Nghiên cứu và hoàn thiện một số giải pháp an toàn PCCC đối với công trình Kkhách sạn Hoàng Long số 185 phố Lò Đúc - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội

Phần I: Mở đầu I. lý do chọn đề tài. Loài người đã bước sang thế kỷ mới - Thế kỷ của tin học và công nghệ. Cho dù là đất nước nào đi nữa, muốn tiến kịp thời đại đòi hỏi phải có những con người có đủ phẩm chất, nhân cách và trí tuệ - con người mới phát triển toàn diện. Để đào tạo thế hệ trẻ có khả năng đáp ứng được nhu cầu của đất nước trong mỗi giai đoạn chỉ có thể nhờ vào sự đổi mới giáo dục. Chính bởi lẽ đó mà Đảng và nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách, là cốt tử của sự phát triển đất nư

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1198 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu và hoàn thiện một số giải pháp an toàn PCCC đối với công trình Kkhách sạn Hoàng Long số 185 phố Lò Đúc - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc. Những đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước từ những năm 1986 đến nay, những xu thế và thành tựu của đổi mới giáo dục thế giới, những vận động tự thân của giáo dục Tiểu học nước ta đòi hỏi phải đổi mới toàn diện và đồng bộ giáo dục Tiểu học. Bậc Tiểu học được xác định là “ Bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân “ ( Điều 2 - Luật phổ cập giáo dục Tiểu học ). Đây là bậc học phổ cập, tạo tiền đề cơ bản để nâng cao dân trí, là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng để đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân tốt mang trong mình những phẩm chất ( Trí tuệ phát triển, ý chí cao, tình cảm đẹp ) tạo thành cốt lõi của một nhân cách Việt Nam trong giai đoạn mới. Mục tiêu phát triển giáo dục bậc Tiểu học từ nay đến hết năm 2020 Nghị quyết trung ương 2 chỉ rõ “ Nâng cao chất lượng toàn diện bậc Tiểu học ” Yêu cầu về nội dung, phương pháp “ Giáo dục Tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người, có kỹ năng cơ bản về nghe, đọc, nói, viết và tính toán..” (Điều 24 - Luật giáo dục ). Liệu rằng mục tiêu trên có trở thành hiện thực hay không khi mà các em luôn là ngưòi thụ động để Thầy, Cô áp đặt những kiến thức có sẵn bẵng những qui trình giảng dạy sáo mòn. Các em sẽ chẳng bao giờ trưởng thành nếu mãi phải ngồi học theo kiểu: Thầy nói - trò nghe, Thầy đọc - trò ghi, Thầy khẳng định - trò chấp nhận... Lẽ ra các em phải là chủ thể của quá trình dạy học, các em phải được làm việc và thông qua việc làm của mình mà trưởng thành. Như thế mới là dạy học . Dạy học ở Tiểu học là một nghề. Nghề dạy học ở bậc Tiểu học có đặc thù riêng về mặt sư phạm mà người làm nghề dạy học ở bậc học khác không cần hoặc không có được. Vì dạy học ở Tiểu học đem lại cho học sinh kiến thức, kỹ năng, thái độ tạo cơ sở ban đầu rất cơ bản và bền vững cho trẻ tiếp tục học lên, hình thành những cơ sở ban đầu, đường nét ban đầu của nhân cách. Những gì thuộc về tri thức và kỹ năng, về hành vi và tính người..... được hình thành và định hình ở học sinh Tiểu học sẽ theo suốt cuộc đời mỗi người. Những gì đã hình thành và định hình ở trẻ em rất khó thay đổi, khó cải tạo lại. Tóm lại, dạy học ở bậc Tiểu học chủ yếu là dạy cách học - dạy phương pháp học. Do vậy, muốn đổi mới giáo dục Tiểu học trước hết và quan trọng nhất phải đổi mới phương pháp dạy học. Chỉ trên cơ sở đổi mới phương pháp dạy học thì các đổi mới khác mới có ý nghĩa thiết thực đóng góp vào nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục Tiểu học. Giáo dục Tiểu học nước ta đang có những ưu thế nhất định trong dạy và học môn công cụ. ( Điều 5 - Luật giáo dục đã ghi rõ : “ Tiếng Việt là ngôn ngữ chính dùng trong nhà trường ” ). Từ trước đến nay, Tiếng Việt được phân bố ở các cấp học phổ thông như sau : Cấp Tiểu học : Tiếng Việt Văn học Cấp THCS : Tiếng Việt Văn học Cấp THPT : Tiếng Việt Văn học Theo sơ đồ trên, Tiếng Việt ở Tiểu học được giành thời gian thoả đáng, điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của việc dạy tiếng mẹ đẻ ở cấp học này. Thế nhưng phương pháp dạy học môn Tiếng Việt đang còn những bất cập vì nó bao gồm nhiều phân môn, mỗi phân môn lại có đặc điểm và cách dạy riêng. Do vậy, cần phải đổi mới phương pháp dạy học đối với tất cả các phân môn của môn học công cụ này nhất là Từ ngữ, một trong những phân môn quan trọng ở Tiểu học. Để bộ môn Tiếng Việt nói chung và phân môn từ ngữ nói riêng thực sự góp phần đắc lực vào việc phát triển toàn diện những con người Xã hội chủ nghĩa cần phải có phương thức giáo dục đúng đắn, chỉ đạo hoạt động dạy của giáo viên và việc học của học sinh một cách tích cực, tự giác để tiếp thu được nội dung giáo dục, chuyển hoá nội dung giáo dục thành phẩm chất tốt đẹp của nhân cách. Môn Tiếng Việt có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với học sinh Tiểu học bởi nó vừa là môn khoa học , lại là môn học công cụ. Phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 không có được một qui trình giảng dạy thống nhất, rạch ròi như các phân môn khác trong môn Tiếng Việt ( Tập đọc, ngữ pháp.... ) cũng chính bởi tính đa dạng của nó. Thế mà, trong chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt, phân môn từ ngữ lại rất ít được quan tâm. Hầu hết các địa phương mới chỉ chú trọng đến việc đổi mới phương pháp dạy học phân môn tập đọc. Do đó, giáo viên dạy từ ngữ chủ yếu là do cảm tính riêng của mình, mỗi người dạy theo một kiểu do không hiểu hết dụng ý của cấu trúc bài học được trình bày trong sách giáo khoa. Chính vì lẽ đó năng lực sử dụng từ ngữ của học sinh còn rất nhiều hạn chế. Sở dĩ còn những tồn tại trên là do cách thức chỉ đạo và cách đánh giá đối với dạy học chưa phát huy được cách dạy cũng như cách học chủ động, sáng tạo của giáo viên và học sinh. Trường Tiểu học Yên Phú cũng không nằm ngoài những bất cập đó. Vậy làm thế nào để dạy học từ ngữ có chất lượng ? Đó là vấn đề mà nhà trường và chúng tôi đặc biệt quan tâm. Mong muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học từ ngữ lớp 4 - 5, góp phần giúp các em học tốt tiếng mẹ đẻ, chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài “ Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh “ ở trường Tiểu học Yên Phú huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình. II. mục đích nghiên cứu. Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học từ ngữ nói riêng, Tiếng Việt nói chung. III. đối tượng phạm vi nghiên cứu. 3.1- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. 3.2- Phạm vi nghiên cứu: Do điều kiện thời gian và khuôn khổ của một tiểu luận, đề tài chỉ nghiên cứu những biện pháp chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học phân môn từ ngữ ở hai khối lớp 4 và 5 ở trường Tiểu học Yên Phú trong năm học 1999 - 2000 . IV. nhiệm vụ nghiên cứu. 4.1 - Tìm hiểu một số vấn đề lý luận về phương pháp dạy học Tiếng việt, dạy từ ngữ ở tiểu học, về đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. 4.2- Tìm hiểu thực trạng dạy học và việc chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học từ ngữ lớp 4 - 5 ở trường Tiểu học Yên Phú. 4.3- Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế chỉ đạo. V. Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp sauđây : 5.1- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận : Nghiên cứu những Chỉ thị, các văn bản liên quan đến việc đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học. 5.2- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn : Điều tra ( bằng phiếu ), phỏng vấn, quan sát, tổng kết kinh nghiệm. 5.3- Dùng các phương pháp toán để thống kê và sử lý các số liệu thu thập được. VI. giả thuyết khoa học. Nếu hoàn thành mục đích, nhiệm vụ đề tài sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung. Phần II: nội dung Chương I : cơ sở lý luận I. nghiên cứu lịch sử vấn đề . Thấy rõ được tầm quan trọng của đổi mới phưong pháp dạy học đối với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo lớp công dân Việt Nam trong xã hội hiện đại đầu thế kỷ XXI, trung tâm nghiên cứu nội dung và phương pháp giáo dục phổ thông thuộc viện khoa học giáo dục đã đề xuất nghiên cứu đề tài : “ Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học “. Tháng 10 năm 1992, trung tâm nghiên cứu nội dung và phương pháp giáo dục phổ thông đã phối hợp với Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội tổ chức hội thảo đầu tiên về “Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học “. Năm 1993, Tiến sĩ Đỗ Đình Hoan đã công bố những kết quả nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học trong tạp chí Thông tin khoa học giáo dục số 40 - 1993 và trong tài liệu “ Một số vấn đề về môn toán ở bậc Tiểu học “ do Vụ giáo viên xuất bản. Cũng trong năm 1993, hội thảo toàn quốc lần thứ 2 về “Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học ” đã được tổ chức tại viện khoa học giáo dục. Năm 1994, Bộ giáo dục và đào tạo có trương trình nghiên cứu cấp ngành về đổi mới phương pháp dạy học bao gồm các đề tài nghiên cứu cấp Bộ về phương pháp dạy học từ giáo dục mần non đến bậc học phổ thông. Trung tâm nghiên cứu nội dung và phương pháp giáo dục phổ thông được giao nhiệm vụ nghiên cứu đề tài cấp Bộ về “ Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học “. Hội thảo toàn quốc về “ Đổi mới phương pháp dạy học “ do đề tài cấp bộ tổ chức tại Hà Nội ( Tháng 4 năm 1995 ) đã tổng kết 3 năm triển khai đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học ( 1992 - 1995 ) và khẳng định các kết quả nghiên cứu có tính khả thi cao của đề tài. Bộ trưởng Trần Hồng Quân đã chính thức phát động phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong các trường Tiểu học nói riêng, các nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân nói chung. Một phong trào đổi mới phương pháp dạy học đang hình thành và hứa hẹn nhiều triển vọng tốt đẹp. II. cơ sở lý luận của phương pháp dạy học tiếng việt. 2.1- Cơ sở triết học Mác - Lê Nin. Triết học Mác - Lê Nin là cơ sở phương pháp luận của phương pháp dạy học Tiếng Việt. Đáng lưu ý nhất là những lý thuyết về nhận thức, quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, về bản chất xã hội của ngôn ngữ có ảnh hưởng rất lớn đến những quan điểm chung trong phương pháp dạy học Tiếng Việt. 2.2- Cơ sở giáo dục học. Phương pháp dạy học Tiếng Việt là một bộ phận của khoa học giáo dục nên nó phụ thuộc vào những qui luật chung của khoa học này. Giáo dục học nói chung và lý luận dạy học đại cương nói riêng cung cấp cho phương pháp dạy học Tiếng Việt những hiểu biết về các quy luật chung của việc dạy học môn học. Ngoài ra, nhiều khái niệm, thuật ngữ giáo dục học cũng được sử dụng trong phương pháp dạy tiếng. 