Người Hoa ở Đồng Nai

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- Trịnh Thị Mai Linh NGƯỜI HOA Ở ĐỒNG NAI 1954 - 2005 Chuyên ngành: Lịch Sử Việt Nam Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SĨ. LÊ HUỲNH HOA Thành phố Hồ Chí Minh - 2008 LỜI CẢM ƠN Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn: - Tiến sĩ Lê Huỳnh Hoa, khoa Sử trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, đã tận tình hướng dẫn khoa học trong suốt quá trình

pdf125 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3525 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Người Hoa ở Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu. - Quý Thầy cô khoa Sử, Trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy và trang bị cho tác giả những kiến thức sâu sắc. - Phòng Sau Đại học trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Viện khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Đồng Nai đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn. - Ban Quản trị Hội quán (cơ sở tín ngưỡng) tại các cơ sở tín ngưỡng của người Hoa trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cung cấp cho tác giả luận văn những thông tin phong phú và dịch những tư liệu chữ Hán tại đây, giúp tác giả hoàn thành luận văn. Tác giả luận văn MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Người Hoa đến Đồng Nai ngay từ buổi đầu mở mang khai phá vùng đất này. Trong quá trình lịch sử hơn 300 năm, cùng với lưu dân người Việt, cộng đồng người Hoa đã có nhiều đóng góp tích cực vào tiến trình phát triển kinh tế - văn hoá – xã hội của tỉnh Đồng Nai. Ở Việt Nam, người Hoa có mặt ở hầu hết các tỉnh, thành nước ta, nhưng đông nhất là ở TP. Hồ Chí Minh (49,71%), kế đến là Đồng Nai (11,81%). Tại tỉnh Đồng Nai, người Hoa là tộc người có số dân chiếm tỷ lệ cao thứ hai, sau người Kinh (Việt) từ 5% đến 5,34%. Hiện nay, người Hoa là công dân nước Việt Nam, là một lực lượng kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai. Do đó, việc nghiên cứu một cách toàn diện về cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai, nhằm cung cấp những hiểu biết toàn diện về một cộng đồng dân tộc có lịch sử hơn 300 năm ở đất Đồng Nai, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định những chính sách kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai hiện nay và sau này là việc làm cần thiết và không thể thiếu được. Đề tài tiếp cận nghiên cứu về cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai dưới nhiều góc độ: lịch sử di dân, hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội với mục đích có được một cái nhìn toàn diện về cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai, nhất là ở những giai đoạn lịch sử thăng trầm. Và dù ở giai đoạn lịch sử nào, dù sống dưới chế độ xã hội nào, người Hoa ở Đồng Nai luôn tích cực, chủ động, sống hoà nhập với cộng đồng. Đồng thời, thể hiện bản lĩnh cũng như những nét đặc thù của dân tộc mình trong quá trình cộng cư cùng những dân tộc khác ở Đồng Nai, cũng như ở Việt Nam. Qua đó, cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai được nhận diện, ta thấy sự khác biệt cơ bản giữa cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai với cộng đồng người Hoa ở một số nơi như: thành phố Hồ Chí Minh, Sóc Trăng… Vì vậy, đề tài “Người Hoa ở Đồng Nai 1954 – 2005” góp phần thiết thực vào việc hình thành những hiểu biết khoa học về cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai một cách khá toàn diện, góp phần làm phong phú lịch sử vùng đất Đồng Nai với lịch sử hơn 300 năm. Xuất phát từ những vấn đề có tính khoa học và thực tiễn, tác giả đã chọn: “Người Hoa ở Đồng Nai giai đoạn 1954 - 2005” làm đề tài tốt nghiệp Sau đại học. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1 Đối tượng nghiên cứu Theo Chỉ thị số 62-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) ngày 8-11-1995 “Về tăng cường công tác người Hoa trong tình hình mới”, xác định “Người Hoa bao gồm những người gốc Hán và những người thuộc dân tộc ít người ở Trung Quốc đã Hán hóa di cư sang Việt Nam, đã nhập quốc tịch Việt Nam, nhưng vẫn còn giữ những đặc trưng văn hóa, chủ yếu là ngôn ngữ, phong tục tập quán của người dân tộc Hán và tự nhận mình là người Hoa”. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: “Người Hoa ở Đồng Nai 1954 – 2005” là toàn bộ hoạt động của người Hoa ở Đồng Nai giai đoạn 1954 – 2005. Đề tài tập trung tìm hiểu quá trình di dân của người Hoa đến đất Đồng Nai, hoạt động kinh tế, sinh hoạt văn hoá, xã hội trong khoảng thời gian 1954 – 2005. Đề tài nhằm phát hiện nét đặc thù của cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai. Người Hoa ở Đồng Nai vừa sống ở nông thôn, vừa sống ở thành thị, đề tài tiếp cận nghiên cứu cả hai nhóm cư dân này. Với lịch sử hơn 300 năm, mọi hoạt động của cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai luôn diễn ra một cách tích cực, chủ động, sáng tạo và đã đem lại những đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế - văn hoá – xã hội của tỉnh Đồng Nai. 2.2 Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: + Tỉnh Biên Hòa (1954 – 1975) + Tỉnh Đồng Nai (1975 – 2005) - Về thời gian: Đề tài chọn nghiên cứu về người Hoa ở Đồng Nai, giai đoạn 1954 – 2005, vì người Hoa ở Đồng Nai sinh sống và hoạt động trong khoảng thời gian nói trên dưới hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau: + Giai đoạn 1955 – 1975: Chế độ chính trị - xã hội Việt Nam Cộng Hòa. + Giai đoạn 1975 – 2005: Chế độ chính trị - xã hội Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tác giả chọn khoảng thời gian trên, để thấy được bản lĩnh trong hoạt động kinh tế, nét đặc sắc trong hoạt động văn hoá của tộc người Hoa, cùng quá trình hình thành cộng đồng tộc người trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Về ý nghĩa khoa học, luận văn “Người Hoa ở Đồng Nai 1954 – 2005” góp phần cung cấp những hiểu biết toàn diện, khoa học về cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai, từ quá trình hình thành tộc người đến hoạt động kinh tế, sinh hoạt văn hóa – xã hội từ 1954 đến 2005. - Về ý nghĩa thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần ứng dụng cho các ban ngành, Mặt trận tổ quốc tỉnh Đồng Nai có một cái nhìn khoa học, toàn diện và xuyên suốt theo dòng lịch sử về cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai. Từ đó, góp phần hoạch định chính sách dân tộc toàn diện; đồng thời luận văn còn có giá trị tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về vấn đề dân tộc trong các Viện nghiên cứu và các trường Đại học, Cao đẳng, THPT... 4. Tình hình nhiên cứu Đề tài người Hoa ở Việt Nam từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Trong từng công trình, cộng đồng người Hoa được đề cập trên nhiều lĩnh vực khác nhau. 4.1 Tình hình nghiên cứu trong nước: Đầu thế kỷ XIX, xã hội người Hoa ở Đồng Nai được tác giả Trịnh Hoài Đức giới thiệu trong bộ “Gia Định Thành thông chí” với nội dung đề cập đến sự di dân của người Hoa và việc hình thành cảng thị Cù Lao Phố ở Biên Hoà cuối thế kỷ XVII (Bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn Hoá Phủ Quốc vụ khanh xuất bản năm 1972), đồng thời cũng đề cập đến các phong tục - tập quán, sinh hoạt văn hoá vật chất và tinh thần cùng với các cơ sở tín ngưỡng của người Hoa