Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng - Nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng thương Mại

Lời nói đầu Ngân hàng là một trong những công cụ quan trọng nhất của nền kinh tế. Từ khi ra đời nó đã đóng góp vai trò to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường thì ngân hàng được ví như là trái tim của nền kinh tế, thông qua các nghiệp vụ của mình ngân hàng thu hút tiền nhàn rỗi đồng thời cung cấp vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh. Ngân hàng còn đóng vai trò to lớn trong việc thúc đẩy lưu thông hàng hoá trong nước cũng như tạo điều kiện thuận lợi tron

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1431 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng - Nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng thương Mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g giao dịch quốc tế... Một trong những nghiệp vụ của ngân hàng đó là tín dụng . Tín dụng ra đời từ rất sớm, nó gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá. Thông qua nghiệp vụ tín dụng mà các ngân hàng thương mại có thể thu hút được các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng đồng thời cung cấp đáp ứng nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Cũng qua nghiệp vụ tín dụng, các ngân hàng đã điều tiết được các nguồn tài nguyên, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá và phát triển sản xuất, khi đó cả ngân hàng, người cho vay và người đi vay đều có lợi. Đứng trên góc độ doanh nghiệp, tìm hiểu về các nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại sẽ giúp mang lại cái nhìn trực quan hơn, đặc biệt là đối với những sinh viên chuyên nghành tài chính kế toán sẽ làm việc trong môi trường doanh nghiệp. Chuyên đề này bao gồm 3 phần: - Phần 1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng. - Phần 2. Các nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại. - Phần 3. Thực trạng và giải pháp cho nghiệp vụ tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Trong quá trình thực hiện chuyên đề chúng em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy Nghiêm Sĩ Thương cùng Cô Dương Lan Hương và cô Hoàng Thanh Mai. Chúng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô. Phần 1. những vấn đề cơ bản về tín dụng 1. Khái niệm, bản chất và chức năng của tín dụng 1.1. Khái niệm tín dụng Tín dụng xuất phát từ chữ La tinh Creditium có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng Anh gọi là Credit. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị, dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng sau đó hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn. Qui trình vận động đó được biểu diễn : Người sử dụng Người sở hữu cho vay đi vay Người cho vay Người đi vay Ví dụ: Ngày 1/11/2003 A cho B vay 100 000 USD, thời hạn cho vay 3 tháng, lãi suất 12% năm. Ngày 1/2/2004 B trả cho A : 100 000 + (100 000*1%)*3 = 103 000 USD Trong đó: 100 000 là nợ gốc và 3000 là tiền lãi. Theo quan điểm của Mac, phạm trù tín dụng có 3 nội dung chủ yếu, tính chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả. 1.2. Bản chất và chức năng của tín dụng 1.2.1. Bản chất Tín dụng thể hiện ra bên ngoài là sự chuyển giao quyền sử dụng tài sản giữa người cho vay và người đi vay; nhưng thực chất của nó bên trong chứa đựng mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay. Chính mối quan hệ này quyết định bản chất của tín dụng. 1.2.2. Các chức năng tín dụng Chức năng phân phối lại tài nguyên Trong phần khái niệm đã nói, tín dụng là sự chuyển nhượng vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác. Thông qua sự chuyển nhượng này, tín dụng góp phần phân phối lại tài nguyên thể hiện ở chỗ: _ Người đi vay có một số tài nguyên tạm thời chưa dùng đến thông qua tín dụng, số tài nguyên đó được phân phối lại cho người đi vay. _ Ngược lại người đi vay cũng thông qua hệ thống tín dụng nhận được phần tài nguyên được phân phối lại. Chức năng thúc đẩy lưu thông hàng hoá và phát triển sản xuất Trong phần phân tích sự cần thiết của tín dụng đối với nền kinh tế đã chỉ rõ rằng nhờ tín dụng mà quá trình chu chuyển tuần hoàn vốn trong từng đơn vị nói riêng và trong toàn nền kinh tế nói chung được thực hiện một cách bình thường và liên tục. Do đó tín dụng góp phần thúc đẩy sự phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều này thể hiện ở chỗ: _ Tín dụng tạo ra nguồn vốn hỗ trợ cho quá trình sản xuất kinh doanh được thực hiện bình thường, liên tục và phát triển. _ Tín dụng tạo nguồn vốn để đầu tư mở rộng phạm vi và qui mô sản xuất. _ Tín dụng tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ thanh toán góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hoá bằng việc tạo ra tín tệ và bút tệ. 2.Các hình thức tín dụng Trong nền kinh tế thị trường tín dụng hoạt động rất đa dạng và phong phú. Người ta thường dựa vào các tiêu thức dưới đây để phân loại các hình thức tín dụng. 2.1.Căn cứ vào thời hạn tín dụng. Tín dụng phân loại theo tiêu thức thời hạn có ba loại a)Tín dụng ngắn hạn. Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm thường được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân. b)Tín dụng trung hạn. Là tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm dùng để cho vay vốn mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh. c)Tín dụng dài hạn. Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn. 2.2.Căn cứ và đối tượng tín dụng. Theo tiêu thức này, tín dụng được chia làm hai loại. a)Tín dụng vốn lưu động. Là loại tín dụng được cung cấp để hình thành vốn lưu động của doanh nghiệp. Loại tín dụng này được thực hiện chủ yếu bằng hai hình thức: cho vay bổ sung vốn lưu động tạm thời thiếu hụt, và chiết khấu chứng từ có giá. b)Tín dụng vốn cố định. Là loại tín dụng được cung cấp để hình thành vốn cố định của doanh nghiệp. Loại tín dụng này được thực hiện dưới hình thức cho vay trung và dài hạn. 2.3.Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng. Theo tiêu thức này tín dụng được chia làm hai loại: a)Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá. Là loại tín dụng cung cấp cho các nhà doanh nghiệp để tiến hành sản xuất và kinh doanh. Bao gồm các loại: cho vay bất động sản, cho vay nông nghiệp, cho vay công nghiệp và thương mại, cho vay các định chế tài chính (financial institution loans), cho thuê tài chính. b)Tín dụng tiêu dùng. Là hình thức tín dụng cấp phát cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. 2.4.Căn cứ vào chủ thể tín dụng. Dựa vào chủ thể tham gia tín dụng người ta chia ra các loại sau đây: 2.4.1.Tín dụng thương mại. Là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá hoặc ứng tiền trước khi nhận hàng hoá. Tín dụng thương mại phát sinh là sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ, tính thời vụ của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm khiến các nhà doanh nghiệp phải mua bán chịu hàng hoá. Mua bán chịu hàng hoá cũng là một hình thức tín dụng vì nó chứa đầy đủ 3 nội dung cơ bản trong khái niệm tín dụng. Cơ sở pháp lý xác định quan hệ tín dụng, trong tín dụng thương mại là giấy nợ được nhập dưới 2 hình thức : lệnh phiếu và hối phiếu (Promisory note and Bill of Exchange). -Vai trò tích cực của tín dụng thương mại thể hiện ở chỗ: +Đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho các nhà doanh nghiệp. +Giúp tiêu thụ hàng hoá nhanh chóng và kịp thời. Mặc dù vậy, tín dụng thương mại vẫn không thể thay thế được các hình thức tín dụng khác vì các mặt hạn chế sau đây: +Hạn chế về quy mô. +Hạn chế về thời hạn. +Hạn chế về phương hướng. 2.4.2.Tín dụng ngân hàng. Là hình thức tín dụng thể hiện quan hệ giữa các TCTD với các doanh nghiệp và cá nhân. Trong mối quan hệ này, tín dụng đóng vai trò trung gian cho nên ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ, gồm tiền mặt và bút tệ, trong đó bút tệ là chủ yếu. Tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có quan hệ chặt chẽ, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. 2.4.3.Tín dụng nhà nước. Là hình thức tín dụng thể hiên mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân và các tổ chức khác, theo đó nhà nước chủ động vay tiền để tăng nguồn thu ngân sách. -Tín dụng nhà nước thực hiện bằng cách phát hành công trái. -Tín dụng nhà nước nhàm bù đắp thiếu hụt ngân sách. 2.4.4.Tín dụng quốc tế. Là hình thức tín dụng thể hiện quan hệ giữa nước ta với các quốc gia hay các tổ chức tiền tệ tín dụng quốc tế. 3. Lợi tức tín dụng. 3.1.Khái niệm. -Lợi tức tín dụng là thu nhập mà người cho vay nhận được ở người đi vay cho việc sử dụng tiền vay của người này. -Thực chất lợi tức tín dụng chính là giá cả hàng hoá cho vay. -Khối lượng lợi tức nhiều hay ít phụ thuộc vào doanh số cho vay và lãi suất. -Lãi suất là tỷ lệ phần trăm giữa lợi tức và doanh số cho vay. -Trong nền kinh tế thị trường, thông thường ngân hàng trung ương ấn định khung lãi suất chung. Trong phạm vi khung lãi suất ấn định, các TCTD tự xác định lãi suất riêng theo quan hệ cung cầu trên thị trường. -Lãi suất là đòn bẩy và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô được ngân hàng trung ương sử dụng để thực hiện các chính sách tiền tệ tín dụng và các chính sách kinh tế tài chính khác. -Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất đóng vai trò rất quan trọng đối với thi trường tài chính cũng như vai trò của giá cả đối với thị trường hàng hoá. Chính vì vậy người ta giành không ít thời gian và công sức để nghiên cứu về lãi suất. 3.2.Khía cạnh cơ bản của lãi suất. 3.2.1.Khung lãi suất. Là giới hạn tối đa của lãi suất cho vay và tối thiểu của lãi suất tiền gửi mà ngân hàng nhà nước quy định để khống chế và quản lý chung về mặt lãi suất đối với các tổ chức tín dụng. Khung lãi suất được ngân hàng nhà nước công bố và thay đổi tuỳ thuộc vào giá cả đông tiền và sức mua của đồng tiền, cung cầu tài chính tín dụng và chính sách của nhà nước. 3.2.2.Tác dụng của lãi suất. Lãi suất là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có tác dụng rất lớn đến sản xuất kinh doanh. Chế độ lãi suất thích hợp sẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, ngược lại nó sẽ làm ngưng trệ và đình đốn hoạt động sản xuất kinh doanh. Lãi suất luôn luôn có tác dụng hai mặt : - Lãi suất thấp có tác dụng : +Khuyến khích vay vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, từ đó tận dụng các nguồn tài nguyên, nhất là lao động. +Không khuyến khích tiết kiệm, người ta thích dùng tiền để đầu tư hay tiêu dùng hơn là để tiết kiệm, từ đó hạn chế nguồn gửi tín dụng. Tỷ lệ tiết kiệm bình quân của Việt Nam là 5% trong khi ở Singapore là 40%. -Lãi suất cao có tác dụng: +Khuyến khích tiết kiệm, người ta có xu hướng gửi tiền vào ngân hàng hơn là đầu tư vào sản xuất kinh doanh. +Hạn chế dùng vốn tín dụng đầu tư vào sản xuất kinh doanh, từ đó làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn do áp lực lãi suất cao vì tình trạng tài nguyên bị chiếm dụng. - Lãi suất thích hợp có tác dụng vừa mở rộng đầu tư vồn vào sản xuất kinh doanh vừa thu hút được tiết kiệm. Nói chung, lãi suất cao hay thấp đều có các mặt tác dụng tích cực và tiêu cực của nó. Do đó, không nên duy trì tình trạng ấy lâu dài. Trong điều kiện bình thường, lãi suất nên giữ ở mức thích hợp. Muốn có chế độ lãi suất thích hợp cần nghiên cứu toàn diện hơn các yếu tố kinh tế xã hội tài chính có tác dụng đến lãi suất, trong đó đặc biệt chú ý đến tình hình lạm phát và lợi nhuận bình quân của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Nếu gọi: R- là lãi suất danh nghĩa do ngân hàng nhà nước công bố I- là tỷ lệ lạm phát r là lãi suất thực, tức là lãi suất trong điều kiện không có lạm phát. P- là tỷ lệ lợi nhuận bình quân, nếu loại trừ yếu tố tăng giá do sút giảm sức mua của đồng tiền. Ta có R = I + r Và P = I + p . Theo Mác, lợi tức ngân hàng là bộ phận của giá trị thặng dư sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh: Do đó r < p ; I + r < I + p ; R < P (1) Công thức (1) cho phép xác định giới hạn trên của lãi suất. Nếu vượt quá giới hạn này có thể nói lãi suất quá cao. Mặt khác, để ngân hàng có thể tồn tại và hoạt động được thì r > 0 => I + r > I ; Hay r > I (2) Công thức (2) cho phép xác định giới hạn dưới của lãi suất. Vượt quá giới hạn này, nghĩa là R > I thì lãi suất được đánh giálà quá thấp. Tổng hợp hai yếu tố (1) và (2) ta có: I < R < P (3) Công thức (3) xác định khung lãi suất hợp lý của tín dụng. 4. Qui trình cấp tín dụng 4.1. Khái niệm Quá trình cho vay là trình tự các bước mà ngân hàng thực hiện cho vay đối với khách hàng. Quá trình cho vay phản ánh nguyên tắc cho vay, phương pháp cho vay, trình tự giải quyết các công việc, thủ tục hành chính và thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng. 4.2. Nội dung qui trình cấp tín dụng Ra hạn đảo nợ Hồ sơ đề nghị cấp tín dụng -Giấy đề nghị -Hồ sơ pháp lý -Phản ánh trên dự án -Giấy tờ về đảm bảo Khách hàng Cung cấp các tài liệu và thông tin nhân viên giao dịch tiếp xúc, phổ biến, phỏng vấn, hướng dẫn Thu nhập thông tin Phân tích, phỏng vấn, viếng thăm, trao đổi/mua. Thủ tục giấy tờ -Biên bản thẩm định kiểm tra -Báo cáo công việc -Tờ trình về nhu cầu vay... -Giây tờ về đảm bảo Tổ chức thẩm định, nhân viên thẩm định độc lập, tổ thẩm định theo chức năng +Pháp lý +Bảo đảm Giấy báo lý do Từ chối Cập nhật thông tin -Thị trường -Chính sách -Khung pháp lý Quyền phán quyết tín dụng Nhân viên cho vay; Các cấp quản trị; Hội đồng tín dụng; Hội đồng quản trị Chấp thuận Hợp đồng -Đàm phán -Ký kết +Hợp đồng tín dụng +Các hợp đồng phu - Giải ngân Cấp tiền cho khách hàng hoặc thẩm định các chứng từ để quyết định cấptiền hoặc từ chối Vi phạm hợp đồng Giám sát tín dụng Nhân viên kế toán; nhân viên cho vay; thanh tra, kiểm soát viên; các cấp quản trị Tổ chức giám sát Không đầy đủ Không đúng hạn Thu nợ +Gốc +Lãi Thanh toán đầy đủ Biện pháp -Cảnh cáo -Tăng kiểm soát -Ngừng giải ngân -Tái xét/phân loại Thanh lý tín dụng mặc nhiên Thanh lý tín dụng bắt buộc Toà án, cơ quan có thẩm quyền Thiết lập và thực hiện quy trình tín dụng là một bộ phần căn bản của quy trình ngân hàng. Làm tốt công việc này sẽ góp phần đáng kể trong việc hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Mỗi ngân hàng, mỗi loại cho vay có quy trình tín dụng riêng. Tuy nhiên, một quy trình tín dụng hợp lý phải bao gồm các giai đoạn cơ bản sau: - Hồ sơ đề nghị cấp tín dụng là cơ sở đầu tiên để thiết lập quan hệ tín dụng. Tuỳ theo loại khách hàng, loại và kỹ thuật cho vay, qui mô tín dụng mà yêu cầu người đi vay phải cung cấp thông tin về giấy tờ thích hợp. Một bộ hồ sơ tín dụng chuẩn phải có đầy đủ: tài liệu chứng minh năng lực pháp lý, khả năng hấp thụ vốn và hoàn trả, tài liệu liên quan đến bảo đảm hoặc các điều kiện vay vốn và giấy tờ đề nghị vay vốn. - Phân tích tín dụng là khả năng sử dụng vốn và hoàn trả của khách hàng. Mục tiêu của phân tích là tìm kiếm các tình huống có thể dẫn tới rủi ro, từ đó sẽ có biện pháp kiểm soát các rủi ro đó. Nội dung phân tích: phân tích phi tài chính và phân tích tài chính. - Quyết định tín dụng là việc chấp thuận hay từ chối cho vay của ngân hàng, có hai phương pháp tổ chức ra quyết định tín dụng: phương pháp tập quyền và phương pháp phân quyền. Phương pháp tập quyền tức là ra quyết định tín dụng tập trung một số người; phương pháp phân quyền tức là quyền phán quyết được giao cho nhiều người thực hiện, mỗi một nhân viên tín dụng có một mức phán quyết cho vay, nếu vượt quá mức phán quyết của nhân viên, hồ sơ vay tín dụng sẽ được hội đồng tín dụng xem xét lại. -Giải ngân là nghiệp vụ cấp tiền cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng đã được cam kết theo hợp đồng. Giải ngân có thể là việc cấp tiền thuần tuý hoặc là gắn với việc cấp tiền bằng một quyết định cho vay phụ. Phương pháp giải ngân hẳn là thanh toán trực tiếp cho đơn vị bán( đối với thi công, cung cấp), trong một số trường hợp và hiện có thể chuyển vào tài khoản tiền gửi hoặc phát tiền mặt cho người đi vay. _ Giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng Giám sát tín dụng là việc kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay. Phương pháp giám sát: giám sát hoạt động tài khoản, phân tích báo cáo tài chính theo định kỳ, viếng thăm và kiểm soát địa điểm kinh doanh, kiểm tra các đảm bảo.... Thu nợ: khách hàng có trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng đúng hạn và đầy đủ như trong cam kết hợp đồng. Tuỳ theo tính chất mà có nhiều phương pháp thu nợ khác nhau: thu nợ gốc và lãi một lần ở kỳ hạn trả nợ cuối cùng (ngày đáo hạn); thu nợ gốc một lần khi đáo hạn và thu lãi định kỳ; thu nợ gốc và lãi theo nhiều kỳ hạn. Xử lý nợ quá hạn, nợ có vấn đề: nếu không thu được vốn đúng hạn hoặc đầy đủ như cam kết ban đầu, vấn đề này có những nguyên nhân vượt quá phạm vi tác động của ngân hàng và tiềm ẩn những yếu tố bất an cho ngân hàng, vì vậy để đảm bảo hoạt động bình thường với một mức độ rủi ro cho phép, ngân hàng sẽ quy định chặt chẽ qui trình xử lý nợ quá hạn. Các hình thức kỷ luật tín dụng: + Chuyển nợ quá hạn đối với các trường hợp: đến hạn trả nợ khách hàng không chủ động trả, trên tài khoản tiền gửi không có tiền hoặc không đủ tiền để thu nợ; khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích; kiểm tra đảm bảo nợ, bộ phận nợ vay không có vật tư làm đảm bảo thì ngân hàng sẽ yêu cầu bổ sung tài sản đảm bảo hoặc thu hồi nợ phần thiếu đảm bảo. + Thu hồi nợ trước hạn đối với trường hợp: sử dụng vốn sai mục đích hay sử dụng vốn lãng phí gây thất thoát nghiêm trọng; phát hiện người vay vi phạm nguyên tắc đảm bảo tiền vay. + Hạn chế và đình chỉ cho vay đối với các trường hợp: sử dụng vốn sai mục đích, cung cấp thông tin sai sự thật nhưng khách hàng đã khắc phục sửa chữa; khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng đã cam kết nhưng không khắc phục sửa chữa, hoặc khách hàng ngừng sản xuất có thể dẫn đến phá sản, quá trình tổ chức lại sản xuất không xác định được người chịu trách nhiệm trước pháp luật về quan hệ vay vốn và trả nợ ngân hàng. + Khởi kiện trước pháp luật đối với các trường hợp: sử dụng các hình thức kỷ luật nhưng khách hàng vẫn không trả được nợ. 5. Hợp đồng tín dụng 5.1. Khái niệm Sau khi phân tích tín dụng nếu thấy khả năng kinh tế và khả năng thanh toán của khách hàng tốt, đồng thời có đảm bảo tín dụng một cách chắc chắn thì ngân hàng và khách hàng sẽ ký kết một hợp đồng tín dụng. Mục tiêu của hợp đồng tín dụng phải đạt được những thoả thuận giữa hai bên để qua đó tránh được những tranh chấp và hiểu lầm, tạo cho ngân hàng một mức kiểm soát nhất định đối với hoạt động kinh doanh của khách hàng, xác định chính xác yêu cầu của ngân hàng đối với khách hàng và ngân hàng đảm bảo với khách hàng rằng: nếu khách hàng thoả mãn và tuân thủ các điều kiện và điều khoản của khoản vay thì khách hàng sẽ nhận được khoản tín dụng đã ghi trong hợp đồng. Như vậy, hợp đồng tín dụng là một văn bản thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng, trong đó đặt ra các nghĩa vụ và quyền hạn của mỗi bên, đua ra các đảm bảo nhất định và thường quy định sự kiểm soát của ngân hàng và những hạn chế nhất định đối với khách hàng. Thông qua hợp đồng sẽ ràng buộc được trách nhiệm của các bên tham gia ký kết hợp đồng. 5.2. Nội dung của hợp đồng tín dụng Nội dung của hợp đồng tín dụng chứa những điều khoản, tiêu chuẩn cụ thể để đáp ứng cho từng trường hợp. Nhưng cụ thể một hợp đồng tín dụng phải nêu được những nội dung chính sau đây: _ Tên, địa chỉ ngân hàng cho vay. _ Tên, chức vụ người đại diện cho ngân hàng cho vay. _ Tên, địa chỉ khách hàng vay vốn. _ Tài khoản tiền gửi của khách hàng ( nếu có ) _ Tên, chức vụ người đại diện bên vay. _ Số tiền cho vay, phương thức cho vay. _ Mục đích sử dụng tiền vay. _ Thời hạn cho vay. _ Lãi suất tiền vay. _ Hình thức đảm bảo tiền vay. _ Khách hàng, điều kiện phát tiền vay. _ Phương thức trả nợ. _ Quyền và nghĩa vụ của ngân hàng cho vay. _ Quyền và nghĩa vụ của khách hàng vay. _ Thoả thuận khác. _ Hiệu lực của hợp đồng. _ Giải quyết tranh chấp. Câu hỏi và bài tập: Tín dụng là gì? Giải thích nội dung hoàn trả trong quan hệ tín dụng ? Trình bày các căn cứ để phân loại cho vay? Lãi xuất cơ bản là gì ? Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam có nên áp dụng lãi suất cơ bản làm cơ sở để xác định lãi suất cho vay không ? Trình bày những yếu tố ảnh hưởng đến lãi xuất cho vay ? Phần 2 : Các nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại. 1. Nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn. 1.1.Một số vấn đề cơ bản 1.1.1.Tín dụng ngắn hạn Là loại tín dụng mà các tổ chức tín dụng cung cấp cho các tổ chức kinh tế với thời hạn tối đa không quá 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với tài trợ chi tiêu thông thường Để giải quyết những khó khăn tài chính tạm thời thường gặp vào cuối tháng trước khi lĩnh lương….. khách hàng kí hợp đồng với ngân hàng để họ chấp nhận xử lý lệnh thanh toán của khách tới mức có quy định trước với ngân hàng dù khách không có đủ tiền trong tài khỏan. Giới hạn dư nợ được ngân hàng chấp nhận tuỳ theo mức thu nhập của khách, mức lãi suất rất cao so với các loại tín dụng khác nhưng lãi chỉ tính vào số ngày có hụt trong tài khoản. Đối với Doanh nghiệp tín dụng ngắn hạn dùng để tài trợ chu kì sản xuất của doanh nghiệp. Nhu cầu tài trợ ngắn hạn xuất phát từ độ lệch của lưu chuyển tiền tệ của các doanh nghiệp, tức là lưu chuyển tiền vào và tiền ra thường không ăn khớp về mặt thời gian và quy mô đây là một hiện tượng tất yếu do chu kì hoạt động và ngân quỹ của doanh nghiệp quyết định. - Chu kì hoạt động (Operating cycle) là khoản thời gian từ khi mua nguyên liệu đưa vào tồn kho cho đến khi thu được tiền từ bán hàng tồn kho. - Chu kì ngân quỹ ( Cash cycle) = chu kì hoạt động - Giai đoạn phải trả người bán Xuất phát từ chu kì hoạt động và chu kì ngân quỹ của doanh nghiệp đã xuất hiện sự không ăn khớp giữa lưu chuyển tiền tệ vào và lưu chuyển tiền tệ ra, đòi hỏi phải có nguồn tài trợ về ngân quỹ để đáp ứng mức chênh lệch đó. Ngoài ra tín dụng ngắn hạn còn dùng để đáp ứng nhu cầu vốn thời vụ của các doanh nghiệp. 1.1.2.Nguyên tắc cho vay Tín dụng ngắn hạn được thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản sau đây: 1.1.2.1.Vốn vay luôn luôn được giá trị vật tư hàng hoá làm đảm bảo Nguyên tắc này xuất phát từ yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ nhằm làm cho sự vận động của tiền tệ gắn liền với sự vận động của vật tư hàng hoá đảm bảo giữ vững sức mua của đồng tiền. Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi ngay từ khi nhận tiền vay và trong suốt quá trình sử dụng vốn vay đơn vị phải có một số lượng vật tư hàng hoá tương đương làm đảm bảo cho khoản vay đó. Các ngân hàng và các định chế tài chính khác coi bảo đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Các đặc trưng của bảo đảm tín dụng *Giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được đảm bảo Bảo đảm tín dụng không chỉ là nguồn thu nợ của ngân hàng mà còn có ý nghĩa thúc giục người đi vay phải trả nợ, Nếu không họ sẽ mất tài sản. Nhưng nếu giá trị của tải sản nhỏ hơn nghĩa vụ được đảm bảo thì người đi vay dễ có động cơ không trả nợ. Nghĩa vụ được bảo đảm vốn, gốc, lãi và các chi phí khác trừ trường hợp các bên có thoả thuận lãi và các loại phí không thuộc phạm vi bảo đảm được thực hiện nghĩa vụ. *Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ Mức độ thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của người cho vay. Mức độ thanh khoản thấp hay nói cách khác là tài sản khó bán thường khó được ngân hàng chấp nhận. Mức độ thanh khoản trung bình có thể chấp nhận được nhưng phải tính đến chi phí do kéo dài thời gian xử lý. *Có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu tiên về xử lý tài sản Đặc trưng này phải thể hiện được các mặt sau: Tài sản phải thuộc sở hữu hợp pháp của người đi vay hoặc người bảo lãnh và được pháp luật cho phép giao dịch, đồng thời phải có đủ các cơ sở pháp lý để ngân hàng được quyền ưu tiên xử lý tài sản nhằm thu nợ khi người đi vay không thanh toán đúng hạn. Các hình thức bảo đảm tín dụng a) Thế chấp tài sản Thế chấp tài sản là việc bên đi vay dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình hoặc quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên vay b) Cầm cố tài sản Cầm cố tài sản là việc bên đi vay giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ; nếu tài sản cầm cố có đăng kí quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho bên thứ ba giữ. c) Bảo lãnh Bảo lãnh là việc bên thứ ba cam kết với bên cho vay ( người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi vay ( người được bảo lãnh), nếu đến thời hạn mà người người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ. 1.1.2.2.Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích đã cam kết khi vay Nguyên tắc này nhằm làm đảm bảo tính hiệu quả của vốn vay tạo điều kiện thực hiện việc hoàn trả nợ vay của đơn vị. Mục đích cho vay như đã nêu là nhằm bổ xung vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nó được xác định trước khi cho vay và được kiểm soát trong suốt quá trình sử dụng vốn vay. Đợn vị vay vốn có trách nhiệm sử dụng vốn vay đúng mục đích đã cam kết. Nếu ngân hàng phát hiện đơn vị sử dụng vốn vay sai mục đích có thể thu hồi vốn trước thời hạn. 1.1.2.3.Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả tiền gốc và tiền lãi theo đúng thời hạn ấn định. Đây là nguyên tắc không thể thiếu của tín dụng. Nó được đặt ra trên cơ sở sau đây: *Xuất phát từ đặc điểm nhàn rỗi của nguồn vốn tín dụng và tổ chức tín dụng chỉ là trung gian huy động và sử dụng nguồn vốn đó để cho vay. Cho nên sau khi sử dụng một thời gian nhất định đơn vị phải hoàn trả lại tổ chức tín dụng để tổ chức tín dụng hoàn trả lại người sở hữu nó *Trong nền kinh tế thị trường, tổ chức tín dụng tồn tại và hoạt động trên cơ sở kinh doanh cho nên kèm theo việc hoàn trả vốn vay đơn vị phải hoàn trả một khoản tiền lãi nhất định. Thực hiện nguyên tắc này dòi hỏi trước tiên là đơn vị sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả nợ vay đúng hạn. Tuy nhiên, trên thực tế do tác động của nhiều nguyên nhân khiến đơn vị có khi không trả được nợ vay. Để đảm bảo nguyên tắc này, tổ chức tín dụng buộc đơn vị phải thế chấp tài sản và thực hiện phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ trong trường hợp đơn vị không trả được nợ. 1.1.3.Điều kiện vay. 1.1.3.1.Đối với mọi tổ chức kinh tế Theo điều 7 quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (ban hành theo quyết định số 1627/2001/QĐ - NHNN ngày 31/12/2001 của thống đốc ngân hàng nhà nước) thì tổ chức tín dụng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau: * Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy đinh của pháp luật: Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân việt Nam: + Pháp nhân phải có pháp luật dân sự; + Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; + Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; + Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; + Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; - Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nước ngoài phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước ngoài đó được bộ luật dân sự của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Các văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia quy định * Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp * Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. * Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; Hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật * Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của chính phủ và hướng dẫn của ngân hàng nhà nước Việt Nam. Nói chung, Điều kiện cho vay Đối với mọi tổ chức kinh tế cần phải có các điều kiện sau: - Phải là tổ chức có tư cách pháp nhân và hoạt động theo đúng pháp luật hiện hành của Việt Nam. - Sản xuất kinh doanh có lãi hoặc được cấp bù lỗ theo chính sách, không có nợ quá hạn. - Có đủ vốn tự có theo quy định. - Tổ chức hạch toán và quản lý tài chính theo đúng pháp lệnh kế toán và thống kê. Cung cấp cho tổ chức tín dụng các tài liệu cần thiết về sản xuất kinh doanh và tài chính. - Chấp nhận và thực thi mọi quy định trong thể lệ tín dụng của ngân hàng nhà nước và tổ chức tín dụng đang cho vay. Ngoài ra, đối với tổ chức kinh tế tư doanh, ngoài những quy định trên, phải nộp cho tổ chức tín dụng bản sao giấy phép kinh doanh, có trụ sở thường trú cùng địa bàn của tổ chức tín dụng. 1.1.4.Một số quy định khác. 1.1.4.1. Đối tượng cho vay bao gồm giá trị vật tư hàng hoá và các chi phí cấu thành giá mua hoặc giá thành sản phẩm. 1.1.4.2. Giá cho vay căn cứ vào hợp đồng kinh tế hay trên chứng từ mua vật tư, hàng hoá và chi phí mà đơn vị vay vốn đã chấp nhận. Theo điều 12, điều 18 và điều 20 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng: Tổ chức tín dụng căn cứ vào nhu cầu vay vốn và khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, khả năng nguồn vốn của mình để quyết định mức cho vay. Giới hạn tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của chính phủ, Của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn tư nhiều nguồn thì cac tổ chức tín dụng cho vay hợp vốn theo quy định của ngân hàng nhà nước Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt, tổ chức tín dụng chỉ cho vay vượt quá mức giới hạn cho vay khi được thủ tướng chính phủ cho phép đối với từng trường hợp cụ thể. Tổng dư nợ cho vay đối với các đối tượng sau: tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm toán tại tổ chức tín dụng cho vay; thanh tra viên thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại tổ chức tín dụng cho vay; các cổ đông lớn của tổ chức tín dụng không được vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng. 1.1.4.3. Lãi suất cho vay thực hiện theo mức do tổ chức tín dụng ấn định trong phạm vị khung lãi xuất của ngân hàng nhà nước. -Mức lãi cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của ngân hàng nhà nước Việt Nam. - Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do tổ chức tín dụng ấn định và thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được kí kết hoặc hiệu chỉnh trong hợp đồng tín dụng 1.2.Các phương thức cho vay ngắn hạn. 1.2.1. Chiết khấu chứng từ có giá. 1.2.1.1. Khái niệm Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với nhau, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Thương phiếu là công cụ của tín dụng thương mại, là một giấy nợ phát sinh tron._.g quan hệ thương mại, dùng để xác nhận cho người cầm nó (người thụ hưởng) một trái quyền ngắn hạn về tiền đối với người thụ lệnh khi giấy tờ đến hạn. Có 2 loại thương phiếu chính: Hối phiếu là một văn tự thương mại do người lập ra (người phát lệnh) để lệnh cho một người khác (người thụ lệnh) phải trả một số tiền nhất định khi hối phiếu đến hạn thanh toán cho người thụ hưởng. Lệnh phiếu là một văn tự thương mại, theo đó người phát hành cam kết trả một số tiền nhất định cho người thụ hưởng khi đến hạn thanh toán hoặc theo lệnh của người này cho một người khác. Chiết khấu chứng từ có giá (thương phiếu) là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để đổi một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ lãi chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có). Tỷ lệ phần trăm giữa phần lợi tức ngân hàng được hưởng so với số tiền ghi trên chứng từ có giá gọi là lợi suất chiết khấu. Chứng từ có giá nhận chiết khấu bao gồm các loại thương phiếu có kỳ hạn như lệnh phiếu, hối phiếu, trái phiếu ngắn hạn... do các đơn vị được phép phát hành hợp pháp, còn thời hạn thanh toán và được bảo toàn mệnh giá. Ví dụ. Ngân hàng chiết khấu 1 hối phiếu có các yếu tố sau: Mệnh giá hối phiếu 950.000.000 đồng Thời hạn còn lại của hối phiếu 30 ngày Lãi suất chiết khấu 9,6%/năm Các loại phí khác 50.000 đồng Số tiền cho vay = 950.000.000 - (950.000.000 * 0,008 + 50.000) = 942.350.000 đồng. Ngân hàng Người đi vay Người thanh toán nợ Cho vay 942.350.000 Nhận thương phiếu 950.000.000 Thu nợ Hình thành thương phiếu Qui trình cho vay và thu nợ trong kỹ thuật chiết khấu 1.2.1.2. Kỹ thuật chiết khấu Khi khách hàng có nhu cầu chiết khấu, khách hàng phải nộp cho ngân hàng các loại giấy tờ sau: _ Đơn xin chiết khấu _ Bảng kê có kèm theo các bản gốc của chứng từ xin chiết khấu. Sau khi nhận được các hồ sơ đó, ngân hàng tiến hành thẩm định các mặt sau: _ Tính hợp pháp, hợp lệ của thương phiếu. _ Xem xét mối quan hệ thương mại của các chủ thể có liên quan đến thương phiếu. _ Nghiên cứu khả năng trả nợ của các chủ nợ có liên quan, đặc biệt là người thụ lệnh (người phải thanh toán thương phiếu) và người thụ hưởng (người xin chiết khấu). Ngân hàng chỉ chấp nhận chiết khấu những thương phiếu có đủ điều kiện sau: _ Còn thời hạn thanh toán. _ Phải hợp lệ về mặt hình thức và nội dung. _ Đối với hối phiếu phải có chữ ký “chấp nhận” của người thụ hưởng. _ Khách hàng phải chuyển nhượng quyền sở hữu cho ngân hàng dưới hình thức ký hậu. Sau khi thẩm định, ngân hàng loại trừ các thương phiếu không đủ điều kiện chiết khấu hay còn nghi ngờ khả năng thanh toán, rồi tính ra số tiền ngân hàng trả cho khách hàng theo các thương phiếu đã nhận chiết khấu. Các yếu tố xác định số tiền cấp cho khách hàng : Mệnh giá : M Lãi chiết khấu : R Hiện giá (1 - 2) : P Hoa hồng phí : H Giá trị ròng (3 - 4) : G là số tiền cấp cho khách hàng chiết khấu + Lãi chiết khấu là số tiền lãi trong nghiệp vụ chiết khấu mà ngân hàng được hưởng. Phương pháp tính lãi chiết khấu như sau: Trong đó: R : Lãi chiết khấu M : Mệnh giá thương phiếu r : Lãi chiết khấu t : Thời gian chiết khấu Thời gian chiết khấu tức là thời gian tính lãi chiết khấu, là số ngày đề nghị chiết khấu và ngày thương phiếu đáo hạn (không tính ngày đề nghị chiết khấu và ngày đáo hạn) cộng với số ngày làm việc của ngân hàng. Nếu ngày đáo hạn là ngày nghỉ thì được dời đến ngày làm việc tiếp theo. + Hiện giá là số tiền còn lại của mệnh giá sau khi trừ lãi chiết khấu: P = M - R Hiện giá được tính theo phương pháp chiết khấu lãi, do vậy lãi suất chiết khấu là lãi suất danh nghĩa, không phải là lãi suất hiệu dụng. Trong quản trị lãi suất ngân hàng phải xác định lãi suất hiệu dụng và trên cơ sở đó qui đổi về lãi suất chiết khấu. + Giá trị ròng là số tiền cấp cho khách hàng đi vay: G = M - (R - H) Một số phí hoa hồng được tính để khấu trừ như sau: - Hoa hồng ký hậu: H1 = (M*r1*t)/360 r1 : tỷ lệ hoa hồng năm - Hoa hồng dịch vụ: H2, bao gồm dịch vụ chấp nhận hối phiếu, dịch vụ thông báo. Các loại phí này được tính theo số tiền cố định. Đến thời hạn thanh toán thương phiếu, ngân hàng sẽ thu nợ ở người chịu trách nhiệm thanh toán thương phiếu. Nếu người này không thanh toán, ngân hàng có thể chọn một trong hai cách