2.3- Cơ sở tâm lý học. Quan hệ của phương pháp dạy học tiếng việt và tâm lý học đặc biệt là tâm lý học lứa tuổi rất chặt chẽ. Không có kiến thức về quá trình tâm lý ở con ngưòi nói chung và ở trẻ em lứa tuổi Tiểu học nói riêng thì không thể giảng dạy tốt và phát triển lời nói cho học sinh. Phương pháp dạy học Tiếng Việt vận dụng rất nhiều kết quả của tâm lý học. Đó là các quy luật tiếp thu tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Các đặc điểm tâm lý lứa tuổi là cơ sở tâm lý cho phương pháp dạy học Tiếng Việt xác định nội dung và cách thức tổ chức dạy học. 2.4- Cơ sở tâm lý ngôn ngữ học. Tâm lý ngôn ngữ học nghiên cứu quá trình hình thành lời nói ở trẻ, các quy luật tâm lý của quá trình sản sinh và lĩnh hội lời nói. Những biểu hiện đó rất bổ ích cho phương pháp dạy học Tiếng Việt. 2.5- Cơ sở ngôn ngữ học. Ngôn ngữ học nói chung, Tiếng Việt nói riêng có quan hệ mật thiết với phương pháp dạy học Tiếng Việt. Những hiểu biết về bản chất ngôn ngữ của Tiếng Việt có vai trò quan trọng trong việc định ra các nguyên tắc, nội dung và phương pháp dạy học Tiếng Việt. Ví dụ, những kiến thức từ vựng học về tính hệ thống của từ ngữ đã cho phép những nhà nghiên cứu phương pháp dạy học Tiếng Việt định ra cách dạy từ ngữ theo hệ thống từ đồng nghĩa, từ ghép, từ láy và cần áp dụng phương pháp hệ thống khi hướng dẫn học sinh tập hợp vốn từ. III. vị trí, nhiệm vụ dạy học phân môn từ ngữ ở tiểu học. 3.1- Vị trí dạy từ ngữ ở cấp Tiểu học. Ngôn ngữ là công cụ để tư duy và giao tiếp của con ngưòi. Khả năng sử dụng ngôn ngữ của một con người biểu hiện trình độ văn hoá của con người ấy. Vì vậy, việc dạy ngôn ngữ, mà trước hết là dạy tiếng mẹ đẻ cho người bản ngữ là một yêu cầu không thể thiếu được trong nhà trường phổ thông, đặc biệt là bậc Tiểu học. Môn Tiếng việt giúp cho học sinh nắm được những đơn vị tri thức cơ bản của khoa học Việt ngữ ( Tri thức về hệ thống ngôn ngữ và tri thức về quy tắc sử dụng ngôn ngữ ) trên cơ sở hình thành các kỹ năng : Nghe, nói, đọc, viết đạt đến trình độ đúng, đủ, tạo điều kiện cho trẻ em tiếp nhận những tri thức khoa học khác. Từ có vai trò quan trọng đặc biệt trong hệ thống ngôn ngữ, từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Vai trò của từ trong hệ thống ngôn ngữ quy định tầm quan trọng của việc dạy từ ngữ ở Tiểu học. Không có một vốn từ đầy đủ thì không thể nắm ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp. Việc học từ ở Tiểu học sẽ tạo cho học sinh năng lực từ ngữ, giúp học sinh nắm tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện để học tập tiếp theo và phát triển toàn diện. Vốn từ của học sinh càng giàu bao nhiêu thì khả năng lựa chọn từ càng lớn, càng chính xác, sự trình bày tư tưởng, tình cảm càng rõ ràng, đặc sắc bấy nhiêu. Vì vậy, số lượng từ, tính đa dạng,tính năng động của từ được xem là điều kiện quan trọng hàng đầu để phát triển ngôn ngữ. Cũng chính vì vậy, ở Tiểu học , Từ ngữ được dạy trên tất cả các giờ học của các môn học khác : Toán, Tìm hiểu tự nhiên - xã hội..... được dạy trên tất cả các phân môn Tiếng Việt : Tập đọc, chính tả, tập làm văn..... Ngoài ra, ở Tiểu học từ ngữ còn được dạy với tư cách là một phân môn độc lập. 3.2- Nhiệm vụ dạy học phân môn từ ngữ ở Tiểu học. Dạy từ ngữ ở trường Tiểu học có nhiệm vụ làm phong phú, chính xác tích cực hoá vốn từ của học sinh. Đồng thời cung cấp cho học sinh một số khái niệm từ vựng học cơ bản. Dạy từ ngữ bao gồm : Dạy nghĩa từ, tức là làm cho học sinh nắm nghĩa từ bao gồm việc thêm vào vốn từ của học sinh những từ mới và những nghĩa mới của những từ đã biết, làm cho các em nắm được tính nhiều nghĩa và sự chuyển nghĩa của từ. Mở rộng vốn từ, tức là xây dựng một “ Kho” từ ngữ phong phú, thường trực và có hệ thống trong trí nhớ của học sinh để tạo điều kiện cho các từ đi vào hoạt động lời nói được thuận lợi. Tích cực hoá vốn từ, nghĩa là dạy học sinh sử dụng từ, phát triển kỹ năng sử dụng từ trong lời nói và viết của học sinh , đưa từ vào trong vốn từ tích cực được học sinh dùng thường xuyên . Tích cực hoá vốn từ tức là dạy học sinh biết dùng từ ngữ trong nói năng của mình. Ngoài ra dạy từ ngữ còn có nhiệm vụ văn hoá hoá vốn từ , nghĩa là đưa ra khỏi vốn từ tích cực của học sinh những từ ngữ không văn hoá , dạy học sinh biết dùng từ đúng với phong cách , làm trong sáng , làm đẹp vốn từ của học sinh . Những kỹ năng học sinh Tiểu học cần đạt được trong giờ từ ngữ là phát triển được từ mới trong bài khóa , biết một số thao tác giải nghĩa từ , biết liên tưởng để huy động vốn từ , biết sử dụng từ trong giao tiếp , nhận ra những từ ngữ không văn hoá . IV. phương pháp dạy học tiếng việt và phân môn từ ngữ ở Tiểu Học. 4.1- Phương pháp dạy học. Theo lý luận dạy học, phương pháp dạy học là tổ hợp cách thức hoạt động của thầy và trò, trong đó giáo viên giữ vai trò chủ đạo được tiến hành trong quá trình dạy học nhằm thực hiện nhiệm vụ dạy học. 4.2- Phương pháp dạy học ở Tiểu học. Theo Tiến sĩ Nguyễn Kế Hào, phương pháp dạy học ở Tiểu học là cách thức là những việc làm cụ thể được giáo viên thực hiện để tổ chức và hướng dẫn học sinh học tập, quản lý đánh giá việc học của học sinh nhằm đạt được mục đích yêu cầu cụ thể của từng tiết học, từng bài học. Phương pháp dạy học Tiểu học có thể gọi bằng một tên chung là “ Thầy tổ chức - trò hoạt động “ và tuỳ thuộc vào nội dung, phương tiện, điều kiện cụ thể mà phương pháp đó được triển khai theo những cách thức riêng. 4.3- Thực trạng phương pháp dạy học Tiếng việt và phân môn từ ngữ ở Tiểu học. 4.3.1- Phương pháp dạy học Tiếng việt: Phương pháp dạy học Tiếng Việt là cách thức làm việc của thầy giáo và học sinh nhằm làm cho học sinh nắm vững kiến thức và kỹ năng Tiếng Việt. 4.3.2- Các phương pháp dạy học Tiếng Việt và phân môn từ ngữ ở Tiểu học. 4.3.2.1- Phương pháp phân tích ngôn ngữ: Là phương pháp được sử dụng một cách có hệ thống trong việc xem xét tất cả các mặt của ngôn ngữ : Ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, cấu tạo từ, chính tả, phong cách với mục đích làm rõ cấu trúc các kiểu đơn vị ngôn ngữ, hình thức và cách thức cấu tạo, ý nghĩa của việc sử dụng chúng trong nói năng. Các dạng phân tích ngôn ngữ, quan sát ngôn ngữ ( Là giai đoạn đầu trong quá trình phân tích ngôn ngữ nhằm tìm ra điểm giống và khác nhau, sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định ), phân tích ngữ âm, phân tích ngữ pháp, phân tích chính tả, phân tích tập viết, phân tích ngôn ngữ các tác phẩm văn chương..... Tất cả các dạng phân tích ngôn ngữ đều là bộ phận cấu thành của nhiều bài tập khác nhau : bài tập Tiếng Việt, chính tả, kể lại và các bài văn với nhiệm vụ mang tính phân tích. 4.3.2.2- Phương pháp luyện tập theo mẫu: Là phương pháp mà học sinh tạo ra các đơn vị ngôn ngữ lời nói bằng cách mô phỏng lời thầy giáo, sách giáo khoa..... phương pháp này gồm nhiều dạng bài tập như đặt câu theo mẫu cho trước, kể lại, phát âm hoặc đọc diễn cảm theo thầy giáo. 4.3.2.3- Phương pháp giao tiếp: Là phương pháp dạy tiếng dựa vào lời nói, vào những thông báo sinh động, vào giao tiếp bằng ngôn ngữ. Phương pháp này gắn liền với phương pháp luyện tập theo mẫu câu. Cơ sở của phương pháp giao tiếp là chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ được coi là phương tiện của giao tiếp thì lời nói được coi là bản thân sự giao tiếp bằng ngôn ngữ. Dạy Tiếng Việt theo hướng giao tiếp tức là dạy phát triển lời nói cho từng cá nhân học sinh. Phương pháp giao tiếp coi trọng sự phát triển lời nói, còn những kiến thức lý thuyết thì được nghiên cứu trên cơ sở phân tích các hiện tượng đưa ra trong bài khoá. Để thực hiện phương pháp giao tiếp phải tạo cho học sinh nhu cầu giao tiếp, nội dung giao tiếp, môi trường giao tiếp, các phương tiện ngôn ngữ và các thao tác giao tiếp. Trong thực tế, hầu hết các giáo viên khi dạy Tiếng Việt rất ít sử dụng các phương pháp đặc thù của phân môn từ ngữ, mà họ chỉ quen dạy bằng các phương pháp quen thuộc với tất cả các môn học như : Phương pháp giảng giải thuyết trình, phương pháp đàm thoại, phương pháp làm việc với sách giáo khoa.....Mặt khác, họ lại không nắm vững đựơc bản chất của từng phương pháp, không phát hiện ra thế mạnh và những hạn chế của các phương pháp để lồng ghép, bổ khuyết cho nhau trong quá trình giảng dạy. Do đó, việc sử dụng các phương pháp chưa hợp lý, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Cần phải đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở tất cả các phân môn thì mới nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học. 4.4- Đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt và phân môn Từ ngữ ở Tiểu học. 4.4.1- Tại sao phải đổi mới phương pháp dạy học ? Ngày nay, sự phát triển của Khoa học - công nghệ như vũ bão với những thay đổi diễn ra hàng ngày, hàng giờ đòi hỏi Giáo dục phải tạo ra những con người thích ứng, nắm bắt được những tiến bộ của Khoa học - kỹ thuật. Mặt khác, công cuộc đổi mới sâu sắc nền kinh tế nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có những con người năng động, sáng tạo, có bản lĩnh, dám nghĩ dám làm. Vì vậy, nhà trường cần phải điều chỉnh mục tiêu cho phù hợp, dẫn đến sự thay đổi tất yếu của nội dung và phương pháp dạy học. Đặc biệt là từ trước đến nay, cách dạy học phổ biến là kiểu thông tin một chiều từ thầy đến trò: Thầy đọc - trò chép, thầy giảng - trò nghe... việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh không được quan tâm. Học sinh chỉ như những cái máy ghi nhớ những điều thầy giảng, dẫn đến trình độ tư duy và nhận thức của học sinh rất hạn chế. Học sinh không thể phát huy được tính độc lập, sáng tạo, không thích ứng được với những thay đổi của cuộc sống. Năng lực của học sinh bị lu mờ, không có điều kiện bộc lộ và phát triển. Hơn nữa bậc học Tiểu học là bậc học đầu tiên trẻ được tiếp xúc với phương pháp nhà trường, những gì học được ở nhà trường Tiểu học sẽ theo các em suốt cuộc đời. Vì vậy, cần phải rèn luyện cho các em tính năng động, sáng tạo bằng cách thay đổi phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, coi học sinh là chủ thể của quá trình nhận thức như Nghị quyết trung ương 2 khoá VIII đã vạch rõ : “ Đổi mới phương pháp Giáo dục - đào tạo theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, độc lập suy nghĩ của người học “. Điều đó cũng phù hợp với xu thế giáo dục của khu vực và thế giới. 4.4.2- Thế nào là đổi mới phương pháp dạy học ? Phương pháp dạy học là một hệ thống tác động liên tục nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành để học sinh lĩnh hội vững chắc các thành phần của nội dung giáo dục nhằm đạt được mục đích đã định. Đổi mới trong giáo dục là thường xuyên đưa cái mới và giáo dục để tạo ra sự phát triển mới, nâng cao hiệu quả đào tạo mà vẫn giữ đuợc thế ổn định. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học không phải là phủ nhận cái hiện có mà phải kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được, đồng thời tìm cách phối hợp hợp lý giữa truyền thống và hiện đại để đáp ứng những yêu cầu đổi mớí của giáo dục. Theo Tiến sĩ Đỗ Đình Hoan thì : “ Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là : đưa các phương pháp dạy học mới vào nhà trường trên cơ sở phát huy mặt tích cực của phương pháp dạy học truyền thống để nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả giáo dục - đào tạo. hiểu như vậy thì không thể chỉ nhấn mạnh đến một vài phương pháp mới mà không kế thừa các phương pháp truyền thống, cũng không thể chỉ là cải tiến các phương pháp dạy học hiện có mà không đưa các phương pháp dạy học mới vào nhà trường.