Nghiệp vụ huy động vốn của Ngân hàng Thương mại

Lời cảm ơn Hệ thống Ngân hàng mạnh hay yếu (về hoạt động) là phản ánh của nền kinh tế tương ứng. "Ngân hàng là hệ thần kinh, là trái tim của nền kinh tế". Hệ thống Ngân hàng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng vì thế rất quan trọng. Ngân hàng là trung gian tài chính lớn, nguồn vốn do Ngân hàng cung cấp không chỉ lớn về số lượng mà còn có tính ổn định chi phí thấp. Viết về "Nghiệp vụ huy động vốn của Ngân hàng thương mại". Em thấy đây là vấn đề mang tính thực tiễn và đòi hỏi khả năng ca

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1380 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nghiệp vụ huy động vốn của Ngân hàng Thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o là sinh viên năm thứ 3, đã được học môn chuyên ngành Lý thuyết tài chính tiền tệ. Em đã được cung cấp kiến thức để phân tích về nghiệp vụ này. Tuy nhiên đây là đề án của môn chuyên ngành đòi hỏi cao ở cách phân tích, và tập trung vấn đề theo trọng điểm. ở đây, em đã được sự giúp đỡ của thầy.Với tầm kiến thức hạn chế, chắc không tránh được những thiếu sót. Rất mong sự chỉ bảo của thầy, cô. Điều này thực sự cần thiết cho em bây giờ và sau này khi đã đi làm. Em xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng năm 200... Phần I: lời nói đầu Trải qua một tiến trình lịch sử dài tồn tại và không ngừng phát triển. Từ mông muộn, nguyên sơ đến thông minh uyên bác. Con người chúng ta đã tạo được được trên hành tinh này một nền văn minh rực rỡ. Trí tuệ con người đã kết tinh lại để hình thành nên các giá trị cả về văn hóa và vật chất. Sự phát triển của nền văn minh nhân loại gắn liền với sự phát triển về kinh tế - xã hội. Từ cuộc cách mạng công nghiệp lần đầu tiên diễn ra ở Anh vào thế kỷ 18, đến những cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, cuộc cải cách kinh tế diễn ra sau này. Và cho đến một nền kinh tế phát triển cao hiện nay. Nói đến nền kinh tế hiện đại người ta thường so sánh tầm cao của nó như tầm mắt hướng lên tới đỉnh của những tòa nhà Ngân hàng nguy nga, tráng lệ. Vì hơn hết hệ thống Ngân hàng được coi như "Hệ thần kinh, là trái tim của nền kinh tế", "Ngân hàng là doanh nghiệp đặc biệt" đóng vai trò trung tâm trong vô vàn các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Có thể nói hệ thống Ngân hàng nói chung và ngân hàng Thương mại nói riêng có ảnh hưởng bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế. Các nghiệp vụ hình thành nên các hoạt động của Ngân hàng Thương mại gắn với thực tiễn kinh tế sôi động. Trong đề án này em xin trình bày một trong các nghiệp vụ đó là "Nghiệp vụ huy động vốn của Ngân hàng Thương mại". Đề án gồm có 4 phần sau: Phần I : Phần mở đầu Phần II: Nội dung gồm có hai chương Chương 1: Ngân hàng thương mại và hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Chương 2: Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại Phần III: Lời kết Phần IV: Phần phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo. Phần II: nội dung Chương 1: Ngân hàng thương mại và hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường I. Khái quát về Ngân hàng thương mại. 1. Thế nào là Ngân hàng thương mại. Ngân hàng được coi là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hóa trong kinh tế thị trường. Một động lực quan trọng cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Tất cả các quốc gia muốn nền kinh tế của mình phát triển, đều phải xây dựng hệ thống Ngân hàng có chất lượng cao. Mỗi nước khác nhau sẽ có một khái niệm và mô hình tổ chức Ngân hàng khác nhau. Thông thường, người ta phải dựa vào tính chất và mục đích, đối tượng hoạt động của nó trên thị trường tài chính. ở nước ta trong Pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và Công ty tài chính năm 1990 có đưa ra khái niệm: "Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán". Luật các tổ chức tín dụng (Luật số 02/1997/QH10) Điều 20: "Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh khác có liên quan". Trong đó: "hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán". Luật Ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: "Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ và các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính". Luật