Nghiên cứu vận dụng phép biện chứng vào cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Lời nói đầu Hiện nay Đảng và Nhà nước ta vẫn đang tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới để từng bước tiến tới một chế độ tươi đẹp và xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ nên xã hội chủ nghĩa, rất nhiều khó khăn trước mắt cần giải quyết. Nhưng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước chúng ta đã gặt hái được những thành công bước đầu. Những kết quả đó là dấu hiệu tốt đẹp đối với con đường tiếp bước tới chủ nghĩa xã hội. Có được điều đó nhờ Đảng và Nhà nước đã vận dụng linh hoạt sáng tạo

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1882 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu vận dụng phép biện chứng vào cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn của nước ta. Việc nghiên cứu sự vận dụng phép biện chứng vào cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta là điều bổ ích cho mọi sinh viên, đó là những con người là chủ đất nước trong tương lai. Đây là một đề tài rộng, vì vậy trong bài viết của mình em chỉ trình bày sự phân tích sơ lược theo những hiểu biết ít ỏi của mình về công cuộc đổi mới của đất nước. Từ việc nghiên cứu tìm hiểu của mình và em sẽ vững tin hơn vào công cuộc đổi mới, vào con đường tiến tới xã hội chủ nghĩa. Có gì sai sót trong qúa trình trình bày và nhận thức vấn đề, em xin các thầy thông cảm và sửa chữa giúp. Em xin chân thành cảm ơn. Phần A: Giới thiệu đề tài Với thắng lợi to lớn của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ngày 30-4 - 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Đất nước ta được thống nhất, cả ba miền cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang từng bước tiến hành đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Sau chiến tranh tình hình Chính trị kinh tế văn hoá xã hội... Của nước ta không được ổn định. Nhà nước mới, non trẻ đang đứng trước thực cảnh đất nước bị chiến tranh tàn phá. Nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu với nền nông nghiệp lạc hậu thô sơ, nền công nghiệp kém phát triển, cơ sở hạ tầng (Nhà xưởng, máy móc thiết bị...) bị tàn phá nặng nề. Xã hội bất ổn định, thù trong giặc ngoài quấy phá. Trong niềm hứng khởi đất nước mới dành được độc lập Nhà nước và toàn dân cùng nhau tiến hành khôi phục kinh tế. Song, bước đầu khôi phục kinh tế của nước ta tỏ ra không mấy hiệu quả. Các Nghị quyết Đại hội Đảng IV,V chưa rạch rõ được con đường đi nên chủ nghĩa xã hội cho đất nước. Do đó đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận lại vấn đề phải xác định được sự nghiệp đổi mới của nước ta phải toàn diện về mọi mặt, phải dựa trên tư duy, lý luận vững chắc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra con đường mới để đi lên xã hội chủ nghĩa thông qua Đại hội Đảng VI (1986) và tiếp tục công cuộc đổi mới qua Đại hội Đảng VII (1991) và Đại hội Đảng VIII (1996). Nhờ vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng Mác - Lênin và phép biện chứng duy vật, Đảng và Nhà nước ta đã gặt hái được những thành công bước đầu trong việc tiến hành công cuộc đôỉ mới toàn diện của đất nước. Việc nghiên cứu quá trình vận dụng phép biện duy vật của triết học Mác - Lênin vào đường lối chính sách chủ chương lãnh đạo cảu Đảng cộng sản Việt Nam sẽ cho chúng ta thấy sự linh hoạt, linh động, sáng tạo trong sự vận dụng lý luận Mác - Lênin cùng với sự vất vả trong tìm tòi đổi mới, bám sát thực tiễn của Đảng và Nhà nước ta. Trong bài viết này, chúng ta chỉ phân tích sơ bộ và rút ra một vài đánh giá và nhận xét sự sâu sắc đúng đắn trong quá trình vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng trong chiến lược, sách lược chỉ đạo toàn dân tiến bước đường đổi mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Phần B: Nội dung nghiên cứu I. Cơ sở của đề tài: 1. Cơ sở lý luận