“ ( Đỗ Đình Hoan - Hỏi đáp về đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học - NXB Giáo Dục. 1996 ). Đây là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với thực tế giáo dục hiện nay. 4.4.3- Phương pháp dạy học phat huy tính tích cực của học sinh. 4.4.3.1- Phương pháp dạy học truyền thống. Phương pháp dạy học truyền thống có thể coi là tất cả các phương pháp dạy học có từ hàng trăm năm trước đây, kể từ khi có sự xuất hiện của nhà trường. Đặc trưng của phương pháp dạy học truyền thống là hướng tập trung vào giáo viên, nghĩa là người giáo viên được coi như là hiện thân của tri thức, thầy đem tất cả các tri thức có sẵn trong sách giáo khoa, trong các tài liệu áp đặt cho học sinh. Học sinh tiếp nhận tri thức đó một cách thụ động, máy móc. Cả thầy và trò đều phụ thuộc vào sách giáo khoa ( Giáo viên có nhiệm vụ dạy học hoàn toàn đúng như trong sách giáo khoa, còn học sinh trả lời hệt như câu cú trong sách giáo khoa ). Do vậy mà dạy học theo phương pháp dạy học truyền thống không phát huy được tính tự giác, tích cực của học sinh, không phát huy được óc sáng tạo, năng động ở người học. Đối với giáo viên thì không có cơ hội để phát huy khả năng sáng tạo của nghề dạy học. Tuy vậy chúng ta cũng không thể phủ nhận hoàn toàn phương pháp dạy học truyền thống. Bên cạnh những hạn chế, nó cũng có những ưu điểm rất đáng khích lệ, góp phần xứng đáng vào nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nếu chúng ta biết sử dụng nó đúng lúc, đúng chỗ và đúng cách. 4.4.3.2- Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Từ những năm 1950 Bác Hồ đã nêu lên quan điểm lý luận dạy học thể hiện tính tích cực : “ Phải tuyệt đối tránh cách nhồi sọ, không nên học gạo, không nên học vẹt ”, “ Dạy cái gì, dạy thế nào để học sinh hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh”. Nghe theo lời dạy của Bác, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm sâu sắc đến sự nghiệp giáo dục qua ba lần cải cách ( 1950, 1956, 198 ) và phong trào đổi mới phương pháp dạy học ( Năm 1995 ) để đi đến một phương pháp dạy học hiệu quả nhất. Con người là không lặp lại, sự trưởng thành và phát triển của mỗi con người đều được đánh dấu bằng một loạt những vấn đề và đòi hỏi riêng, điều này đòi hỏi phải tôn trọng tính cá thể và chân giá trị của từng con người, coi trọng nhu cầu, hứng thú, năng lực, thói quen của từng người, điều này lại càng cần coi trọng trong việc giáo dục. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, cần giáo dục thế hệ trẻ trở thành những con người “..... Năng động, sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề “, những con người tự tin, có trách nhiệm, hành động phù hợp với những giá trị nhân văn và công bằng xã hội, cần thực hiện một kiểu dạy học đưa đứa trẻ vào hoạt động và trên sơ sở hoạt động của đứa trẻ mà phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nó. Kiểu dạy học này làm thay đổi vai trò của người giáo viên, thay đổi mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Người giáo viên phải là người tổ chức đưa ra những tình huống học tập có tác dụng kích thích óc tò mò và tư duy độc lập, hình thành và phát triển những kỹ năng giải quyết vấn đề, xúc tiến việc tự học để lĩnh hội kiến thức thông qua quan sát, tư duy phê phán và hoạt động. Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh là quá trình giáo viên tổ chức và hướng dẫn các hoạt động nhằm : Phát huy năng lực nội sinh của người học, phát triển sức mạnh trí tuệ, tâm hồn, ý chí của họ. Trong quá trình tổ chức cho học sinh làm việc độc lập, hình thành ở các em động cơ học tập lành mạnh, phát huy tính tự lực tự cường, phát huy ý chí học tập. Giúp các em tự mình tư duy, tìm tòi để khám phá điều chưa biết, giải quyết tình huống có vấn đề..... Kiểu dạy học như vậy cũng đồng thời kích thích sự ham hiểu biết, tìm tòi, sáng tạo trong dạy học của mỗi giáo viên, giúp họ tự tin, chủ động trong giảng dạy và đòi hỏi ở họ phải có sự tôn trọng đối với mọi cố gắng, mọi sáng tạo ( dù nhỏ ) của học sinh. Kết quả của cách dạy học này không những hình thành cho học sinh những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết mà còn xây dựng cho các em một phương pháp học tập để sáng tạo làm kim chỉ nam xuyên suốt cuộc đời học tập của các em sau này. Như vậy, kiểu dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh lấy tiêu điểm của nó là bản thân người học sinh, bản thân đứa trẻ chứ không phải ở người giáo viên. Kiểu dạy học này được xây dựng trên cơ sở nhu cầu, hứng thú, thói quen, năng lực của học sinh ở các trình độ khác nhau, nhằm làm cho học sinh lĩnh hội được những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, giá trị cần thiết, phát huy được đầy đủ nhất năng lực của các em. Nếu như kiểu dạy học truyền thống coi trọng sự có mặt của học sinh ở nhà trường, coi trọng khả năng ghi nhớ và tái hiện các sự kiện, các thông tin thì kiểu dạy học phát huy tính tích cực của học sinh coi trọng quá trình học của học sinh, quá trình dạy được thiết kế nhằm tạo điều kiện để hiệu quả của quá trình học là cao nhất. 4.4.3.3- Dạy học phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Đặc trưng của phân môn từ ngữ là thực hành. Do vậy, giảng dạy từ ngữ phải theo phương pháp thực hành - Một trong những phương pháp thể hiện sự phát huy tính tích cực của học sinh. Muốn rèn luyện cho học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt, giáo viên cần phải chú trọng khâu thực hành thông qua phương pháp giao tiếp, rèn luyện theo mẫu..... Chỉ có thông qua thực hành, luyện tập học sinh mới nắm vững kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo sử dụng Tiếng Việt. Phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 gồm hai kiểu bài : Lý thuyết về từ và thực hành về từ. Và do vậy cũng sẽ có hai cách dạy khác nhau : Đối với những bài thực hành về từ giáo viên không nên bắt buộc học sinh phải chấp nhận bảng từ có sẵn trong mỗi bài học mà nên hướng dẫn học sinh tự tập hợp bảng từ bằng một hệ thống câu hỏi phát động trường liên tưởng của các em. ở lớp 5, những bài lý thuyết về từ cũng được rút ra thông qua hoạt động tìm tòi phát hiện của học sinh ( Dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên ) trên cơ sở phân tích những hiện tượng ngôn ngữ phong phú, sinh động trong thực tiễn giáo dục. Cụ thể, muốn đi đến một khái niệm nào đó, giáo viên nên bắt đầu bằng việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu phân tích các đơn vị ngôn ngữ - các ví dụ mẫu, rồi thông qua hệ thống câu hỏi mà dẫn dắt học sinh hướng tới khái niệm lý thuyết. Dạy từ ngữ theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, có thể vận dụng những phương pháp truyền thống ( phát huy mặt tích cực của nó ) kết hợp với những phương pháp đặc thù của phân môn từ ngữ như : Phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp rèn luyện theo mẫu, phương pháp giao tiếp.....và các phương pháp mới như : Thảo luận, hoạt động hợp tác, nêu vấn đề..... Dù sử dụng phương pháp nào thì người giáo viên cũng cần phải linh hoạt, khéo léo kết hợp, lồng ghép các phương pháp với nhau sao cho những mặt mạnh của phương pháp này bổ khuyết được cho những hạn chế của phương pháp kia một cách hài hoà, phù hợp với từng bài học, từng đối tượng học sinh để từ đó hình thành cho các em kiến thức, kỹ năng, thái độ trong và bằng hoạt động của chính các em. Nhìn chung, phương pháp phân tích ngôn ngữ thích hợp với kiểu bài lý thuyết về từ. Phương pháp rèn luyện theo mẫu và phương pháp giao tiếp lại phù hợp với kiểu bài thực hành về từ. Tuy vậy, trong thực tế giảng dạy không thể rập khuôn máy móc như thế mà cần phải linh hoạt trong việc sử dụng kết hợp các phương pháp. Người giáo viên cần phải nắm bản chất của từng phương pháp, để phát hiện ra những điểm mạnh, những mặt hạn chế của phương pháp, từ đó có thể vận dụng sáng tạo các phương pháp vào từng bài dạy, từng đối tượng học sinh cụ thể. Phải quán triệt quan điểm dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh để đạt được kết quả mong muốn. Trên đây là một số vấn đề lý luận liên quan đến đổi mới phương pháp dạy học nhằm định hướng và khẳnh định cơ sở của việc chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt nói chung, phân môn từ ngữ nói riêng. Chương II : thực trạng chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 ở trường tiểu học Yên phú I. sơ lược tình hình địa phương và nhà trường. 1.1- Địa phương. Với tổng diện tích 566,88 ha, xã Yên Phú nằm ngay trung tâm của huyện Yên Mô. Mặc dù kinh tế còn nhiều khó khăn vì chủ yếu số dân sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp ( 2/3 số hộ ), nhưng sự nghiệp giáo dục và vấn đề nâng cao dân trí được Đảng và chính quyền xã Yên Phú huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình rất quan tâm và chú trọng. Số dân của xã là 7.185 trong đó số trẻ từ 6 - 14 tuổi là 1.845 em, đang học Tiểu học là 830 em còn lại đã học xong Tiểu học và đang học Trung học. 1.2- Nhà trường. Từ năm 1996 đến nay, trường Tiểu học Yên Phú liên tục đạt danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc và là trường lá cờ đầu của ngành giáo dục Yên Mô. Năm học 1999 - 2000 trường được tỉnh xét duyệt trường chuẩn quốc gia. 1.2.1- Đội ngũ. Trường có 34 cán bộ giáo viên trong đó có 1 hiệu trưởng, 2 hiệu phó, 1 kế toán, 1 tổng phụ trách đội, 1 y tế học đường và 28 giáo viên đứng lớp, trong đó có 2 giáo viên chuyên trách. Trình độ đào tạo của đội ngũ giáo viên : Cao đẳng sư phạm : 03 đồng chí. Trung học sư phạm và trưng học hoàn chỉnh : 29 đồng chí. Trung cấp kế toán tài ch._.ính : 01 đồng chí. Trung cấp y sỹ : 01 đồng chí. Chất lượng đội ngũ : Có 02 giáo viên giỏi cấp tỉnh, 03 giáo viên giỏi cấp huyện, không có giáo viên yếu. Nhìn chung, giáo viên chủ yếu là người địa phương lại trẻ, khoẻ, năng nổ trong công tác, yêu nghề mến trẻ. Họ say mê với sự nghiệp “Trồng người ” và quyết tâm xây dựng trường phát triển vững mạnh. 1.2.2- Chất lượng dạy và học . Năm học 1998 - 1999, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt 100 % , chất lượng đại trà đạt chỉ tiêu kế hoạch : Chất lượng môn Tiếng việt lớp 4 - 5 như sau : Giỏi : 15,20 % Khá : 35,50 % Trung bình : 37,40 % Yếu : 11,90 % Năm học 1999 - 2000 trường có tổng số học sinh là 830 em, chia thành 26 lớp, tất cả các lớp đều học 2 buổi/ ngày. 1.2.3- Cơ sở vật chất. Nhà trường cơ bản đã có đủ phòng học cho 26 lớp. Trường có 01 phòng hội đồng, 01 phòng ban giám hiệu, 01 phòng đội, 01 phòng thư viện -thiết bị, chưa có phòng chức năng. Thư viện nhà trường có đủ sách cho giáo viên và học sinh nhưng số lượng sách tham khảo còn rất nghèo nàn. II. thực trạng dạy học phân môn từ ngữ lớp 4 - 5. 2.1- Thực trạng. Như trên đã nói, phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 thể hiện rõ quan điểm thực hành, bao gồm hai kiểu bài : Lý thuyết về từ và thực hành về từ. Riêng ở lớp 5 có 11 bài mang tính lý thuyết, nhưng những kiến thức lý thuyết này cũng được rút ra thông qua thực hành nhằm giúp học sinh ứng dụng vào làm bài tập và giao tiếp. Dạy từ ngữ lớp 4 - 5 chủ yếu là dạy thực hành. Thế nhưng ở trường Tiểu học Yên Phú ( qua dự giờ ( 8 tiết ) , qua phỏng vấn ... ) giáo viên đã dạy kiểu bài lý thuyết từ ngữ theo quy trình sau : Cho học sinh đọc ví dụ có trong bài học, hướng dẫn học sinh phân tích ví dụ và rút ra bài học rồi luyện tập. Như vậy là giáo viên đã cho phần “ Bài đọc ” là ngữ liệu đã chứa đủ nội dung “ Bài học”. Hiểu như thế là không đúng bởi vì thực tế phần I và II trong sách giáo khoa đều có chung một nhiệm vụ xây dựng bài học. Đối với kiểu bài thực hành về từ ( Cũng qua dự giờ, phỏng vấn ) hầu hết giao viên đều dạy theo kiểu : Giáo viên chép phần “ Từ ngữ ” trong sách giáo khoa lên bảng và đưa ra hệ thống câu hỏi yêu cầu học sinh giải nghĩa tất cả các từ ngữ có trong bảng từ, biến giờ từ ngữ thành giờ giải nghĩa từ. Dạy như thế là áp đặt, không phát huy được tính tự giác tích cực của học sinh và làm cho tiết học trở nên nặng nề, mất nhiều thời gian. * Việc sử dụng các phương pháp dạy học đối với phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 : Mặc dù đã được tiếp cận với đổi mới phương pháp dạy học ( Qua nghe giảng, qua sách báo.....) nhưng khi điều tra, dự giờ một số lớp tôi thấy phần lớn giáo viên đều sử dụng phương pháp giảng dạy truyền thống, những phương pháp dạy học thường được sử dụng là : Phương pháp giảng giải, thuyết trình, phương pháp đàm thoại. Những phương pháp mang tính chất đặc thù của phân môn từ ngữ như : Phương pháp giao tiếp, phương pháp rèn luyện theo mẫu câu hầu như không được sử dụng. Có một số tiết dạy đã thấy xuất hiện hình bóng của phương pháp mới nhưng rất mờ nhạt, hơn nữa giáo viên lại rất lúng túng khi vận dụng, vận dụng chưa triệt để, chưa xuyên suốt trong toàn bài dạy. Khi phỏng vấn một số giáo viên, thấy rằng họ nhận thức chưa