Ngân hàng của ấn Độ, năm 1959 bổ sung: "Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư". Luật Ngân hàng của Đan Mạch năm 1930: "Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân..." Các định nghĩa trên chỉ khác nhau về mặt thể hiện song trong nội dung chủ yếu đều hướng tới tính chất nhận tiền ký thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng cho vay, chiết khấu và các nghiệp vụ kinh doanh khác. Đối với nước ta, trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thực hiện nhất quan chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật. Được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. Các hình thức sở hữu có thể đan xen với nhau hình thành nên các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng. Theo hướng này, nền kinh tế hàng hóa phát triển tất yếu sẽ đòi hỏi cần có nhiều loại hình Ngân hàng và các tổ chức tín dụng ra đời. 2. Sơ lược về lịch sử hình thành. Ngân hàng thương mại hình thành và ra đời lần đầu tiên ở Châu Âu. Kể từ khoảng giữa thế kỷ 14, ở Châu Âu tồn tại các lãnh địa riêng biệt. Các lãnh địa này diện tích và dân số không lớn lắm. Trong sự tồn tại và phát triển của chúng không thể thiếu được sự trao đổi, giao thương buôn bán với các lãnh địa khác. Tuy nhiên, các lãnh địa khác nhau lại sử dụng các loại tiền tệ khác nhau và cũng có tiềm lực kinh tế khác nhau. Trước tình hình đó, để các hoạt động giao thương được diễn ra nhanh chóng và thuận lợi. Đã hình thành nên các tổ chức thu đổi tiền. Hình thức này là khi các thương gia vào lãnh địa họ sẽ đổi tiền của mình lấy tiền lưu hành trong lãnh địa, và chịu một phần chi phí thu đổi. Việc đổi tiền này lấy tiền khác dựa vào tiềm lực kinh tế của những lãnh địa có đồng tiền đó. Dần dần tổ chức thu đổi này lớn mạnh và kiêm luôn việc giữ hộ tiền và thanh toán hộ. Trong khi giữ số tiền nhàn rỗi (do chưa đến thời hạn thanh toán hộ) nhằm thu lợi, họ tiến hành cho vay lấy lãi. Việc cho vay này có căn cứ trên đặc tính "vô danh" của đồng tiền. Tức là họ hoàn toàn có thể lấy số tiền người gửi chưa đến thời hạn thanh toán và thanh toán cho người rút tiền. Cùng với thời gian, hoạt động sản xuất kinh doanh giao thương ngày càng phát triển, tổ chức này cũng ngày càng lớn mạnh và hình thành các loại hình thương mại đầu tiên. Tóm lại, Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính ra đời dựa trên cơ sở của sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa và dựa trên sự khác biệt về tiền tệ giữa các vùng, các khu vực. 3. Vai trò, vị thế và tầm quan trọng của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại ra đời do yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế. Cơ sở nền sản xuất và lưu thông hàng hóa, và nền kinh tế ngày càng phát triển càng cần đến hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình nhất là chức năng trung gian tín dụng Ngân hàng thương mại đã trở thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự đóng góp này thể hiện như sau: * Thứ nhất: Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế: Nền kinh tế phát triển càng cao, thì nhu cầu về vốn càng lớn. Vốn đóng vai trò rất quan trọng trong việc đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như duy trì chính hoạt động đó nhằm đảm bảo hiệu quả của doanh nghiệp. Chịu trách nhiệm với nhiệm vụ này. Ngân hàng thương mại đã đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mọi tổ chức, cá nhân mọi thành phần kinh tế (vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng từ quá trình sản xuất, từ nguồn tiết kiệm của dân cư...). Thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ đó các doanh nghiệp sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế. * Thứ hai: Ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong quá trình vận động chịu tác động của rất nhiều các quy luật kinh tế khách quan như quy luật cung, cầu, cạnh tranh. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế này cũng không thoát khỏi sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan đó. Muốn tồn tại các doanh nghiệp buộc phải thỏa mãn các yêu cầu của thị trường về: phương diện giá cả, khối lượng, chất lượng, mẫu mã, cải tiến máy móc, trang thiết bị, tìm tòi nghiên cứu, đầu tư... Tuy nhiên tất cả những hoạt động này đều cần có phải có lượng vốn nhất định (thường vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp). Giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp có thể tìm đến với Ngân hàng xin vay vốn. Vì vậy Ngân hàng chính là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường. * Thứ ba: Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng trong hệ thống, các Ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu thông. Hơn nữa, bằng việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, Ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp, phân chia vốn của thị trường điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng theo phương châm" Nhà nước điều tiết Ngân hàng, Ngân hàng dẫn dắt thị trường" * Thứ tư: Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa nền ktc quốc gia với nền tài chính quốc tế. Xu thế liên kết, hợp tác, khu vực hóa, toàn cầu hóa đã là xu thế chung trên thế giới hiện nay. Xu thế này có ảnh hưởng tới mọi quốc gia. Chính xu thế đó đã khiến các quốc gia tuy cách xa nhau về mặt địa lý vẫn xích lại gần nhau hơn. Bởi sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận không thể thiếu, cấu thành nên sự phát triển đó. Ngân hàng thương mại với các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác đã góp phần thúc đẩy ngoại thương mở rộng. Cũng thông qua các hoạt động thanh toán, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng với Ngân hàng nước ngoài, hệ thống Ngân hàng đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế. 4. Các loại hình Ngân hàng thương mại. a. Chia theo tính chất hoạt động. * Ngân hàng chuyên doanh và đa năng. - Ngân hàng chuyên doanh: là Ngân hàng ngày chỉ tập trung cung cấp một số dịch vụ Ngân hàng. Ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối với nông nghiệp, hoặc chỉ cho vay (không bảo lãnh hoặc cho thuê)... Tính chuyên môn hóa cao cho phép Ngân hàng có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ. Tuy nhiên, loại Ngân hàng này thường gặp rủi ro lớn khi ngàng hoặc lĩnh vực hoạt động mà Ngân hàng phục vụ sa sút. - Ngân hàng đa năng: là Ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ Ngân hàng cho mọi đối tượng. Đây là xu hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các Ngân hàng thương mại. Ngân hàng đa năng thường là Ngân hàng lớn (hoặc sở hữu Công ty). Tính đa dạng sẽ giúp Ngân hàng tăng thu nhập và hạn chế rủi ro. * Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ. - Ngân hàng bán buôn là Ngân hàng chủ yếu cung cấp các dịch vụ cho các Ngân hàng, các Công ty tài chính, cho Nhà nước, cho các doanh nghiệp lớn. Ngân hàng bán buôn thường là Ngân hàng lớn hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế, cung cấp các khoản tín dụng lớn. - Ngân hàng bán lẻ là Ngân hàng chủ yếu cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân, với các khoản tín dụng nhỏ. Với xu hướng phát triển hiện nay, rất ít Ngân hàng chỉ có bán lẻ hoặc bán buôn. Các Ngân hàng nhỏ thường là Ngân hàng bán lẻ. Các Ngân hàng lớn kết hợp cả hai. b. Các loại hình Ngân hàng thương mại chia theo cơ cấu tổ chức. - Đó là Ngân hàng sở hữu Công ty và Ngân hàng không sở hữu Công ty. Ngân hàng sở hữu Công ty là Ngân hàng nắm giữ phần lớn vốn của Công ty, cho phép Ngân hàng được quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của Công ty. - Ngân hàng đơn nhất và Ngân hàng có chi nhánh: Ngân hàng đơn nhất được hiểu là Ngân hàng không có chi nhánh, tức là các dịch vụ Ngân hàng chỉ do một hội sở Ngân hàng cung cấp. Ngân hàng có chi nhánh thường là Ngân hàng có vốn tương đối lớn, cung cấp dịch vụ Ngân hàng thông qua nhiều đơn vị Ngân hàng. Việc thành lập chi nhánh thường bị kiểm soát chặt chẽ bởi Ngân hàng Nhà nước thông qua các quy định về mức vốn sở hữu, về chuyên môn của đội ngũ cán bộ, về sự cần thiết của dịch vụ Ngân hàng trong vùng. 5. Vai trò cơ bản về hệ thống Ngân hàng Việt Nam a. Ngân hàng trong cơ chế kế hoạch hóa. Tổ chức tín dụng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Nha tín dụng, được thành lập 1951. Là tiền thân của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong cơ chế kế hoạch tập trung và trong điều kiện chiến tranh, Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện các kế hoạch tiền tệ tín dụng được