Công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay là một quá trình cải tạo thực tiễn, mà muốn cải tạo thực tiễn nhất thiết không thể thiếu lý luận để vạch đường lối cải tạo. Cơ sở lý luận chủ chốt của cuộc đổi mới, của con đường đi lên XHCN của nước ta là phép biện chứng duy vật của triết học Mác - Lênin. Phép biện chứng duy vật Mác - Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng; Trong phép biện chứng duy vật có hai nguyên lý rất cơ bản là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển. Theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng thì các sự vật, hiện tượng muôn hình muôn vẻ trong thế giới không cái nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập mà chúng là một thể thống nhất tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau; tạo điều kiện tiền đề cho nhau; giả định và chế ước lẫn nhau. Vì vậy khi nhận thức nhằm tác động vào các sự vật hiện tượng trong thế giới thì chúng ta phải có cái nhìn trên quan điểm toàn diện, phải đặt sự vật, hiện tượng đó vào các mối liên hệ đồng thời phân loại, đánh giá vị trí và vai trò của từng mối liên hệ để rồi từ đó tìm biện pháp tác động vào từng mối liên hệ cho phù hợp. Tránh cái nhìn phiến diện một chiều, hay sau bằng vai trò các mối liên hệ hoặc kết hợp gượng ép các mối liên hệ, các bộ phận của một quá trình nào đó. Các sự vật hiện tượng khi tác động qua lại lẫn nhau, nó tạo cho mình một sự vận động đi lên theo hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Đó chính là sự phát triển của sự vật hiện tượng. Nó là khuynh hướng chung của mọi sự vật hiện tượng. Do đó nhờ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp cho chúng ta nhận thức được rằng: Muốn nắm bắt được khuynh hướng vận động phát triển của sự vật hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, phải phát hiện được các xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng. Khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong cái nhìn quan điểm về sự vận động của sự vật hiện tượng. Sự phân tích một cách đúng đắn khoa học những điều kiện thực tế của sự vật hiện tượng sẽ tìm ra hướng phát triển của sự vật hiện tượng đó đồng thời có những tác động hợp lý sẽ thúc đẩy sự phát triển đi theo hướng đã định. Trong quá trình nghiên cứu sự vận động phát triển của một sự vật hiện tượng, không thể tách rời chúng với các sự vật, hiện tượng khác bởi vì giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ. Có thể nói mối liên hệ phổ biến và sự vận động phát triển là hai mặt của quá trình tồn tại của sự vật. Tính hai mặt đó thể hiện ở chỗ các sự vật hiện tượng liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau dẫn đến sự vận động, sự vận động lại tạo ra sự liên hệ trong suốt quá trình của nó, chính vì vậy trong khi vận dụng phép duy vật biện chứng không thể tách rời hai nguyên tắc này. Trong quá trình nghiên cứu sự vận động phát triển của một sự vật hiện tượng, không chỉ xem xét, đề cập tới những sự vật hiện tượng khác có liên quan mà còn phải xem xét toàn bộ những mối liên hệ giữa các bộ phận, yếu tố của sự vật hiện tượng đó, có vậy mới nắm được bản chất của vấn đề. Trong phép biện chứng duy vật, các nguyên lý mối liên hệ phổ biến và sự phát triển được chi phối, biểu hiện thành các qui luật. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển là các mặt đối lập. Liên hệ chặt chẽ với nhau tạo thành mâu thuẫn, quy luật lượng chất chỉ ra cách thức của sự phát triển, đó là lượng đổi dần đến chất đổi và ngược lại. Còn quy luật phủ định của phủ định, chỉ ra con đường và xu hướng của sự phát triển là tiến lên. Quá trình vận dụng lý luận trong công cuộc đổi mới của nước ta nhất định phải nắm rõ, bám chặt lấy các nguyên lý cơ bản các quy luật, các phạm trù cơ bản của phép duy vật biện chứng. Công cuộc đổi mới của nước ta phải được dẫn dắt, soi đường bởi các học thuyết thì mới đạt được mục đích rõ ràng, không bị mò mẫm, lệch