sâu sắc về đổi mới phương pháp dạy học, họ rất lúng túng khi được hỏi bạn hiểu như thế nào là đổi mới phương pháp dạy học? Do vậy mà họ rất ngại đổi mới, họ cho rằng dạy theo phương pháp nào cũng là dạy miễn sao học sinh biết đọc, biết viết..... Như vậy là họ chưa hiểu được bản chất sâu xa của đổi mới phương pháp dạy học, họ chưa thấy được hiệu quả lớn lao của đổi mới phương pháp dạy học với việc nâng cao chât lượng dạy và học. * Về phía học sinh, các em hầu như không có hứng thú học phân môn từ ngữ, đối với các em giờ từ ngữ trôi qua quá nặng nề, không kích thích được óc sáng tạo của các em. Giờ học trở nên nhàm chán, buồn tẻ. Do vậy mà năng lực sử dụng từ ngữ và giải nghĩa từ của học sinh rất yếu dẫn đến sử dụng từ sai. 3- Thực trạng chỉ đạo dạy học từ ngữ lớp 4 - 5: Qua tham khảo kế hoạch năm học, sổ công tác chuyên môn của hiệu trưởng qua ý kiến của thư ký Công đoàn, các tổ trưởng chuyên môn, Ban giám hiệu và các giáo viên chúng tôi được biết: - Trong những năm học gần đây (từ 1992 - 1993) tiếp nhận phong trào đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo dục và đào tạo, tiếp thu các tài liệu bồi dưỡng thường xuyên (chu kỳ 1992 - 1996) trường tiểu học Yên Phú đã tiến hành chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học ở một số môn học. Tuy nhiên, việc chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học còn rất mới mẻ do đó nhà trường đã đổi mới phương pháp dạy học một cách phiến diện, hình thức, hiệu quả chưa cao vì chưa có kinh nghiệm chỉ đạo. - Nhà trường cho giáo viên tiếp thu chuyên đề đồng loạt với các giáo viên các trường khác do phòng giáo dục và đào tạo tổ chức. Vì vậy giáo viên chỉ học theo phong trào chưa nhận thức một cách tường minh và sâu sắc về đổi mới phương pháp dạy học, trong khi đó nhà trường chưa tổ chức một buổi hội thảo chuyên đề tại trường để tác động chuyển hóa nhận thức trong giáo viên. - Các hoạt động chuyên môn của nhà trường có duy trì (vào thứ 6 hàng tuần) nhưng chất lượng chưa cao, chưa thiết thực. Việc sinh hoạt chuyên môn chỉ dừng lại ở chỗ đánh giá xếp loại các tiết thao giảng của tổ khối và kiểm tra việc thực hiện chương trình một cách máy móc. Cách đánh giá giáo viên và học sinh chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong dạy và học, chưa hướng dẫn giáo viên sử dụng phương pháp và thủ pháp dạy học cho phù hợp với nội dung bài học và đối tượng học sinh. - Công tác kiểm tra dự giờ thăm lớp, động viên giáo viên chưa được hiệu trưởng quan tâm; việc điều hành chuyên môn trong nhà trường hiệu trưởng cũng giao phó cho phó hiệu trưởng. Thành thử hiệu trưởng chưa nắm chắc thực lực đội ngũ, ít quan tâm bồi dưỡng giáo viên, chỉ khi nào phòng giáo dục tổ chức chuyên đề thì cho giáo viên đi học. - Các tài liệu tham khảo về đổi mới phương pháp dạy học, các thông tin về khoa học giáo dục giáo viên chưa được cập nhật đến năm học 1995 - 1996, nhà trường được sở giáo dục và đạo tạo cấp phát một số sách tham khảo phục vụ cho dạy học theo hướng đổi mới (VD: hỏi đáp về đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học, một số vấn đề cơ bản về giáo dục và phương pháp dạy học ở tiểu học, giáo dục con người hôm nay và ngày mai... 4- Một vài kết luận 4.1 - Kết luận: Chất lượng dạy học Tiếng Việt còn thấp do cách dạy thiếu sáng tạo của giáo viên. - Cách chỉ đạo dạy học chưa được tiến hành một cách có kế hoạch và thiếu quy trình khoa học. - Nhà trường có tiếp nhận được những thông tin về đổi mới phương pháp dạy học để áp dụng nhưng hiệu quả chưa cao và chưa có những biện pháp hữu hiệu khả thi, chưa thực hiện đổi mới phương pháp dạy học đồng bộ với các đổi mới khác. 4.2- Nguyên nhân : Do giáo viên chưa hiểu sâu sắc về kiến thức Tiếng Việt, đặc biệt là phần từ vựng. Do vậy, có những giáo viên bước đầu nắm được đổi mới phương pháp dạy học nhưng lại sợ không dám áp dụng vì trình độ có hạn. Họ sợ khi “ phát huy tính tích cực của học sinh “ các em sẽ đưa họ vào những tình huống khó giải quyết cho họ, chẳng hạn như trong việc xác định đúng - sai một đơn vị kiến thức nào đó mà các em đưa ra. Vì thế, theo họ cứ áp đặt kiến thức cho học sinh là phương sách tối ưu nhất, nhàn cho cả thầy và trò lại đỡ tốn thời gian. Một số giáo viên thì không hiểu rõ bản chất của đổi mới phương pháp dạy học nên có sự chắp vá hụt hẫng, vụng về giữa phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại dẫn đến lúng túng trong sử dụng các phương pháp dạy học. Một số giáo viên thì do thói quen cố hữu từ trước đến nay: Giáo viên dạy từ ngữ thường lệ thuộc hoàn toàn vào sách hướng dẫn. Họ ngại đổi mới, không muỗn thay đổi thói quen. Mặt khác, họ không hiểu được dụng ý của các đơn vị kiến thức được trình bày trong sách giáo khoa dẫn đến dạy sai kiến thức, phương pháp không phù hợp. Điều nghiêm trọng hơn cả là họ coi nhẹ việc rèn luyện sử dụng từ cho học sinh. Họ cho rằng với phần từ ngữ không học các em cũng biết. Hơn nữa họ lại chưa nắm chắc “ yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng” phân môn từ ngữ. Cơ sở vật chất trang, thiết bị dạy học thiếu thốn cũng là nguyên nhân làm hạn chế sự đa dạng hoá các hình thức dạy học của giáo viên. Biện pháp chỉ đạo, đánh giá chất lượng dạy học chưa phù hợp, chưa tạo động lực cho giáo viên trong việc đổi mới phương pháp dạy học, ít tạo điều kiện cho học sinh phát triển năng lực cá nhân. Tóm lại : Thực trạng trên kéo dài sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt của nhà trường. Điều quan trọng hơn cả là học sinh sẽ không nắm được cách sử dụng từ ngữ, không thông thạo việc sử dụng tiếng mẹ đẻ để làm cơ sở cho việc học các môn học khác. Nhận thấy những bất cập của thực trạng trên, trường Tiểu học Yên Phú đã tiến hành chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học phân môn từ ngữ đối với khối lớp 4 - 5 và đã thu được những kết quả rất đáng khích lệ, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lên một bước. Biện pháp chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh mang tính thực thi, phù hợp với điều kiện nhà trường. Chúng tôi xin được trình bày cụ thể các biện pháp chỉ đạo trong phần tiếp theo đây. Chương II một số biện pháp chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 ở trường tiểu học yên phú. Hoà chung với phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong cả nước, trường Tiểu học Yên Phú huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình bắt tay vào công cuộc đổi mới bằng những việc làm cụ thể sau : 3.1- Thành lập ban chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học. 3.1.1- Thành phần : _ Hiệu trưởng : Trưởng ban _ Hiệu phó : Phó ban phụ trách về vấn đề chuyên môn _ Các tổ trưởng chuyên môn và 2 giáo viên giỏi cấp tỉnh làm uỷ viên. _ Chuyên viên phòng giáo dục ( Phụ trách môn Tiếng Việt ) là cố vấn ban chỉ đạo. 3.1.2- Nhiệm vụ : Ban chỉ đạo có nhiệm vụ tuyên truyền, cung cấp thông tin về đổi mới phương pháp dạy học cho toàn thể giáo viên trong trường để nâng cao nhận thức, đồng thời thu thập thông tin phản hồi. Tổ chức hội thảo chuyên đề “ Đổi mới phương pháp dạy học phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 ”. Xây dựng quy trình và thiết kế giáo án mẫu đồng thời chỉ đạo dạy mẫu, dạy đại trà. Đề ra tiêu chuẩn đánh giá giờ dạy theo hướng đổi mới, kết hợp kiểm tra chất lượng giờ dạy và chất lượng học của giáo viên và học sinh theo hướng dạy học tích cực. 3.2- Nâng cao nhận thức trong cán bộ giáo viên. Để thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học nói chung, môn Tiếng Việt nói riêng thì vấn đề trước hết là phải huấn luyện cho đội ngũ giáo viên có nhận thức đầy đủ về mục đích, quan điểm, phương hướng đổi mới. Nói cách khác là giúp họ tường tận được vì sao phải đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới như thế nào ? những dấu hiệu cơ bản thể hiện sự đổi mới ? Trước hết, cho giáo viên tiếp cận với tài liệu liên quan đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ( Các loại sách : Phương pháp dạy học tích cực; đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học,..... Tạp chí : Giáo dục Tiểu học; Giáo viên và nhà trường; Nghiên cứu giáo dục..... ) bằng con đường khuyến khích, phát động toàn thể giáo viên trong trường tham gia xây dựng tủ sách “ Đổi mới phương pháp dạy học ” và bằng nguồn kinh phí nhà trường trích ra đặt mua. Hiệu trưởng và hiệu phó cùng kết hợp với nhân viên thư viện có trách nhiệm giới thiệu sách đọc cho giáo viên, hướng dẫn giáo viên đọc, nghiên cứu ghi chép lại những vấn đề còn thắc mắc để đưa ra tập thể thảo luận đi đến thống nhất trong các buổi sinh hoạt chuyên môn. Liên hệ với chuyên viên sở giáo dục phụ trách môn Tiếng Việt và các thầy giáo dạy môn Tiếng Việt ở trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Bình về giảng bài về đổi mới phương pháp dạy học. Sau khi giáo viên đã được nghiên cứu tài liệu, được nghe giảng về “Đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt ” nhà trường đi đến tổ chức hội thảo chuyên đề “ Đổi mới phương pháp dạy học phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 ” cho giáo viên toàn trường. Trước hết hội thảo bàn về những vấn đề lý luận “Đổi mới phương pháp dạy học ”, giúp cho mọi thành viên thông hiểu thế nào là đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới như thế nào,..... Sau khi đã tỏ tường lý luận hội thảo tiếp tục thảo luận về thực trạng của phương pháp dạy học phân môn Từ ngữ lớp 4 - 5 và tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại, đưa ra được những biện pháp khắc phục. Hội thảo còn bàn về cách sử dụng phiếu học tập sao cho hợp lý mà lại phát huy được tính tích cực, độc lập của học sinh. Qua hội thảo, toàn bộ giáo viên trong trường đều nhận thức được sâu sắc việc đổi mới phương pháp dạy học là cần thiết, là nhiệm vụ hàng đầu của nhà trường. Giáo viên định hướng được dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. 3.3- Xây dựng quy trình dạy học phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 theo hướng đổi mới : Sau khi nghiên cứu cơ sở lý luận về đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, kết hợp với việc bám sát đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em Tiểu học, ban chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học trường Tiểu học Yên Phú đã đưa ra quy trình dạy học phân môn từ ngữ như sau : 3.3.1- Đối với kiểu bài lý thuyết về từ : Các bài lý thuyết về từ trang bị cho học sinh những hiểu biết nhất định về các vấn đề cấu tạo từ, nghĩa của từ, các lớp từ. Cấu tạo của bài lý thuyết về từ bao gồm 3 phần : Bài đọc, bài học và luyện tập. Quy trình dạy như sau : A. Bài học : Bài học là nội dung lý thuyết về từ cần cung cấp cho học sinh, học sinh cần ghi nhớ nội dung này. với phần bài học giáo viên cần tổ chức hướng dẫn cho học sinh hoạt động qua ba bước : Bước 1 : Ví dụ : phần này giáo viên cần kết hợp phần bài đọc và bài học để đưa ra ngữ liệu chứa đủ các hiện tượng ngôn ngữ cần nghiên cứu. Lưu ý : Khi lấy ví dụ cần xem xét đến tần số sử dụng của ví dụ nghĩa là ví dụ phải điển hình, mẫu mực, khai thác được tối đa kiến thức cần cung cấp. Bước 2 : Nhận xét : Sau khi đưa ra được ví dụ giáo viên cần có hệ thống câu hỏi gợi ý để học sinh tìm ra các đặc điểm có tính chất quy luật cuả hiện tượng được khảo sát. Giáo viên phải dẫn dắt, gợi mở để học sinh trả lời những câu hỏi này. Trả lời đúng, các em sẽ phát hiện ra những tri thức cần phải học. Bước 3 : Kết luận : Giáo viên cần tổ chức, hướng dẫn tạo tình huống cho học sinh hoạt động để chính các em rút ra được bài học ( Nội dung cần ghi nhớ ) một cách tự nhiên từ bài đọc. Như thế các em mới có thể thuộc bài ngay tại lớp. ở phần này giáo viên tuyệt đối tránh giảng giải