lên. Nhìn vào biểu trên ta cũng thấy rõ xu hướng giảm diện tích trồng cây hàng năm và tăng diện tích nuôi trồng thủy sản. Việc thay đổi diện tích từng loại cây trồng, vật nuôi nhằm mục tiêu cuối cùng là sử dụng hợp lý, đầy đủ, tiết kiệm và hiệu quả nhất đất nông nghiệp. SỰ CẦN THIẾT QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP Khái niệm và vai trò của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Để nắm được khái niệm về quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trước hết chúng ta cần tìm hiểu bản chất của quản lý nhà nước về đất đai nói chung. Về bản chất, quản lý nhà nước về đất đai là sự tác động một cách có tổ chức, điều chỉnh các hành vi của con người liên quan đến đất đai bằng quyền lực của Nhà nước nhằm hướng ý chí và hành động của họ vào mục đích chung. Nhà nước tác động lên các đối tượng thông qua việc thiết lập nên các mối quan hệ xã hội, quan hệ giữa con người với con người, giữa các tập thể với nhau vì trước hết Nhà nước là một cơ cấu có tổ chức bao gồm một hệ thống các cơ quan từ trung ương đến địa phương. Đặc biệt là tác động một cách có tổ chức chứ không tác động đơn lẻ đến một cá nhân, một chủ thể. Tính tổ chức đó đặt ra vấn đề là làm sao hình thành nên các tổ chức với cơ cấu và cơ chế hoạt động thích hợp. Mặt khác, các tổ chức đó được hoạt động như thế nào, phối hợp giữa các khâu, các bộ phận ra sao làm cho guồng máy hoạt động theo đúng mục tiêu đã định. Ngoài ra, Nhà nước còn thông qua các công cụ pháp luật, chính sách nhằm hướng các hoạt động và hành vi của con người theo đúng quỹ đạo tạo ra. Quản lý Nhà nước còn thể hiện quan hệ chủ thể, khách thể và đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý ở đây là bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương cùng với toàn bộ công nhân viên chức trong các cơ quan này. Còn khách thể quản lý chính là công dân, các chủ thể kinh tế, các doanh nhân…và đối tượng quản lý là các quá trình kinh tế, các hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế nhằm hướng tới sự phát triển đất đai hay toàn bộ nền kinh tế theo mục tiêu xác định. Tóm lại, ta có thể hiểu quản lý nhà nước về đất đai như sau: “Quản lý nhà nước về đất đai là sự tác động có tổ chức của bộ máy quản lý nhà nước và sự điều chỉnh của Nhà nước bằng quyền lực vào quá trình kinh tế - xã hội và hành vi của các đơn vị kinh tế, các cá nhân nhằm đảm bảo hướng các ý chí và hành động của họ vào mục tiêu phát triển lĩnh vực đất đai” Đất đai là tài sản, là thước đo sự giàu có của mỗi quốc gia, nó gắn liền với lãnh thổ quốc gia nên Nhà nước phải quản lý đất đai là điều tất yếu. Vai trò của Nhà nước trong công tác quản lý đất đai trong đó bao gồm cả đất nông nghiệp cụ thể là: Thứ nhất, Nhà nước quản lý toàn bộ quỹ đất đai trên phạm vi lãnh thổ của mình là tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động liên quan đến đất đai. Bằng hệ thống văn bản pháp quy, hành lang pháp lý cho các lĩnh vực liên quan đến đất đai được thiết lập. Đối với đất nông nghiệp, người sử dụng đất cần tuân thủ nguyên tắc sử dụng đất, thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình đối với diện tích đất đang sử dụng và đối với Nhà nước. Qua đó, kích thích các tổ chức, cá nhân sử dụng đất hiệu quả, nâng cao khả năng sinh lời của đất đồng thời phải bảo vệ đất đai. Thứ hai, thông qua công cụ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đặc biệt là chiến lược phát triển kinh tế, xã hội để định hướng cho việc sử dụng đất đai trong thời gian kế tiếp. Việc hoạch định quy hoạch, kế hoạch hợp lý và khoa học sẽ phân bổ đất đai phù hợp đảm bảo sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả. Đặc biệt, hiện nay việc sử dụng đất nông nghiệp chưa thực sự hiệu quả, chuyển mục đích sử dụng tự phát đe dọa nghiêm trọng đến vấn đề an ninh lương thực. Vì vậy, quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nhà nước cần thực hiện quy hoạch đất nông nghiệp hợp lý và điều chỉnh quy hoạch nếu thấy cần thiết. Thứ ba, Nhà nước thực hiện thống kê, kiểm kê, đánh giá, phân hạng đất để nắm chắc toàn bộ quỹ đất đai cả về số lượng và chất lượng. Đó chính là căn cứ xác thực nhất để Nhà nước lập kế hoạch, quy hoạch phân bổ đất đai một cách hợp lý nhằm khai thác quỹ đất đai một cách hiệu quả nhất. Thứ tư, Nhà nước thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động liên quan đến đất đai để phát hiện sớm những vi phạm và kịp thời có biện pháp giải quyết. Nhờ hoạt động này mà Nhà nước có thể quản lý được quỹ đất tốt hơn, không để tình trạng sử dụng đất diễn ra lộn xộn gây tác động xấu đến tâm lý của nhân dân. Đất đai là tài sản quan trọng nhất của mỗi quốc gia, nó cũng là bất động sản có giá trị của các cá nhân, hộ gia đình nên những vấn đề liên quan đến đất đai sẽ thu hút sự quan tâm của mọi tầng lớp dân cư. Vì vậy, quản lý đất đai chặt chẽ cũng góp phần ổn định xã hội. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp như trình bày ở trên có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhất là đối với quốc gia thuộc nền văn minh lúa nước như nước ta. Xã hội ngày càng phát triển kéo theo những vấn đề vô cùng phức tạp liên quan đến đất đai. Mặc dù sử dụng đất nông nghiệp không quá bức xúc như đất ở nhưng hoà trong xu thế chung, dân số tăng nhanh trên phạm vi toàn cầu khiến diện tích đất nông nghiệp đang bị thu hẹp đáng kể. Thực tế đó đặt ra một bài toán khó cho mọi quốc gia. Diện tích đất nông nghiệp đang giảm sút nghiêm trọng đi đôi với việc khai thác, sử dụng không hiệu quả làm tăng diện tích bị sa mạc hoá khiến việc sử dụng đất nông nghiệp như thế nào trở nên cấp bách. Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, tại các nước đang phát triển trong thế kỷ XX có đến một nửa số người nghèo sống ở đô thị trong tình trạng sức khoẻ và cuộc sống bị đe doạ. Mặc dù vậy, đô thị hoá vẫn đang là giải pháp cho sự phát triển. Đó là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp nhanh chóng. Chính vai trò to lớn của đất nông nghiệp và những nguy cơ đang tiềm ẩn đối với đất nông nghiệp mà các quốc gia trên thế giới cần phải có biện pháp quản lý đất nông nghiệp hợp lý và chặt chẽ hơn. Nhà nước cần phải đặt ra những quy tắc quản lý nhằm phân phối quỹ đất nông nghiệp phù hợp nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững. Ở Việt Nam, từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chính sách đổi mới, phát triển đất nước theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 20 năm đổi mới, những thành tựu đạt được là không nhỏ đặc biệt tốc độ tăng GDP cao và ổn định đưa đất nước lên một tầm cao mới. Đất đai được xác định là nguồn lực to lớn. Thực tế, đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng đã và đang vận động theo hướng đất đai được phép thay đổi mục đích sử dụng sang những mục đích khác mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn; chuyển đổi về chủ sử dụng theo hướng chuyển sang chủ sử dụng có khả năng sử dụng đất hiệu quả hơn; chuyển đổi về giá trị theo hướng giá trị ngày càng tăng lên. Đó là sự vận động hoàn toàn phù hợp với qui luật của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cần phải quản lý nhà nước về đất đai để điều phối một cách hợp lý quỹ đất đai cho từng mục đích sử dụng. Mặt khác, dân số Việt Nam đang tăng khá nhanh khiến Việt Nam đã “đất chật người đông” nay càng đông hơn tạo nên áp lực cho mọi lĩnh vực: văn hoá, y tế, giáo dục, hệ thống cung cấp thương mại dịch vụ,…và đặc biệt là đất ở. Điều đó dẫn đến hậu quả tất yếu là chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang các loại đất khác làm cho quĩ đất này liên tục giảm qua từng năm. Hơn nữa, trong thời gian qua, tình trạng chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp tự phát diễn ra phổ biến rồi việc sử dụng đất tuỳ tiện không theo qui hoạch, cùng với nó là vi phạm đất đai ngày càng nghiêm trọng. Như vậy, quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp thực sự cần thiết, đó là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý được quỹ đất của mình, qua đó có biện pháp khai thác, sử dụng hợp lý và hiệu quả. Thực tế, công tác quản lý nhà nước về đất đai cũng chưa có những bước tiến vượt bậc, việc tổ chức thực hiện chưa thống nhất, sự buông lỏng trong quản lý làm cho sự vận động của đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng trở nên phức tạp và rối ren, vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước. Vì những lý do trên đây mà quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đang trở thành vấn đề cấp bách thu hút sự quan tâm của các cấp, các ngành. IV. CƠ SỞ PHÁP ._.LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP Đất đai ngày nay trong đó có đất nông nghiệp không chỉ là nguồn tài nguyên