lạc. Lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin nếu được vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào thực tiễn của nước ta sẽ đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt sóng cả tiến tới bến bờ thành công. 2. Cơ sở thực tế Lý luận bao giờ cũng phải gắn liền với thực tiễn thì mỗi tránh được sự giáo điều, lý luận xuông. Và thực tiễn vừa là cơ sở của lý luận, vừa là thước đo lý luận, là mục đích của lý luận, nhận thức. Quá trình vận dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn luôn bám sát với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Lê nin đã nói:"Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là điều không thể tránh khỏi, nhưng các dân tộc tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải bằng một cách hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này, hay hình thức khác của chế độ dân chủ vào loại này, hay hình thức khác của chuyên chính vô sản vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo chủ nghĩa xã hội đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội"(1) V. Lênin : Toàn tập, tập 30, tv trang 60 . Thực tiễn cách mạng của nước ta khác các nước khác do đó sự vận dụng lý luận cách mạng Mác Lênin đòi hỏi phải có sự sáng tạo, linh động. Cơ sở thực tiễn của quá trình vận dụng lý luận cách mạng sẽ là động cơ thúc đẩy đất nước, xã hội phát triển. Sau ngày 30/4/1975 nước ta được hoàn toàn giải phóng, đặt nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mới thống nhất đã đứng trước bộn bề công việc và khó khăn chồng chất.. Từ một nước phong kiến nửa đế quốc lạc hậu, một thời gian dài bị chiến tranh chia cắt, tàn phá nặng nề. Hậu quả để lại cho nhà nước non trẻ của chúng ta là một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu bậc nhất trên thế giới. Công, nông nghiệp đình đốn, lạc hậu, thô sơ. Bên cạnh đó, bạn đế quốc vẫn còn nhăm nhe, rình rập nước ta, bao vây kinh tế, xúi giục phản động quấy phá, nổi loạn hòng lật đổ chính quyền mới. Hơn thế nữa các khoản việc trợ giúp đỡ không hoàn lại của các nước XHCN anh em (như Liên Xô, Trung Quốc, Đông Âu...) không còn nữa. Vì vậy, việc tiến hành khôi phục đất nước sau chiến tranh, tiến hành cuộc cách mạng đi làm xã hội chủ nghĩa là điều tất yếu phải xảy ra. Tại Đại hội Đảng IV và V trong Nghị quyết Đại hội đã đưa ra hàng loạt chính sách khôi phục kinh tế nhưng lại rập khuôn y hệt Liên Xô ngày trước thành ra kết quả đem lại không như ý muốn, thậm chí có một số mặt lại tồi tệ hơn trước kia. Những kết quả ban đầu đó chưa đủ để đưa nước ta thẳng tiến lên chủ nghĩa xã hội như kế hoạch ban đầu. Trong khi đó, trên thế giới, hàng loạt các biến cố thất thường xảy ra. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô bị khủng hoảng trầm trọng, dẫn đến sự sụp đổ hàng loạt Liên Xô tan vỡ. Âm mưu diễn biến hoà bình của chủ nghĩa đế quốc đã thu được kết quả. Nhưng nguyên nhân chủ yếu của sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do nguyên nhân chủ quan trong nước. Các nước xã hội chủ nghĩa ở Trung á, Mông cổ, Cu Ba, Trung Quốc... Vẫn đang vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Trung Quốc, công cuộc đổi mới của họ đã gặt hái thành công bước đầu. Tất cả các thực tế trên dẫn đến tất yếu chúng ta phải tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc trên con đường cách mạng mà Đảng và nhà nước đã chọn từ thủa khai sơ, tỏng cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930). Thực tế khách quan riêng có của nước ta cần những chính sách mang tính sáng tạo trong sự vận dụng lý luận cách mạng để có thể tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đưa đất nước đi đúng quỹ đạo tiến tới chế độ XHCN. II. Thực trạng của vấn đề. 1. Qúa trình vận dụng biện chứng duy vật vào công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Đất nước ta muốn đi lên chủ nghĩa xã hội tươi đẹp thì trước hết phải tiến hành một công cuộc đổi mới toàn