sâu về lý thuyết mà chỉ nên cho học sinh lấy thêm ví dụ, như thế là các em đã nắm chắc được lý thuyết. Trong thực tế giảng dạy, bước 2 và 3 phải được giáo viên tổ chức kết hợp hết sức hài hoà, nhuần nhuyễn để học sinh tự rút ra bài học một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, không gò ép. Làm được như thế là bài học đã thành công một nửa. B . Luyện tập : Là phần trọng tâm của giờ dạy. Phần này giúp học sinh củng cố và vận dụng những kiến thức lý thuyết đã học được trong những bài tập cụ thể. Các bài tập này có hai nhiệm vụ cũng là hai kiểu bài tập : _ Bài tập nhận diện : Đây là loại bài tập giúp học sinh nhận ra hiện tượng từ vựng vừa nghiên cứu. Giáo viên nên đưa ra các bài tập ở mức yêu cầu từ thấp đến cao để học sinh có thể vận dụng thành thạo những kiến thức vừa tiếp thu được, giúp các em củng cố khắc sâu tri thức. Giáo viên cần có những biện pháp tổ chức để tất cả học sinh đều được tham gia làm bài tập. _ Bài tập vận dụng : Loại bài tập này nhằm tích cực hoá vốn từ, tạo điều kiện cho học sinh sử dụng những hiẹn tượng từ ngữ đã học vào hoạt động nói năng của mình. Để làm bài tập này, trước hết giáo viên cần hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của những từ đã cho, sau đó học sinh phải đặt được câu với những từ này. Câu không nên lặp lại câu trong bài và phải đúng nghĩa, đúng ngữ pháp. Để đặt được những câu khác nhau, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tự đặt câu hỏi và tự trả lời câu hỏi. Trả lời đúng các em sẽ có câu đúng. Như trên đã nói, kiểu bài lý thuyết về từ phù hợp với phương pháp dạy học “ Phân tích ngôn ngữ ”. Song khi dạy giáo viên hết sức tránh giảng giải, thuyết trình mà cần tạo điều kiện để các em phát huy tính tự giác, tích cực của mình. Phần luyện tập, giáo viên nên đưa thêm các tình huống để học sinh giải quyết. Nếu giải quyết tốt các em sẽ được củng cố về tri thức vừa học. 3.3.2- Đối với bài thực hành về từ. Đây là kiểu bài chiếm số lượng lớn trong chương trình từ ngữ lớp 4 - 5, có mục đích làm giàu thêm vốn từ cho học sinh. Chúng bao gồm các công việc dạy nghĩa từ, hệ thống hoá vốn từ và tích cực hoá vốn từ. Quy trình dạy bài thực hành về từ như sau : A. Hệ thống hoá vốn từ và dạy nghĩa từ. a .Từ ngữ : Nhiệm vụ của phần này là giáo viên tổ chức hướng dẫn giúp học sinh hệ thống hoá vốn từ. Cơ sở của việc hệ thống hoá vốn từ là quy luật tồn tại của từ trong ý thức con người. Từ tồn tại trong đầu óc con người không phải là những yếu tố rời rạc mà là một hệ thống, chúng được sắp xếp theo một hệ thống liên tưởng nhất định. Giữa từ với những từ khác có một nét gì đó chung khiến nó làm ta nhớ đến những từ kia. Nhờ quy luật này, từ được tích luỹ nhanh chóng hơn, cũng nhờ quy luật này từ mới có thể vận dụng được trong lời nói, vì khi sử dụng từ, nhờ hệ thống liên tưởng học sinh sẽ nhanh chóng huy động, lựa chọn được từ ngữ phù hợp với yêu cầu giao tiếp. Do vậy mà khi dạy hệ thống hoá vốn từ cho học sinh, giáo viên cần chuẩn bị một hệ thống câu hỏi phát động trường liên tưởng trong học sinh giúp các em xây dựng được một hệ thống từ ngữ nhanh chóng, chính xác. Hệ thống câu hỏi có thể chia thành hai nhóm lớn như sau : _ Hệ thống từ theo trường nghĩa : Lấy tiêu chí ngữ nghĩa làm dấu hiệu chung để gợi ý học sinh trả lời câu hỏi tập hợp từ. Ví dụ : “ Tìm những từ chỉ đức tính tốt của người học sinh ”, “ Tìm những từ chỉ màu sắc của các loại hoa ”..... _ Hệ thống từ theo trường cấu tạo : Lấy tiêu chí cấu tạo từ làm dấu hiệu chung. Ví dụ : “ Tìm những từ ghép có tiếng hải với nghĩa là biển ”, “ Tìm thêm tiếng ghép với đỏ như : Đỏ tươi ”..... Ngoài ra cũng có thể phát động trường liên tưởng trong học sinh theo các lớp từ vựng : “ Tìm từ cùng nghĩa ”, “ Tìm từ trái nghĩa ”..... Trong quá trình tập hợp từ giáo viên cần lưu ý để giúp học sinh loại các đơn vị không phải là từ, nhưng cần lưu ý một điều là dù loại bỏ hay chấp nhận cũng cần phải tôn trọng học sinh vì đây là sản phẩm của các em, cần phải động viên, khuyến khích các em tham gia xây dựng hệ thống từ mới phát huy được tính tích cực, tự giác của học sinh. b- Giải nghĩa từ : Sau khi đã xây dựng được hệ thống từ ngữ giáo viên nhất thiết phải giúp các em giải nghĩa các từ. Việc giải nghĩa tất cả các từ là không thể và không cần thiết. để đảm bảo tiến trình lên lớp, giáo viên cần chọn lọc ra một số từ để dạy nghĩa ( 5 - 6 từ ). Chọn từ nào để dạy nghĩa phải căn cứ vào việc từ đó có vai trò như thế nào khi đi vào hoạt động nói năng của học sinh trên một đề tài đã xác định, từ đó có phải là từ trung tâm của nhóm ( Từ có tần số sử dụng cao và có nhiều khả năng liên tưởng đến các từ khác cùng nhóm ) hay không, từ đó đã xuất hiện ở các bài trước chưa, có phải là từ khó đối với học sinh không. Để giúp học sinh trong việc giải nghĩa từ, trước hết giáo viên phải hiểu nghĩa từ và biết giải nghĩa phù hợp với mục đích dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh. ở Tiểu học chúng ta cần quan tâm đến một số biện pháp giải nghĩa như sau : _ Giải nghĩa bằng trực quan. _ Giải nghĩa bằng ngữ cảnh : Đặt từ vào trong văn cảnh. _ Giải nghĩa bằng cách đối chiếu, so sánh với các từ khác. _ Giải nghĩa bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa. _ Giải nghĩa bằng định nghĩa ( Có nhiều mức độ giải nghĩa từ bằng định nghĩa, vì vậy tuỳ từng đối tượng học sinh mà tiến hành giải nghĩa từ ở các mức độ khác nhau ). Việc phân chia thành các biện pháp như trên chỉ là tương đối. Trên thực tế, khi giải nghĩa từ cần phải kết hợp các biện pháp khác nhau. Và khi dạy phần giải nghĩa từ ngoài việc xác định các từ sẽ dạy, biện pháp giải nghĩa giáo viên còn cần phải định sẵn những từ nào mình sẽ gợi mở giúp học sinh giải nghĩa và những từ nào tự các em sẽ giải nghĩa được để tránh sự áp đặt, phát huy tính tự giác, tích cực của học sinh. Việc lựa chọn các biện pháp giải nghĩa từ tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Nó bị quy định bởi đặc điểm của từ ( Trừu tượng hay cụ thể, danh từ hay động từ, tính từ thuần Việt hay Hán Việt ), bởi trình độ của học sinh ( Trước đó đã được chuẩn bị để nắm nghĩa như thế nào? ) ...... Việc phân tách rạch ròi giữa phần ( a ) và phần ( b ) như trên chỉ là để giúp giáo viên hiểu được chắc chắn cần phải dạy cái gì và dạy như thế nào đôí với bước A . Còn trong thực tế giảng dạy, hệ thống hoá vốn từ và giải nghĩa từ được dạy lồng ghép một cách phù hợp, để cuối cùng học sinh vừa hệ thống hoá được vốn từ vừa biết được nghĩa của các từ trong chủ đề. Như vậy, bài học vừa được tiến hành lôgic lại phát huy được tính tích cực của học sinh. B . Luyện từ . Phần luyện từ bao gồm hai dạng bài tập luyện tập chính như sau : a. Bài tập về viết đoạn văn : Dạng bài tập này, ngoài những yêu cầu như bài tập dùng từ đặt câu, còn yêu cầu học sinh viết các câu có liên kết với nhau để thành đoạn. Ví dụ : “ Hãy dùng một số từ ngữ của phần A để viết thành đoạn văn ngắn ( 5 - 8 câu ) nói về một vấn đề thích hợp do em tự chọn ”. Đây là kiểu bài tập khó vì vậy khi dạy giáo viên cần cụ thể hoá ra thành từng nhiệm vụ rõ ràng hơn. Hợp lý hơn cả là nên đi từ nội dung đến hình thức. Ví dụ : “ Em hãy viết bốn câu về người bạn của em, cố gắng sử dụng những từ sau..... ”. Cũng có thể tách kiểu bài tập này thành hai bài tập : Đặt câu với từ và viết đoạn văn theo đề bài cho trước ( Hình thức này thường áp dụng với học sinh trung bình yếu và yếu ). b. Bài tập điền từ : Đây là kiẻu bài tập tích cực hoá vốn từ yêu cầu tính độc lập và sáng tạo của học sinh ở mức độ thấp, vừa sức với tuổi nhỏ. Khi tiến hành bài tập, giáo viên hướng dẫn học sinh nắm nghĩa của các từ đã cho và xem xét kỹ đoạn văn có những chỗ trống ( Đã được chép sẵn lên bảng phụ ). Giáo viên cho học sinh đọc lần lượt từng câu của đoạn văn cho sẵn, đến những chỗ có chỗ trống thì dừng lại cân nhắc xem có thể dùng từ nào trong các từ đã cho để câu văn đúng nghĩa, phù hợp với nghĩa toàn đoạn. Khi đọc lại, thấy nghĩa của câu, nghĩa của bài đều thích hợp thì bài tập đã được giải đúng. 3.4- Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học thí điểm. 3.4.1- Chọn đối tượng : Sau khi họp bàn, Ban chỉ đạo quyết định chọn hai giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng ( là hai giáo viên giỏi cấp tỉnh ) để tiến hành dạy mẫu . 1. Đồng chí : Lê Thị Ninh - Lớp 4. 2. Đồng chí : Nguyễn Thị Kim Cúc - Lớp 5. Chọn bài dạy : _ Việc đồng áng. ( Tiết 1) - Lớp 4. _ Từ trái nghĩa. - Lớp 5. Hai bài từ ngữ này tiêu biểu cho hai kiểu bài lý thuyết về từ và thực hành về từ, minh hoạ cho hai quy trình dạy từ ngữ theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh ( đã trình bày ở trên ). 3.4.2- Soạn giáo án và dạy thử. Hai giáo viên được cử dạy mẫu có nhiệm vụ soạn giáo án. Ban chỉ đạo tổ chức thảo luận, bổ xung để thiết kế bài dạy đầy đủ, hoàn chỉnh, dự kiến các tình huống có thể xảy ra, tạo điều kiện cho giờ dạy đạt kết quả cao. Sau đó, hai giáo viên tiến hành dạy thử cho ban chỉ đạo dự giờ, góp ý, bổ xung về nội dung bài dạy và lưu ý giáo viên dạy mẫu phải làm thế nào để giúp giáo viên toàn trường hiểu thế nào là phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, giúp họ hình dung rõ tiến trình cụ thể của một tiết dạy theo hướng đổi mới của môn từ ngữ lớp 4 - 5. 3.4.3- Tiến hành dạy mẫu. Giáo viên toàn trường dự giờ hai tiết dạy mẫu, ghi chép đầy đủ, cẩn thận vào sổ dự giờ để tham gia nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm. ( Tiến trình bài dạy được thể hiện cụ thể trong giáo án ( Phụ lục số 1 trang ) 3.4.4- Đánh giá rút kinh nghiệm hai tiết dạy mẫu. _ Tiết dạy của đồng chí Nguyễn Thị Kim Cúc : Học sinh nắm được khái niệm bước đầu về từ trái nghĩa trong Tiếng Việt, các em biết vận dụng những kiến thức cơ bản về từ trái nghĩa vào trong giao tiếp. _ Tiết dạy của đồng chí Lê Thị Ninh : Học sinh hiểu đúng nghĩa và giải nghĩa được các từ thuộc chủ đề “ Việc đồng áng ” trên cơ sở đó các em đã biết dùng từ đặt câu về chủ đề này một cách chính xác. Ban chỉ đạo tiến hành nhận xét, đánh giá cùng với các giáo viên dự giờ trao đổi ý kiến và đi đến kết luận chung về hai tiết dạy mẫu như sau : _ Về giáo viên : Giáo viên nắm vững kiến thức của tiết học, chủ động, tự tin, thể hiện được phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Giáo viên bao quát được học sinh trong lớp, theo dõi, hướng dẫn, giúp đỡ kịp thời đến mọi đối tượng học sinh. Hoạt động giữa thầy và trò phối hợp nhịp nhàng, tự nhiên, kích thích được ý thức tự giác, chủ động của học sinh. Giáo viên giải quyết các tình huống nảy sinh trong quá trình dạy học một cách chủ động, sáng tạo, gây được hứng thú học tập cho các em. _ Về học sinh : Học sinh nắm được yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng bài học. Các em được hoạt động tích cực, tự giác, trả lời câu hỏi một cách tự tin ( Vì dược thầy giáo và cả lớp tôn trọng ý kiến ). _ Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả. Nhìn chung, cả hai tiết học không những đảm bảo được kiến thức cơ bản của bài học mà còn mở rộng tầm hiểu biết của các em ra ngoài đời sống thực tế. Trang 35 Hoạt động dạy - học diễn ra đảm bảo tính khoa học, kích thích được tư duy độc lập, phát huy được hết năng lực tiềm tàng của mỗi bản thân học sinh. Hai tiết dạy mẫu thành công đã soi sáng thêm cho lý luận dạy học theo phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh. Tập thể giáo viên phấn khởi, tin tưởng vào tính khả thi và hiệu quả của việc dạy từ ngữ theo hướng đổi mới. 3.4.5- Nhà trường đề ra tiêu chuấn đánh giá giờ dạy theo hướng đổi mới phương pháp dạy học. ( Xem phụ lục số 2 trang ) 3.5- Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học theo diện . Để khẳng định hiệu quả của dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, để tập thể giáo viên có được lòng tin vững chắc vào đổi mới phương pháp dạy học, ban chỉ đạo quyết định tổ chức dạy thực nghiệm ở 4 lớp : 4E , 4D , 5A , 5B là các lớp có trình độ tương đương nhau. Lớp 4D và 5B - Đối chứng: Dạy theo phương pháp truyền thống. Lớp 4E và 5A - Thực nghiệm : Dạy theo phương pháp đổi mới. Các giáo viên được chọn thể hiện các tiết dạy là các giáo viên có trình độ ngang nhau. _ Giáo viên tự soạn giáo án cho các tiết dạy của mình ( Yêu cầu dạy những bài có trong chương trình mà học sinh chưa học ). _ Ban chỉ đạo tổ chức xemina giáo án. Bài : Từ cùng âm khác nghĩa ( Lớp 5 ) Nghiên cứu khoa học ( Tiết 1 - lớp 4 ) _ Giáo viên toàn trường dự giờ các lớp đối chứng và thực nghiệm. Sau mỗi tiết dạy ban chỉ đạo đều tiến hành kiểm tra nhanh ( 10 phút ) đối với các lớp ( Xem phụ lục số 3 trang ) Kết quả thu được như sau : L Số Hình thức Xếp loại Thời gian ơ HS Tham gia Giỏi Khá T. bình Yếu p S:L % S:L % S:L % S:L % Năm học 4D 37 Đối chứng 0 0 18 48,6 12 32,4 7 19,0 1999 - 2000 4E 39 Thực nghiệm 14 35,9 23 59,0 2 5,1 0 0 Học kỳ II 5B 40 Đối chứng 5 12,5 19 47,5 11 27,5 5 12,5 5A 39 Thực nghiệm 17 43,6 14 35,9 8 20,5 0 0 Kết quả học tập của học sinh giữa hai lớp đối chứng và hai lớp thực nghiệm đã khẳng định ưu thế của quy trình dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Bản thân các giáo viên dạy thực nghiệm và các giáo viên dự giờ đều cho rằng : Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh giáo viên làm việc ít hơn, học sinh làm việc nhiều hơn do đó mà các em tự mình chiếm lĩnh được tri thức và nhớ nhanh, nhớ lâu hơn. Không khí lớp học sôi nổi, kích thích được hứng thú học tập của các em. Về phía giáo viên, sau khi phân tích, đánh giá các tiết học kết quả đạt được như sau : Tiết dạy lớp 4D xếp loại : Chưa đạt yêu cầu ( 10 điểm ). Tiết dạy lớp 5B xếp loại : Đạt yêu cầu ( 13 điểm ). Tiết dạy lớp 4E xếp loại : Tốt ( 19 điểm ). Tiết dạy lớp 5A xếp loại : Tốt ( 18,5 điểm ). Các tiết dạy ở hai lớp thực nghiệm được đánh giá tốt hơn, giáo viên chủ động, tự tin trong tổ chức điều khiển hoạt động của học sinh. Học sinh tự giáctích cực tìm ra kiến thức mới của bài học. Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên hơn và hiệu quả hơn. 3.6- Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học đại trà. Thấy được hiệu quả các giờ dạy theo hướng đổi mới ( qua chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học theo diện ) ban chỉ đạo tổ chức tập huấn thêm về phương pháp cho các giáo viên khối 4 - 5. Khuyến khích, động viên mọi người tự giác, tích cực dạy học theo hướng đổi mới. Ban chỉ đạo tạo mọi điều kiện nhằm hỗ trợ để giáo viên có thể áp dụng tốt phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong giảng dạy. Các tổ chức đoàn thể cũng nhiệt tình hưởng ứng, động viên các giáo viên. Toàn trường dấy lên phong trào đổi mới phương pháp dạy học. 3.7- Những hoạt động hỗ trợ khác. Ban chỉ đạo nhận thấy, cùng với việc chỉ đạo giảng dạy cần phải lưu ý đến một số hoạt động hỗ trợ khác thì biện pháp chỉ đạo mới nhanh có kết quả tốt. 3.7.1- Song song với việc chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, ban chỉ đạo chịu trách nhiệm thu thập, xem xét và phân loại các tài liệu có liên quan đến đổi mới phương pháp dạy học. Sau đó thông báo và chuyển đến tận tay các giáo viên ( thông qua tổ chuyên môn ). Một số các tài liệu như : Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 1996 - 2000, các bài viết tham luận về đổi mới phương pháp dạy học của các giáo viên ưu tú trong tỉnh và ngoài tỉnh, tạp chí giáo dục tiểu học..... đều đựơc giáo viên đọc và tổ chức thảo luận theo tổ, khối chuyên môn để vận dụng có hiệu quả, phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường. 3.7.2- Phát động thao giảng theo tổ lấy thành tích chào mừng ngày 26 tháng 3, ngày 19 tháng 5..... 3.7.3- Có kế hoạch cử giáo viên đi tham dự các lớp tập huấn phương pháp dạy học do phòng, sở tổ chức ; Có biện pháp yêu cầu giáo viên toàn trường tham gia nhiệt tình các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ do trường, phòng tổ chức Khuyến khích, động viên mọi người tích cực, tự giác trong công tác tự bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ qua dự giờ học hỏi đồng nghiệp, qua tham khảo sách báo và tự học. Đặc biệt, ban ch._. học sinh rất hạn chế. Học sinh không thể phát huy được tính độc lập, sáng tạo, không thích ứng được với những thay đổi của cuộc sống. Năng lực của học sinh bị lu mờ, không có điều kiện bộc lộ và phát triển. Hơn nữa bậc học Tiểu học là bậc học đầu tiên trẻ được tiếp xúc với phương pháp nhà trường, những gì học được ở nhà trường Tiểu học sẽ theo các em suốt cuộc đời. Vì vậy, cần phải rèn luyện cho các em tính năng động, sáng tạo bằng cách thay đổi phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, coi học sinh là chủ thể của quá trình nhận thức như Nghị quyết trung ương 2 khoá VIII đã vạch rõ : “ Đổi mới phương pháp Giáo dục - đào tạo theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, độc lập suy nghĩ của người học “. Điều đó cũng phù hợp với xu thế giáo dục của khu vực và thế giới. 4.4.2- Thế nào là đổi mới phương pháp dạy học ? Theo Tiến sĩ Đỗ Đình Hoan thì : “ Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là : đưa các phương pháp dạy học mới vào nhà trường trên cơ sở phát huy mặt tích cực của phương pháp dạy học truyền thống để nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả giáo dục - đào tạo. hiểu như vậy thì không thể chỉ nhấn mạnh đến một vài phương pháp mới mà không kế thừa các phương pháp truyền thống, cũng không thể chỉ là cải tiến các phương pháp dạy học hiện có mà không đưa các phương pháp dạy học mới vào nhà trường.“ ( Đỗ Đình Hoan - Hỏi đáp về đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học - NXB Giáo Dục. 1996 ). Đây là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với thực tế giáo dục hiện nay. 4.4.3 - Phương pháp dạy học phat huy tính tích cực của học sinh. 4.4.3.1- Phương pháp dạy học truyền thống. Phương pháp dạy học truyền thống có thể coi là tất cả các phương pháp dạy học có từ hàng trăm năm trước đây, kể từ khi có sự xuất hiện của nhà trường. Đặc trưng của phương pháp dạy học truyền thống là hướng tập trung vào giáo viên, nghĩa là người giáo viên được coi như là hiện thân của tri thức, thầy đem tất cả các tri thức có sẵn trong sách giáo khoa, trong các tài liệu áp đặt cho học sinh. Học sinh tiếp nhận tri thức đó một cách thụ động, máy móc. Cả thầy và trò đều phụ thuộc vào sách giáo khoa ( Giáo viên có nhiệm vụ dạy học hoàn toàn đúng như trong sách giáo khoa, còn học sinh trả lời hệt như câu cú trong sách giáo khoa ). Do vậy mà dạy học theo phương pháp dạy học truyền thống không phát huy được tính tự giác, tích cực của học sinh, không phát huy được óc sáng tạo, năng động ở người học. Đối với giáo viên thì không có cơ hội để phát huy khả năng sáng tạo của nghề dạy học. Tuy vậy chúng ta cũng không thể phủ nhận hoàn toàn phương pháp dạy học truyền thống. Bên cạnh những hạn chế, nó cũng có những ưu điểm rất đáng khích lệ, góp phần xứng đáng vào nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nếu chúng ta biết sử dụng nó đúng lúc, đúng chỗ và đúng cách. 4.4.3.2- Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Từ những năm 1950 Bác Hồ đã nêu lên quan điểm lý luận dạy học thể hiện tính tích cực : “ Phải tuyệt đối tránh cách nhồi sọ, không nên học gạo, không nên học vẹt ”, “ Dạy cái gì, dạy thế nào để học sinh hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh”. Nghe theo lời dạy của Bác, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm sâu sắc đến sự nghiệp giáo dục qua ba lần cải cách ( 1950, 1956, 198 ) và phong trào đổi mới phương pháp dạy học ( Năm 1995 ) để đi đến một phương pháp dạy học hiệu quả nhất. Con người là không lặp lại, sự trưởng thành và phát triển của mỗi con người đều được đánh dấu bằng một loạt những vấn đề và đòi hỏi riêng, điều này đòi hỏi phải tôn trọng tính cá thể và chân giá trị của từng con người, coi trọng nhu cầu, hứng thú, năng lực, thói quen của từng người, điều này lại càng cần coi trọng trong việc giáo dục. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, cần giáo dục thế hệ trẻ trở thành những con người “..... Năng động, sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề “, những con người tự tin, có trách nhiệm, hành động phù hợp với những giá trị nhân văn và công bằng xã hội, cần thực hiện một kiểu dạy học đưa đứa trẻ vào hoạt động và trên sơ sở hoạt động của đứa trẻ mà phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nó. Kiểu dạy học này làm thay đổi vai trò của người giáo viên, thay đổi mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Người giáo viên phải là người tổ chức đưa ra những tình huống học tập có tác dụng kích thích óc tò mò và tư duy độc lập, hình thành và phát triển những kỹ năng giải quyết vấn đề, xúc tiến việc tự học để lĩnh hội kiến thức thông qua quan sát, tư duy phê phán và hoạt động. Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh là quá trình giáo viên tổ chức và hướng dẫn các hoạt động nhằm : Phát huy năng lực nội sinh của người học, phát triển sức mạnh trí tuệ, tâm hồn, ý chí của họ. Trong quá trình tổ chức cho học sinh làm việc độc lập, hình thành ở các em động cơ học tập lành mạnh, phát huy tính tự lực tự cường, phát huy ý chí học tập. Giúp các em tự mình tư duy, tìm tòi để khám phá điều chưa biết, giải quyết tình huống có vấn đề..... Kiểu dạy học như vậy cũng đồng thời kích thích sự ham hiểu biết, tìm tòi, sáng tạo trong dạy học của mỗi giáo viên, giúp họ tự tin, chủ động trong giảng dạy và đòi hỏi ở họ phải có sự tôn trọng đối với mọi cố gắng, mọi sáng tạo ( dù nhỏ ) của học sinh. Kết quả của cách dạy học này không những hình thành cho học sinh những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết mà còn xây dựng cho các em một phương pháp học tập để sáng tạo làm kim chỉ nam xuyên suốt cuộc đời học tập của các em sau này. Như vậy, kiểu dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh lấy tiêu điểm của nó là bản thân người học sinh, bản thân đứa trẻ chứ không phải ở người giáo viên. Kiểu dạy học này được xây dựng trên cơ sở nhu cầu, hứng thú, thói quen, năng lực của học sinh ở các trình độ khác nhau, nhằm làm cho học sinh lĩnh hội được những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, giá trị cần thiết, phát huy được đầy đủ nhất năng lực của các em. Nếu như kiểu dạy học truyền thống coi trọng sự có mặt của học sinh ở nhà trường, coi trọng khả năng ghi nhớ và tái hiện các sự kiện, các thông tin thì kiểu dạy học phát huy tính tích cực của học sinh coi trọng quá trình học của học sinh, quá trình dạy được thiết kế nhằm tạo điều kiện để hiệu quả của quá trình học là cao nhất. 4.4.3.3- Dạy học kiểu bài thực hành về từ phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Đặc trưng của phân môn từ ngữ là thực hành. Do vậy, giảng dạy từ ngữ phải theo phương pháp thực hành - Một trong những phương pháp thể hiện sự phát huy tính tích cực của học sinh. Muốn rèn luyện cho học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt, giáo viên cần phải chú trọng khâu thực hành thông qua phương pháp giao tiếp, rèn luyện theo mẫu..... Chỉ có thông qua thực hành, luyện tập học sinh mới nắm vững kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo sử dụng Tiếng Việt. Đối với những bài thực hành về từ giáo viên không nên bắt buộc học sinh phải chấp nhận bảng từ có sẵn trong mỗi bài học mà nên hướng dẫn học sinh tự tập hợp bảng từ bằng một hệ thống câu hỏi phát động trường liên tưởng của các em. Dạy kiểu