giao. Lãi suất, tỷ giá, tỷ lệ cho vay... phải hướng vào phục vụ các doanh nghiệp Nhà nước, các HTX và phục vụ quốc phòng để hoàn thành các kế hoạch 5 năm, phát triển kinh tế miền Bắc đồng thời chi viện cho tiền tuyến. Ngân hàng Nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, kiến thiết đất nước sau năm 1975. Sau năm 1975, nền kinh tế nước ta phải đối đầu với thử thách lớn: viện trợ bị giảm sút, đất nước đã chịu sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh, chuyển đổi sang một cơ chế kinh tế mới khi chiến tranh kết thúc... Ngân hàng Nhà nước phải in tiền để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của các doanh nghiệp, các đơn vị hành chính sự nghiệp. Lượng tiền cung ứng gia tăng trong điều kiện sản lượng không tăng kịp đã đẩy lạm phát lên cao trong những năm 80. Lạm phát gia tăng làm xói mòn tiết kiệm, khuyến khích tích trữ và đầu cơ dẫn đến gia tăng mạnh nhu cầu vay vốn từ Ngân hàng. Lãi suất thực âm, tỷ giá bị bóp méo, tiền lương không đủ trang trải các chi phí tối thiểu... nên Ngân hàng càng phải in nhiều tiền. Ngân hàng đã không bảo đảm được vốn, không tính toán được hiệu quả kinh tế, bị kéo vào vòng xoáy của siêu lạm phát. b. Hệ thống Ngân hàng trong chuyển đổi cơ chế kinh tế. Mô hình tổ chức đã được thay đổi căn bản tách chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, tín dụng đối với chức năng kinh doanh tiền tệ, đa dạng các loại hình Ngân hàng, từng bước xóa bỏ độc quyền, chuyển sang cạnh tranh có sự quản lý của Nhà nước. Tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng (pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước, pháp lệnh Ngân hàng HTX tín dụng và Công ty tài chính) ra đời là bước ngoặt quan trọng trong hoạt động của toàn hệ thống Ngân hàng là hệ thống Ngân hàng hai cấp bao gồm Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại, HTX tín dụng, Công ty tài chính... pháp lệnh đã khẳng định tính đa hình thức sở hữu, đa loại hình, đa thành phần và kinh doanh đa năng của hệ thống Ngân hàng thương mại. Pháp lệnh đã mở đường cho quá trình phát triển các loại hình Ngân hàng tại Việt Nam, bao gồm Ngân hàng quốc doanh Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Hiện nay, Quốc hội đã thông qua Luật về Ngân hàng Nhà nước và Luật về các tổ chức tín dụng. Luật các tổ chức tín dụng đã tạo môi trường pháp lý mới cho sự phát triển của các Ngân hàng. II. Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại. 1. Nghiệp vụ huy động vốn. Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên quan trọng nhất của một Ngân hàng thương mại. Vốn được Ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác nhau và sử dụng (sau khi đảm bảo một tỷ lệ dự trữ bắt buộc) với trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại gồm vốn tự có (vốn chủ sở hữu), vốn vay, vốn khác. Ngân hàng thường sử dụng các nghiệp vụ huy động vốn sau: * Vốn tự có của Ngân hàng: đây là nguồn vốn thuộc sở hữu của riêng các Ngân hàng thương mại. Trong thực tế nguồn vốn này không ngừng tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân Ngân hàng thương mại mang lại, nó đóng góp một phần đáng kể vào hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. * Nghiệp vụ tiền gửi: đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc nhằm mục đích bảo quản tài sản mà từ đó Ngân hàng thương mại có thể huy động được. Ngoài ra các Ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân hay hộ gia đình gửi vào Ngân hàng với mục đích hưởng lãi. * Nghiệp vụ tiền vay: phản ánh quá trình tạo ra nguồn vốn bằng cách vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay Ngân hàng Trung Ương dưới các hình thức tái chiết khấu, vay có bảo đảm... mục đích tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân Ngân hàng thương mại khi họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ. * Nghiệp vụ huy động vốn khác: thông qua nghiệp vụ Ngân hàng thương mại có thể tạo vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay ủy thác vốn cho các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. 2. Nghiệp vụ sử dụng vốn. Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian "đi vay để cho vay". Do vậy mối quan tâm hàng đầu của Ngân hàng sau khi đã huy động được một lượng vốn là làm sao sử dụng nguồn vốn mà không bị rơi vào tình trạng kẹt vốn. Ngân hàng cần phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình. * Một là, Ngân hàng tiến hành cho vay. Cho vay là một hoạt động quan trọng bậc nhất của Ngân hàng thương mại. theo thống kê, khoảng 60 - 70% thu nhập của Ngân hàng là từ các hoạt động cho vay. Thành công hay thất bại của một Ngân hàng tuy thuộc chủ yếu vào thực hiện, kế hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của Ngân hàng. Các loại cho vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả... * Hai là tiến hành đầu tư. Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện hàng loạt những nhu cầu khác nhau. Với tư cách là chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi hỏi Ngân hàng phỉa luôn nắm baét được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ đẻ cung cấp đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, Ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có hai hình thức chủ yếu mà các Ngân hàng thương mại có thể tiến hành là: - Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào các doanh nghiệp, các Công ty khác. - Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. * Ba là nghiệp vụ ngân quỹ. Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu lớn lao ấy là hàng loạt các nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố ấy là tính an toàn. Nghề Ngân hàng là một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình Ngân hàng không thể bỏ qua sự "an toàn". Vì vậy, ngoài việc cho vay và đầu tư để thu được lợi nhuận, Ngân hàng còn phải sử dụng một phần nguồn vốn huy động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán về thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Trung Ương đề ra. 3. Nghiệp vụ khác. Là trung gian tài chính Ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những lợi thế đó là Ngân hàng đóng vai trò trung gian thanh toán cho khách hàng thông qua các hình thức như séc, thẻ thanh toán ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hoặc dựa trên việc hạch toán vào các tài khoản có liên quan đến đối tượng đó. Cụ thể: a. Dịch vụ thanh toán bộ: Trên cơ sở khách hàng gửi tiền và mở tài khoản giao dịch tại Ngân hàng, Ngân hàng có thể đứng ra thanh toán hộ cho khách hàng của mình về các khoản tiền mua bán, dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi hộ khách hàng của mình bằng các hình thức trên. b. Dịch vụ môi giới: mua, bán chứng khoán cho khách hàng và làm đại lý phát hành chứng khoán cho Công ty. c. Các nghiệp vụ trung gian khác: dịch vụ ủy thác, bảo quản hộ các chứng từ có giá cho khách hàng thuê két sắt. Ngoài ra Ngân hàng còn thực hiện một số dịch vụ trung gian khác. Tóm lại, ba nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho Ngân hàng tồn tại và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với nhau. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho Ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Chương 2: hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại I. Khái niệm về vốn của Ngân hàng thương mại. Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Về thực chất, nguồn vốn của Ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu để thực hiện các mục đích khác nhau (lấy lãi, nhờ thanh toán hộ...) mà gửi vào Ngân hàng. Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. II. Phân loại nguồn vốn của Ngân hàng thương mại. Nơi tập trung mọi sức lực và sự sáng tạo, hình thành nên sức mạnh của một ngân hàng đó là nguồn vốn. Nguồn vốn này phản ánh nghiệp vụ của ngân hàng đó là tự có hay khai thác được. Trong tất cả các loại vốn của ngân hàng thì mỗi loạI có một tính chất và vai trò riêng, ngân hàng sẽ phảI xem xét và phân tích để sử dụng vốn đầu vào có hiệu quả, xét về kết cấu và tính chất vốn kinh doanh của ngân hàng thương mạI bao gồm: vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn khai thác. chúng ta sẽ xem xét từng loại: * Vốn tự có(vốn chủ sở hữu) đây là nguồn vốn hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn. Nguồn vốn này có chức năng quan trọng: chức năng bảo vệ chức năng điều chỉnh và chức năng họat động. Với ba chức năng này đã giúp ngân hàng có thể đi vào hoạt độngvà bảo đẩm an toàn cho quá trình họt động. Vốn tự có gồm: *Vốn tự có ban