diện, trên mọi lĩnh vự của đời sống xã hội. Mục tiêu tổng quát nhất cần đạt tới là "Xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng văn hoá phù hợp, làm cho đất nước ta trở thành nước XHCN phồn vinh"(1) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH . Trong tất cả các mặt lĩnh vực của đời sống xã hội, mối liên hệ chặt chẽ giữa các mặt, các lĩnh vực này khiến chúng ta khi nghiên cứu, cải tạo phải đặt chúng vào một cách nhìn, quan điểm toàn diện. Tuy nhiên trong tất cả các mối liên hệ đó, thì mối liên hệ giữa kinh tế và chính trị là quan trọng nhất. Hạ tầng cơ sở kinh tế quyết định chính trị, đồng thời chính trị cũng tác động trở lại kinh tế. Đó là mối liên hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nhưng trên hết, công cuộc đổi mới của nước ta phải đặt đổi mới kinh tế lên hàng đầu. Kinh tế là cơ sở, là nền tảng của cả xã hội, quyết định tính chất của cả toàn xã hội. Vì vậy đổi mới đất nước, đổi mới xã hội đưa đất nước đi lên XHCN trước tiên là đổi mới nền kinh tế, tạo lực lượng cơ sở để phát triển xã hội. Trong những khó khăn chồng chất của đất nước sau chiến tranh Đảng ta đã tiến hành công cuộc xây dựng, khôi phục, phát triển nền kinh tế. Tại đại hội Đảng IV (tháng 12 - 1976), Đảng đã nêu nên đường lối chung và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội đề ra nhằm ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời kết hợp công - nông nghiệp thành một cơ cấu hoàn thiện. Tại Đại hội Đảng IV, những sai lầm trong sự vận dụng lý luận vào thực tiễn nước ta đã bộc lộ rõ. Trong sự nhận thức lý luận, Đảng đã ngộ nhận con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa, chủ trương đưa nước ta tiến thẳng từ một nước phong kiến lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chủ nghĩa tư bản đồng thời cũng bỏ qua luôn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa tư bản. Trong lý luận Mác - Lênin cũng đã nêu rõ. Muốn đi lên chủ nghĩa xã hội từ tư bản chủ nghĩa phải trải qua một thời kỳ quá độ. Vì vậy chúng ta cũng không thể bỏ qua thời kỳ đó được. Trong kinh tế cũng vậy, từ một hạ tầng cơ sở nghèo nàn lạc hậu của cả công nghiệp và nông nghiệp mà chủ trương của Đảng và Nhà nước lại ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, phát triển nông nghiệp để tạo bước nhảy vọt, thúc đẩy các ngành nghề khác xuất hiện: Việc chưa tích luỹ đủ về lượng đã thực hiện bước nhảy vọt để thực hiện sự thay đổi về chất tất yếu sẽ dẫn đến thất bại. trong quy luật lượng - chất của phép biện chứng duy vật đã chỉ rõ bước nhảy (sự thay đổi về chất) xảy ra trong sự biến đổi dần dần tích luỹ số lượng. Nền kinh tế nghèo nàn của nước ta cần có sự tích luỹ về lượng sử dụng phương thức sản xuất tư bản của các nhà tư bản trong nước,từ đó tạo cơ sở vật chất cho sự biến đổi về chất, đó là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tại đại hội Đảng V, Đảng ta vẫn chưa nhận thức được điều này mà tiếp tục sai lầm từ kỳ đại hội trước. Kết quả thu được là nền kinh tế có sự tăng trưởng nhưng không đáng kể, thu nhập quốc dân có tăng nhưng nền kinh tế sản xuất nhỏ vẫn hoàn nhỏ. Nền kinh tế bị mất cân đối một cách nghiêm trọng không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra. Thị trường tài chính tiền tệ không ổn định, đồng tiền mất giá nghiêm trọng mức độ lạm phát lên đến trên 700% giá cả tăng kéo theo đời sống nhân dân khó khăn gay gắt. Tư tưởng chủ quan nóng vội muốn bỏ qua các bước đi cần thiết khiến trong chủ trương chính sách có nhiều sai lầm. Lực lượng sản xuất không phát triển được, quan hệ sản xuất cũng không được phát triển. Một loạt những nguyên liệu dẫn đến những hậu quả trên là sai lầm về đánh giá tình hình xác định mục tiêu và bước đi, về bố trí cơ cấu kinh tế, về cải tạo xã hội chủ nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế (cơ chế tập trung quan liêu bao cấp) về phân phối lưu thông, về thực hiện chuyển dịch vô sản. Nhưng