bài thực hành về từ theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, có thể vận dụng những phương pháp truyền thống ( phát huy mặt tích cực của nó ) kết hợp với những phương pháp đặc thù của phân môn từ ngữ như : Phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp rèn luyện theo mẫu, phương pháp giao tiếp.....và các phương pháp mới như : Thảo luận, hoạt động hợp tác, nêu vấn đề..... Dù sử dụng phương pháp nào thì người giáo viên cũng cần phải linh hoạt, khéo léo kết hợp, lồng ghép các phương pháp với nhau sao cho những mặt mạnh của phương pháp này bổ khuyết được cho những hạn chế của phương pháp kia một cách hài hoà, phù hợp với từng bài học, từng đối tượng học sinh để từ đó hình thành cho các em kiến thức, kỹ năng, thái độ trong và bằng hoạt động của chính các em. Nhìn chung, Phương pháp rèn luyện theo mẫu và phương pháp giao tiếp phù hợp với kiểu bài thực hành về từ. Tuy vậy, trong thực tế giảng dạy không thể rập khuôn máy móc như thế mà cần phải linh hoạt trong việc sử dụng kết hợp các phương pháp. Người giáo viên cần phải nắm bản chất của từng phương pháp, để phát hiện ra những điểm mạnh, những mặt hạn chế của phương pháp, từ đó có thể vận dụng sáng tạo các phương pháp vào từng bài dạy, từng đối tượng học sinh cụ thể. Phải quán triệt quan điểm dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh để đạt được kết quả mong muốn. Trên đây là một số vấn đề lý luận liên quan đến đổi mới phương pháp dạy học nhằm định hướng và khẳnh định cơ sở của việc đổi mới phương pháp dạy học phân môn từ ngữ nói chung, kiểu bài thực hành về từ nói riêng. Chương II : thực trạng dạy học kiểu bài thực hành về từ Phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 ở trường tiểu học Yên phú I. sơ lược tình hình địa phương và nhà trường. 1.1- Địa phương. Với tổng diện tích 566,88 ha, xã Yên Phú nằm ngay trung tâm của huyện Yên Mô. Mặc dù kinh tế còn nhiều khó khăn vì chủ yếu số dân sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp ( 2/3 số hộ ), nhưng sự nghiệp giáo dục và vấn đề nâng cao dân trí được Đảng và chính quyền xã Yên Phú huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình rất quan tâm và chú trọng. Số dân của xã là 7.185 trong đó số trẻ từ 6 - 14 tuổi là 1.845 em, đang học Tiểu học là 830 em còn lại đã học xong Tiểu học và đang học Trung học. 1.2- Nhà trường. Từ năm 1996 đến nay, trường Tiểu học Yên Phú liên tục đạt danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc và là trường lá cờ đầu của ngành giáo dục Yên Mô. Năm học 1999 - 2000 trường được tỉnh xét duyệt trường chuẩn quốc gia. 1.2.1- Đội ngũ. Trường có 34 cán bộ giáo viên trong đó có 1 hiệu trưởng, 2 hiệu phó, 1 kế toán, 1 tổng phụ trách đội, 1 y tế học đường và 28 giáo viên đứng lớp, trong đó có 2 giáo viên chuyên trách. Trình độ đào tạo của đội ngũ giáo viên : Cao đẳng sư phạm : 03 đồng chí. Trung học sư phạm và trưng học hoàn chỉnh : 29 đồng chí Trung cấp kế toán tài chính : 01 đồng chí. Trung cấp y sỹ : 01 đồng chí. Chất lượng đội ngũ : Có 02 giáo viên giỏi cấp tỉnh, 03 giáo viên giỏi cấp huyện, không có giáo viên yếu. Nhìn chung, giáo viên chủ yếu là người địa phương lại trẻ, khoẻ, năng nổ trong công tác, yêu nghề mến trẻ. Họ say mê với sự nghiệp “Trồng người ” và quyết tâm xây dựng trường phát triển vững mạnh. 1.2.2- Chất lượng dạy và học . Năm học 1998 - 1999, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt 100 % , chất lượng đại trà đạt chỉ tiêu kế hoạch : Chất lượng môn Tiếng việt lớp 4 - 5 như sau : Giỏi : 15,20 % Khá : 35,50 % Trung bình : 37,40 % Yếu : 11,90 % Năm học 1999 - 2000 trường có tổng số học sinh là 830 em, chia thành 26 lớp, tất cả các lớp đều học 2 buổi/ ngày. 1.2.3- Cơ sở vật chất. Nhà trường cơ bản đã có đủ phòng học cho 26 lớp. Trường có 01 phòng hội đồng, 01 phòng ban giám hiệu, 01 phòng đội, 01 phòng thư viện -thiết bị, chưa có phòng chức năng. Thư viện nhà trường có đủ sách cho giáo viên và học sinh nhưng số lượng sách tham khảo còn rất nghèo nàn. II. thực trạng dạy học kiểu bài thực hành về từ phân môn từ ngữ lớp 4 - 5. 2.1- Thực trạng. Như trên đã nói, phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 thể hiện rõ quan điểm thựchành, đặc biệt là kiểu bài thực hành về từ. Dạy từ ngữ lớp 4 - 5 chủ yếu là dạy thực hành. Thế nhưng ở trường Tiểu học Yên Phú ( qua dự giờ ( 8 tiết ) , qua phỏng vấn ... ) giáo viên đã dạy kiểu bài thực hành về từ theo quy trình sau : Giáo viên chép phần “ Từ ngữ ” trong sách giáo khoa lên bảng và đưa ra hệ thống câu hỏi yêu cầu học sinh giải nghĩa tất cả các từ ngữ có trong bảng từ, biến giờ từ ngữ thành giờ giải nghĩa từ. Dạy như thế là áp đặt, không phát huy được tính tự giác tích cực của học sinh và làm cho tiết học trở nên nặng nề, mất nhiều thời gian. * Việc sử dụng các phương pháp dạy học đối với phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 : Mặc dù đã được tiếp cận với đổi mới phương pháp dạy học ( Qua nghe giảng, qua sách báo.....) nhưng khi điều tra, dự giờ một số lớp tôi thấy phần lớn giáo viên đều sử dụng phương pháp giảng dạy truyền thống, những phương pháp dạy học thường được sử dụng là : Phương pháp giảng giải, thuyết trình, phương pháp đàm thoại. Những phương pháp mang tính chất đặc thù của phân môn từ ngữ như : Phương pháp giao tiếp, phương pháp rèn luyện theo mẫu câu hầu như không được sử dụng. Có một số tiết dạy đã thấy xuất hiện hình bóng của phương pháp mới nhưng rất mờ nhạt, hơn nữa giáo viên lại rất lúng túng khi vận dụng, vận dụng chưa triệt để, chưa xuyên suốt trong toàn bài dạy. Khi phỏng vấn một số giáo viên, thấy rằng họ nhận thức chưa sâu sắc về đổi mới phương pháp dạy học, họ rất lúng túng khi được hỏi bạn hiểu như thế nào là đổi mới phương pháp dạy học? Do vậy mà họ rất ngại đổi mới, họ cho rằng dạy theo phương pháp nào cũng là dạy miễn sao học sinh biết đọc, biết viết..... Như vậy là họ chưa hiểu được bản chất sâu xa của đổi mới phương pháp dạy học, họ chưa thấy được hiệu quả lớn lao của đổi mới phương pháp dạy học với việc nâng cao chât lượng dạy và học. * Về phía học sinh, các em hầu như không có hứng thú học phân môn từ ngữ, đối với các em giờ từ ngữ trôi qua quá nặng nề, không kích thích được óc sáng tạo của các em. Giờ học trở nên nhàm chán, buồn tẻ. Do vậy mà năng lực sử dụng từ ngữ và giải nghĩa từ của học sinh rất yếu dẫn đến sử dụng từ sai. 2.2- Nguyên nhân : Do giáo viên chưa hiểu sâu sắc về kiến thức Tiếng Việt, đặc biệt là phần từ vựng. Do vậy, có những giáo viên bước đầu nắm được đổi mới phương pháp dạy học nhưng lại sợ không dám áp dụng vì trình độ có hạn. Họ sợ khi “ phát huy tính tích cực của học sinh “ các em sẽ đưa họ vào những tình huống khó giải quyết cho họ, chẳng hạn như trong việc xác định đúng - sai một đơn vị kiến thức nào đó mà các em đưa ra. Vì thế, theo họ cứ áp đặt kiến thức cho học sinh là phương sách tối ưu nhất, nhàn cho cả thầy và trò lại đỡ tốn thời gian. Một số giáo viên thì không hiểu rõ bản chất của đổi mới phương pháp dạy học nên có sự chắp vá hụt hẫng, vụng về giữa phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại dẫn đến lúng túng trong sử dụng các phương pháp dạy học. Một số giáo viên thì do thói quen cố hữu từ trước đến nay: Giáo viên dạy từ ngữ thường lệ thuộc hoàn toàn vào sách hướng dẫn. Họ ngại đổi mới, không muỗn thay đổi thói quen. Mặt khác, họ không hiểu được dụng ý của các đơn vị kiến thức được trình bày trong sách giáo khoa dẫn đến dạy sai kiến thức, phương pháp không phù hợp. Điều nghiêm trọng hơn cả là họ coi nhẹ việc rèn luyện sử dụng từ cho học sinh. Họ cho rằng với phần từ ngữ không học các em cũng biết. Hơn nữa họ lại chưa nắm chắc “ yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng” phân môn từ ngữ. Tóm lại : Thực trạng trên kéo dài sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt của nhà trường. Điều quan trọng hơn cả là học sinh sẽ không nắm được cách sử dụng từ ngữ, không thông thạo việc sử dụng tiếng mẹ đẻ để làm cơ sở cho việc học các môn học khác. Chương III Giải pháp Để khắc phực thực trạng trên, chúng tôi xin đưa ra giải pháp về đổi mới quy trình dạy học kiểu bài thực hành về từ I.Quy trình dạy bài thực hành về từ như sau : 1.1. Hệ thống hoá vốn từ và dạy nghĩa từ. a .Từ ngữ : Nhiệm vụ của phần này là giáo viên tổ chức hướng dẫn giúp học sinh hệ thống hoá vốn từ. Cơ sở của việc hệ thống hoá vốn từ là quy luật tồn tại của từ trong ý thức con người. Từ tồn tại trong đầu óc con người không phải là những yếu tố rời rạc mà là một hệ thống, chúng được sắp xếp theo một hệ thống liên tưởng nhất định. Giữa từ với những từ khác có một nét gì đó chung khiến nó làm ta nhớ đến những từ kia. Nhờ quy luật này, từ được tích luỹ nhanh chóng hơn, cũng nhờ quy luật này từ mới có thể vận dụng được trong lời nói, vì khi sử dụng từ, nhờ hệ thống liên tưởng học sinh sẽ nhanh chóng huy động, lựa chọn được từ ngữ phù hợp với yêu cầu giao tiếp. Do vậy mà khi dạy hệ thống hoá vốn từ cho học sinh, giáo viên cần chuẩn bị một hệ thống câu hỏi phát động trường liên tưởng trong học sinh giúp các em xây dựng được một hệ thống từ ngữ nhanh chóng, chính xác. Hệ thống câu hỏi có thể chia thành hai nhóm lớn như sau : _ Hệ thống từ theo trường nghĩa : Lấy tiêu chí ngữ nghĩa làm dấu hiệu chung để gợi ý học sinh trả lời câu hỏi tập hợp từ. Ví dụ : “ Tìm những từ chỉ đức tính tốt của người học sinh ”, “ Tìm những từ chỉ màu sắc của các loại hoa ”..... _ Hệ thống từ theo trường cấu tạo : Lấy tiêu chí cấu tạo từ làm dấu hiệu chung. Ví dụ : “ Tìm những từ ghép có tiếng hải với nghĩa là biển ”, “ Tìm thêm tiếng ghép với đỏ như : Đỏ tươi ”..... Ngoài ra cũng có thể phát động trường liên tưởng trong học sinh theo các lớp từ vựng : “ Tìm từ cùng nghĩa ”, “ Tìm từ trái nghĩa ”..... Trong quá trình tập hợp từ giáo viên cần lưu ý để giúp học sinh loại các đơn vị không phải là từ, nhưng cần lưu ý một điều là dù loại bỏ hay chấp nhận cũng cần phải tôn trọng học sinh vì đây là sản phẩm của các em, cần phải động viên, khuyến khích các em tham gia xây dựng hệ thống từ mới phát huy được tính tích cực, tự giác của học sinh. b- Giải nghĩa từ : Sau khi đã xây dựng được hệ thống từ ngữ giáo viên nhất thiết phải giúp các em giải nghĩa các từ. Việc giải nghĩa tất cả các từ là không thể và không cần thiết. để đảm bảo tiến trình lên lớp, giáo viên cần chọn lọc ra một số từ để dạy nghĩa ( 5 - 6 từ ). Chọn từ nào để dạy nghĩa phải căn cứ vào việc từ đó có vai trò như thế nào khi đi vào hoạt động nói năng của học sinh trên một đề tài đã xác định, từ đó có phải là từ trung tâm của nhóm ( Từ có tần số sử dụng cao và có nhiều khả năng liên tưởng đến các từ khác cùng nhóm ) hay không, từ đó đã xuất hiện ở các bài trước chưa, có phải là từ khó đối với học sinh không. Để giúp học sinh trong việc giải nghĩa từ, trước hết giáo viên phải hiểu nghĩa từ và biết giải nghĩa phù hợp với mục đích dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh. ở Tiểu học chúng ta cần quan tâm đến một số biện pháp giải nghĩa như sau : _ Giải nghĩa bằng trực quan. _ Giải nghĩa bằng ngữ cảnh : Đặt từ vào trong văn cảnh. _ Giải nghĩa bằng cách đối chiếu, so sánh với các từ khác. _ Giải nghĩa bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa. _ Giải nghĩa bằng định nghĩa ( Có nhiều mức độ giải nghĩa từ bằng định nghĩa, vì vậy tuỳ từng đối tượng học sinh mà tiến hành giải nghĩa từ ở các mức độ khác nhau ). Việc phân chia thành các biện pháp như trên chỉ là tương đối. Trên thực tế, khi giải nghĩa từ cần phải kết hợp các biện pháp khác nhau. Và khi dạy phần giải nghĩa từ ngoài việc xác định các từ sẽ dạy, biện pháp giải nghĩa giáo viên còn cần phải định sẵn những từ nào mình sẽ gợi mở giúp học sinh giải nghĩa và những từ nào tự các em sẽ giải nghĩa được để tránh sự áp đặt, phát huy tính tự giác, tích cực của học sinh. Việc lựa chọn các biện pháp giải nghĩa từ tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Nó bị quy định bởi đặc điểm của từ ( Trừu tượng hay cụ thể, danh từ hay động từ, tính từ thuần Việt hay Hán Việt ), bởi trình độ của học sinh ( Trước đó đã được chuẩn bị để nắm nghĩa như thế nào? ) ...... Việc phân tách rạch ròi giữa phần ( a ) và phần ( b ) như trên chỉ là để giúp giáo viên hiểu được chắc chắn cần phải dạy cái gì và dạy như thế nào đôí với bước A . Còn trong thực tế giảng dạy, hệ thống hoá vốn từ và giải nghĩa từ được dạy lồng ghép một cách phù hợp, để cuối cùng học sinh vừa hệ thống hoá được vốn từ vừa biết được nghĩa của các từ trong chủ đề. Như vậy, bài học vừa được tiến hành lôgic lại phát huy được tính tích cực của học sinh. 1.2- Luyện từ . Phần luyện từ bao gồm hai dạng bài tập luyện tập chính như sau : a. Bài tập về viết đoạn văn : Dạng bài tập này, ngoài những yêu cầu như bài tập dùng từ đặt câu, còn yêu cầu học sinh viết các câu có liên kết với nhau để thành đoạn. Ví dụ : “ Hãy dùng một số từ ngữ của phần A để viết thành đoạn văn ngắn ( 5 - 8 câu ) nói về một vấn đề thích hợp do em tự chọn ”.