khan hiếm mà đã trở thành nguồn lực to lớn của mỗi quốc gia. Vì vậy, công tác quản lý Nhà nước về đất đai phải tương xứng với nguồn lực to lớn đó. Vậy nội dung cụ thể về quản lý nhà nước về đất đai ra sao? Theo văn bản pháp lý cao nhất về đất đai là Luật đất đai có quy định cụ thể về các nội dung quản lý đất đai trong khoản 2, Điều 6 - Luật đất đai 2003: a, Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó; b, Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính; c, Khảo sát, đo đạc, đánh giá phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất; d, Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; đ, Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất; e, Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận (sau đây viết tắt là GCN) quyền sử dụng đất; g, Thống kê, kiểm kê đất đai; h, Quản lý tài chính về đất đai; i, Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản; k, Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; l, Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai; m, Giải quyết tranh chấp vê đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai; n, Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai. Trên đây là những nội dung quản lý đất đai nói chung trong đó đã bao hàm tất cả các nội dung của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Tuy nhiên, đất nông nghiệp là một nhóm đất có những đặc thù riêng do đó có một số nội dung không biểu hiện rõ vai trò quản lý nên tôi xin khái quát lại trong một số nội dung cơ bản sau: (1) Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp và tổ chức thực hiện các văn bản đó (2) Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, lập bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất (3) Lập, quản lý, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp (4) Công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất nông nghiệp (5) Công tác đăng ký quyền sử dụng đất nông nghiệp, cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp và thống kê, kiểm kê đất đai (6) Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo các hành vi trong quản lý, sử dụng đất nông nghiệp Thực tế, những nội dung quản lý này đã và đang được thực hiện khá đồng bộ, các cấp quản lý từ trung ương đến cơ sở đã có nhiều biện pháp tích cực trong triển khai thực hiện và đã đạt được nhiều kết quả, từng bước đưa công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung đi vào nề nếp. 1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp và tổ chức thực hiện các văn bản đó Mọi quốc gia trên thế giới đều thiết lập một hệ thống pháp luật về đất đai nhằm điều chỉnh các quan hệ đất đai. Ở Việt Nam, Nhà nước quản lý đất đai thông qua các công cụ quản lý: công cụ tài chính, công cụ tổ chức hành chính trong đó quan trọng nhất là công cụ pháp luật. Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Luật đất đai 1993 được ban hành nhằm thể chế hóa chính sách đất đai góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách đất đai, từng bước đáp ứng yêu cầu quản lý, sử dụng đất. Luật đất đai năm 1993 đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1998 và 2001 và mới đây nhất Luật đất đai 2003 được ban hành với nhiều nội dung mới mang tính đột phá, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất là một ví dụ. Trên cơ sở đó, các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bao gồm: Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, Nghị định, Thông tư, Chỉ thị của Chính phủ, của các Bộ, ngành liên quan. Ngoài ra, còn nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan quy định về vấn đề đất đai như: Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp, Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất…và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong đó có các văn bản ban hành riêng cho việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến đất nông nghiệp. Hệ thống văn bản pháp luật được ban hành từ trung ương đến các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho đến cấp huyện. Đây là một công cụ không thể thiếu trong quản lý, sử dụng đất đai nói chung cũng như đất nông nghiệp. Nó tạo nên cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động liên quan tới đất đai. Các văn bản đó quy định quyền và nghĩa vụ của chủ thể cũng như khách thể liên quan tới đất đai nhằm sử dụng đất tiết kiệm, đầy đủ và hiệu quả. Những quy định của pháp luật mang tính bắt buộc, đòi hỏi các đối tượng phải tuân thủ nghiêm túc. Bởi lẽ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhờ hệ thống pháp luật về đất đai, Nhà nước sẽ quản lý được đất đai một cách chặt chẽ đồng thời thể hiện quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật cũng như thể hiện bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong thời gian qua, hệ thống pháp luật về đất đai trong đó có cả đất nông nghiệp được xây dựng, từng bước bổ sung hoàn thiện, nhiều chủ trương, chính sách được đổi mới nhằm giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Các văn đó được triển khai nhanh và đã có sự đồng bộ nhất định. Mặc dù vậy, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn bộc lộ không ít những tồn tại, yếu kém. Việc tổ chức thực hiện các văn bản đó còn cứng nhắc, mang tính áp đặt không linh hoạt với thực tế từng địa phương. Xét một cách toàn diện, hệ thống pháp luật tuy nhiều nhưng chưa đầy đủ dẫn đến tình trạng “vừa thừa vừa thiếu” lại tổ chức thực hiện thiếu đồng bộ nên chưa xác lập được chuẩn mực pháp lý, chưa thực sự theo kịp sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Các văn bản dưới luật còn quá nhiều đôi khi thiếu sự nhất quán, không rõ ràng, chồng chéo cộng với việc ban hành không đúng hình thức, không đúng thẩm quyền gây nhiều khó khăn cho việc triển khai thực hiện. Nói tóm lại, hệ thống chính sách về đất đai trong đó bao gồm cả những văn bản riêng về đất nông nghiệp còn nhiều bất cập, chưa phát huy đầy đủ vai trò điều tiết và quản lý đất đai, chưa khai thác đầy đủ tiềm năng từ đất. Để khắc phục những hạn chế đó, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể và chi tiết. Tuy nhiên việc hiểu và triển khai như thế nào để đạt được kết quả là điều không đơn giản với tất cả các địa phương. 2. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp; lập bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp. 2.1. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp. Trong thực tế, đất đai có rất nhiều loại, nhiều dạng, ở nhiều vùng khác nhau, Nhà nước cần có biện pháp nắm được một cách cụ thể và đầy đủ tất cả các loại, các dạng đất để có cách thức quản lý phù hợp. Một trong những biện pháp không thể thiếu là thực hiện khảo sát, đo đạc, đánh giá phân hạng đất. Thông qua nội dung này, Nhà nước nắm được các thông tin về từng loại đất trên phạm vi quản lý của mình một cách chi tiết cả về số lượng và chất lượng. Có thể nói, đây chính là cái gốc của mọi vấn đề liên quan đến đất đai, công tác này là cơ sở tạo nên một hệ thống thông tin địa chính hoàn chỉnh. Nhờ thông tin thu thập được sẽ xây dựng bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng, bản đồ quy hoạch…Vì vậy, khảo sát đo đạc, đánh giá, phân hạng đất là một nhiệm vụ tối cần thiết đối với công tác quản lý đất đai. Việc khảo sát, đo đạc đánh giá, phân hạng đất là một công việc hết sức khó khăn và phức tạp bởi vì công tác này phải tiến hành trên thực địa phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện địa hình, khí hậu của địa phương. Nhà nước ta đã triển khai công tác này từ rất sớm. Trước đây nền kinh tế còn nghèo nàn, khoa học kỹ thuật còn lạc hậu nên việc khảo sát, đo đạc gặp rất nhiều trở ngại, các công việc thực hiện bằng phương pháp thủ công nên độ chính xác thấp. Ngày nay, chúng ta đã áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế giới như hệ thống định vị toàn cầu GPS, hệ thống thông tin địa lý GIS, công nghệ số…giúp cho việc khảo sát, đo đạc đơn giản hơn, nhanh hơn và chất lượng cũng cao hơn. Đối với đất nông nghiệp, việc đánh giá phân hạng đất cần dựa trên cơ sở khoa học. Các căn cứ để phân hạng đất nông nghiệp bao gồm: chất đất, vị trí, địa hình, điều kiện khí hậu thời tiết, điều kiện tưới tiêu của từng xứ đồng… Dựa trên những tiêu chí này mà đất nông nghiệp được phân thành các hạng khác nhau. Đó là cơ sở để xác định giá trị của đất nông nghiệp đặc biệt khi cần tính thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, tiền sử dụng đất, bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất… Lập bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp. Việc khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất là tiền đề cho việc thiết lập các loại bản đồ về đất đai. Dựa trên số liệu thu thập được và kết quả của công tác đo vẽ thực địa sẽ hình thành nên bản đồ hiện trạng sử dụng đất. Nó thể hiện sự phân bố các loại đất tại một thời điểm xác định, được lập theo đơn vị hành chính. Dựa vào loại bản đồ này cơ quan quản lý nắm được tình hình thực tế về phân bố các loại đấ để có biện pháp điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất cũng như cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho phù hợp. Bản đồ hiện trạng sử dụng đất được lập 5 năm một lần gắn với việc kiểm kê đất đai (Điều 20 – Luật đất đai 2003) Trên cơ sở bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và các thông tin thu thập được trong quá trình điều tra, khảo sát các cấp có thẩm quyền thiết lập bản đồ quy hoạch. Theo Luật đất đai 2003: “Bản đồ quy hoạch sử dụng đất là bản đồ được thiết lập tại thời điểm đầu kỳ quy hoạch, thể hiện sự phân bổ các lọai đất tại thời điểm cuối kỳ quy hoạch và được lập 10 năm một lần gắn kỳ quy hoạch sử dụng đất”. Thẩm quyền lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất được quy định rất rõ trong Điều 20 – Luật đất đai 2003. Nhận thức được vai trò của các loại bản đồ trên, Nhà nước ta đã tổ chức khảo sát, đo đạc, lập tuy nhiên kết quả đạt được chưa hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu quản lý. 3. Thực hiện và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp Đế xác định tính chất pháp lý của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, trước hết cần phải hiểu thế nào là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Khái niệm hiện đại của quy hoạch sử dụng đất bắt đầu được sử dụng vào khaỏng giữa thế kỷ XIX ở châu Âu khi dân số tăng nhanh do công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ. Mỗi vùng đất, khoanh đất, mảnh đất có thể có địa hình, thổ nhưỡng, địa chất, thủy văn, tính chất vật lý, tính chất hóa học rồi lớp thảm thực vật, yếu tố khí hậu khác nhau tạo ra điều kiện nhất định cho việc sử dụng đất theo các mục đích khác nhau. Như vậy, muốn sử dụng đất cần phải tiến hành quy hoạch sử dụng đất. Về khái niệm: “Quy hoạch sử dụng đất là hệ thống các biện pháp của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất và quản lý đất đai đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả cao nhất thông qua việc phân bổ quỹ đất và tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất đai và môi trường đất” Ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, các cấp chính quyền có thể thực hiện quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ hoặc theo ngành. Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp là hình thức quy hoạch sử dụng đất theo ngành. Xét trên phạm vi rộng, quy hoạch sử dụng đất hiện đại trong lĩnh vực nông nghiệp mới đặt ra khi dân số tăng nhanh, công nghiệp hóa ảnh hưởng sâu sắc tới sản xuất nông nghiệp, đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp để thoát khỏi tình trạng sản xuất thuần nông. Ngoài công tác quy hoạch, Nhà nước còn phải lập kế hoạch sử dụng đất. Đối với kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp có thể hiểu một cách khái quát như sau: Kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp là việc xác định mục tiêu, phương hướng sử dụng đất nông nghiệp, về chuyển đổi diện tích cây trồng, diện tích đất phải thu hồi, diện tích mới đưa vào sử dụng, đề ra các giải pháp thực hiện và tiến hành tổ chức thực hiện các nội dung đó. Kế hoạch sử dụng đất chính là sự cụ thể hóa quy hoạch sử dụng đất trong từng giai đoạn. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong đó bao hàm cả đất nông nghiệp đã được Luật đất đai 2003 quy định rất cụ thể, chặt chẽ và khoa học từ Điều 21 đến Điều 30. Các nội dung quy định bao gồm: Nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (Điều 21); Căn cứ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (Điều 22); Nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (Điều 23); Kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (Điều 24); Thẩm quyền lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (Điều 25)…Theo đó, nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong Luật đất đai 2003 cũng được quy định rõ ràng hơn rất nhiều so với Luật đất đai 1993. Cụ thể là: a, Điều tra, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và hiện trạng sử dụng đất; đánh giá tiềm năng đất đai; b, Xác định phương hướng, mục tiêu sử dụng đất trong kỳ quy hoạch; c, Xác định diện tích các loại đất phân bổ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; d, Xác định diện tích đất phải thu hồi để thực hiện các công trình, dự án; đ, Xác định các biện pháp sử dụng, bảo vệ, cải tạo đất và bảo vệ môi trường; e, Giải pháp tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất. Nội dung kế hoạch sử dụng đất bao gồm: a, Phân tích, đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất kỳ trước; b, Kế hoạch thu hồi diện tích các loại đất để phân bổ cho nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng; phát triển công nghiệp, dịch vụ; phát triển đô thị, khu dân cư nông thôn; quốc phòng, an ninh; c, Kế hoạch chuyển diện tích đất chuyên trồng lúa nước và đất có rừng sang sử dụng vào mục đích khác, chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất trong đất nông nghiệp; d, Kế hoạch khai hoang mở rộng diện tích đất để sử dụng vào các mục đích; đ, Cụ thể hóa kế hoạch sử dụng đất năm năm đến từng năm; e, Giải pháp tổ chức thực hiện kế hoạch sử dụng đất. Theo thông tin của Bộ Tài nguyên và môi trường đến nay hầu hết các tỉnh thành trong cả nước đã xây dựng xong quy hoạch sử dụng đất và đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tuy nhiên, chất lượng quy hoạch đang ở mức khiêm tốn, việc quy hoạch sử dụng đất ở đâu đó còn hạn chế thậm chí còn mang tính ước lệ. Tình trạng xây dựng quy hoạch rồi để đó (“quy hoạch treo”) vẫn còn tồn tại. Để phần nào khắc phục thực trạng đó, Luật đất đai 2003 đã có những điều quy định chặt chẽ về thẩm quyền phê duyệt quy hoạch và trách nhiệm thực hiện quy hoạch của từng đơn vị liên quan. Bên cạnh đó, việc quy định công khai quy hoạch sử dụng đất tại trụ sở cơ quan để mọi người dân đều biết cũng thể hiện bản chất của Nhà nước ta: công bằng, dân chủ và công khai. Quy hoạch sử dụng đất là một quá trình thực hiện trong thời gian dài (kỳ quy hoạch sử dụng đất là 10 năm), trong thời gian đó tình hình sử dụng đất sẽ có rất nhiều biến động hay nói cách khác quy hoạch sử dụng đất không mang tính vĩnh cửu mà mang tính khả biến rất rõ rệt. Với sự tác động của các yếu tố tự nhiên và các yếu tố phát triển của xã hội làm thay đổi hiện trạng sử dụng đất, ảnh hưởng tới đời sống kinh tế - xã hội và đặt ra yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái. Do đó, quy hoạch sử dụng đất trong một thời gian nhất định không còn phù hợp nếu không có sự điều chỉnh sẽ làm kìm hãm sự phát triển của xã hội. Vì vậy, Luật đất đai 2003 đã có quy định về điều chỉnh quy hoạch. Việc điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất khi cần thiết sẽ đảm bảo quy hoạch sử dụng đất có chất lượng và có tính khả thi cao. Những văn bản pháp lý liên quan tới quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ngoài Luật đất đai còn rất nhiều văn bản khác như: Nghị định 68/2001/NĐ-CP của Chính phủ, Nghị quyết số 01/1997/NQ-QH9… Thực hiện theo những quy định hiện hành, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm mục tiêu ổn định xã hội. Đối với đất nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta chủ trương hạn chế việc chuyển mục đích sử dụng của diện tích đất trồng lúa nước và diện tích đất rừng nhất là rừng phòng hộ. Trong quá trình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, các địa phương cũng đã quán triệt tinh thần này và có sự phân bổ quỹ đất hợp lý, bảo đảm một diện tích đất trồng cây lương thực nhất định. Để thiết lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho một vùng, một địa phương hay một ngành là cả một quá trình nghiên cứu khoa học và sáng tạo nhằm xác định ý nghĩa, mục đích của từng phần lãnh thổ, từng loại đất và đề xuất một trật tự sử dụng đất nhất định. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp là biện pháp hữu hiệu của Nhà nước để tổ chức lại việc sử dụng đất nông nghiệp, hạn chế chồng chéo trong sử dụng đất nông nghiệp, tránh chuyển đổi mục đích sử dụng đất tùy tiện làm giảm sút nghiêm trọng quỹ đất nông nghiệp, lâm nghiệp đặc biệt là đất trồng lúa nước và đất rừng, chấm dứt tình trạng hủy hoại đất và phá vỡ môi trường đất. 4. Công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp. 4.1. Giao đất, cho thuê đất Đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Như vậy, Nhà nước thống nhất quản lý quỹ đất trên phạm vi toàn lãnh thổ và có quyền định đoạt đối với đất đai. Nhà nước đã thực hiện giao đất cho người dân sử dụng. Theo quy định: “giao đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất”. Còn “cho thuê đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng hợp đồng cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất”. Việc giao đất, cho thuê đất dựa trên các căn cứ sau: Thứ nhất là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt. Thứ hai là nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin giao đất, thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất (Theo Điều 31-Luật đất đai 2003). Về giao đất, Nhà nước ta thực hiện giao đất cho hộ gia đình, cá nhân, tổ chức sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn, giao đất không thu tiền và giao đất có thu tiền sử dụng đất. Theo đó, hầu hết các loại đất thuộc nhóm đất nông nghiệp được giao cho người sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất. Theo Điều 33 – Luật đất đai 2003, những trường hợp đó bao gồm: Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được giao đất nông nghiệp trong hạn mức quy định; Tổ chức sử dụng đất vào mục đích nghiên cứu, thí nghiệm, thực nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; Đơn vị vũ trang nhân dân được Nhà nước giao đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối hoặc kết hợp với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; Người sử dụng đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng; Cộng đồng dân cư sử dụng đất nông nghiệp. Còn đất nông nghiệp được giao có thu tiền sử dụng đất chỉ có trường hợp: “Tổ chức kinh tế được giao đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối”. Việc giao đất nông nghiệp có thu tiền sử dụng đất là một biện pháp để giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế thu được từ đất giữa người sử dụng đất và Nhà nước. Hầu hết các trường hợp không phải nộp tiền sử dụng đất là nhằm khuyến khích người dân đầu tư sản xuất vào các loại đất đó để bảo vệ lợi ích của người dân trực tiếp lao động và lợi ích chung của cả cộng đồng như trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Về thời hạn sử dụng đất nông nghiệp được giao, theo quy định hiện hành các trường hợp sau thì người sử dụng đất nông nghiệp được sử dụng ổn định lâu dài: Đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng; Đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng (đất được giao cho cộng đồng dân cư sử dụng để bảo tồn bản sắc dân tộc gắn với phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số) Cộng đồng dân cư được giao loại đất này phải có trách nhiệm bảo vệ diện tích đất được giao, không được chuyển sang sử dụng vào mục đích khác. Các loại đất nông nghiệp còn lại được giao sử dụng có thời hạn: Đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối giao cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng có thời hạn là hai mươi năm; đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất giao cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng trong thời hạn năm mươi năm. Sở dĩ có sự khác nhau về thời hạn giao đất như vậy là nhằm bảo đảm quyền lợi và tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất yên tâm lao động sản xuất trên mảnh đất được giao. Việc quy định thời hạn sử dụng đất được giao một cách rõ ràng như vậy cũng giúp người sử dụng đất có kế hoạch sử dụng đất được giao sao cho có hiệu quả nhất. Hạn mức giao đất nông nghiệp cũng được quy định rõ tại Điều 70 - Luật đất đai 2003. Ngoài hình thức giao đất cho hộ gia đình, cá nhân, tổ chức sử dụng đất, Nhà nước còn cho thuê đất để đáp ứng nhu cầu sử dụng đất. Việc thu tiền thuê đất được thực hiện theo hai phương thức: thu tiền thuê hàng năm hoặc thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê. Hầu hết các trường hợp cho thuê đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp người sử dụng đất trả tiền thuê đất hàng năm, thu tiền thuê đất một lần áp dụng với trường hợp: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất để thực hiện dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối”. Thời hạn cho thuê đất trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, làm muối, đất trồng cây lâu năm đất rừng sản xuất cũng tương tự như giao đất. Hết thời hạn giao, cho thuê đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng. chấp hành đúng pháp luật về đất đai trong quá trình sử dụng, đất đó phù hợp với quy hoạch, người sử dụng đất sẽ được Nhà nước tiếp tục giao đất, cho thuê đất. Những quy định về thuê đất được cụ thể hóa trong các Điều 31, 32, 35, 67 – Luật đất đai 2003. 4.2. Thu hồi đất nông nghiệp. Luật đất đai 2003 quy định: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật đất đai” hay nói cách khác là việc chấm dứt quyền sử dụng đất của người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất. Luật đất đai 2003 đã có riêng một mục về thu hồi đất. Trong đó nói rõ các trường hợp thu hồi đất, bồi thường, tái định cư cho người bị thu hồi đất cho đến thẩm quyền thu hồi đất. Thu hồi đất là vấn đề vô cùng phức tạp bởi nó liên quan đến lợi ích của rất nhiều đối tượng: người bị thu hồi đất, đơn vị sẽ sử dụng đất bị thu hồi, cơ quan Nhà nước có trách nhiệm thu hồi đất…Vì vậy, vấn đề này được dư luận nói đến rất nhiều và cũng có nhiều văn bản ban hành hướng dẫn thực hiện những quy định về thu hồi đất. Khi Nhà nước thu hồi đất mà người bị thu hồi đất có GCN quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp GCN thì được bồi thường. Chính phủ đã ban hành Nghị định 197/2004/CP ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Đối với đất nông nghiệp “hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền tính theo giá đất cùng mục đích sử dụng”. Đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư, đất vườn ao liền kề với đất ở trong khu dân cư, ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp cùng mục đích sử dụng đất còn được hỗ trợ bằng tiền; giá tính hỗ trợ từ 20% đến 50% giá đất ở liền kề. Đối với đất nông nghiệp đang sử dụng vượt hạn mức, đất nông nghiệp đang sử dụng do nhận giao khoán…khi bị thu hồi việc thực hiện bồi thường cũng được quy định (Điều 10- Nghị định 197/2004/NĐ-CP) Ngoài ra, với trường hợp thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp mà không có đất để bồi thường cho việc tiếp tục sản xuất thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền, người bị thu hồi đất được hỗ trợ để ổn định đời sống, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm mới. Thẩm quyền thu hồi đất, Luật đất đai 1993 chỉ quy định chung chung “Cơ quan nào có thẩm quyền giao đất thì có thẩm quyền thu hồi đất” nhưng Luật đất đai 2003 đã cụ thể hóa hơn: * UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài. * UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam. 4.3. Chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Trong những năm trước đây nhất là trước khi đổi mới, đất nước chưa chuyển sang cơ chế thị trường, việc chuyển mục đích sử dụng đất diễn ra không nhiều và cũng không quá phức tạp. Nhưng thời gian gần đây, quyền sử dụng đất ngày càng có giá và có sự chênh lệch rất lớn giữa các loại đất chẳng hạn như giữa đất nông nghiệp và đất ở khiến tình trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất rất tùy tiện và vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước. Vì vậy, Luật đất đai 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định vấn đề này khá chặt chẽ. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất có trường hợp bắt buộc phải được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng cũng có những trường hợp không phải xin phép. Đối với đất nông nghiệp, các trường hợp khi chuyển mục đích sử dụng đất phải được phép của cơ quan có thẩm quyền quy định trong Điều 36 – Luật đất đai 2003: Chuyển đất chuyên trồng lúa nước sang đất trồng cây lâu năm, đất rừng, đất nuôi trồng thủy sản; Chuyển đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ sang sử dụng vào mục đích khác; Chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp; Ngoài các trường hợp trên thì không phải xin phép cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi chuyển mục đích sử dụng đất nhưng phải đăng ký với văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc UBND xã nơi có đất. Nhà nước quy định như vậy để người sử dụng đất có thể chủ động chuyển mục đích sử dụng đất phù hợp với mục đích của mình để đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Mặt khác, việc quy định những trường hợp bắt buộc phải có sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền một mặt sẽ vẫn tạo điều kiện cho người sử dụng đất linh hoạt chuyển đổi sang mục đích khác mang lại hiệu quả cao hơn nhằm cải thiện đời sống nhân dân nhưng một mặt Nhà nước quản lý chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất của một số loại đất. Qua đó điều chỉnh những loại đất có ý nghĩa đặc biệt như: diện tích đất trồng lúa nước, diện tích đất rừng…đó là những loại đất ảnh hưởng đến lợi ích của cả quốc gia. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất được giao rất cụ thể trong Điều 37 - Luật đất đai 2003. Những quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất nông nghiệp của các văn bản pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng nhất làm căn cứ cho các cơ quan quản lý đất đai thực hiện một trong những chức năng quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp là giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất nông nghiệp. 5. Công tác đăng ký và cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp; thống kê, kiểm kê đất đai. 5.1. Đăng ký và cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp. Quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có liên quan đến lãnh thổ, an ninh, chính trị quốc gia. Mặt khác, quyền sử dụng đất cũng là một tài sản lớn ảnh hưởng đến cuộc sống của họ nên nhu cầu đăng ký quyền sử dụng đất là tất yếu. Bên cạnh đó trong quá trình sử dụng đất luôn luôn có sự biến động về chủ sử dụng, diện tích, mục đích sử dụng đất…Bởi vậy, thông qua công tác đăng ký quyền sử dụng đất, Nhà nước nắm được tình hình sử dụng đất và quản lý chặt chẽ hơn quỹ đất của mình. Việc thực hiện đăng ký quyền sử dụng đất được cụ thể hóa trong Điều 46 – Luật đất đai 2003 và trong Bộ luật dân sự. “Đăng ký quyền sử dụng đất là việc ghi nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với một thửa đất xác định vào hồ sơ địa chính nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất”. Sau khi hoàn thành việc đăng ký quyền sử dụng đất, người sử dụng đất có toàn quyền sử dụng mảnh đất của mình theo luật định. Đối với đất nông nghiệp – một loại đất trực tiếp tạo ra sản phẩm, người dân đăng ký quyền sử dụng đất sẽ được pháp luật bảo hộ, tạo tâm lý ổn định cho người dân lao động sản xuất. Luật đất đai 1993 và mới đây nhất là Luật đất đai 2003 đã quy định rõ các trường hợp phải đăng ký quyền sử dụng đất (Điều 46 – Luật đất đai 2003). Các văn bản này đều quy định đăng ký quyền sử dụng đất có hai trường hợp là đăng ký ban đầu và đăng ký biến động. Theo đó, đăng ký ban đầu là trường hợp người sử dụng đất đang sử dụng đất nhưng chưa kê khai đăng ký quyền sử dụng đất hoặc đã kê khai nhưng chưa đăng ký quyền sử dụng đất. Đăng ký biến động quyền sử dụng đất được thực hiện khi người sử dụng đất đã được cấp GCN quyền sử dụng đất nhưng có thay đổi về mục đích sử dụng đất, thay đổi thời hạn sử dụng đất hay thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp. bảo lãnh…Thông tư 1990/2001/TT-TCĐC, Luật đất đai 2003 và Nghị định 181/2004/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật đất đai đã cụ thể hóa vấn đề này. Việc đăng ký quyền sử dụng đất ngày nay đã được cải thiện rất nhiều, không còn tình trạng tùy tiện kéo dài như trước đây nhờ những quy định mới của Luật đất đai 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Việc đăng ký quyền sử dụng đất là cơ sở pháp lý quan trọng và cần thiết đối với công tác quản lý Nhà nước về đất đai bởi những nguyên nhân sau: Thứ nhất tổ chức và thực hiện đăng ký quyền sử dụng đất là thiết lập mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và người sử dụng đất. Thứ hai việc đăng ký quyền sử dụng đất cũng tạo điều kiện thuận lợi để người sử dụng đất tham gia vào các quan hệ đất đai như: chuyển đổi, chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng đất…Ngoài ra, đăng ký quyền sử dụng đất thực chất là quá trình thực hiện các công việc nhằm thiết lập hồ sơ địa chính đầy đủ cho toàn bộ diện tích đất đai. Qua việc tổ chức đăng ký quyền sử dụng đất nông nghiệp, Nhà nước sẽ quản lý được quỹ đất nông nghiệp chặt chẽ, kịp thời phát hiện và ngăn chặn những sai phạm để điều chỉnh và phục vụ công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Sau khi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tổ chức cho người dân kê khai đăng ký quyền sử dụng đất, nếu có đầy đủ hồ sơ hợp lệ người dân sẽ được cấp GCN quyền sử dụng đất. “GCN quyền sử dụng đất là chứng t._.ia thành từng giai đoạn nhỏ nhưng việc thực hiện chưa triệt để, chưa dứt điểm. Quản lý đất đai liên quan đến rất nhiều cơ quan: Phòng Tài nguyên và môi trường cơ quan Thuế, Kho bạc, Phòng kế hoạch, Phòng Tài chính và UBND các xã, thị trấn…nên sự phối hợp càng nhịp nhàng thì hiệu quả công việc càng cao. Thực tế, sự phối hợp giữa các đơn vị này còn mang tính hình thức, chưa chặt chẽ gây ra sự trì trệ không đáng có. Lý do tiếp theo là chất lượng nguồn nhân lực phục vụ quản lý đất đai. Lực lượng này của huyện Thanh Trì còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Đội ngũ cán bộ địa chính đặc biệt là cán bộ xã vừa thiếu vừa yếu. Hiện có rất nhiều xã phải ký thêm hợp đồng ngắn hạn để có thêm nhân sự đáp ứng cho nhu cầu quản lý nên không đảm bảo về khả năng chuyên môn. Bên cạnh nhiều cán bộ quản lý tận tụy với công việc đây đó vẫn có bộ phận làm việc tắc trách, suy thoái đạo đức gây tâm lý bất bình trong nhân dân. Bên cạnh đó còn có một số cán bộ do tâm lý ngại va chạm nên đã kéo dài những giai đoạn công việc trong quá trình triển khai công tác quản lý đất đai. Đất đai là vấn đề hết sức phức tạp do gắn liền với lịch sử và liên quan đến lợi ích của nhiều đối tượng nên nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn. Nếu cán bộ thực thi công việc không nắm vững chuyên môn và có thái độ dứt khoát thì rất khó giải quyết những vấn đề phức tạp này. Nguyên nhân tiếp theo thuộc về phía người dân. Nhân dân huyện Thanh Trì có những phẩm chất tốt đẹp: lao động cần cù, thông minh sáng tạo, ý thức cộng đồng…nhưng là một huyện chủ yếu sản xuất nông nghiệp trước đây nên trình độ dân trí không cao. Bởi vậy, sự hiểu biết pháp luật của họ cũng có phần hạn chế. Chính sự thiếu hiểu biết đó đã dẫn đến việc hiểu sai chủ trương, chính sách của Nhà nước , khiếu kiện không đúng gây khó khăn cho chính quyền sở tại cũng như các cấp lãnh đạo của huyện. Vì thê nhiều người dân đã không thực thi pháp luật cũng như các quy định do UBND huyện ban hành, làm phức tạp hóa công việc quản lý đất đai, gây khó khăn cho cán bộ khi thi hành công vụ. Qua quá trình nghiên cứu tôi nhận thấy nhìn chung việc triển khai thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về đất nông nghiệp khá đồng bộ và hiệu quả. Tuy nhiên, huyện Thanh Trì cũng không tránh khỏi những hạn chế. Trong thời gian tới chắc chắn huyện sẽ có những điều chỉnh để khắc phục những nguyên nhân trên hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vự quản lý đất đai của mình. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN THANH TRÌ – HÀ NỘI PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU QUẢN LÝ ĐẤT NÔNG NGHIỆP. Đất nông nghiệp đã và đang góp phần quan trọng vào phát triển nông nghiệp nông thôn, nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân tạo nên bộ mặt mới cho huyện Thanh Trì. Trong những năm tới, phân bổ, bố trí đất nông nghiệp như thế nào cho hợp lý và hiệu quả là vấn đề không hề đơn giản đối với các cấp lãnh đạocủa huyện Thanh Trì. Để định hình một nền nông nghiệp hàng hóa, bền vững và bảo vệ môi trường huyện đã đề ra phương hướng và mục tiêu quản lý đất nông nghiệp trong thời gian tới. Thứ nhất, huyện Thanh Trì chỉ đạo phát triển kinh tế chuyển dịch cơ cấu cơ bản là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Huyện đầu tư phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái gắn với du lịch và bảo vệ môi trường, phát triển các vùng sản xuất chuyên canh rau an toàn, xây dựng vùng nuôi trồng thủy sản chất lượng cao. Đó là hướng đi hoàn toàn hợp lý đòi hỏi huyện phải bố trí sử dụng diện tích đất nông nghiệp như thế nào cho tững xã, từng vừng cho phù hợp. Thứ hai, huyện tập trung xây dựng hồ sơ địa chính số trong đó quan tâm đến hệ thống bản đồ số. Thực hiện theo chỉ đạo của UBND Thành phố huyện Thanh Trì đã bắt đầu áp dụng công nghệ thông tin vào thiết lập bản đồ địa chính. Sắp tới Phòng Tài nguyên và môi trường sẽ bắt tay vào thực hiện nội dung này. Khi hệ thống hồ sơ địa chính được số hóa sẽ giảm bớt được rất nhiều khâu trong lưu trữ tài liệu và tra cứu thông tin địa chính. Vì vậy, công tác quản lý nhà nước về đất đai sẽ được cải thiện đáng kể. Thứ ba, đối với quy hoạch, những năm tới đây huyện Thanh Trì sẽ triển khai các dự án khu du lịch đô thị nông nghiệp sinh thái ở các xã: Đông Mỹ, Đại Áng và triển khai mô hình trang trại. Thứ tư, do hậu quả từ việc giao đất theo Nghị quyết 10 của Chính phủ tiếp đó là Nghị định 64/CP nên việc sử dụng đất nông nghiệp của huyện hết sức