ở Đồng Nai – Gia Định một cách khái quát. Cũng bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, năm 1973, bộ “Đại Nam nhất thống chí: Lục tỉnh Nam Việt” cũng nói đến lịch sử di dân của người Hoa vào vùng đất Đồng Nai và Nam Bộ cùng với sinh hoạt kinh tế, văn hoá của người Hoa ở vùng đất mới này. Năm 1880, trong Báo cáo của Hội đồng quản hạt Nam Kỳ có nói đến các thương điếm của người Hoa ở Nam Kỳ và khu vực Sài Gòn. Năm 1924, tác giả Đào Trịnh Nhất đã công bố công trình “Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ”, tác phẩm đề cập đến hoạt động kinh tế của người Hoa ở miền Nam vào đầu thế kỷ XX. Tác giả Khương Hữu Điễu trên tạp chí “Cấp tiến” ở Sài Gòn ra năm 1970 đã có bài “Người Việt gốc Hoa và nền kinh tế Việt Nam”, bài viết đã phân tích vai trò của người Hoa trong hoạt động kinh tế ở miền Nam nói chung cũng như ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn. Những công trình trên, bước đầu đi sâu đề cập đến một số hoạt động kinh tế của người Hoa, có nhiều tư liệu quý giá để tác giả luận văn tham khảo. Từ sau năm 1975, việc nghiên cứu người Hoa, trong đó có các hoạt động kinh tế không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn là một nhu cầu thực tiễn, nhằm góp phần hoạch định một chính sách kinh tế toàn diện, trong đó có đóng góp của người Hoa. Nghiên cứu về hoạt động kinh tế của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh từ sau 1975 đến nay đã có nhiều công trình được công bố. Năm 1987, tác giả Trần Khánh đã bảo vệ Luận án Phó Tiến sĩ “Những khuynh hướng cơ bản phát triển xã hội và chính trị tộc người cộng đồng người Hoa ở Việt Nam”(từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945 ở miền Bắc và đến năm 1975 ở miền Nam). Năm 1989, Viện Khoa Học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh và Ban công tác người Hoa đã hợp tác nghiên cứu chương trình “Những biến đổi kinh tế - xã hội của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh từ sau 1975”. Từ những năm 90 của thế kỷ XX cho đến nay, ngày càng có nhiều nhà khoa học chú ý tới lĩnh vực văn hoá tinh thần, đặc biệt là tín ngưỡng, văn hoá, tôn giáo của người Hoa, tiêu biểu là tác phẩm của các tác giả: Phan An, Trần Hồng Liên, Phan Thị Yến Tuyết, Phan Ngọc Nghĩa, xuất bản 1990, với tiêu đề “Chùa Hoa thành phố Hồ Chí Minh”, tác phẩm trình bày chi tiết về quá trình hình thành các cơ sở tín nguỡng – tôn giáo của người Hoa cùng với mô thức kiến trúc, nghệ thuật trang trí, điêu khắc, thờ tự và sinh hoạt lễ hội ở các cơ sở tín ngưỡng tôn giáo này. Công trình “Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Cửu Long” của tác giả Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, xuất bản năm 1990. Công trình này đã miêu tả phần văn hoá tinh thần của các dân tộc, trong đó có người Hoa ở Nam Bộ với những nội dung đề cập đến hệ thống thờ tự của người Hoa trong gia đình cũng như ở các cơ sở tín ngưỡng dân gian. Cũng trong năm này, một nhóm nghiên cứu dưới sự chủ biên của tác giả Phan An đã tiến hành công trình nghiên cứu “Người Hoa ở Quận 6”. Năm 1992, Viện Khoa học xã hội và Ban công tác người Hoa tiếp tục tập hợp nghiên cứu đề tài “Phát huy tiềm năng của người Hoa trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hồ Chí Minh”. Năm 1994, cuốn “Xã hội người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh sau 1975” do tác giả Mạc Đường chủ biên được xuất bản đã đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, từ tên gọi, địa bàn, phân bố dân cư, vị trí xã hội, kinh tế, văn hoá và nhấn mạnh vai trò tín ngưỡng - tôn giáo trong việc định hướng những chuẩn mực nhân cách của người Hoa. Luận án Phó