nguyên nhân chủ yếu là sai lầm trong sự vận dụng lý luận vào thực tiễn. Tại Đại hội Đảng VI, Đảng đã nhìn nhận lại tình hình kinh tế - chính trị - xã hội xác định lại chặng đường tiến lên xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình nhìn nhận lại sai lầm trong những chủ trương kế hoạch, chính sách kinh tế, Đảng thừa nhận sai lầm của mình tại đại hội Đảng IV, V. Các kế hoạch 5 năm lần thứ nhất rồi thứ hai, thứ ba đều là rập khuôn máy móc theo các nước XHCN Đông âu & Liên xô đi trước. Đảng chỉ ra rõ nguyên nhân chính:"Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế - xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân * Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI- Tạp chí cộng sản, 1987 trang 20 . Đại hội Đảng VI, của Đảng là một mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta trong đó sự đổi mới về các quan điểm kinh tế. Tính chặt chẽ toàn diện trong kết cấu của nền kinh tế lại được thể hiện trong các chính sách đổi mới. Đổi mới nhiều mặt lĩnh vực để tạo đà phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế: Về lĩnh vực cải tạo xã hội chủ nghĩa: Khẳng định sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá có cơ cấu nhiều thành phần, bao gồm kinh tế xã hội chủ nghĩa (gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với những bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó), kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể) kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số. Về lĩnh vực công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa: Để khắc phục sai lầm trong những năm trước, đại hội Đảng VI đề ra chủ trương điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư theo hướng "phải thật sự tập trung sức người sức của vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu"(1) Báo cáo CT tại đại hội đại biểu toàn quốc lần VI, tạp chí CS số 1 - 1987 khẳng định vai trò hàng đầu của nông nghiệp kể cả lâm, ngư nghiệp cũng như vai trò to lớn của công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, còn công nghiệp nặng phải phát triển một cách chọn lọc, hợp với sức mình, nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Về cơ chế quản lý kinh tế: Đại hội Đảng chủ trương đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế mà thực chất của cơ chế mới là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh tế XHCN, đúng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Tại Hội TW Đảng lần 6 (4 - 1989) đã khẳng định đường lối đổi mới do Đại hội Đảng VI là đúng đắn và nêu ra phương hướng chỉ đạo công cuộc đổi mới trong thời gian tới:"Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển mạnh các đơn vị kinh tế sang hạch toán kinh doanh theo quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch, gồm nhiều thành phầm đi lên chủ nghĩa xã hội". Về kinh tế đối ngoại: Đại hội VI đã rút ra một bài học kinh nghiệm "phải biết kết hợp với sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới"(2) Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI, TCCS số 1/87 trang 30 Do đó chính sách kinh tế đối ngoại của nước ta trong sự nghiệp đổi mới được đề ra như sau: Đẩy mạnh xuất nhập khẩu; Phát triển mở rộng hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật với bên ngoài, áp dụng rộng rãi các hình thức hợp tác và liên kết với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước khác; Đa dạng hoá thị trường và phương hướng hoạt động theo quan điểm "mở cửa" từng bước gắn liền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, thị trường trong nước với thị trường quốc tế nguyên tắc đảm bảo độc lập, chủ quyền dân tộc, an ninh quốc gia và cùng có lợi. Đại hội Đảng VII đã tiếp bước, hoàn thiện thêm đường lối mới do Đại hội VI đề ra, cụ thể là về cơ cấu ngành và vùng: phát triển nông lâm ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; phát triển một số ngành công nghiệp nặng phục vụ cho sản xuất nông lâm ngư nghiệp,phát triển cơ sở hạ tầng, khắc phục tình trạng xuống cấp, mở rộng và hiện đại hóa; sắp xếp lại và phát triển các loại dịch vụ kinh tế, kỹ thuật; Tiếp tục xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến lược chung, xác định chính sách đô thị và hai trung tâm lớn nhất cả nước là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Đại hội cũng đề ra các kế hoạch tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế. Nhờ lý luận cách mạng, sự áp dụng linh hoạt vào thực tế của Đảng và nhà nước. Nền kinh tế của nước ta có những bước tiến bộ khá rõ rệt. Chính sách đổi mới kinh tế đã gặt hái được những kết quả tốt đẹp. Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới với hai kế hoạch 5 năm từ 1986 đến 1995, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng, cụ thể như: nhịp độ phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định, kiềm chế và đẩy lùi được siêu lạm phát. Bảng : Nhịp độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát (%) Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Tăng trưởng 4,0 3,9 5,1 8,0 6,1 6,0 8,6 8,1 8,8 9,5 Lạm phát 774,7 223,1 393,8 34,7 67,4 67,6 17,6 5,2 14,4 12,7 Đến nay nạn lạm phát được kiềm chế ở mức tương đổi ổn định. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng cơ bản trong GDP tăng (từ 22,6% năm 90 đến 30,3% năm 95) tỉ trọng dịch vụ cũng tăng từ 38,6% lên 42,5%, tỉ trọng nông nghiệp giảm (40,6% - 36,2%) tỉ trọng kinh tế quốc doanh trong GDP từ 29,4% (năm 1990) lên 40,4% (năm 1994). Đời sống của nhân dân được cải thiện một bước rõ rệt, sau 10 năm đổi mới nước ta đã bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế và bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Những thành tựu kinh tế - xã hội đã đạt được trên đây là kết quả của đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng khởi xướng và lãnh đạo trong công cuộc đổi mới. Điều đó cho thấy vai trò to lớn của chính trị tư tưởng trong mối liên hệ giữa kinh tế và chính trị: kinh tế quyết định chính trị, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, yếu tố chính trị tinh thần thể hiện trong tư tưởng và đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Các chính sách đường lối của Đảng đề ra sẽ là động cơ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, nhưng nếu đường lối chính sách đó không hợp lý, sai lầm thì nó sẽ kìm hãm, triệt tiêu sự phát triển kinh tế. Chính vì thế mà bên cạnh đổi mới kinh tế, chúng ta cũng cần phải phát hành đổi mới chính trị một cách song song. Phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thơì từng bước đổi mới chính trị"(1) Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 - NXB Sự thật 1991 . Trong những chủ trương đổi mới chính trị, Đảng ta đã đặt nhiệm vụ đổi mới chính trị gắn liền với đổi mới kinh tế. Đảng đã khẳng định chính trị là phương tiện phục vụ, thực hiện mục đích kinh tế. Như ở trên đã nêu, những sai lầm trong đường lối chính sách lãnh đạo chung của Đảng, đặc biệt là đối với kinh tế của Đảng nêu ra trong hai kỳ đại hội IV và V khiến cho nền kinh tế của nước ta không phát triển được, nghèo lại hoàn nghèo. Sự đổi mới chính trị cũng như đổi mới kinh tế, phải có sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo và phải đúng đắn, phù hợp với thực tiễn lý luận cách mạng Mác - Lênin và phép duy vật biện chứng. Đặt sự phát triển đổi mới của chính trị trong mối liên hệ chặt chẽ giữa chính trị và kinh tế, tăng mối liên hệ trong các yếu tố, bộ phận của chính trị, tác động vào những mâu thuẫn thích hợp để tạo sự phát triển mạnh mẽ phù hợp với sự phát triển kinh tế. Với phương châm đổi mới chính trị, gắn liền với đổi mới kinh tế, những kỳ đại hội Đảng sau đại hội V đã đưa ra các chính sách đổi mới chính trị đúng đắn, phù hợp: đó là đổi mới chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì mới giữ vững được định hướng XHCN. Khi giải quyết các