Đây là kiểu bài tập khó vì vậy khi dạy giáo viên cần cụ thể hoá ra thành từng nhiệm vụ rõ ràng hơn. Hợp lý hơn cả là nên đi từ nội dung đến hình thức. Ví dụ : “ Em hãy viết bốn câu về người bạn của em, cố gắng sử dụng những từ sau..... ”. Cũng có thể tách kiểu bài tập này thành hai bài tập : Đặt câu với từ và viết đoạn văn theo đề bài cho trước ( Hình thức này thường áp dụng với học sinh trung bình yếu và yếu ). b. Bài tập điền từ : Đây là kiẻu bài tập tích cực hoá vốn từ yêu cầu tính độc lập và sáng tạo của học sinh ở mức độ thấp, vừa sức với tuổi nhỏ. Khi tiến hành bài tập, giáo viên hướng dẫn học sinh nắm nghĩa của các từ đã cho và xem xét kỹ đoạn văn có những chỗ trống ( Đã được chép sẵn lên bảng phụ ). Giáo viên cho học sinh đọc lần lượt từng câu của đoạn văn cho sẵn, đến những chỗ có chỗ trống thì dừng lại cân nhắc xem có thể dùng từ nào trong các từ đã cho để câu văn đúng nghĩa, phù hợp với nghĩa toàn đoạn. Khi đọc lại, thấy nghĩa của câu, nghĩa của bài đều thích hợp thì bài tập đã được giải đúng. II. Thực hiện quy trình. 2.1-. Giáo án mẫu. Từ ngữ : Việc đồng áng Tiết: 24 _ lớp: 4 Người soạn : ........................................................................... Ngày dạy : ............................................................................... I. Mục đích yên cầu : _ Giúp học sinh : Hẹ thống hoá, củng cố, mở rộng một số từ ngữ thường dùng khi nói, viết về “ Việc đồng áng”; Nhận biết so sánh nghĩa và giải nghĩa một số từ ngữ dùng nói, viết về “ Việc đồng áng ”. _ Phát triển tư duy thực hành về từ, rèn kỹ năng sử dụng Tiếng Việt. II. Tiến trình bài học . 1. Bài cũ : ( 3 phút ). _ Kể tên một số ngành nghề của công nhân và kỹ sư thuộc ngành công nghiệp nặng ? Phân biệt ngành công nghiệp nặng và ngành công nghiệp nhẹ ? 2. Bài mới : Phân bố Thời gian Nội dung ghi bảng Hoạt động của thầy Hoạt động Của trò 1 2 3 4 1 phút Từ ngữ : Việc đồng áng _ Địa bàn xã Yên Phú của chúng ta với tổng diện tích 566,88 ha, trong đó đất nông nghiệp là 369,72 ha .Chúng ta sống chủ yếu bằng lao động nông nghiệp, do vậy mà các 1 2 3 4 30 phút I. Từ ngữ : _ Đồng ruộng, nương rẫy mùa màng Em đã dược làm quen với “Việc đông áng “. Hôm nay, đẻ giúp các em hiểu roc hơn về cồn việc của Cha mẹ mình, để các em sử dụng từ được chính xác, chúng ta cùng tìm hiểu bài từ ngữ “ Việc đồng áng “ - Ghi đầu bài lên bảng. _ Em có biết việc đồng áng là những công việc gì trong nông nghiệp không ? _ Chính xác hoá. _ Để chỉ đất đai trồng trọt, cày cấy người ta thường dùng những từ ngữ nào ? _ Chính xác hoá - ghi bảng. _ Từ nưỡng rẫy khác nghĩa từ đồng ruộng như thế nào ? _ Chính xác hoá. _ Sau vụ thu hoạch, một bác nông dân nói “ Mùa màng năm nay khá hơn năm ngoái “. Trong câu nói đó, em hiểu mùa màng nghĩa là gì ? _ ghi bảng từ. _ Chính xác hoá. _ Thảo luận trả lời. _ Thảo luận trả lời. _ Thảo luận trả lời. _ Thảo luận trả lời. 1 2 3 4 Lúa má, hoa màu Nông cụ cải tiến _Máy kéo, máy cày, máy cấy, máy bừa, máy bơm nước .... _ Cơ giới hoá nông nghiệp, cơ khí hoá nông nhiệp. _ Bà con nông dân ta thường nói đến lúa má và hoa màu. Theo em lúa má và hoa màu khác nghĩa nhau như thế nào ? - ghi từ. _Chính xác hoá. _ Kể một vài thứ hoa màu mà em biết ? _ Đồ dùng trong việc đồng áng, trong sản xuất nông nghiệp gọi là gì ? _ Em hiểu nông cụ cải tiến là thế nào ? - ghi từ. _ Kể tên các loại máy dùng trong nông nghiệp ? _Ghi bảng từ và treo tranh giới thiệu một số các loại máy trên. _ Dùng máy kéo, máy cày, máy bơm nước để thay sức người làm các công việc đồng áng trong nông nghiệp thường được gọi là gì ? _ Chính xác hoá - ghi từ. _ Phát phiếu học tập theo nhóm : Điền vào chố trống _ Thảo luận trả lời. _ Trả lời. _ Trả lời. _ Thảo luận trả lời. _ Thảo luận trả lời. _ Thảo luận trả lời. _ Làm bài chữa miệng. 1 2 3 4 _ Cày bừa, gieo mạ, cấy lúa, làm cỏ, bỏ phân, tát nước, gặt hái..... _ Cần cù. Vất vả “Cơ giới hoá nông nghiệp “ hay “Cơ khí hoá nông nghiệp ‘ *.... Làm cho việc dùng máy móc trở thành phương tiện chính trong hoạt động sản xuất. *..... Làm cho có trình độ dùng máy móc trong hoạt động sản xuất. _ Chính xác hoá. _ Tìm một số từ ghép là động từ nói về công việc nhà nông. _ Ghi từ. _ Treo tranh giới thiệu một số hoạt động của bà con nông dân đang lao động sản xuất. _ Tìm từ chỉ phẩm chất tiêu biểu của người nông dân ? _ Chính xác hoá - ghi từ. _ Em hiểu như thế nào là cần cù ? _ Chính xác hoá. _ Hãy chọn một từ chỉ tính chất của lao động nông nghiệp mà em cho là đúng nhất. _ Chính xác hoá - ghi từ. _Thảo luận trả lời. _Thảo luận trả lời. _Thảo luận trả lời. _Thảo luận trả lời. 1 2 3 4 5 phút Chân cứng đá mềm _ Tìm từ gần nghĩa với từ vất vả ? _ Chính xác hoá. _ Theo em thành ngữ “ Chân cứng đá mềm “ ý nói gì ? - ghi từ. _Chính xác hoá. _ Chốt lại phần I. _ Luyện từ : Cho học sinh quan sát ttranh trong sách giáo khoa và yêu cầu các em làm bài tập ý b. * Củng cố dặn dò: _ Gọi học sinh đọc phần từ ngữ. _ Hỏi học sinh về từ loại của các từ ( Theo từng mảng từ ). _ Trò chơi : Tổ chức thi tìm thành ngữ, tục ngữ nói về công việc nhà nông. _ Về nhà học bài, chuẩn bị bài sau. _ Trả lời. _ Thảo luận trả lời. _ Làm bài chữa miệng. _ Đọc. _ Thảo luận trả lời. _ Tìm và giải thích một số câu tiêu biểu. 2.2- Dậy thí điểm : Tiếp theo công viẹc soạn giáo án mẫu, Chúng tôi tiến hành dạy thí điểm lớp 4B. Tiết dạy dược hội đồng sư phạm trường sở tại đánh giá như sau : _ Về giáo viên : Giáo viên nắm vững kiến thức của tiết học, chủ động, tự tin, thể hiện được phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Giáo viên bao quát được học sinh trong lớp, theo dõi, hướng dẫn, giúp đỡ kịp thời đến mọi đối tượng học sinh. Hoạt động giữa thầy và trò phối hợp nhịp nhàng, tự nhiên, kích thích được ý thức tự giác, chủ động của học sinh. Giáo viên giải quyết các tình huống nảy sinh trong quá trình dạy học một cách chủ động, sáng tạo, gây được hứng thú học tập cho các em. _ Về học sinh : Học sinh nắm được yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng bài học. Các em được hoạt động tích cực, tự giác, trả lời câu hỏi một cách tự tin ( Vì dược thầy giáo và cả lớp tôn trọng ý kiến ). Chất lượng học của học sinh thu được như sau : Giỏi : 35,9 % ( 14 em ) Khá : 53,8 % (21 em ) Trung bình : 10,3 % ( 4 em ) Yếu : Không _ Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả. Kết quả trên đã khẳng định ưu thế của quy trình dạy học kiểu bài thực hành về từ theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Chúng tôi và tất cả các giáo viên dự giờ tiết dạy đều cho rằng : Dạy học kiểu bài thực hành về từ theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh giáo viên làm việc ít hơn, học sinh làm việc nhiều hơn do đó mà các em tự mình chiếm lĩnh được tri thức và nhớ nhanh, nhớ lâu hơn. Không khí lớp học sôi nổi, kích thích được hứng thú học tập của các em. Phần III: Kết luận 1/ Đất nước càng phát triển càng cần phải có những con người năng động, sáng tạo, dám nghĩ , dám làm... để làm chủ đất nước. Trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi giáo dục phải đáp ứng được những đổi mới kinh tế - xã hội của nước nhà. Chỉ có thể đạt được mục tiêu giáo dục Tiểu học trong bối cảnh đổi mới của đất nước, trong xu thế đổi mới giáo dục Tiểu học các nước trên toàn thế giới bằng một con đường duy nhất đó là đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học. Đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu tất yếu của xã hội, là yếu tố quyết định nâng cao chất lượng giáo dục trong tình hình hiện nay. Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, vất vả hơn trong việc chuẩn bị, thực hành (cả lao động trí óc và lao động nghề nghiệp) đòi hỏi ở trình độ cao hơn, đòi hỏi giáo viên phải học tập thường xuyên: Học suốt đời để làm thày suốt đời. Song đổi mới phương pháp dạy học mang lại cho giáo dục một luồng sinh khí mới, nó giúp cho bản thân mỗi giáo viên tự nâng cao trình độ, năng lực, có một nghề thực sự người khác không thể thay thế được dù có năng lực, nó giúp cho đất nước, cho sự nghiệp giáo dục đào tạo thế hệ trẻ đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước giàu đẹp. Nhưng muốn đổi mới phương pháp dạy học thành công phải có những bước đi đúng đắn phù hợp. Qua thực tế đổi mới quy trình dạy học kiểu bài thực hành về từ phân môn từ ngữ lớp 4 - 5 trường Tiể học Yên Phú, Yên Mô, Ninh Bình chúng tôi thấy bước đầu có kết quả rất khả quan : Chất lượng học của học sinh được nâng lên rõ rệt, các em có hứng thú trong học tập. Về phía giáo viên, mọi người đều công nhận dạy theo phương pháp mới không những vai trò của giáo viên không mất đi mà còn được đề cao hơn, trình độ cũng được nâng lên ( Vì phải tìm tòi, học hỏi để có thể truyền thụ đúng, đủ kiến thức cho học sinh trong mỗi giờ dạy ). Việc đổi mới quy trình dạy học đối với kiểu bài thực hành về từ phân môn từ ngữ của nhà trường không đặt ra một khuôn mẫu cứng nhắc, đơn điệu về phương pháp dạy học mà đã phác hoạ được một quy trình chung khá linh hoạt để giáo viên dựa vào đó định hướng khi giảng dạy từng bài học cụ thể, tạo nên sự phối hợp chặt chẽ giữa dạy và học. Qua đây, chúng tôi càng nhận thấy rõ sự cần thiết của đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, đáp ứng mục tiêu giáo dục Tiểu học trong giai đoạn mới. 2/ Đổi mới phương pháp dạy học là công việc cần thiết và khó khăn, nó đòi hỏi phải có một thời gian dài, sự kiên trì, trí thông minh và sáng tạo trong mọi hoạt động. Để đảm bảo đổi mới thành công phương pháp dạy học ở Tiểu học chúng tôi đề xuất một số vấn đề sau: 2.1 - Các cấp bộ ngành cần quan tâm hơn nữa đến công tác bồi dưỡng giáo viên, mọi cán bộ giáo viên phải không ngừng học tập thường xuyên. Như thế mới có trình độ, năng lực đáp ứng được kiểu dạy học theo phương pháp mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục; Cần thay đổi cách tuyển chọn sinh viên sư phạm, có biện pháp khuyến khích người tài tham gia vào sự nghiệp giáo dục. Góp phần thúc đẩy giáo dục nước nhà tiến kịp thời đại. 2.2 - Cần đặt ra chế độ khen thưởng đúng mức, thống nhất trong toàn ngành để tạo động lực thúc đẩy sự vươn lên không ngừng của cán bộ giáo viên. --------------------------------------- Bước đầu tập dượt với việc nghiên cứu khoa học, thời gian lại hạn hẹp nên chắc hẳn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự chỉ dẫn của các thầy cô giáo. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0134.doc