tiến sĩ khoa học kinh tế của tác giả Trần Hồi Sinh với đề tài “Người Hoa trong nền kinh tế thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” cung cấp những hiểu biết thiết thực về hoạt động kinh tế của người Hoa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, đặc điểm vai trò, và vị trí của người Hoa trong hoạt động kinh tế ở thành phố Hồ Chí Minh, đây là một tác phẩm nghiên cứu sâu về hoạt động kinh tế của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2000, Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản cuốn “Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ” do tác giả Nguyễn Cẩm Thuý chủ biên, đây là công trình nghiên cứu tổng thể về quá trình di dân, định cư và sinh hoạt của người Hoa trên đất Nam Bộ, có nhiều tư liệu quan trọng để tác giả tham khảo. Cũng Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 2005, xuất bản cuốn“Người Hoa ở Nam Bộ” của tác giả Phan An, tác phẩm nghiên cứu một cách tổng quan về hoạt động của người Hoa ở Nam Bộ, chủ yếu là ở thành phố Hồ Chí Minh và ở Sóc Trăng. Tác phẩm đã cung cấp cho tác giả một định hướng nghiên cứu ban đầu để nghiên cứu về người Hoa ở Đồng Nai. Tình hình nghiên cứu ở Đồng Nai: Trước năm 1975, nhà nghiên cứu Lương Văn Lựu đã biên soạn bộ “Biên Hoà sử lược toàn biên” gồm 5 quyển (đã xuất bản 2 quyển), nội dung giới thiệu về vùng đất Biên Hoà – Đồng Nai sau ba thế kỷ hình thành , đặc biệt tài liệu đánh máy (quyển 5) chưa xuất bản với nhan đề “300 năm người Việt gốc Hoa”, đây là một nguồn tài liệu quý hiếm viết về quá trình nhập cư và phát triển của cộng đồng người Hoa đến Biên Hoà – Đồng Nai trước năm 1954 (nhưng rất tiếc hiện nay đã bị thất lạc, tác giả luận văn không tiếp cận được). Năm 1998, Ban chỉ đạo Lễ kỉ niệm 300 năm vùng đất Biên Hoà – Đồng Nai đã xuất bản cuốn “Biên Hoà – Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển”, đây là công trình địa chí thu nhỏ, khái quát về sự hình thành và phát triển của vùng đất Biên Hoà – Đồng Nai suốt 300 năm. Trong phần Văn hoá – xã hội, công trình đã giới thiệu về lịch sử di cư và sinh hoạt văn hoá – xã hội của người Hoa ở Đồng Nai từ năm 1679 (sự kiện Trần Thượng Xuyên cùng nhóm di thần nhà Minh từ Trung Quốc sang xin thần phục Nam triều được chúa Nguyễn cho vào khai khẩn vùng đất Đông phố - Biên Hoà còn hoang sơ) cho tới quá trình sinh hoạt văn hoá của cộng đồng người Hoa ở Biên Hoà hiện nay. Năm 2001, tỉnh Đồng Nai xuất bản bộ “Địa chí Đồng Nai” có 5 tập (tổng quan, địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hoá – xã hội), ở mỗi tập đều có nhắc đến đóng góp của người Hoa ở từng lĩnh vực cụ thể. Tác phẩm “Cù Lao Phố - lịch sử và văn hoá” do tập thế Nhà Bảo tàng Đồng Nai biên soạn, đuợc Nhà xuất bản Đồng Nai xuất bản năm 1998 cũng đề cập đến vai trò và vị trí của người Hoa trong buổi đầu xây dựng cảng thị Cù Lao Phố trở thành một trung tâm thương mại sầm uất một thời ở Nam Bộ. Năm 2002, tạp chí Xưa và Nay xuất bản sách “Miền Đông Nam Bộ lịch sử và phát triển” của nhiều tác giả, trong đó có bài “Tín ngưỡng của người Hoa ở Đồng Nai” của tác giả Huỳnh Văn Tới, nội dung của bài viết phần nhiều đề cập đến quá trình giao thoa văn hóa về tín ngưỡng giữa hai dân tộc Hoa và dân tộc Việt. Năm 2001 và 2002, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh Uỷ và Uỷ Ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, Sở Văn hoá thông tin và Nhà Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành khảo sát cơ sở tín ngưỡng và lễ hội của người Hoa trên đại bàn tỉnh Đồng Nai. Kết quả của hai đợt khảo sát đã đuợc tổng kết trong công trình biên khảo “Khảo sát cơ sở tín ngưỡng và lễ hội của