vấn đề chính trị không được tách rời khỏi sự tăng trưởng kinh tế. Đảng khẳng định vai trò của chính trị đối với tăng trưởng kinh tế: không chỉ có tăng trưởng kinh tế là tự khắc giải quyết được các vấn đề xã hội, không chờ cho đến khi kinh tế phát triển mới coi trọng đổi mới chính trị, hoặc đổi mới chính trị chậm hơn đổi mới kinh tế sẽ dẫn đến sự bất công, sự phân hoá xã hội quá mức, rối loạn xã hội chính sách chính trị đúng đắn sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, ngược lại sẽ hạn chế, kìm hãm những thành quả kinh tế dẫn đến mất ổn định chính trị. Đổi mới chính trị trên cơ sở ổn định tổ chức, đổi mới để giữ vững ổn định về chính trị, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong việc quản lý kinh tế và các mặt khác của xã hội. Sự ổn định và đổi mới chính trị là hai mặt đối lập, thống nhất biện chứng với nhau. Chúng gắn bó tác động qua lại lẫn nhau trên nền tảng là đổi mới kinh tế. Trong quá trình tiến hành đổi mới chính trị, Đảng phải chú trọng củng cố phát triển Đảng, vì Đảng là cơ quan đại diện của chính trị, Đảng đưa chính trị vào trong thể chế của nhà nước. Vì vậy củng cố phát triển Đảng là nhiệm vụ của chính bản thân Đảng nhằm đổi mới chính trị. Trong quá trình củng cố và phát triển Đảng, phải bồi dưỡng nâng cao năng lực phát triển tư duy lý luận của chủ nghĩa khoa học xã hội và không ngừng đấu tranh làm trong sạch nội bộ Đảng. Đổi mới tổ chức, nâng cao sức chiến đấu và trình độ của đội ngũ Đảng viên, cải tiến phương thức lãnh đạo và hành động cải tiến phong cách công tác. Đổi mới nhưng chế độ chính trị của Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn phải luôn luôn hướng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng là hạt nhân trong hệ thống chính trị, vì vậy để giữ được vai trò và vị trí lãnh đạo của mình, Đảng "phải vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo"(1) Đảng CSVN - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên XHCN - NXB sự thật 1991- tr 21 . Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, chính sách đoàn kết và đường lối dân tộc phải tạo ra sự đoàn kết thống nhất dân tộc, tạo ra nguồn sức mạnh to lớn cho nhân dân vượt qua khó khăn, tiếp tục đổi mới, tiếp tục thu được các thành tựu mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc. Cùng với chính sách đối nội. Chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng có nhiều thay đổi. Trước đây, Việt Nam chỉ quan hệ với các nước XHCN còn bây giờ với phương châm "Việt nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới" Nhà nước không ngừng mở rộng quan hệ (đến nay nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với trên 100 nước và tổ chức trên thế giới). Tóm lại việc chỉnh đốn Đảng, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, kiện toàn hệ thống chính trị, có những chính sách đối nội đối ngoại hợp lý để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và xã hội là những nhiệm vụ quan trọng trong việc đổi mới chính trị của nước ta. Trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, bên cạnh sự đổi mới về phương diện kinh tế chính trị cũng cần phải tiến hành đổi mới trên lĩnh vực văn hoá xã hội. Trong công cuộc đổi mới tư tưởng tiến hành cách mạng, XHCN đã làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Những phương châm hành động của quá trình đổi mới văn hoá xã hội luôn luôn cần chú trọng tới đó là kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; Giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán và lòng tự hào dân tộc của một dân tộc có hơn 4000 năm văn hiến. Xây dựng nếp sống văn hoá, văn minh hướng tới chân thiện mỹ. Trong quá trình giao lưu, hoà nhập vào nền văn hoá văn minh thế giới, không được đánh mất sự hưởng thụ văn hoá dân tộc, không làm mờ đi những nét đẹp truyền thống lâu đời về văn hoá dân tộc. Để nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho người dân, Nhà nước