manh mún, có hộ sử dụng tới 30 thửa đất. Nhiệm vụ đặt ra cho huyện Thanh Trì là tổ chức thực hiện dồn điền, đổi thửa. Thứ năm, mục tiêu của huyện là tích cực giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo liên quan đến đất nông nghiệp trên địa bàn huyện. Huyện sẽ bổ sung đội ngũ cán bộ chuyên trách có trình độ chuyên môn cao thụ lý các loại đơn thư của công dân để giải quyết nhanh nhất vần đề rắc rối này. Qua đó làm ổn định tình hình sử dụng đất nông nghiệp cũng như tình hình an ninh xã hội trên địa bàn. Khi giải quyết được một cách triệt để khiếu kiện của công dân huyện cũng gián tiếp đẩy nhanh được quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp, thu hồi đất nông nghiệp… MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN THANH TRÌ. Qua quá trình nghiên cứu về công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì, tôi đã rút ra được những nguyên nhân hạn chế hiệu lực quản lý nhà nước về đất đai của huyện. Để giải tỏa được những tồn tại là điều không hề đơn giản hay có thể làm được trong “ngày một ngày hai”. Tìm ra các giải pháp hợp lý và hiệu quả để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước về đất đai là một bài toàn khó đối với các nhà quản lý. UBND huyện Thanh Trì đã đề ra rất nhiều giải pháp, đã từng bước triển khai thực hiện và thu được kết quả khả quan. Theo tôi trong thời gian tới huyện Thanh Trì cần tập trung vào các giải pháp sau: Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về đất đai, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan liên quan. Ngành Địa chính nước ta đã đề ra chiến lược phát triển ngành với mục tiêu hoàn thiện hệ thống quản lý Nhà nước về đất đai và đo đạc bản đồ vào năm 2010, phấn đấu đến khi đó ngành sẽ đạt trình độ hiện đại ngang tầm các nước trong khu vực. Thời gian để toàn bộ ngành thực hiện mục đích đó không còn xa bởi vậy tất cả các cơ quan hữu quan phải hết sức nỗ lực hoàn thiện tổ chức của cơ quan mình. Ngành Địa chính huyện Thanh Trì cũng đã có những chuyển biến tích cực góp phần thực hiện thành công mục tiêu đó. Tổ chức bộ máy quản lý đất đai của huyện đã khá hoàn chỉnh, Phòng Địa chính – Nhà đất (nay là Phòng Tài nguyên và môi trường) đã được thành lập và có cơ cấu tổ chức chặt chẽ theo đúng nguyên tắc quản lý. Tuy nhiên, bộ máy quản lý từ cấp huyện đến cấp xã, thị trấn chưa được đầy đủ và hoàn thiện do đội ngũ cán bộ chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Ngoài ra, sự phối hợp của các đơn vị như: UBND huyện, Phòng Tài nguyên và môi trường, các xã, thị trấn trong huyện cũng chưa chặt chẽ. Việc này đã tạo ra kẽ hở cho những kẻ trục lợi cá nhân lợi dụng lấn chiếm đất đai, chuyển mục đích sử dụng đất bất hợp pháp…Bởi vậy muốn công tác quản lý đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng đạt hiệu quả cao huyện Thanh Trì cần phải kiện toàn lại bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai đồng thời phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận trong bộ máy đó. Để nâng cao năng lực quản lý của mình cơ quan quản lý đất đai của huyện cần thực hiện chủ trương đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Mục tiêu của cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai là đơn giản hóa những thủ tục, giảm thiểu tối đa những khó khăn cho người dân khi đến làm việc với cơ quan Nhà nước. Bởi vậy, Nhà nước đã thực hiện “một cửa, một dấu” và tổ chức theo các cấp rõ ràng. Theo đó, người dân khi thực hiện nghĩa vụ về đất đai với Nhà nước chỉ cần nộp hồ sơ tai một đầu mối và nhận kết quả cũng tại đó. Hiện nay, Văn phòng đăng ký đất và nhà huyện Thanh Trì đã được thành lập, đi vào hoạt động và đã đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức và mối liên quan giữa Văn phòng với Phòng Tài nguyên và môi trường cũng còn nhiều vấn đề khúc mắc. Hiện nay, Văn phòng đăng ký đất và nhà trực thuộc Phòng Tài nguyên và môi trường huyện nhưng hai cơ quan này đang lưu trữ hai hệ thống hồ sơ khác nhau dẫn đến sự thiếu nhất quán trong việc quản lý và cán bộ làm nhiệm vụ phải đi lại nhiều lần giữa hai bộ phận. Khi muốn kiểm tra hồ sơ người dân cũng phải vào Phòng Tài nguyên và môi trường để xác minh hồ sơ nên làm giảm đi vai trò của hình thức “một cửa” Vì vậy, trong thời gian tới UBND huyện cần có những điều chỉnh cho phù hợp. Huyện có thể cho lưu hai bộ hồ sơ như nhau ở hai bộ phận này hoạc tách riêng hai hệ thống, những loại hồ sơ nào thường dùng cho những công việc của Văn phòng đăng ký đất và nhà thì chuyển ra đó. Làm như vậy sẽ giảm bớt được thời gian và công sức của cán bộ tiếp dân cho việc đi lại và nâng cao được hiệu quả công tác. Với những biện pháp cải thiện bộ máy quản lý nhà nước về đất đai và cải cách thủ tục hành chính sẽ làm lành mạnh hóa bộ máy và cải thiện đáng kể những khó khăn của người dân khi làm các thủ tục liên quan đến đất đai. Bổ sung và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công tác quản lý đất đai. Đất đai đối với mọi địa phương đều là tài sản quý giá và tình hình sử dụng hết sức phức tạp nên để quản lý được đầy đủ và chặt chẽ cần có một đội ngũ cán bộ đủ về số lượng và chất lượng mới có thể đảm đương đượcnhiệm vụ nặng nề đó. Tập trung vào con người luôn là một chiến lược đúng đắn bởi con người là trung tâm của xã hội, là động lực của sự phát triển nên nhân tố con người cần phải đặt lên vị trí hàng đầu. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ địa chính của huyện Thanh Trì – Hà Nội còn thiếu và không đồng đều. Đội ngũ cán bộ của Phòng Tài nguyên và môi trường huyện phần lớn là trẻ, năng động, nhiệt tình, sáng tạo, có trình độ chuyên môn nhưng kinh nghiệm công tác chưa nhiều. Bên cạnh đó là đội ngũ cán bộ địa chính xã, thị trấn chuyên môn yếu, phần lớn mới chỉ qua các lớp tập huấn, một số ít được đào tạo chuyên ngành qua hệ trung cấp không đủ khả năng giải quyết những công việc phức tạp. Thông qua thực tế này, trong những năm tới huyện Thanh Trì cần nỗ lực nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quản lý đất đai. Muốn làm được việc này, huyện cần có những bước đi cụ thể, tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ địa chính toàn huyện. Đối với cán bộ của Phòng Tài nguyên và môi trường, UBND huyện cần tạo điều kiện về thời gian và kinh phí khuyến khích các cán bộ đi học thêm trình độ đại học và sau đại học. Đối với cán bộ địa chính xã, huyện cần đẩy mạnh việc mở các lớp tập huấn pháp luật, tập huấn chuyên môn nâng cao trình độ cho cán bộ. Ngoài ra, huyện cũng cần có chính sách khuyến khích cán bộ xã đi học thêm để bổ sung kiến thức, năng lực quản lý đủ khả năng nắm bắt được khoa học kỹ thuật về đo đạc, lưu trữ hồ sơ…Cán bộ địa chính không những phải giỏi về chuyên môn mà còn cần phải có kiến thức tổng hợp để kịp thời vận dụng được những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công việc của mình. Bởi vậy, huyện cần đào tạo đội ngũ cán bộ toàn diện thông qua việc mở rộng các lớp ngoại ngữ, tin học cho cán bộ công chức ngành Địa chính. Việc bố trí cán bộ cũng cần có sự thay đổi. Thực tế, mỗi cán bộ của Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Thanh Trì được phân công quản lý một xã, thị trấn của huyện. Mọi vấn đề về đất đai của xã, thị trấn đó đều tập trung vào một cán bộ là quá nặng nề gây quá tải công việc nhất là những địa bàn rộng, phức tạp. Bởi vậy cần phải giải tỏa áp lực công việc đối với họ, có thể bổ sung cán bộ quản lý cho các xã có khối lượng công việc lớn hoặc kết hợp công việc của những đơn vị hẹp, đơn giản với đơn vị phức tạp để bố trí hợp lý cho cán bộ. Công việc đối với cán bộ địa chính xã hiện cũng quá tải, khối lượng công việc lớn khiến họ không thể hoàn thành dứt điểm công việc buộc phải kéo dài thời gian làm chậm tiến độ chung của toàn huyện. Qua thực tế đó có thể thấy lực lượng cán bộ địa chính của huyện vẫn còn thiếu và cần được bổ sung. Để xây dựng được đội ngũ cán bộ có chuyên môn, nhiệt tình công tác huyện cần có chính sách thu hút nhân tài, có cơ chế tuyển dụng phù hợp để chọn lọc được những người vừa có đức vừa có tài bổ sung vào đội ngũ cán bộ làm tăng nội lực của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai. Bổ sung và nâng cao năng lực công chức trong quản lý đất đai là nhiệm vụ quan trọng, là giải pháp khả thi và cần phải thực hiện ngay để đáp ứng nhu cầu quản lý đất đai trên địa bàn huyện Thanh Trì trong thời kỳ này. 3. Tăng cường hiệu lực pháp luật, có chế tài xử lý vi phạm pháp luật đất đai nghiêm khắc, triệt để. Chúng ta thấy trong thời gian qua có rất nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo với xu hướng ngày càng tăng. Trong đó có không ít những vụ việc liên quan đến cán bộ công chức làm mất dần niềm tin của nhân dân. Để khắc phục thực tế đó, huyện Thanh Trì cần cấp thiết đề ra phương hướng giải quyết cứng rắn hơn nữa, trừng trị thích đáng những kẻ suy thoái đạo đức, nhân cách người cán bộ chân chính. Đặc biệt, huyện cần nhanh chóng giải quyết dứt điểm những vụ việc còn tồn đọng trong những năm qua để ổn định tình hình sử dụng đất trong huyện. Đi đôi với việc áp dụng những chế tài xử phạt một cách nghiêm túc, huyện Thanh Trì cũng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện sai phạm để có phương hướng chấn chỉnh. Nếu làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai chắc chắn bộ máy quản lý đất đai từ cấp huyện đến cơ sở sẽ trở nên trong sạch hơn và quản lý đất đai cũng sẽ có những chuyển biến tích cực. 4. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp và điều chỉnh quy hoạch không gian toàn huyện. Một trong những nguyên nhân cản trở việc tổ chức thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về đất nông nghiệp chính là do đến nay huyện Thanh Trì vẫn chưa có quy hoạch không gian sau khi chia tách huyện. Quy hoạch không gian sẽ tạo nên tính tổng thể về xây dựng và chi phối sự phân bổ quỹ đất cho các mục đích khác nhau. Nếu triển khai các mô hình trong sử dụng đất nông nghiệp khi chưa có quy hoạch không gian sẽ rất dễ phá vỡ quy hoạch tạo sự mất cân đối và không đồng bộ. Để tạo điều kiện cho công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp được củng cố, huyện phải đề nghị Thành phố nhanh chóng điều chỉnh quy hoạch không gian của huyện Thanh Trì. Quá trình đô thị hóa đang lan nhanh trên địa bàn huyện Thanh Trì làm cho bộ mặt của huyện đổi thay nhanh chóng trong những năm gần đây. Đó là lý do gây áp lực lớn lên việc sử dụng đất đặc biệt là đất nông nghiệp – loại đất đang có xu hướng giảm sút mạnh. Mặc dù huyện Thanh Trì đã có quy hoạch sử dụng đất nhưng phải thường xuyên có sự điều chỉnh quy hoạch cho “khớp” với tình hình sử dụng đất đã thay đổi do quá trình đô thị hóa. Trong quá trình thực hiện, cần phải đặc biệt chú ý đến tính phù hợp của quy hoạch so với tình hình thực tế của từng tiểu vùng và toàn huyện. Tùy theo sự phát triển của từng khu vực và sự biến động đất đai mà huyện có những điều chỉnh quy hoạch cho hợp lý. Bên cạnh đó, các cấp các ngành trong huyện cũng phải từng bước triển khai những nội dung quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp không chịu ảnh hưởng nhiều của quy hoạch không gian để thực hiện thành công quy hoạch vào năm 2010. Việc triển khai mô hình nông nghiệp đô thị sinh thái và mô hình trang trại còn chậm nên trong thời gian tới huyện cần tập trung đưa ra những biện pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện mô hình này. Huyện có thể có chính sách khuyến khích người dân ở những vùng thuộc quy hoạch mô hình này tự đầu tư chuyển đổi sang kinh tế trang trại hay mô hình nông nghiệp sinh thái. Việc hình thành các khu kinh tế trang trại là một trong những nội dung quy hoạch và là hướng đi đúng đắn. Điều đó được chứng minh qua những kết quả bước đầu của mô hình này. Các cấp chính quyền cần có biện pháp khuyến khích người dân trong vùng quy hoạch tích cực chuyển đổi xây dựng mô hình trang trại. Đối với vùng chuyển từ chân ruộng trũng sang lúa – cá – cây ăn quả cần cho phép họ được xây dựng chuồng trại và các công trình phục vụ sản xuất với tỷ lệ diện tích được chuyển đổi hợp lý. Huyện cũng cần tiếp tục thực hiện chủ trương hỗ trợ kinh phí đào đắp bờ vùng, bờ thửa và mua giống cây trồng, vật nuôi. Làm như vậy, một mặt huyện đẩy nhanh được tiến độ thực hiện quy hoạch, một mặt nhanh chóng khai thác tiềm năng đất nông nghiệp ở địa phương nâng cao thu nhập cho người dân. Trong những năm tới, cần xúc tiến việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất đai trên phạm vi toàn huyện trong đó có quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp. Đây là tiền đề quan trọng nhất cho sự phát triển của ngành nông nghiệp cũng như việc thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội toàn huyện. Trong đó, huyện Thanh Trì cũng cần có quy hoạch cụ thể, chi tiết về cơ sở hạ tầng, cần chú ý phân bổ diện tích đất cho xây dựng các công trình thủy lợi để đảm bảo cung cấp nước sạch tưới tiêu cho đồng ruộng, nuôi trồng thủy sản đáp ứng chuyển đổi, thâm canh sản xuất. Quán triệt sâu sắc được những vấn đề trên, quy hoạch sử dụng đất của huyện mới thực sự có tính khoa học và khả thi cao. 5. Tích cực tuyên truyền, giáo dục pháp luật và chủ trương, chính sách về đất đai của huyện đến người dân. Như đã trình bày ở trên, trình độ học vấn của bà con nông dân của huyện Thanh Trì còn thấp. Đó chính là nguyên nhân cơ bản của việc thiếu hiểu biết pháp luật nói chung và pháp luật về đất đai nói riêng. Vì vậy, việc triển khai các nội dung quản lý nhà nước về đất đai sẽ gặp rất nhiều khó khăn từ phía người dân. Việc nâng cao kiến thức pháp luật cho nhân dân là việc làm không đơn giản bởi lẽ nhiều cán bộ còn chưa hiểu đúng và đầy đủ pháp luật về đất đai. Nếu có hiểu biết về pháp luật đất đai cũng như chủ trương, chính sách của huyện chắc chắn ý thức của người dân trong việc hợp tác với cán bộ địa chính sẽ được cải thiện rõ rệt. Trước tiên, huyện cần nâng cao nhận thức pháp luật nói chung cũng như pháp luật về đất đai của các cán bộ nhà nước thông qua việc tổ chức các lớp tập huấn, ban hành những cuốn cẩm nang pháp luật phát cho mọi người đồng thời khuyến khích đội ngũ cán bộ tìm hiểu pháp luật. Sau đó, chính những cán bộ này sẽ tuyên truyền giải thích cho người dân những kiến thức về pháp luật. Để nâng cao được ý thức pháp luật của nhân dân trong huyện cần phải đẩy mạnh công tác phổ biến pháp luật thông qua các thông tin đại chúng: báo chí, truyền hình, đài phát thanh của xã, thị trấn và thường xuyên tổ chức các buổi nói chuyện pháp luật tại các khu dân cư, các tổ dân phố. UBND huyện nên thực hiện các biện pháp nhằm xã hội hóa pháp luật. Một trong những việc có thể tổ chức thường xuyên là phát hành các tờ rơi có nội dung pháp luật và chính sách đất đai của huyện. Bên cạnh đó, huyện cần phối hợp với nhà trường để giáo dục pháp luật cho các em học sinh vì đây là tầng lớp dân cư có hiểu biết và dễ nắm bắt được thông tin pháp luật. Từ việc nắm bắt được những quy định pháp luật về đất đai cũng như đất nông nghiệp, người dân sẽ có nhận thức đúng đắn về chủ trương của Nhà nước. Qua đó, công tác quản lý nhà nước về đất đai sẽ thuạn lợi hơn và giảm được đáng kể những vi phạm do thiếu hiểu biết về pháp luật. 6. Đầu tư kinh phí phục vụ công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì. Để phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp cần rất nhiều những tài liệu, hồ sơ liên quan như hệ thống bản đồ, sổ sách, trang thiết bị lưu trữ...Hệ thống tài liệu đó chỉ có được do sự nỗ lực không ngừng của đội ngũ đông đảo cán bộ công nhân viên ngành Địa chính của huyện. Trong thời gian qua, huyện đã đầu tư kinh phí khá lớn cho công tác cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp, lập quy hoạch sử dụng đất đặc biệt là kinh phí thực hiện kiểm kê đất đai trong năm 2005. Để có được hệ thống bản đồ số chất lượng cao, huyện đã phải đầu tư một khoản tiền không nhỏ. Trong những năm tới huyện cần có sự điều chỉnh, cân đối kinh phí để đầu tư cho việc số hóa lại hồ sơ địa chính phục vụ đắc lực cho công tác quản lý nhà nước về đất đai. Ngoài ra, các loại máy móc, trang thiết bị hiện đại như máy vi tính, máy định vị GPS…đều đòi hỏi kinh phí lớn. Điều kiện cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại cũng là một động lực giúp cho quản lý đất nông nghiệp đạt hiệu quả cao. Các cấp lãnh đạo cần có sự quan tâm hơn nữa đến công tác quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng trên địa bàn huyện. Đất đai là nguồn lực to lớn của mỗi địa phương nên việc sử dụng đất như thế nào thu hút được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng và lãnh đạo của địa phương đó. Sự lãnh đạo chặt chẽ, sâu sát và quan tâm đúng mức của chính quyền cũng là một trong những điều kiện nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp rất đa dạng và phức tạp bởi vậy cũng sẽ có rất nhiều những giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về loại đất này. Trên đây là một vài giải pháp tôi mạnh dạn đề xuất, đó là những ý kiến của cá nhân tôi mong góp phần hoàn chỉnh hơn công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT. Để tạo điều kiện thuận lợi cho huyện Thanh Trì hoàn thành được mục tiêu đề ra trong công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tới năm 2010, huyện có một số kiến nghị: * Đề nghị Thành phố và các ngành quy hoạch chi tiết không gian và quy hoạch sử dụng đất huyện Thanh Trì theo hướng phát triển đô thị đến năm 2010 trở thành quận mới của Hà Nội và quy hoạch khu đô thị