đầu. Vốn đi vay chiếm tỷ trọng nhỏ và là điều kiện pháp lý bắt buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Nó được hình thành từ ca nhân(NHTM Tư Nhân) do ngân sách nhà nước cấp (NHTM Quốc Doanh) do bán cổ phần, cổ phiếu (NHTM Cổ Phần), từ sự đóng góp giứa các bên(NHTM liên Doanh) vốn tự có bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động thì vốn tự có của ngân hàngd được bổ sung thêm do: Nguồn từ lợi nhuận:Nguồn này mang tính chất thường xuyên và chiếm thỷ trọng lớn nhất trong vốn tự có của của ngân hàng thương mại Nguồn được cấp thêm: nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần .. để mở rộng quy mô hoạt động hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu cầu tăng vốn của chủ do Ngân Hàng Nhà nước qui định. Nguồn vốn này cóa đặc điểm là không thường xuyên, song góp phần cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết. Vốn tự có của ngân hàng được hình thành từ nhiều nguồng nhưng điều mang một số đặc điểm chính như sau: Là vốn không hoàn lại: Ngân hàng sử dụng vốn tự có chủ yếu để mua sắm các loại TSCĐ, công nghệ ngân hàng thanh flập các chi nhánh, hùn vốn đầu tư cổ phiếu .. nên nó chỉ giúp ngân hàng mở rộng qui mô, hoạt động kinh doanh của mình mà không hề trực tiếp mang lại lợi nhuận. Là vốn nhỏ, tỷ lệ vốn tự có tổng nguồn vốn thường là 1/12 Nước ta hiện có 6 NHTM quốc doanh là; Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng công thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng phục vụ người nghèo, NHNN và PTNT là 2200 tỷ VNĐ- đây là nguồn vốn do nhà nước cấp ban đầu. Trên địa bàn thủ đô Hà Nội có 6 NHTM cổ phần trong đó ngân hàng kỹ thương, Ngân hàng thương mại cổ phần châu á thái bình dương có vốn điều lệ là 70 tỷ VNĐ NHTMCP quân đội có vốn điều lệ 100 tỷ VNĐ,NHTMCP quốc tế và NHTMCP nhà Hà Nội có vốn điều lệ : theo qui định của NHTW, hành năm ngân hàng phải trích 5% trên lợi nhuận ròng để lập quĩ này. Quỹ này được lập cho đến khi bằng 50% vốn điều lệ thực có tại thời điểm trích lập quỹ về quỹ dự trữ đặc biệt : Hàng năm ngân hàng phải trích tỷ lệ 5% trên lợi nhuận ròng vào quỹ này để bù đắp dự phòng rủi ro. Quỹ này được thành lập cho đến khi bằng 100% vốn điều lệ thực có tại thời điểm trích lập. 2.Vốn huy động: Nếu như vốn tự có để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại thì vốn huy động chính là nhân tố thúc đẩy hoạt động khinh doanh của ngân hàng mở rộng hay thu hẹp quy mô. Trong tổng nguồn vốn của NHTM thì đây là phần vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất, có vai trò quan trọng nhất. Nó được hình thành từ các nguồn sau: *) Từ nguồn tiền gửi: Trong nền kinh tế luôn tồn tại những người thừa vốn và những người thiếu vốn. NHTM biết điều hoà mâu thuẫn này bằng việc sử dụng các công cụ, và các nghiệp vụ của mình huy động các nguồn vốn trong xã hội. Dưới đây là một số hình thức mà NHTM có thể sử dụng để huyđộng vốn từ nguồn tiền gửi: -Thứ nhất, tiền gửi thanh toán (hay tiền gửi không kỳ hạn tiền gửi giao dịch) Đây là khoản tiền đúng như tên gọi của nó là thời gian gửi tiền không xác định, khách hàng (cá nhân, tổ chức) có quyền rút tiền ra bất cứ lúc nào. Mục đích của khách hàng đối với loại tiền này là hưởng mhững tiện ích trong thanh toán khi có nhu cầu chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Vì vậy đây là bộ phận tiền chỉ nhàn rỗi tạm thời không phải khoản để dành. -Thứ hai, tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế hay tổ chức tín dụng. Ngược với khoản tiền gửi không kỳ hạn , đây là khoản tiền gửi với thời gian xác định, Nguyên tắc tiến hànhkhoản tiền gửi này là người gửi chỉ được rút tiền khi đến thời hạn. Theo quy định, ngân hàng có quyền từ chối việc rút tiền trước thời hạn của người gửi tiền. Tuy nhiên, ở một số nước, quy định này đã được nới lỏng: Các ngân hàng cho phép người gửi tiền được rút ra trước thời hạn nhưng phải báo trước cho ngân hàng một khoảng thời gian nhất định, nếu không báo trước người gửi sẽ không được hưởng lãi suất hoặc rất thấp. -Thứ ba, tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Đi đôi với sự phát triển của nền kinh tế là sự gia tăng mức thu nhập của người dân. Khi mức thu nhập vượt quá chi tiêu thì lúc đó sẽ xuất hiện hiện tượng tích trữ tiền. Hình thức tiền