ta cần phát triển các hoạt động văn hoá văn nghệ, tạo sân chơi giải trí cho mọi người từ người già đến trẻ em. Trên cơ sở đó, hệ thống chính trị xã hội của nước ta được hoạch định trên các quan điểm: Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển; khuyến khích làm giàu kết hợp với xoá đói giảm nghèo; tăng cường hoạt động đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội hoạt động từ thiện, tạo công ăn việc làm, đẩy lùi nạn thất nghiệp và tệ nạn xã hội; chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất của nhân dân, đẩy mạnh công tác dân số kế hoạch hoá gia đình. Việc tiến hành đổi mới trong lĩnh vực văn hoá xã hội nhằm nâng cao đời sống văn hoá tinh thần xã hội là một động cơ thúc đẩy xã hội phát triển. Mối liên hệ giữa kinh tế - xã hội cần được chú trọng, tránh sự mất cân bằng giữa hai yếu tố. Kinh tế phát triển kéo theo đời sống vật chất của nhân dân được nâng cao. Vì vậy, đời sống tinh thần của nhân dân cũng cần được nâng cao hơn. Có như thế thì nhân dân mới đồng tâm, đồng sức cùng Đảng và Nhà nước cùng thực hiện tiếp tục cuộc cách mạng XHCN. Và để bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng, bảo vệ giữ vững chủ quyền lãnh thổ của đất nước thì việc xây dựng một nền quốc phòng vững mạnh là điều không thể thiếu. Trong hoàn cảnh thù trong việc giặc ngoài tạm thời không còn và trong bối cảnh thế giới có xu hướng chuyển từ "đối đầu" sang "đối thoại" thì chúng ta vẫn phải đề phòng, cảnh giác chống âm mưu diễn biến hoà bình của đế quốc, chúng luôn luôn rắp tâm ngăn cản cuộc cách mạng XHCN của ta cũng như của nước khác trên thế giới. Như Lê nin đã nói:"Trong lúc cái mới nảy sinh thì cái cũ trong một thời gian nào đó vẫn còn cứ mạnh hơn cái mới"(1) V.I. Lênin: toàn tập, 29, ST/68 trang 467(trích giáo trình) . Cái mới ở đây là chủ nghĩa xã hội, cái cũ là chủ nghĩa đế quốc, đỉnh cao của chủ nghĩa tư bản, còn khoảng thời gian nào đó thì cũng chính là lúc này, lúc mà dân tộc ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, nghĩa là cuộc cách mạng của chúng ta mới chỉ ở giai đoạn đầu, chắc chắn không thể tránh khỏi sự ngăn cản từ phía chủ nghĩa tư bản. Việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, giữ vững trật tự trị an trong nước bảo vệ độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và nhân dân, là nhiệm vụ Đảng, nhà nước và toàn thể nhân dân để bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng XHCN. Xây dựng và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ không thể tách rời, phải chú trọng xây dựng một nền quốc phòng vững mạnh song song với sự nghiệp đổi mới của đất nước. Nền quốc phòng toàn dân của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phải là nền quốc phòng vì dân, do dân và của dân phát triển theo hướng toàn dân, toàn diện, đôc lập tự chủ tự cường và ngày càng hiện đại dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý điều hành của nhà nước nhằm giữ vững hoà bình ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi loại hình chiến tranh xâm lược và bạo loạn lật đổ của thế lực đế quốc phản động, bảo vệ vững chắc tổ quốc và thành quả cách mạng. Nền quốc phòng toàn dân vững mạnh sẽ bảo vệ tốt thành quả của đổi mới, đổi mới sẽ làm tăng thêm tiềm lực chính trị tinh thần, tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ từ đó mà quốc phòng càng thêm vững mạnh. Mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc là mối quan hệ chặt chẽ. Một yếu tố rất quan trọng nữa của công cuộc đổi mới của nước ta là con người. Trong các mối liên hệ tổng hoà trên giữa kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, quốc phòng an ninh, luôn bao hàm chứa đựng những mối liên hệ cụ thể giữa các nhân tố chủ quan cấu thành và quyết định sự phát triển của xã hội: Đó là con người "Bản chất con người không phải là một cái trì._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0295.doc
Tài liệu liên quan