trung tâm của huyện. * Đề nghị triển khai, lập và duyệt các quy hoạch nông nghiệp công nghệ cao, thủy lợi, công nghiệp, du lịch dịch vụ. * Đề nghị UBND huyện Thanh Trì đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính giảm thiểu những khó khăn cho người dân khi thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với đất nông nghiệp hay các loại đất khác. * Cho phép huyện đấu giá các khu đất kẹt (trong đó có rất nhiều thửa thuộc nhóm đất nông nghiệp như: ao, hồ, ruộng rau…) chấm dứt tình trạng sử dụng đất không hiệu quả, lấn chiếm các khu đất kẹt đồng thời tạo nguồn thu ngân sách cho huyện. * Kiến nghị đầu tư kinh phí thực hiện mô hình nông nghiệp sinh thái ở các xã Đông Mỹ, Hữu Hòa, Tả Thanh Oai… KẾT LUẬN Huyện Thanh Trì là một huyện ven đô có lợi thế hơn so với một số huyện ngoại thành khác. Đặc biệt, sản xuất nông nghiệp vừa phù hợp với lịch sử của huyện vừa có thị trường rộng lớn là khu vực nội đô. Bởi vậy, sản xuất nông nghiệp cũng như đất nông nghiệp như thế nào đang trở thành một ẩn số cho các nhà quản lý đất đai. Trong những năm qua, công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn đã được triển khai đồng bộ, toàn diện, cụ thể đến từng xã. Nhờ sự nỗ lực không ngừng của các cấp quản lý mà công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã dần ổn định và thu được những kết quả đáng mừng. Công tác khảo sát, đo đạc được tiến hành một cách khoa học, độ chính xác cao, cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp cơ bản hoàn thành, công tác kiểm kê thành công tốt đẹp. Đó là những nét cơ bản của công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trong những năm qua. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng của huyện 5 năm trở lại đây cũng gây sức ép không nhỏ đối với sử dụng đất nông nghiệp. Thực tế đang diễn ra theo xu hướng bất lợi cho phát triển ngành nông nghiệp của huyện. Hiện nay, tình trạng đất nông nghiệp bị giảm sút nghiêm trọng về diện tích, hiện tượng chuyển mục đích sử dụng bừa bãi, sử dụng lãng phí và hủy hoại đất nông nghiệp còn tồn tại. Tất cả những bất cập đó đã được UBND huyện Thanh Trì xác định và tích cực tìm ra biện pháp khắc phục triệt để. Tóm lại, việc thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về đất nông nghiệp huyện Thanh Trì đã đạt được những kết quả to lớn. Với những chuyển biến tích cực trong công tác quản lý đất nông nghiệp cộng với sự chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng, trong thời gian tới huyện Thanh Trì sẽ phát triển mạnh mẽ hơn tạo ra một cơ cấu ngành hợp lý, sử dụng đất hiệu quả xây dựng nên một không gian đô thị và nông thôn mang tính khoa học và giàu tính thẩm mỹ. Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện, tôi mạnh dạn đưa ra một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất nông nghiệp tại địa phương.Tôi hi vọng rằng, cá nhân mình sẽ góp một phần công sức nhỏ bé công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa huyện Thanh Trì. Tôi tin rằng với sự cố gắng của toàn Đảng, toàn dân huyện Thanh Trì – Hà Nội chắc chắn sẽ trở thành một “vùng đất hứa”, là điểm đến của các nhà đầu tư, của khách du lịch, xứng đáng là một huyện ngoại thành Thủ đô ngàn năm văn hiến. Trước khi kết thúc chuyên đề thực tập này, một lần nữa tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới GS.TSKH Lê Đình Thắng – giáo viên hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực tập và làm chuyên đề này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình quản lý nhà nước về đất đai và nhà ở - GS.TSKH. Lê Đình Thắng chủ biên Giáo trình Kinh tế tài nguyên đất – PGS.TS. Ngô Đức Cát chủ biên Giáo trình Đăng ký – thống kê đất đai – GS.TSKH. Lê Đình Thắng, Ths. Đỗ Đức Đôi đồng chủ biên Của cải của các dân tộc - Ađam Smith - NXB Giáo dục - Hà Nội - 1997 Luật đất đai 1993, sửa đổi năm 1998, 2001 và Luật đất đai 2003 Các nghị định hướng dẫn thi hành Luật đất đai 181/2004/NĐ-CP, Nghị định 182/2004/NĐ-CP về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, Nghị định 197/2004/NĐ-CP về thu tiền sử dụng đất Tạp chí Quản lý nhà nước số 10/2003, số 4/2004, số 10/2004, số 2/2005, số 6/2005 Tạp chí Địa chính số 2/2001, số 6/2001, số 2/2005, số 4/2005 Tạp chí Tài nguyên môi trường số 4/2004, số 8/2004 10. Các tài liệu do Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Thanh Trì cung cấp MỤC LỤC Lời mở đầu … 1 CHƯƠNG I: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP 3 Khái niệm đất nông nghiệp 3 Vai trò và đặc điểm của đất nông nghiệp 4 Vai trò của đất nông nghiệp 4 Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế 4 Đất nông nghiệp là nguồn cung cấp đất đai cho các ngành kinh tế khác 4 1.3. Đất nông nghiệp là yếu tố quyết định bảo vệ môi trường sinh thái 5 Đặc điểm đất nông nghiệp 6 Đặc tính hai mặt: không thể sản sinh và có khả năng tái tạo 6 Tính sở hữu và sử dụng 7 Tính đa dạng và phong phú 7 Phân loại đất nông nghiệp 8 Phân bố đất nông nghiệp 9 Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 12 Khái niệm và vai trò của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 12 Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 14 Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 15 Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp và tổ chức thực hiện các văn bản đó 17 Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp; lập bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp 18 Thực hiện lập và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp 20 Công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp 23 Công tác đăng ký và cấp giấy chứng nhận (GCN) quyền sử dụng đất nông nghiệp; thống kê, kiểm kê đất đai 27 6. Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật và giả quyết khiếu nại, tố cáo các hành vi trong quản lý sử dụng đất nông nghiệp 31 Các nhân tố ảnh hưởng 33 Điều kiện tự nhiên 33 Điều kiện kinh tế - xã hội 34 Khoa học công nghệ 35 Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đất đai 37 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ – HÀ NỘI 40 Tổng quan điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội .40 Điều kiện tự nhiên 40 Điều kiện kinh tế - xã hội 42 Đánh giá thuận lợi và khó khăn đối với quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 50 Hiện trạng sử dụng đất và biến động đất nông nghiệp huyện Thanh Trì 51 Hiện trạng sử dụng đất của huyện Thanh Trì 52 Biến động đất nông nghiệp 56 Hiện trạng quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội 57 Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp và tổ chức thực hiện các văn bản đó 57 Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp; lập bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp 60 Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp 60 Lập bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp 61 Thực hiện lập và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp 63 Công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp 68 Công tác giao đất, cho thuê đất nông nghiệp 68 Thu hồi đất nông nghiệp 69 Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp 70 Công tác đăng ký và cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp; thống kê, kiểm kê đất đai 72 5.1. Công tác đăng ký và cấp GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp 72 5.2. Thống kê, kiểm kê đất đai 75 Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo các hành vi trong quản lý sử dụng đất nông nghiệp 77 Đánh giá thành tựu và hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội. 81 Kết quả đạt được 81 Tồn tại 83 Nguyên nhân 85 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN THANH TRÌ – HÀ NỘI. 88 Phương hướng, mục tiêu quản lý nhà nước về đất nông nghiệp 88 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội 89 Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về đất đai, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan liên quan. 89 Bổ sung và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công tác quản lý đất đai. 91 Đẩy nhanh tiến độ thực hiện quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, nhanh chóng điều chỉnh quy hoạch không gian toàn huyện. 92 Tăng cường hiệu lực pháp luật, có chế tài xử lý vi phạm pháp luật đất đai nghiêm khắc, triệt để. 93 Tích cực tuyên truyền, giáo dục pháp luật và chủ trương, chính sách về đất đai của huyện đến người dân. 94 Đầu tư kinh phí phục vụ công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì. 95 Các cấp lãnh đạo cần có sự quan tâm hơn nữa đến công tác quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng trên địa bàn huyện. 96 Kiến nghị, đề xuất 96 Kết luận 98 Tài liệu tham khảo 100 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4957.doc
Tài liệu liên quan