người Hoa ở Đồng Nai”. Năm 2005, Nhà xuất bản Đồng Nai xuất bản công trình “Văn hoá Đồng Nai (sơ thảo)” của hai tác giả Huỳnh Văn Tới và Phan Đình Dũng, đây là tập hợp những chuyên khảo về văn hoá dân gian ở Đồng Nai, trong đó có một vài chuyên khảo về người Hoa. Gần đây, tháng 5/2008, Ban Dân vận Tỉnh Ủy Đồng Nai vừa công bố công trình nghiên cứu “Người Hoa trong cộng đồng các dân tộc ở Đồng Nai”. Đây là công trình duy nhất ở Đồng Nai nghiên cứu về người Hoa một cách khá toàn diện, nhưng đề tài này mới chỉ tập trung nghiên cứu giai đoạn từ 1995 đến 2005. Nhìn chung, tình hình nghiên cứu về người Hoa ở Đồng Nai một cách tổng quát chưa nhiều. Vì vậy, luận văn “Người Hoa ở Đồng Nai” góp phần nghiên cứu về cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai một cách toàn diện. Đây là một việc làm thiết thực, vừa mang ý nghĩa khoa học vừa mang ý nghĩa thực tiễn. Đó cũng là những cố gắng sẽ đuợc thể hiện trong nội dung luận văn “Người Hoa ở Đồng Nai 1954 – 2005”. 4.2 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài: Một người Hoa ở Chợ Lớn, ông Tsai Mawkuey, đã bảo vệ luận án Tiến sĩ “Người Hoa ở miền Nam Việt Nam” tại Paris năm 1968. Đây là một công trình nghiên cứu về người Hoa ở miền Nam – tập trung ở Sài Gòn, có nhiều tư liệu đáng chú ý. Riêng về kinh tế của người Hoa, tác giả đã đưa ra một số thống kê từ Phòng thương mại Hoa kiều ở Chợ Lớn và các ngân hàng của người Hoa. Nghiên cứu về người Hoa một cách toàn diện có tác phẩm “Người Hoa tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Huy, xuất bản tại Pari năm 1993, cung cấp một nguồn tư liệu về hoạt động của người Hoa tại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, nhất là các chính sách của chính quyền đối với người Hoa ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Cũng trong năm 1993, tại Singapore tác giả Trần Khánh đã xuất bản sách “Cộng đồng người Hoa với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam”. Trong công trình này, tác giả đã có sự hệ thống các số liệu kinh tế của người Hoa ở Sài Gòn trước năm 1975 và ở thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975. 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu - Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu về người Hoa của các tác giả đi trước. Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã vận dụng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong việc nghiên cứu tổng quan về người Hoa ở Đồng Nai. Đồng thời việc nghiên cứu còn dựa trên những cơ sở, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về việc nghiên cứu dân tộc, trong đó có dân tộc Hoa. Để thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử, luận văn đặc biệt chú ý đến mọi mặt hoạt động và đời sống vật chất, tinh thần của cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai giai đoạn 1954- 2005. - Phương pháp logích cũng được sử dụng khi luận văn rút ra những nét đặc trưng của người Hoa ở Đồng Nai, để từ đó thấy được sự đa dạng của người Hoa ở Nam Bộ. - Phương pháp điền dã cũng được thể hiện qua luận văn là sự quan sát trực tiếp hoạt động của những cơ sở kinh tế, nhà cửa, những tổ chức xã hội, những cơ sở tín ngưỡng, những lễ hội văn hoá tiêu biểu của người Hoa ở Đồng Nai. - Ngoài những phương pháp cơ bản kể trên, để có thể tiếp cận một cách tốt nhất. những vấn đề được nêu ra, tác giả luận văn còn sử dụng những phương pháp của những ngành khoa học liên quan như: xã hội học, dân số học, thống kê học....Ngoài ra các biện pháp kỹ thuật như: chụp ảnh, ghi âm, quay phim... cũng được tác giả sử dụng nhằm minh họa một số nội dung thiết yếu của luận văn. - Nguồn tài liệu Mục đích, nội dung và những vấn đề cần phải giải quyết của luận văn “Người Hoa ở Đồng Nai 1954 – 2005” đã đặt tác giả trước một công việc cụ thể nhưng phức tạp. Đó là việc thu thập, chọn lọc và hệ thống tài liệu. + Ở nguồn tài liệu thư tịch: Luận văn sử dụng những tư liệu của các nhà nghiên cứu từ thế kỷ XIX đến tài liệu mới nhất là năm 2008, bao gồm các xuất bản phẩm chuyên khảo về người Hoa ở Việt Nam, ở miền Nam, ở Đồng Nai. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng những bài nghiên cứu được công bố trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí nghiên cứu lịch sử, Dân tộc học, Văn hoá dân gian, Văn hoá nghệ thuật, Xưa và Nay, và các trang web có nội dung liên quan đến đề tài. Đặc biệt, là nguồn tài liệu được lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, thành phố Hồ Chí Minh; Thư viện Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh; Thư viện khoa học tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh; Thư viện tỉnh Đồng Nai; Thư viện Bảo tàng Đồng Nai; Thư viện Trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh những hệ thống tư liệu nghiên cứu, tác giả còn sử dụng một số văn bản về pháp lệnh tôn giáo, tín ngưỡng, các chỉ thị của Nhà nước, của Chính phủ, của Ban Dân vận Trung ương về công tác người Hoa lưu trữ tại Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai, Mặt Trận tổ quốc Tỉnh Đồng Nai. Khi nghiên cứu người Hoa dưới chính quyền Sài Gòn ở miền Nam, tác giả đã sử dụng một số tư liệu về chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở Việt Nam, ở Đồng Nai, nhất là những tư liệu đề cập đến hoạt động kinh tế của người Hoa ở Đồng Nai giai đoạn 1954 – 1975. + Ở nguồn tài liệu thu thập qua điền dã dân tộc học, tác giả đã: Tiến hành khảo sát một số cơ sở sản xuất tiêu biểu của người Hoa ở Đồng Nai với những nghành nghề truyền thống còn được lưu giữ và phát huy thế mạnh ở thời hiện tại - khảo sát một số cơ sở sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo tiêu biểu của người Hoa ở Đồng Nai từ buổi đầu khai phá cho đến nay. Ngoài ra, tác giả còn phỏng vấn, trao đổi về những vấn đề liên quan đến hoạt động kinh tế, văn hoá tinh thần của một số gia đình và một số Hội quán của người Hoa ở Đồng Nai. Những đợt khảo sát đó, đã cho ra những cứ liệu tương đối xác thực nhằm nghiên cứu người Hoa ở Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay một cách toàn diện và chân thực. Chương 1 - QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA Ở ĐỒNG NAI 1954 – 2005. Vùng đất Đồng Nai thuộc về chúa Nguyễn năm 1620, khi Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái thứ hai là công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II (1618 – 1628). Nhà vua Chey Chetta II đã tặng Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên một phần lãnh thổ là vùng đất Đồng Nai làm quà cưới. Đồng Nai hiện nay có 36 cộng đồng tộc người cùng sinh sống. Trong đó người Kinh (Việt) chiếm 91,3% dân số, tiếp theo là người Hoa xếp thứ hai, kế đến là các cư dân bản địa như Châu Ro, Châu Mạ, Stiêng… Trên 90% người Hoa trong cả nước định cư ở Nam Bộ. Đông nhất là ở thành phố Hồ Chí Minh (gần 50%) và kế đến là Đồng Nai (11,81%) Trước khi người Việt và người Hoa đến Đồng Nai, cư dân bản địa ở đây là người Khơme đã khai thác vùng đất này. Khi đến đây, người Việt và người Hoa tiếp tục công cuộc khai thác và cải tạo vùng đất “toàn là rừng rậm ấy” để có một Đồng Nai phồn thịnh và tươi đẹp như ngày hôm nay. Cùng với quá trình đó, là quá trình hình thành cộng đồng người Hoa trên ở đất Đồng Nai với lịch sử hơn 300 năm. 1.1 Chính sách của các chính quyền đối với người Hoa di cư đến Việt Nam Trước tình trạng di cư đông đảo của người Hoa đến Việt Nam, các chính quyền thống trị của Việt Nam trong lịch sử đã có những thái độ và chính sách khác nhau đối với người Hoa di cư đến Việt Nam. Những chính sách ấy đã tác động đến quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở Việt Nam, trong đó có Đồng Nai. Đồng thời những chính sách ấy, cũng quyết định diễn trình kinh tế, diễn tiến văn hóa của cộng đồng người Hoa ở đất Đồng Nai nói riêng và Việt Nam nói chung. 