sau: _ Ngân hàng có thể trích tài khoản tiền gửi thanh toán của người xin chiết khấu để thu hồi, sau đó trả lại thương phiếu cho người này để họ tự đòi nợ. _ Ngân hàng tiến hành thủ tục tố tụng để truy đòi số nợ: theo luật định, ngân hàng có quyền chỉ định một trong số những người tham gia ký chuyển nhượng thương phiếu để trả nợ cho ngân hàng. Trong trường hợp này ngân hàng thường chỉ định người nào có đủ khả năng tài chính nhất. 1.2.1.3. Ưu điểm và rủi ro Ưu điểm _Chiết khấu là nghiệp vụ ít rủi ro, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng là khá chắc chắn. _ Đây là hình thức tín dụng khá đơn giản, ít phiền phức đối với ngân hàng. _ Chiết khấu không làm “đóng băng vốn “ của ngân hàng vì thời hạn của chiết khấu ngắn (dưới 90 ngày) và ngân hàng thương mại có thể khá dễ dàng xin tái chiết khấu ở ngân hàng trung ương. _ Tiền cấp cho khách hàng khi chiết khấu thường được chuyển vào tài khoản tiền gửi của khách hàng, bởi vậy nó lại tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng. Rủi ro Cơ sở phát hành thương phiếu là quan hệ thương mại, nếu như thương phiếu được phát hành không trên một cơ sở quan hệ thương mại của các chủ thể hợp pháp thì đó là tai hoạ cho khả năng trả nợ trong tương lai. Trên thực tế ngân hàng các nước đã phát hiện các loại thương phiếu như sau: - Người thụ lệnh thương phiếu không hợp pháp: về hình thức hối phiếu được phát hành có đầy đủ các điều kiện theo luật, về nội dung, người thụ lệnh ghi trên hối phiếu không có trên thực tế ( chỉ là chủ thể do người ký phát tưởng tượng ra) hoặc hối phiếu được phát hành chỉ do ý muốn của người ký phát (người thụ lệnh không biết hoặc không đồng ý cho việc phát hành hối phiếu đó). - Người ký phát và người thụ lệnh thông đồng trong vịêc phát hành hối phiếu giả tạo. Đây là loại hối phiếu được phát hành trên cơ sở thoả thuận của các chủ thể liên quan. Thực chất là người thụ lệnh cho mượn chữ ký của mình để người ký phát vay ngân hàng, nhưng gữa họ không có một quan hệ thương mại phát sinh. Ví dụ: tập đoàn Tăng Minh Phụng là một dẫn chứng thực tế về các hợp đồng thương mại giả tạo và chắc chắn các dạng như thế có thể xuất hiện trong tương lai với các thương phiếu. Ngoài những rủi ro xuất phát từ hối phiếu giả tạo, kỹ thuật chiết khấu thương phiếu cũng gặp phải rủi ro từ các nguyên nhân khác như khả năng tài chính yếu kém của các chủ thể liên quan đến hối phiếu, lệnh phiếu, các điều kiện về hình thức và nội dung của các thương phiếu không phù hợp các qui định của pháp luật .... cũng cần phải được ngân hàng thẩm định trước khi quyết định cho vay. 1.2.2. Cho vay bổ sung vốn lưu động Sau khi đã sử dụng hết vốn lưu động tự có và vốn lưu động vào sản xuất kinh doanh, tổ chức kinh tế có thể vay vốn tổ chức tín dụng để bổ sung vào vốn lưu động còn thiếu hụt. 1.2.2.1.Lập và xét duyệt kế hoạch vay vốn Tuỳ theo đặc điểm kinh doanh, đặc điểm luân chuyển vốn của từng khách hàng mà ngân hàng có thể cho vay theo kế hoạch hoặc cho vay theo từng phương án, cho vay từng khâu, từng loại vật tư cụ thể. Ngân hàng cho vay theo kế hoạch (năm,quý, mùa, vụ) đối với khách hàng hoạt động mang tính chất tương đối ổn định, có nhu cầu vay vốn thường xuyên, có trách nhiệm với ngân hàng trong quan hệ tín dụng, đồng thời khách hàng xác định được kế hoạch kinh doanh từng thời kỳ. Còn khách hàng không đủ những điều kiện trên thì cho vay theo từng phương án, cho vay từng khâu, từng loại vật tư cụ thể. Sau khi nhận được hồ sơ vay vốn, cán bộ tín dụng tiến hành kiểm soát, thu thập và phân tích thông tin, để đánh giá xác định mức cho vay. Tiếp theo lập tờ trình, thông qua trưởng phòng kinh doanh để trình giám đốc ngân hàng phê duyệt. Trong phạm vi quyền phán quyết của mình, giám đốc ngân hàng có thể quyết định cho vay hay không cho vay. Khi đó ngân hàng thông báo cho khách hàng biết để thực hiện 1.2.2.2. Giải quyết cho vay, thu nợ Cho vay Đối với khách hàng được ngân hàng cho vay theo kế hoạch thì mỗi khi phát sinh nhu cầu vay vốn để mua hàng hoá hay trang trải các nhu cầu tài chính khác thì khách hàng phải làm đơn xin vay và cung cấp những tài liệu có liên quan chứng minh nhu cầu vay nằm trong kế hoạch hoặc phương án vay vốn đã được ngân hàng chấp thuận. Nhận được đơn xin vay, cán bộ tín dụng đối chiếu với kế hoạch và hồ sơ gốc, nếu còn hạn mức cho vay thì thông qua trưởng phòng, trình duyệt giám đốc duyệt cho vay. Trường hợp nhu cầu vay vốn không thuộc kế hoạch cho vay đã được chấp thuận, nhưng nếu xét thấy nhu cầu vay đó là cần thiết và hợp lý thì cán bộ tín dụng có thể lập bổ sung bản báo cáo về nhu cầu vay đó và xử lý theo trình tự như phần lập và xét duyệt kế hoạch vay vốn đã trình bày ở trên. Đối với khách hàng vay vốn lần đầu, những khách hàng mà ngân hàng cho vay theo từng dự án thì mỗi khi phát sinh nhu cầu vay vốn thì phải gửi cho ngân hàng đầy đủ hồ sơ để ngân hàng làm căn cứ xem xét tính toán vay. Những đơn xin vay đã được giám đốc ngân hàng phê duyệt sẽ được chuyển cho cán bộ tín dụng để cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ tín dụng nhận nợ. Sau đó đơn xin vay và hợp đồng tín dụng vay tiền được cán bộ tín dụng chuyển cho bộ phận kế toán để cán bộ kế toán tiến hành phát tiền vay. Tuỳ theo mục đích của việc sử dụng vốn vay, trên cơ sở các yêu cầu hợp lý của khách hàng thì ngân hàng có thể cho vay chuyển khoản để trả thẳng cho người thụ hưởng, cho vay để chuyển vào tài khoản thư tín dụng, séc bảo chi, cho vay bằng tiền mặt hoặc ngân phiếu thanh toán. Ngân hàng không cho vay đảo nợ (cho vay để thu nợ cũ), cho vay để thu lãi, cho vay để khách hàng kinh doanh sai chức năng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của họ. Thu nợ - Định kỳ hạn cho vay và kỳ hạn nợ Định kỳ hạn cho vay của mỗi món vay được xác định trên cơ sở thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Sự thoả thuận được căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của mỗi khách hàng, chu kỳ luân chuyển vốn của món vay và tổ chức nguồn vốn của ngân hàng. Sau đó thoả thuận thời hạn cho vay được ghi vào hợp đồng tín dụng vay trên. Thường được ngân hàng phát kỳ hạn nợ và quyết định sự trả nợ. Tuy nhiên, đối với các món vay của khách hàng có thu nhập không thường xuyên hoặc các món vay mà thời hạn vay ngắn (dưới một tháng) thì có thể không phân kỳ hạn nợ mà trên hợp đồng tín dụng chỉ ghi thời hạn trả nợ cuối cùng. - Tổ chức thu nợ Về nguyên tắc, khách hàng thu nợ theo từng kỳ hạn, khách hàng có thể trả nợ trước thời hạn quy định. Kết thúc thời hạn cho vay khách hàng phải có trách nhiệm trải hết nợ vay của từng kỳ hạn hay thời hạn nợ, ngân hàng lập và gửi thông báo về khoản nợ đến hạn cho khách hàng để họ biết và chuẩn bị tiền trả nợ. Khách hàng có thể chủ động trả nợ bằng cách nộp tiền mặt vào ngân hàng hoặc lập uỷ nhiệm chi đề nghị ngân hàng trích tài khoản tiền gửi thanh toán của họ để thu nợ đến ngày trả nợ, nếu khách hàng không chủ động tổ chức tín dụng tự động trích tài khoản tiền gửi của đơn vị vay vốn để thu nợ. Nếu tài khoản này nhỏ hơn nợ, tổ chức tín dụng sẽ chuyển ngay phần nợ còn thiếu vào tài khoản nợ quá hạn. Nếu đơn vị vay vốn không còn khả năng tài chính thì tổ chức tín dụng được quyền phong toả và phát mãi tài sản thế chấp. Trong trường hợp đặc biệt vì lý do khách quan muốn gia hạn nợ thì phải làm đơn xin gia hạn nợ trước khi món vay đến hạn. Trong đơn phải giải trình rõ nguyên nhân gây nên sự chậm trả, đồng thời nêu lên những biện pháp khắc phục hữu hiệu trong một thời gian cụ thể. Nhận được đơn này cán bộ tín dụng dưới sự chỉ bảo của trưởng phòng tín dụng phải thu thập thông tin, phân tích nguyên nhân, đánh giá khả năng trả nợ trong tương lai để lập tờ trình, trình giám đốc ngân hàng quyết định. Thời hạn cho gia hạn nợ tối đa bằng thời gian khắc phục nguyên nhân gây nên chậm trả và chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay, song phải trong phạm vi thời gian được phép gia hạn do các ngân hàng thương mại quy định và được ghi rõ trong các văn bản thể lệ tín dụng được ban hành trong từng thời kỳ. Ngoài ra, nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn còn có một số hình thức sau đây: + Nghiệp vụ tín dụng ngân quỹ là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn mà trong đó ngân hàng cho khách hàng vay để đảm bảo sự cân đối ngân quỹ hàng ngày của khách hàng. +Tín dụng bằng chữ ký là hình thức ngân hàng đứng ra cam kết với các chủ nợ trong khuôn khổ một hợp đồng bảo lãnh là sẽ thi hành nghĩa vụ tín dụng mà một người khác là người mắc nợ chính không thực hiện được hợp đồng tín dụng. +Tín dụng có đảm bảo là hình thức cấp tín dụng có tài sản đảm bảo trực tiếp hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. +Phương pháp cho vay theo hạn mức tín dụng là phương thức cho vay mà vịêc cho vay và thu nợ căn cứ vào quá trình nhập, xuất vật tư, hàng hoá. Ngân hàng cho vay khi có nhiều nhu cầu vốn phát sinh để nhập vật tư, hàng hoá và ngân hàng thu nợ khi doanh nghiệp có thu nhập từ việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Dư nợ Thời gian Dư nợ Thời gian Hình a. Hình b. Hạn mức được duyệt. Dư nợ trong kỳ. Hình a.Hạn mức được duyệt trong kỳ. Hình b. Hạn mức được duyệt cuối kỳ. Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay, trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng (a). Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mức cuối kỳ. Dư nợ cuối kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên, đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không vượt quá hạn mức (b). 1.3. Thế chấp tài sản và bảo lãnh vốn vay Theo nghị định số 178/1999/NĐ - CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng bảo đảm tín dụng được hiểu là việc bảo vệ quyền lợi của người đi vay dựa trên cơ sở thế chấp cầm cố tài sản thuộc quyền sở hữu của người đi vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. 1.3.1. Khái niệm Đảm bảo tín dụng là đảm bảo cho khoản tiền gửi ngân hàng phát ra cho vay có khả năng thu hồi được nợ khi đến hạn. Mục đích là ngăn ngừa hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. 1.3.2. Các hình thức đảm bảo tín dụng 1.3.2.1. Đảm bảo đối vật. Đảm bảo đối vật là hình thức đảm bảo tín dụng mà trong đó ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ được thừa hưởng một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng là con nợ, nhằm làm căn cứ thu hồi nợ trong trường hợp con nợ không trả hoặc không có khả năng trả nợ. Ví dụ. Năm 2003 ngân hàng cho doanh nghiệp A vay 700 triệu đồng, giá thị trường của tài sản bảo đảm là 1000 triệu đồng. Năm 2004 đánh giá lại tài sản đảm bảo giá trị của nó chỉ còn 800 triệu đồng. Có 2 cách xử lý: _Yêu cầu doanh nghiệp A bổ sung thêm giá trị đảm bảo là 200 triệu đồng 700- (700*800)/ 1000= 140 triệu đồng _Hoặc thu nợ Các hình thức đảm bảo đối vật: a)Thế chấp tài sản để vay vốn Thế chấp tài sản là việc bên đi vay dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên vay. Tài sản thế chấp bao gồm: vàng, bạc, kim khí, đá quý; các chứng từ tiền gửi, số tiền gửi tiết kiệm, do các ngân hàng phát hành và các bất động sản, quyền sử dụng đất hợp pháp........ Bất động sản là tài sản không di dời được : nhà ở, các cơ sở sản xuất kinh doanh như nhà máy, khách sạn,........ Tất cả các bất động sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp và cá nhân đều được thế chấp để vay vốn. Giá trị quyền sử dụng đất, Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý và giao hoặc cho thuê đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ chức kinh tế.... Các chủ thể này ( cá nhân, hộ gia đình, tổ chức kinh tế) được phép thế chấp giá trị quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Tài sản thế chấp phải là sở hữu hợp pháp của bên vay. Khi thế chấp phải giao nộp hiện vật hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu với đầy đủ thủ tục công chứng của cơ quan có thẩm quyền. Tài sản thế chấp phải được bên vay và tổ chức tín dụng cùng đánh giá tài sản thế chấp có sự chứng kiến của cơ quan công chứng hoặc tài chính giá cả. Tổ chức tín dụng phải thường xuyên kiểm tra giám sát tài sản thế chấp cho đến khi thu đủ nợ vay. Có 2 chủ thể tham gia: Người vay vốn_ người thế chấp Người cho vay ( ngân hàng)_người nhận thế chấp Có thể phân biệt các hình thức thế chấp như sau: - Thế chấp pháp lý và thế chấp công bằng. Thế chấp pháp lý là hình thức thế chấp mà trong đó người thế chấp thoả thuận chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng khi không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Như vậy, khi người đi vay không thanh toán được nợ thì ngân hàng được quyền bán tài sản hoặc cho thuê với tư cách là người chủ sở hữu mà không cầm các thủ tục tố tụng để nhờ sự can thiệp của toà án. Ngược lại thế chấp công bằng ngân hàng chỉ nắm quyền sở hữu tài sản để đảm bảo cho món nợ vay như vậy, khi người đi vay không thanh toán đủ nợ thì ngân hàng cần sự can thiệp của toà án khi có tranh chấp. - Thế chấp thứ nhất và thế chấp thứ hai. Việc sử dụng một tài sản để đảm bảo nợ cho nhiều khoản vay và thế chấp cho khoản vay đầu tiên đang tồn tại gọi là thế chấp thứ nhất. Thế chấp thứ hai là hình thức thế chấp trong đó người vay dùng phần chênh lệch giữa gía trị tài sản thế chấp và khoản nợ thứ nhất được bảo đảm bằng tài sản đó để ảo đảm cho khoản nợ thứ hai. - Thế chấp trực tiếp và thế chấp gián tiếp. Thế chấp trực tiếp là thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay, thế chấp gián tiếp là hình thức thế chấp mà trong đó hình thức thế chấp mà trong đó tài sản thế chấp và tài sản hình thành từ vốn vay là khác nhau. Theo nghị định 178 thì thế chấp gián tiếp chỉ áp dụng trong cho vay trung và dài hạn. - Thế chấp toàn bộ và thế chấp một phần bất động sản Xử lý tài sản thế chấp: + Khi bên vay trả nợ đầy đủ gốc và lãi, tổ chức tín dụng sẽ giao lại toàn bộ tài sản và chứng từ thế chấp. Nếu tài sản không nguyên vẹn như khi đưa thế chấp, tổ chức tín dụng phải bồi hoàn. + Khi đến hạn mà khách hàng vay không trả được nợ thì tài sản bảo đảm được xử lý để thu hồi nợ, tổ chức tín dụng lập thủ tục đề nghị cơ quan có trách nhiệm xử lý và phát mãi tài sản thế chấp. Tiền thu được trước nhất để trả nợ cũ ( cả gốc và lãi), tiếp đó trả các chi phí bảo quản và phát mãi cuối cùng trả lại số tiền thừa cho bên vay nếu không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì khách hàn vay phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ như cam kết, cũng có thể giao cho bên thứ ba xử lý tài sản bảo đảm Nếu không thu được nợ bằng giá trị thế chấp, tổ chức tín dụng được quyền khởi kiện trước pháp luật. b.Cầm cố tài sản Cầm cố tài sản là việc bên đi vay giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay Để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Nếu tài sản cầm cố có đăng kí quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho bên thứ ba giữ. Tài sản cầm cố là động sản bao gồm: - Tài sản thực như xe cộ, máy móc, hàng hoá...... - Giấy tờ có giá như cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu..... - Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền được nhận bảo hiểm...... - Lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản cầm cố. Căn cứ vào tín chất quản lý, Tài sản cầm cố được chia ra thành các loại: Có đăng kí quyền sở hữu và không đăng kí quyền sở hữu. Đối với tài sản không đăng kí quyền sở hữu, tài sản cầm cố phải được chuyển giao cho bên vay còn đối với tài sản có đăng kí quyền sở hữu thì tài sản có thể do bên vay, bên cho vay hoặc bên thứ ba nắm giữ theo thoả thuận. 1.3.2.2. Đảm bảo đối nhân ( bảo lãnh) Bảo lãnh là viêc bên thứ ba cam kết với bên cho vay ( người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi vay ( người được bảo lãnh), Nếu đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ. Người bảo lãnh Người được bảo lãnh Người nhận bảo lãnh (3) (2) (1) (1) Trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và người đi vay được thể hiện trên hợp đồng tín dụng, ngân hàng là người có yêu cầu người đi vay thanh toán nợ khi đáo hạn. (2) Người bảo lãnh và người đi vay thoả thuận về việc người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ. (3) Người bảo lãnh cam kết với ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người đi vay khi khoản nợ đáo hạn mà người đi vay không thực hiện được Bên nhận bảo lãnh phải là chủ thể có đủ tư cách pháp lý, xuất trình các giấy tờ cần thiết và đưa tài sản ra bảo lãnh như tài sản thế chấp. Việc bảo lãnh được thực hiện bằng văn bản có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền. Có thể có các dạng bảo lãnh sau: - Bảo lãnh có bảo đảm bằng tài sản hoặc bằng uy tín. Bảo lãnh có bảo đảm bằng tài sản đòi hỏi bên bảo lãnh phải có tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Việc bảo lãnh bằng tài sản có thể kèm theo biện pháp thế chấp, cầm cố hoặc không do bên tổ chức tín dụng và bên bảo lãnh thoả thuận . Bảo lãnh bằng uy tín là hình thức bảo lãnh chỉ dựa vào uy tín của người bảo lãnh. Bên bảo lãnh là tổ chức tín dụng được phép bảo lãnh vay bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh còn bên bảo lãnh không phải là tổ chức tín dụng thì chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình. - Bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ. Người bảo lãnh có thể bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ số nợ phải rhanh toán cho ngân hàng. Trường hợp bảo lãnh một phần phải ghi rõ số tiền bảo lãnh. - Bảo lãnh riêng biệt và bảo lãnh duy trì. Bảo lãnh riêng biệt được áp dụng cho một số tiền vay cụ thể theo hợp đồng tín dụng và được hạch toán cụ thể trên tài khoản cho vay. Bảo lãnh duy trì là hành vi bảo lãnh cho một loạt các giao dịch và mức bảo lãnh theo hạn mức tối đa. - Nợ đến hạn, Nếu bên vay không trả được thì bên bảo lãnh phải trả thay như trách nhiệm của bên vay. 1.3.3. Mức độ đảm bảo tín dụng Mức độ trách nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng trong quan hệ tín dụng: khả năng tài chính, sản xuất kinh doanh,… Giá trị tài sản đưa ra làm đảm bảo Mức độ đảm bảo của khoản tín dụng còn phụ thuộc vào khối lượng tín dụng mà ngân hàng phát ra cho vay. Phụ thuộc giới hạn pháp lý của tài sản đưa ra làm đảm bảo. 2. Hệ thống tín dụng trung và dài hạn 2.1.Sự cần thiết của tín dụng trung, và dài hạn. 2.1.1.Mục đích chung của tín dụng trung và dài hạn Tín dụng trung, và dài hạn là các khoản của các TCTD cho các tổ chức kinh tế vay có kỳ hạn trên một năm. Tín dụng trung , và dài hạn nhằm thoả mãn các nhu cầu về vốn để mua sắm các máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất của một doanh nghiệp và phần vốn lưu động tối thiểu của doanh nghiệp. Trong một nền kinh tế nhu cầu tín dụng trung và dài hạn thường xuyên phát sinh do các doanh nghiệp luôn luôn tìm cách phát triển mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, đổi mới các phương tiện vận chuyển, nâng cấp hệ thống thông tin… Đặc biệt đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay nhu cầu vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản rất lớn, trong khi các nhà kinh doanh chưa tích luỹ được nhiều. Do vậy đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp phần chủ yếu dựa vào vốn tự có của các nhà kinh doanh, bộ phận còn lại phải nhờ vào sự tài trợ của hệ thống nhân hàng thương mại và các TCTD khác. Hiện nay tín dụng trung, và dài hạn ngày càng được các doanh nghiệp ưa thích hơn vì nó cho phép các nhà kinh doanh vay vốn kiểm soát được toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Nó phù hợp với điều kiện thực tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp cổ phần, và các hãng lớn cũng thích vay trung, và dài hạn để phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Có thể nói tín dụng trung, và dài hạn là người trợ thủ đắc lực của các doanh nghiệp trong việc thoả mãn các cơ hội kinh doanh. Khi có cơ hội kinh doanh thì các doanh nghiệp phải mở rộng sản xuất, gia tăng lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường, khi đã kết thúc cơ hội kinh doanh thì vốn lại được hoàn trả cho ngân hàng. Đây chính là một ưu thế của vốn trung, và dài hạn. Nó linh hoạt hơn các hình thức huy động vốn dài hạn khác như phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Hơn nữa việc vay vốn trung, và dài hạn tránh được các chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, đăng ký chứng khoán… 2.1.2.Lý do các doanh nghiệp chọn tín dụng trung, và dài hạn. Lý do mà các doanh nghiệp chọn vay trung và dài hạn thay vì phát hành chứng khoán để huy động vốn là bởi vì : -Các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị hạn chế về khả năng tìm nguồn vốn trên thị trường tài chính, vì vậy khi có nhu cầu vốn dài hạn phải đi vay các ngân hàng hoặc các TCTD khác. -Trong nhiều trường hợp, vay trung, và dài hạn tốt hơn phát hành chứng khoán bởi vì : so với phát hành chứng khoán, các doanh nghiệp có thể có được các điều kiện vay phù hợp cho nhu cầu của mình hơn do vậy có thể thương lượng một cách trực tiếp với người cho vay. So với phát hành chứng khoán, khi vay trung, và dài hạn doanh nghiệp có thể trả nợ trước hạn, trong nhiều trường hợp người vay có thể thương lượng lại một số diều kiện cho vay sau khi đã nhận tiền vay. Thời hạn của các khoản vay trung, và dài hạn cũng ngắn hơn so với phát hành chứng khoán, cho phép doanh nghiệp đạt được lợi nhuận cao trong các thời kỳ có lãi suất cao. Bên cạnh đó, doanh nghiệp không phải tốn các chi phí đăng ký, chi phí bảo lãnh, và chi phí để bán chứng khoán ra thị trường. -Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp không muốn phải công bố thông tin về mình khi phát hành chứng khoán trong khi doanh nghiệp muốn bí mật thông tin hoặc đang ở trong điều kiện bất lợi cho phát hành chứng khoán. -Khi vay trung, và dài hạn các doanh nghiệp có được mối quan hệ mật thiết với các ngân hàng và điều này có thể có lợi cho doanh nghiệp sau này. 2.2. Một số quy định chung trong tín dụng trung và dài hạn. 2.2.1. Khái niệm. Tín dụng trung, và dài hạn là hình thức tín dụng mà các TCTD cung cấp cho các tổ chức kinh tế với thời hạn cho vay trên một năm nhằm đầu tư vào tài sản cố định. Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa TCTD với khách hàng. Hệ thống tín dụng Việt Nam quy định thời hạn vay như sau: Tín dụng trung hạn : thời hạn trong khoảng 1 đến 5 năm. Tín dụng dài hạn : thời hạn từ 5 năm trở lên, nhưng thời gian cho vay tối đa bằng thời gian khấu hao cần thiết của tài sản hình thành bằng vốn vay. 2.2.2. Mục đích cho vay. Các TCTD cho các tổ chức kinh tế vay trung và dài hạn nhằm mục đích: -Xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, khôi phục và thay thế tài sản cố định. -Cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và phục vụ. Tài sản trong kinh doanh của doanh nghiệp nhìn chung gồm hai loại là tài sản cố định và tài sản lưu động. Đối với doanh nghiệp nhu cầu tài sản cố định và tài sản lưu động là nhu cầu thường xuyên. Rõ ràng là nguồn vốn vay để đầu tư cho tài sản cố định phải có thời hạn dài, nếu không thì người vay khó có thể hoàn trả được nợ cho ngân hàng khi đến hạn. Bên cạnh đó, đối với tài sản lưu động, có thể phân ra làm hai loại là tài sản lưu động thời vụ và tài sản lưu động thường xuyên. Loại tài sản lưu động thường xuyên cũng có tính chất dài hạn, và thông thường theo thời gian đối với một doanh nghiệp đang tăng trưởng thì quy mô tài sản lưu động thường xuyên cũng tăng tương ứng với quy mô tài sản cố định. Tính chất thường xuyên thể hiện ở chỗ nguồn vốn dùng cho đầu tư vào loại tài sản lưu động này phải được duy trì thường xuyên. Như vậy nguồn vốn để đầu tư cho loại tài sản này phải là nguồn vốn có tính chất dài hạn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp thường có nhu cầu vay vốn trung, và dài hạn để thanh toán các khoản nợ khi không thể thực hiện được nghĩa vụ trả nợ vay đến hạn, hoặc do sự tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp làm phát sinh nhu cầu duy trì khoản nợ cũ. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp cần được ngân hàng tài trợ cho chi phí thành lập ban đầu. Đây cũng là một nhu cầu dài hạn. Đôi khi các doanh nghiệp cũng có nhu cầu vay vốn trung, và dài hạn để mua lại một doanh nghiệp khác đang hoạt động trong trạng thái bình thường hoặc doanh nghiệp đã tuyên bố phá sản. Việc mua doanh nghiệp khác thường có nhiều rủi ro bởi vì khi mua một doanh nghiệp thì kèm theo đó là sự thay đổi về sở hữu, thay đổi về quản lý, và như vậy trong nhiều trường hợp hiệu quả hoạt động không cao, vì vậy khả năng hoàn trả nợ vay càng khó khăn. Nhưng không vì thế mà ngân hàng từ chối tất cả các nhu cầu này của khách hàng. Vấn đề đặt ra là ngân hàng phải phân tích, đánh giá được thực trạng khả năng sinh lợi của dự án, triển vọng tăng trưởng lợi nhuận, và khả năng quản lý qn sau khi mua… 2.2.3. Nguồn vốn cho vay. Hiện nay, nguồn vốn cho vay trung, và dài hạn ở các ngân hàng thương mại Việt Nam rất nhỏ. Khả năng đáp ứng được nhu cầu vay trung, và dài hạn rất hạn chế. Điều này gây khó khăn cho việc mở rộng quan hệ của ngân hàng đối với khách hàng và hạn chế cho vay ngắn hạn. Các ngân hàng thương mại có có thể cho các tổ chức kinh tế vay trung, và dài hạn từ các nguồn vốn chủ yếu sau đây: -Vốn tự có và quỹ dự trữ. Đây là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng có được do tích luỹ trong quá trình kinh doanh hoặc do góp vốn. -Vốn huy động trong nước của dân cư dưới các hình thức phát hành trái phiếu dài hạn, hoặc huy động tiền gửi định kỳ dài hạn. nguồn này có khối lượng nhỏ và rất hạn chế do ít người muốn gửi tiền dài hạn. -Vốn vay từ ngân hàng Nhà nước. Nguồn này cũng bị hạn chế vàphụ thuộc vào chính sách tiền tệ của Nhà nước. -Vay nợ nước ngoài với kỳ hạn trên 1 năm. Đây là hình thức được các ngân hàng thương mại trên thế giới thường xuyên sử dụng với khối lượng lớn -Vốn ngân hàng đầu tư và phát triển huy động từ vốn khấu hao cơ bản để lại cho các tổ chức kinh tế. 2.2.4. Nguyên tắc cho vay. Để được vay trung, và dài hạn thì các tổ chức kinh tế phải soạn thảo dự án, chương trình sản xuất kinh doanh. Trong đó thể hiện rõ ràng đầy đủ việc sử dụng vốn theo từng mục đích cụ thể. Tín dụng trung, và dài hạn thực hiện theo các nguyên tắc sau: -Quan hệ tín dụng được thực hiện trên cơ sở thoả thuận giữa hai bên trong khuôn khổ pháp luật và theo đúng thể lệ. Mối quan hệ ấy được thể hiện trên hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải được ghi thành văn bản và có giá tr._.phải nhìn nhận một cách khách quan về vấn đề này qua một số ví dụ cụ thể sau: Thực hiện cơ chế tín dụng ở các khu công nghiệp Đồng Nai (Trích dẫn từ bài: Giải pháp hoàn thiện cơ chế tín dụng phục vụ phát triển kinh tế các khu công nghiệp Đồng Nai_ThS. Trần Quốc Tuấn ) Thực tế hiện nay, ngân hàng chưa có cơ chế tín dụng riêng phục vụ phát triển các khu công nghiệp (KCN). Việc cho vay vẫn thực hiện theo Quy chế cho vay của Ngân hàng nhà nước (NHNN) và các quy định hướng dẫn các ngân hàng thương mại (NHTM). Thực tiễn hoạt động tín dụng ngân hàng cho thấy, cơ chế cho vay vừa thông thoáng, vừa chặt chẽ, phù hợp với pháp luật kinh tế, dân sự có liên quan, góp phần làm tăng trưởng tín dụng, thay đổi cơ cấu tín dụng phù hợp với thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư. Vốn tín dụng đã tập trung cho nhiều chương trình kinh tế trọng điểm, có tác dụng thúc đẩy phát triển sản xuất. NHNN đã thay đổi, bổ sung Quy chế cho vay tạo hành lang pháp lý cơ bản, tạo nhiều quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho TCTD, nhưng vẫn đảm bảo an toàn về vốn và đã tiếp cận những thông lệ quốc tế, đơn giản thủ tục cho vay phù hợp với hoạt động thực tế vầ các quy định của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, NHNN chưa có Quy chế cho vay riêng đối với các doanh nghiệp trong KCN, mặc dù đây là một thị trường rất lớn, điều này làm nảy sinh những tồn tại, vướng mắc trong quá trình cho vay: -. Ngân hàng chưa có quy định nhận bảo lãnh của các tổ chức, cá nhân nước ngoài để cho vay vốn đối với các doanh nghiệp là công ty “con”, chi nhánh của công ty “mẹ” ở nước ngoài. -. NHNN cũng chưa có hướng dẫn cho vay góp vốn liên doanh. - Vì máy móc thiết bị gắn liền với nhà xưởng, đất đai, chưa có cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và việc định giá, đánh giá tài sản khó khăn nên việc cho vay bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay cũng rất khó vì một số máy móc đã lạc hậu ở nước ngoài nhưng so với thị trường trong nước vẫn còn giá trị, cán bộ ngân hàng chưa đủ trình độ để đánh giá. - Công ty xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN bảo lãnh bằng nguồn thu từ các hợp đồng cho thuê đất, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp. Đây là quyền tài sản phát sinh từ các hợp đồng kinh tế, nhưng các TCTD chọn bảo lãnh cầm cố các quyền từ tài sản của công ty xây dựng hạ tầng thì cũng vướng vì tài sản của cng ty chủ yếu là đất đai được Nhà nước giao để hoạt động và có thu tiền xử dụng đất. Vì thế, không thể thực hiện nghĩa vụ cho ngân hàng được. - Việc bảo đảm tiền vay bằng vốn vay chỉ mới áp dụng trong trường hợp cho vay trung, dài hạn và mức vốn tự có hoặc vốn tự có và tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư dự án. Trong khi các doanh nghiệp trong KCN có khối lượng sản xuất rất lớn, nhu cầu vốn ngắn hạn rất cao thì cơ chế cho vay chưa quy định, và hướng dẫn. - Trong chỉ thị số 07/CT-NHNN ngày 30/10/2001 của Thống đốc NHNN về mở rộng tín dụng có hiệu quả đối với doanh nghiệp trong KCX, KCN có nêu các doanh nghiệp nước ngoài bị lỗ theo kế hoạch do mới hoạt động tại Việt Nam chưa qua ba năm được các TCTD xem xét cho vay không có đảm bảo bằng tài sản, nhưng cũng không hướng dẫn rõ cụ thể làm cơ sở cho vay hay không, với điều kiện, tiêu chuẩn thế nào, nên trong thực tế các TCTD cũng chưa dám cho vay. - Thống đốc NHNN đã ban hành Quy chế đồng tài trợ của các TCTD số 154/1998/QĐ ngày 29/4/1998 nhưng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, cũng chưa thể áp dụng bởi khó thống nhất phương thức thẩm định dự án, phức tạp trong thành lập hội đồng thẩm định, quản lý dự án. Mặc dù trong thực tế nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp vay rất lớn, thường vượt quá tỷ lệ 15% vốn tự có của MHTM Nhà nước. Các chi nhánh chỉ được cho nay 1 khách hàng từ 50- 100 tỷ đồng, do đó, tính tự chủ của NHTM và chi nhánh bị hanh chế. - Các doanh nghiệp nước ngoài trong KCN thường có thói quen tiếp cận cới các dịch vụ hiện đại, phong phú, tiện ích, thủ tục đơn giản, tác phong làm việc dứt khoát và có nhiều đòi hỏi trong cách vay, hồ sơ cho vay mà cơ chế quy định của ta quá cẩn thận và chặt chẽ cho nên khó tiếp cận. - Chúng ta chưa có chính sách chi hoa hồng, chi thưởng... để cạnh tranh thu hút các doanh nghiệp trong dịch vụ mới như sử dụng công nghệ thẻ, máy rút tiền tự động.... -Quy định của NHTM khi cho vay yêu cầu kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay nhưng trình độ cán bộ ngân hàng còn nhiều hạn chế như ngoại ngữ, chuyên môn khi tiếp cận cách quản lý, hạch toán của các doanh nghiệp. Để thu hút mạnh đầu tư vào các KCN, tỉnh Đồng Nai đã có quy chế về thanh,kiểm tra. Mỗi năm chỉ kiểm tra một lần và phải được Chủ tịch tỉnh quyết định. Tín dụng trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản ở Quảng Ngãi (Trích dẫn từ bài:Thực trạng và giải pháp mở rộng tín dụng nuôi trồng thuỷ sản_Võ Mười ) Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nói chung, nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) nói riêng đang ngày càng được phát huy mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn tạo điều kiện khai thác tốt các tiềm năng, nhân lực tài nguyên. Nhưng triển khai tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn: - Mức vay theo tỷ lệ không đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho các hộ vay vốn, các tổ chức kinh tế nông thôn vì: thứ nhất, họ chưa có đủ giấy tờ hợp pháp để làm thủ tục thế chấp vay vốn ngân hàng; thứ hai, khung giá đất theo quy định của UBND tỉnh thấp hơn nhiều so với giá thị trường. - Phần lớn các chủ dự án đều không đủ điều kiện vay vốn, mặc dù các dự án nuôi hay bán thâm canh tôm, cá lồng bè mang lại hiệu quả kinh tế cao vì: theo điểm d, Điều 15 Nghị định 178/1999/NĐ_CP quy định “có mức vốn tự có tham gia vào dự án giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố thế chấp tối thiểu bằng 50% vốn đầu tư của dự án” là quá cao. - Nghị định 178/CĐ-CP quy định “Tài sản hình thành vốn vay dùng bảo đảm tiền vay phải xác định được quyền sở hữu”, nhưng trong tài sản như máy móc, thiết bị gắn liền với nhà xưởng được hình thành từ vốn vay không phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật. Do vậy, các TCTD không thể mạnh dạn cho vay đối với các chủ dự án cầm cố, thế chấp máy móc, thiết bị hình thành từ vốn vay. .-Trong cho vay NTTS, phần lớn tài sản thế chấp tại các TCTD là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, nhưng các thủ tục thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và bất động sản theo quy định hiện hành còn phức tạp, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành chức năng, và việc bán tài sản trên phải được sự chấp thuận của UBND tỉnh, thành phố nên hạn chế quá trình đầu tư tín dụng. - Trình độ khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý kinh tế của các hộ NTTS còn hạn chế dẫn đến sản xuất kém hiệu quả, rủi ro trong vay cao nên các TCTD chưa mạnh dạn đầu tư. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương Việt Nam. (Trích dẫn từ bài: Ngân hàng Công thương đổi mới cơ cấu tín dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá_Hà Huy Hùng). Chuyển dịch cơ cấu tín dụng của Ngân hàng Công thương (NHCT) thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá như sau: - Tốc độ tăng tưởng tín dụng nhanh: Tổng dư nợ tín dụng năm 1988 là 601 tỷ đồng thì đến năm 2002 đạt tới 55.182 tỷ đồng (tăng gấp 92 lần năm 1988). Dư nợ tín dụng với tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 39%. - Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng trung, dài hạn cho các dự án: Dư nợ trung, dài hạn năm 1988 chỉ có 18 tỷ đồng chiếm 3% tổng dư nợ, 10 năm sau (1998) đạt 2.540 tỷ đồng chiếm 30% tổng dư nợ và 15 năm sau (2002) lên tới 21.539 tỷ đồng chiếm 43% tổng dư nợ (tăng 1.197 lần năm 1988). - Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng trung, dài hạn theo nhóm ngành kinh tế : Dư nợ nhóm ngành công nghiệp tăng từ 160 tỷ đồng năm 1988 lên 27.111 tỷ đồng năm 2002, đưa tỷ trọng cho vay nhóm ngành này từ 27% lên 49% trong tổng dư nợ. Dư nợ nhóm ngành dịch vụ và khác tăng từ 414 tỷ đồng lên 23.325 tỷ đồng năm 2002 (chiếm 42,7% tổng dư nợ). Dư nợ nhóm nghành nông nghiệp tăng từ 26 tỷ đồng năm 1988 lên 4.104 tỷ đồng năm 2002 (tăng 1157 lần ); chiếm tỷ trọng 9,3% tổng dư nợ. - Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng theo thành phần kinh tế. Như vậy, qua phân tích cơ chế tín dụng ở các vùng khác nhau, các lĩnh vực khác nhau, và cả trong hoạt động cụ thể ở một ngân hàng cho ta thấy rằng, hoạt động tín dụng đã có những bước phát triển vượt bậc, là nghiệp vụ chủ yếu mang lại lợi nhuận cho toàn hệ thống. Tuy nhiên, đây cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro, và thực tế trong hoạt động vẫn còn gặp nhiều khó khăn trở ngại do cả yếu tố khách quan lẫn chủ quan. Vì vậy, bất cứ lúc nào chúng ta luôn luôn phải quan tâm đến chất lượng tín dụng, có định hướng phát triển an toàn và hiệu quả hoạt động này. 2. Thuận lợi và khó khăn. Các tổ chức tín dụng hiện nay hoạt động trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh hết sức quyết liệt. Vì thế các TCTD cần có một môi trường hoạt động thuận lợi, bình đẳng, có quyền tự chủ cao...Nhưng trên thực tế, các TCTD lại gặp khó khăn bởi chính những yếu tố vĩ mô do nhà nước tạo ra. 2.1. Thuận lợi. Mặc dù còn nhiều khó khăn đối với hoạt động tín dụng do môi trường pháp lý, do tính cạnh tranh của thị trường, do chính những yếu tố nội tại của mỗi tổ chức tín dụng. Song chúng ta không thể phủ nhận rằng hoạt động tín dụng của nước ta có thể phát triển được như hiện nay là nhờ một phần ở những thuận lợi đối với hoạt động tín dụng. Những thuận lợi này do nhiều yếu tố tạo nên. Những thuận lợi xuất phát từ quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng do thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành. Hiện nay chúng ta có một quy chế cho vay vừa thông thoáng, vừa chặt chẽ và tương đối phù hợp với hệ thống pháp luật có liên quan. Một quy chế như vậy đã tạo điều kiện giúp cho tín dụng tăng trưởng nhanh chóng về số lượng và phát triển về chất lượng như sự thay đổi cơ cấu tín dụng phù hợp với cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư. Cơ chế của ngân hàng nhà nước tạo khung pháp lý cần thiết để các tổ chức tín dụng căn cứ vào đó đưa ra những quy định, hướng dẫn cụ thể và phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị mình, mở rộng quyền tự chủ sáng tạo, tạo điều kiện hoạt động linh hoạt cho các tổ chức tín dụng. Việc sửa đổi, bổ sung quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng đã tạo thuận lợi cho hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại. Quy chế mới theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN đã cho phép mở rộng đối tượng áp dụng là các cá nhân và pháp nhân nước ngoài. Mở rộng đối tượng áp dụng cho phép các TCTD mở rộng phạm vi hoạt động và thu được nhiều lợi hơn. Đối với việc quy định thời hạn cho vay, quy chế cho vay mới cho phép TCTD và khách hàng tự thoả thuận, đặc điểm này giúp ích cho cả TCTD lẫn TCKT. Khi thời hạn cho vay được xác định một cách linh hoạt tuỳ theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và thời gian thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn tín dụng của bên cho vay thì vốn sẽ được sử dụng hiệu quả hơn đối với TCTD, TCKT và cả nền kinh tế. Những quy định về chuyển nợ quá hạn và gia hạn nợ giúp các TCTD quản lý tốt hơn tình hình hoạt động tín dụng của mình và thuận lợi cho khách hàng vượt qua những khó khăn nhất thời. Quy định này tăng thêm quyền tự chủ của các TCTD. Những thuận lợi nêu trên đã tạo điều kiện cho các TCTD chủ động hoat động sáng tạo nhưng vẫn đảm bảo an toàn, giúp cho cả hệ thống tín dụng nước ta tăng trưởng và phát triển những bước tiến lớn. 2.2. Khó khăn. -Những khó khăn xuất phát từ sự chưa hoàn thiện của môi trường luật pháp : Nhà nước can thiệp quá sâu vào các hoạt động của các TCTD, ảnh hưởng đến quyền tự chủ của các TCTD. Cụ thể như việc chính phủ giới hạn mức cho vay đối với trường hợp vay không có bảo đảm bằng tài sản, tỷ lệ vốn tự có của doanh nghiệp tham gia vào dự án trong trường khoản vay được bảo đảm bằng tài sản hình thành tự vốn vay, chính phủ quyết định về gian hạn nợ trong một số trường hợp nhất định và giới hạn mức cho vay đối với một khách hàng. Việc chính phủ can thiệt vào các vấn đề trên khiến cho các TCTD như bị bó chặt, không thể phát huy tính chủ động, linh hoạt trong quá trình hoạt động tín dụng của mình, khiến các TCTD dụng bị mất đi những cơ hội lớn. Ngoài những khó khăn về quá trình cho vay do pháp luật gây ra, sự bất hợp lý trong một số luật có liên quan khiến TCTD gặp nhiều trắc trở khi tiến hành sử lý tài sản thu hồi nợ quá hạn. Đầu tiên là những khó khăn liên quan đến luật phá sản doanh nghiệp. Theo như luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay thì thời gian tiến hành tuyên bố doanh nghiệp phá sản là quá dài. Trong khi trên thực tế, hầu hết mọi doanh nghiệp bị mở thủ tục tuyên bố phá sản đều đã lâm vào tình trạng thực sự không còn khả năng cứu vãn qua hội nghị chủ nợ. Như vậy thời gian tuyên bố doanh nghiệp phá sản quá dài, đôi khi không cần thiết khiến các TCTD gặp không ít khó khăn khi thu hồi nợ xấu. Ngoài quy trình tuyên bố doanh nghiệp phá sản quá dài còn có một số điểm bất hợp lý liên quan đến các tổ chức có quan hệ tín dụng với doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản như không thừa nhận tư cách chủ nợ có bảo đảm của ngân hàng bảo lãnh. Khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản thì ngân hàng bảo lãnh cho doanh nghiệp này chỉ được coi là chủ nợ không có bảo đảm. Điều này chỉ đúng trong trường hợp bảo lãnh không có bảo đảm bằng tài sản, trên thực tế hầu hết các thoả thuận bảo lãnh giữa ngân hàng và doanh nghiệp đều có bảo đảm bởi tài sản của doanh nghiệp được bảo lãnh. Rõ ràng đây là điều bất hợp lý gây thiệt hại cho ngân hàng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh và cần phải sửa đổi. Cũng liên quan đến vấn đề xử lý nợ xấu của các TCTD đối với các khách hàng nhưng những khó khăn lần này lại xuất phát từ luật đất đai, chủ yếu liên quan đến quyền sử dụng đất được sử dụng để thế chấp vay vốn các TCTD. Theo thông tư 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BTC-TCĐC thì các TCTD muốn phát mãi quyền sử dụng đất và bất động sản cần phải nhận được sự đồng ý của UBND tỉnh, thành phố. Việc kéo dài thời gian xử lý tài sản thế chấp làm hạn chế đến quá trình đầu tư tín dụng của các TCTD. Đặc biệt, trong một số trường hợp, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thể bị toà án ra quyết định thu hồi như xảy ra tranh chấp quyền sử dụng đất hay có sự sai trái khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong những trường hợp như vậy, các TCTD nhận thế chấp bằng quyền sử dụng đất phải chịu rủi ro rất lớn, có khi không thể thu hồi được nợ. Trong thời gian gần đây, luật đất đai liên tục được thay đổi, tuy những thay đổi này là cần thiết và tạo ra sự thuận lợi cho các hoạt động có liên quan trong đó có hoạt động về tín dụng. Nhưng chính những thay đổi thường xuyên như vậy lại tạo ra sự bất ổn của môi trường pháp lý làm cho các ngân hàng không yên tâm khi ra các quyết định cho vay mà tài sản thế chấp là giá trị quyền sử dụng đất. Về luật doanh nghiệp nhà nước cũng còn có những điều chưa hợp lý liên quan đến mối quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng và các doanh nghiệp nhà nước. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, khi muốn thế chấp toàn bộ dây chuyền công nghệ chính của doanh nghiệp để vay vốn thì cần có sự đồng ý của cơ quan đã ra quyết định thành lập doanh nghiệp đó. Nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một văn bản nào của cơ quan có thẩm quyết cho phép xác định toàn bộ dây truyền công nghệ chính của doanh nghiệp là gì. Sự không rõ ràng này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng nếu tài sản thế chấp của doanh nghiệp nhà nước tại thời điểm xử lý để thu hôì nợ quá hạn lại được xác định là toàn bộ dây truyền công nghệ chính của doanh nghiệp. Trong trường hợp đó, việc thế chấp của doanh nghiệp coi như vô hiệu và rủi ro thuộc về các ngân hàng cho vay. Khó khăn nay khiến cho các ngân hàng e ngại khi cho các doanh nghiệp nhà nước vay, điều này ảnh hưởng không tốt đến các ngân hàng và cả các doanh nghiệp nhà nước có nhu cầu vay vốn. Theo thông tư số 62/1999/TT-BTC hướng dẫn việc sử dụng vốn và tài sản trong các DNNN quy định tổng công ty có quyền điều chuyển tài sản thuộc vốn sở hữu nhà nước của các doanh nghiệp thành viên kể cả các doanh nghiệp hạch toán độc lập. Điều này là không hợp lý vì theo quy định, các doanh nghiệp hạch toán độc lập trong các tổng công ty nhà nước có quyền thế chấp, cầm cố tài sản do đơn vị mình quản lý để vay vốn các TCTD. Việc điều chuyển tài sản mà doanh nghiệp thành viên sử dụng để cầm cố, thế chấp sẽ làm ảnh hưởng đến khả đảm bảo thực hiện nghĩa vụ vật chất của doanh nghiệp đối với TCTD cho vay. Ngoài những khó khăn nêu trên, còn cón những khó khăn liên quan đến những bất hợp lý trong việc thực hiện các chính sách của nhà nước. Ví dụ như việc chính phủ chỉ định các ngân hàng thương mại cho vay ưu đãi đối với một số đối tượng chính sách, hay việc chính phủ quyết định các trường hợp khoanh nợ, không thu lãi, miễn giảm lãi nhưng các ngân hàng thương mại lại là người gánh chịu thiệt hại. Việc để cho các ngân hàng thương mại phải gánh chịu những rủi ro, thiệt hại do những quyết định của chính phủ gây ra là bất hợp lý, gây khó khăn và không công bằng đối với các ngân hàng thương mại. -Những khó khăn yếu kém trong còn tồn tại trong hoạt động tín dụng. Thứ nhất, trình độ của cán bộ tín dụng ở một số ngân hàng và các TCTD còn yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc như : trình độ thẩm định khách hàng, thẩm định phương án, không nắm vững cơ chế chính sách, quy trình tín dụng nên để xảy ra tình trạng cho vay sai quy chế, cho vay những khách hàng yếu kém về tài chính, sản xuất kinh doanh thua lỗ, cho vay đối với những dự án không hiệu quả, không khả thi. Vì vậy chất lượng tín dụng ở những TCTD này không cao, tăng nợ khó đòi và nợ quá hạn. ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của hệ thống tín dụng. Ngoài ra còn phải kể đến một số cán bộ thoái hoá biến chất, cấu kết với khách hàng để lừa đảo, vay vốn làm ảnh hưởng đến uy tín của TCTD. Thứ hai, còn một số cán bộ tín dụng và lãnh đạo các chi nhánh của TCTC không chấp hành quy trình tín dụng, không kiểm tra đối chiếu thực tế tại các cơ sở của khách hàng, không trực tiếp thẩm định các dự án kinh doanh, không kiểm tra trong giai đoạn giải ngân...Tạo ra kẽ hở cho khách hàng lợi dụng để lừa đảo, làm thất thoát vốn tín dụng. Ba là, ở một số chi nhánh của các TCTD do chạy theo thành tích, muốn tăng nhanh dư nợ nên hạ thấp điều kiện tín dụng để thu hút khách hàng, gây ra việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các TCTD, gây ảnh hưởng toàn hệ thống tín dụng. Bốn là, sự thu thập thông tin kinh tế, thông tin về rủi ro, thực hiện phân tích tín dụng, phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng chưa được thực hiện có hiệu quả. Việc quản lý thông tin tín dụng vẫn được thực hiện thủ công là chủ yếu, nên thiếu chính xác và không kịp thời. Vì vậy việc phân tích đánh giá tín dụng theo ngành hàng, khách hàng chưa được thực hiện thường xuyên để có được những định hướng tín dụng chính xác và kịp thời. 3. Các giải pháp cho hoạt động tín dụng của hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam. Mục tiêu định hướng phát triển thị trường tín dụng Việt Nam là nhằm kịp thời đáp ứng được các yêu cầu cấp bách về vốn tín dụng ngân hàng để đầu tư cho công cuộc đổi mới phát triển kinh tế xã hội cũng như nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Để phấn đấu đạt được mục tiêu này, trong những năm tới, một mặt cơ chế quản lý của ngân hàng Nhà nước phải tạo ra một môi trường tín dụng thông thoáng, cạnh tranh lành mạnh, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các TCTD Việt Nam, mặt khác Hệ thống các TCTD Việt Nam cần tiếp tục có những bước đổi mới tích cực về phát triển mạng lưới giao dịch, hiện đại hoá công nghệ, phong cách giao dịch, nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ ngân hàng, tiếp tục cải tiến và đơn giản hoá các quy trình thủ tục cho vay, tạo điều kiện thuân lợi cho mọi khách hàng có thể tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng. a.Hoàn thiện cơ chế tín dụng. Đổi mới cơ chế tín dụng phải gắn với đổi mới pháp luật và nhà nước, và quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Đổi mới pháp luật, sửa đổi những điểm bất hợp lý, trái với thông lệ quốc tế. Qua 5 năm thực hiện luật các TCTD ở nước ta , đã bộc lộ một số nhược điểm như chưa đáp ứng được yêu cầu về hội nhập nền kinh tế quốc tế, các yêu cầu của Hiệp định thương mại Việt Mỹ, AFTA, WTO… Cơ chế tín dụng ban hành phải phù hợp với định hướng phát triển của các thành phần doanh nghiệp, phù hợp với đặc điểm cụ thể của các doanh nghiệp. Cơ chế tín dụng phải tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng của ngân hàng thương mại. Quan hệ TCTD và khách hàng là quan hệ bình đẳng, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quy định trong hợp đồng tín dụng, đảm bảo cho hoạt động tín dụng của ngân hàng an toàn và hiệu quả. Đồng thời đổi mới và hoàn thiện cơ chế tín dụng của ngân hàng phải gắn liền với quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại ở nước ta. Phải tạo được cơ chế chính sách đồng bộ, phù hợp thông thoáng thì mới thực sự đổi mới và hoàn thiện cơ chế tín dụng có hiệu quả. b.Đổi mới cơ chế huy động vốn. Nhu cầu vốn vay trung và dài hạn hiện nay rất lớn, các nguồn vốn huy động của ngân hàng không đủ để đáp ứng, chủ yếu đó là vốn vay ngắn hạn. Do đó ngân hàng phải có nhiều giải pháp để huy động các nguồn vốn tập trung cho phát triển nhất là các nguồn vốn dài hạn. phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để khai thác hết khả năng vốn còn lớn trong xã hội với các biện pháp sau: -Hình thành và phát triển các quỹ đầu tư phát triển. -Phát hành trái phiếu -Tạo sự hấp dẫn để huy động các nguồn lực bên ngoài. -Huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. c.Đổi mới cơ chế quản lý vốn đầu tư tín dụng. Quản lý vốn đầu tư tín dụng phải dựa trên nguyên tắc nội lực hoá các nguồn ngoại lực. Thu hút các nguồn vốn trong nước và ngoài nước. Nguồn lực ngoài nước không chỉ thu hút vốn bằng tiền mà kèm theo là kinh nghiệm quản lý, và công nghệ tiên tiến… Phải xử lý hài hoà mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài, khả năng hấp thụ đến đâu thì thu hút các nguồn lực đến đó. Phải phát huy tốt và phát huy có hiệu quả vốn huy động ngoài nước. Nhu cầu vốn đầu tư ngày càng tăng qua từng năm, do đó phải bố trí các nguồn vốn hợp lý như vốn ngân sách, vốn tín dụng... Đầu tư vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, các lĩnh vực then chốt có tính chất quyết định và định hướng phát triển kinh tế cũng như cơ cấu kinh tế. Trên cơ sở các nguồn vốn này để thu hút các nguồn vốn từ nhân dân tham gia đầu tư. Trong quản lý vốn đầu tư, phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế, xã hội của dự án, tức là hiệu quả mà dự án đem lại sau khi đầu tư phù hợp với phát triển kinh tế và cơ cấu đầu tư. Đánh giá trên cơ sở suất vốn đầu tư, cơ cấu kỹ thuật của vốn đầu tư theo hướng hiện đại hoá quá trình sản xuất. Đa dạng hoá các công cụ tài chính trong huy động và sử dụng vốn đầu tư, mở rộng phương thức thu hút đầu tư mới thông qua các quỹ đầu tư phát triển, quỹ hỗ trợ phát triển và các trung gian tài chính khác. Có chủ trương và biện pháp cụ thể thu hút các nguồn vốn đầu tư, phối hợp việc cấp phát, cho vay hỗ trợ lãi suất để sử dụng vốn đầu tư một cách hiệu quả. d. Đổi mới cơ chế cho vay đối với các doanh nghiệp. - Về phạm vi và điều kiện cho vay. Ngân hàng Nhà nước đã quy định cơ chế cho vay chung, trên cơ sở đó các ngân hàng thương mại quy định cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện riêng của mình. Các doanh nghiệp trước khi hoạt động đã có một quá trình nghiên cứu kỹ sự cần thiết phải đầu tư, có giai đoạn lập luận chứng kinh tế kỹ thuật, thẩm định dự án… Qua đó các dự án đã được chấp nhận tính hợp lý, tính hiệu quả, và tính khả thi. Từ đó các ngân hàng thương mại xem xét trên cơ sở pháp lý của dự án đầu tư đã được cấp phép mà quyết định có cho doanh nghiệp vay vốn hay không. Các quy định về đảm bảo tiền vay cũng phải xem xét trên quan điểm không lấy điều kiện cho vay là tài sản thế chấp: là máy móc, nhà xưởng, đất đai. Các TCTD nên hình thành tư duy cho vay chỉ căn cứ vào hiệu quả của dự án đầu tư thay vì cho vay phải có tài sản thế chấp như hiện nay để làm điều kiện xem xét. Một khi các thủ tục trong vay vốn tín dụng được cải thiện trở nên thông thoáng thì các doanh nghiệp sẽ tìm đến ngân hàng nhiều hơn, mối quan hệ giữa TCTD với khách hàng sẽ tốt hơn. Chỉ có như vậy mới đẩy nhanh hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn. - Bổ sung những phương thức cho vay mới: Các ngân hàng nên áp dụng linh hoạt các phương thức cho vay. Một khách hàng có thể được ngân hàng thương mại cho vay nhiều phương thức khác nhau trên cơ sở căn cứ vào đặc điểm hoạt động và nhu cầu của khách hàng. Tăng cường áp dụng các dịch vụ hiện đại phục vụ các doanh nghiệp như phát hành các loại thẻ, máy rút tiền tự động, chi trả tiền qua ngân hàng, khuyến khích các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu sử dụng các dịch vụ này miễn phí. Thực hiện việc chi hoa hồng và thưởng cho các doanh nghiệp có quan hệ tốt với ngân hàng, giảm các điều kiện kiểm tra hồ sơ thủ tục cho vay, và cho vay với lãi suất ưu đãi… - Về vấn đề thanh tra kiểm tra việc thực hiện dự án: Đối với các doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng thương mại phải gửi định kỳ các báo cáo về tài chính để ngân hàng xem xét. Phải có quy định về khai thác thông tin từ báo cáo kiểm toán độc lập hàng năm của cơ quan kiểm toán. Các giao dịch của doanh nghiệp phải thông qua ngân hàng. Hoàn thiện việc kết nối mạng vi tính giữa các doanh nghiệp với ngân hàng. Muốn vậy ngân hàng phải có đầu tư trang thiết bị và hướng dẫn đào tạo cán bộ đáp ứng đủ yêu cầu thanh tra kiểm tra sao cho hoạt động tín dụng hiệu quả thuận lợi. e.Hoàn thiện luật các tổ chức tín dụng. Hiện nay, sau nhiều năm ban hành và thực hiện, luật các Tổ chức tín dụng vẫn còn nhiều điểm chưa thực sự hợp lý như Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động của các TCTD, gây ảnh hưởng đến quyền tự chủ, những quy định liên quan đến việc giới hạn mức cho vay đối với các trường hợp không có bảo đảm bằng tài sản...Để hoạt động tín dụng ngày càng hiệu quả hơn thì việc hoàn thiện luật các tổ chức tín dụng là rất cấp bách. Việc sửa đổi và bổ sung luật các tổ chức tín dụng phải xuất phát từ thực tiễn hoạt động của các TCTD. Ngoài ra sự bất hợp lý giữa các luật khác với luật các TCTD cũng cần được khắc phục. Tạo ra khung hành lang pháp lý thuận lợi cho các TCTD, sao cho DN dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của các TCTD. f.Đổi mới hoạt động tín dụng. Để khắc phục những khó khăn, yếu kém trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng phải thực hiện một số các mục tiêu. Một là, phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy chế tín dụng hiện hành, cũng như sự chỉ đạo của Ban lãnh đạo trong từng thời kỳ nhằm tăng trưởng tín dụng đối với mọi thành phần kinh tế an toàn và hiệu quả. Hai là, tiếp tục cơ cấu lại dư nợ theo hướng mở rộng thêm các đối tượng cho vay như : cho vay tiêu dùng, cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đẩy mạnh cho vay các khu công nghiệp, khu kinh tế mở, hay khu kinh tế năng động. Ba là, quan tâm đúng mức đến các biện pháp đảm bảo tiền vay nhằm tăng cường trách nhiệm, nghĩa vụ của người vay, tạo cơ sở kinh tế pháp lý để thu nợ. Bốn là, hoàn thiện cơ cấu quản lý của của các TCTD, nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng, nâng cao trình độ về công nghệ, về kinh tế, kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ thẩm định dự án. Tiếp tục củng cố phát triển bộ máy tổ chức, biên chế đội ngũ cán bộ, nhân viên đi kèm với cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho các kinh doanh dịch vụ hiện hại của ngân hàng. Kết luận Tín dụng trong ngân hàng thương mại hiện nay vẫn là nghiệp vụ mang lại nhiều lợi nhuận nhất, và nó rất cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đang hoạt động cũng như mới thành lập, nhưng đồng thời đây cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, Nhà nước phải đặc biệt quan tâm, chủ động định hướng sự phát triển, nhà nước hoàn thiện cơ chế tín dụng, các hệ thống luật khác bảo đảm phù hợp với sự phát triển đó. Thực tế xảy ra cũng có nhiều khó khăn trở ngại, cả về yếu tố khách quan cũng như chủ quan nên chúng ta cùng nhau hướng tới chất lượng tín dụng, sử dụng hiệu quả các nguồn tín dụng để xây dựng và phát triển doanh nghiệp ở mọi vùng miền, trên mọi lĩnh vực hoạt động, tạo ra lợi nhuận kinh doanh góp phần cải tạo, ổn định cuộc sống người lao động, để từ đó có được nền tảng vững chắc xây dựng và phát triển đất nước. Nhận thấy tầm quan trọng của nghiệp vụ tín dụng nên chúng em đã cố gắng cùng nhau tìm hiểu về vấn đề này. Dưới sự hướng dẫn của thầy và các cô, cùng với sự nỗ lực của mỗi cá nhân và giúp đỡ của bạn bè chúng em đã hoàn thành xong bài tiểu luận. Chúng em đã cố gắng tìm hiểu qua nhiều tài liệu, tạp chí và các nguồn khác nhưng phần trình bày chắc sẽ không tránh khỏi thiếu sót hay sai phạm, chúng em mong thầy cô chỉ bảo thêm. Đề tài không mới nhưng cách tiếp cận khá mới của môn học giúp chúng em chủ động tìm hiểu, bàn luận và hiểu bài hơn. Chúng em chân thành cảm ơn thầy cô đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ, chỉ bảo. Tài liệu tham khảo 1 .Giáo trình tín dụng ngân hàng. TS Hồ Diệu- NXB thống kê- 2001. 2 .Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. - NXB Thống kê-2000. 3 .Giáo trình tín dụng ngân hàng. - NXB Thống kê- 2001. 4 .Nghiệp vụ ngân hàng thương mại. PGS -TS Lê Văn Tề- NXB Thống kê- 2003. 5 .Ngân hàng thương mại và quản trị nghiệp vụ. TS Phan Thị Thu Hà- NXB Thống kê- 2002. 6 .Tạp chí ngân hàng. Số 7, 10, 11, 12 / 2003, và Số chuyên đề 2003. 7 .Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX. 8 .Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Số 01/1997/QH10 (12/12/97) 9 .Quy chế cho vay của TCTD với khách hàng.( Ban hành kèm theo quyết định số 1627/2001 QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước ) 10 .Quy chế cho vay đối với khách hàng trong hệ thống ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. (Ban hành kèm theo quyết định số 72/QĐ-HĐQT-TD ngày 31/03/2002 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghệp và phát triển nông thôn Việt Nam) 11 .Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 200/QĐ-NH1 ngày 28 háng 06 năm 1997 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thể lệ tín dụng trung hạn, dài hạn ban hành kèm theo Quyết định số 367/QĐ-NH1 ngày 21/12/1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. 12. ( Ngân hàng á Châu) 13. ( Ngân hàng Ngoại thương ) 14. ( Ngân hàng Công thương Việt Nam) Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0316.doc
Tài liệu liên quan