gửi tiết kiệm là hình thức thông qua đó người dân không những vừa đảm bảo số tiền của mình không bị mất mát (xét trong điều kiện nền kinh tế không có yếu tố lạm phát)mà còn “sinh sôi nảy nở thêm”.Tiền gửi loại này có rất nhiều các hình thức cổ điển và phổ biến nhất hiện nay là loại tiền gửi tiết kiệm (savings certifficate). Ngoài ra còn có chứng chỉ tiét kiệm. *) Từ nguồn vốn tiền vay: Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHTƯ hoặc giữa các ngân hàng tm với nhau các tổchức tóin dụng khác. trong một số trường hợp khi các nhân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động thì NHTM có thể đi vay. Vay của NHTƯ: NHTƯ là người chovay cuối cùng trong kinh tế, là ngân hàng của các ngân hàng bất kì ngân hàng thương mại nào khi được NHTƯ cho phép thành lập đều được hưởng quyền vay tiềntại NHTƯ trong một sô trường hợp như thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay thiếu tiền đáp ứng nhu cầu thanh toán. tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay của NHTM xin vay được chia thành: vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và để tái cấp vốn. Tuy nhiên do vốn vay NHTƯ là quan hệ trực tiếp giữa NHTM vứi NHTƯ nằm trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Vì vậy không phải lúc nào việc đi vay vôn của NHTƯ cũng diễn ra suôn se. Vay các tổ chức tín dụng: Trong trường hợp đó, MHTM có thể huy động bằng cách vay vốn của các tổ chức tín dụng khác bằng việc mời họ tham gia các hình thức cho vay đồng tài trợ cho các dự án phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh phục vụ đơì sôngs; hoặc hình thức qua trên thị trường tiền tệ. Một nguồn vốn vay khác mà ngân hàng có thể huy động: Là phát hành kỳ phiếu có mục đích, trái phiếu và các giấytờ có giá khác. nếu những hình thức huy động trên mang tính bị động thì hình thức này là hình thức chủ động. Cụ thể: khi ngân hàng phát hành trái phiếu, kỳ phiếu có nghĩa là ngân hàng phát hành một phiếu nhận nợ đối với khách hàng của mình nhằm huy động vốn có mục đích, có kỳ hạn rõ ràng giữa phát hành kỳ phiếu và trái phiếu khác ở chỗ: kỳ phiếu có mục đích thường được sử dụng linh hoạt còn trái phiếu thường được phát hành với qui mô lớn đồng loạt trong cả hệ thống ngân hàng. 3)Vốn khác: Nguồn vốn này có được là nhờ vào lợi thế hoạt động của ngân hàng thương mại. Ví dụ ,trong quá trình làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã tạo được một số nguồn vốn gọi là nguồn vốn trong thanh toán : vốn trong tài khoản mở thư tín dụng ,tài khoản tiền gửi séc bảo chi, séc định mức và các khoản do ngân hàng chấp nhận các hối phiếu thương mại. Các khoản tiền này được gọi là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi vì thực tế nó tạm thời được tính vào t ài khoản này và được nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng hay thông qua nghiệp vụ làm đại lý NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng làm đại lý cho các tổ chức tín dụng khác, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Nguyên nhân, việc phát tiền được thực hiện theo tiến độ công việc nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời khoản tiền đó vào kinh doanh. III.Các hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM trong nền kinh tế thị trường: 1.Căn cứ vào công cụ huy động Đây là hình thức huy động được các NHTM hay sử dụng nhất. Các công cụ huy động gồm: -Huy động tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi có thể phát hành séc) Đây là loại tiền gửi mà chủ nhân có thể rut tiền hoặc trả cho bên thứ bằng cách phát hành séc, ở các nước phát triển loại tiền gửi này phần lớn được rút thông qua điện thoại hay máy rút tiền tự động ATM. Đặc điểm quan trọng đối với người gửi là: chuyển nhượng dễ dàng mục đích giao dịch là chính, thường được mệnh danh là tiền gửi theo yêu cầu, không đem lại lãi suất cụ thể. Đối với ngân hàng chỉ cần bỏ ra một chút chi phí cho việc quản lý tài khoản hoặc trả lãi( nếu có thì cũng rất nhỏ) số dư của loại tiền này phụ thuộc vào từng thời kỳ trong năm và khả năng của ngân hàng trong dự đoán sự biến động Ngân hàng thường bảo quản loại tiền gửi trên hai loại tài khoản: tài khoản thanh toán và tài khoản v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33732.doc
Tài liệu liên quan