1.1.1 Thời kỳ trước năm 1954 Năm 1679, nhóm người Hoa theo Trần Thượng Xuyên đã xin phép chúa Nguyễn được tỵ nạn chính trị ở Việt Nam. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã tỏ ra rất thông cảm và đối xử với nhóm người Hoa này một cách rất tử tế: “...bèn khiến đặt yến tiệc đãi họ, an ủi, khen ngợi, cho các tướng lãnh y chức cũ, phong thêm quan tước mới, khiến vào ở đất Đông phố để mở mang đất ấy. Họ được các tướng Vân Trình, Văn Chiêu hướng dẫn; binh thuyền tướng sĩ Long Môn của Dương Ngạn Địch, tiến vào cửa Lôi Lạp, theo cửa Đại, cửa Tiểu, đến định cư ở Mỹ Tho, binh lính tướng sĩ Cao, Lôi, Liêm của Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình tiến vào cửa biển Cần Giờ rồi lên định cư ở xứ Bàn Lân, xứ Đồng Nai” [28, tr.110]. Đây là sự kiện đánh dấu sự có mặt đầu tiên của người Hoa ở đất Đồng Nai. Người Hoa được phép khai khẩn những vùng đất “màu mỡ, có đến ngàn dặm”, “ khai hoang đất ấy để ở” [28, tr.110]. Triều Nguyễn đã khuyến khích lưu dân người Hoa khai hoang, lập đất. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép:“Đất Nông Nại (…) phép tắc hãy còn khoan dung giản dị”. Ngay cả việc trưng thuế cũng “tùy thuộc lòng dân, không hề ràng buộc, cốt sao khiến dân khai hoang mở đất cho thành ruộng lập nên thôn xã mà thôi”. Nếu so với các dinh trấn phía Bắc thì phép tắc ở Đồng Nai – Gia Định “còn rất khoang dung mà thuế lệ cũng còn nhẹ” [28, tr.115]. Như vậy, người Hoa đến đất Đồng Nai được các chúa Nguyễn cho lưu trú và tạo điều kiện cho được định cư lâu dài ở vùng đất mới, nên người Hoa ở Đồng Nai, nhóm theo Trần Thượng Xuyên chịu ơn, chịu nghĩa các chúa Nguyễn. Vì thế, khi Hoàng Tiến tướng dưới quyền của Dương Ngạn Địch chống lại chúa Nguyễn thì người Hoa đã đi theo và ủng hộ chúa Nguyễn đánh bại Hoàng Tiến. Điều đó cho thấy sự biết ơn sâu sắc và lòng trung thành của họ đối với các chúa Nguyễn ở buổi đầu khi đến đất Đồng Nai. Họ sẵng sàng bảo vệ sự an nguy của các chúa Nguyễn mỗi khi có nguy biến, họ cũng sẵn sàng chấp nhận những mất mát và hy sinh để chứng tỏ lòng trung thành của mình. Vì thế, mà các chúa Nguyễn có những chính sách ưu ái để người Hoa ở Đồng Nai có thể an tâm lập nghiệp và định cư lâu dài ở đây. Những chính sách của các chúa Nguyễn đối với người Hoa thực chất là chính sách của chúa Nguyễn đối với công cuộc Nam tiến. Để hoàn thành công cuộc này chúa Nguyễn buộc phải có những chính sách để người Hoa yên tâm, tin tưởng vào chính quyền cai trị, và tất nhiên đến lượt mình họ tất sẽ trở thành lực lượng tích cực cho công cuộc đó. Nếu như dưới thời các chúa Nguyễn người Hoa được ưu đãi bao nhiêu, thì dưới thời Tây sơn, người Hoa lại bị thất sủng bấy nhiêu. Một trong những nguyên nhân giải thích cho sự thất sủng đó là do năm 1776, khi Nguyễn Lữ tiến quân vào Gia Định thì một thương nhân người Hoa tên là Lý Tài (trước theo Tây Sơn), đã đánh lại và gây thiệt hại cho quân Tây Sơn rất nhiều tại cầu Tham Lương. Nhưng cuối cùng đội quân của Lý Tài bị Nguyễn Lữ đánh bại. Sau đó, Nguyễn Lữ đã chiếm được thương cảng lớn nhất tại Cù Lao Phố là Nông Nại Đại Phố (Biên Hòa), tịch thu và chở hết những vật liệu kiến trúc quý của người Hoa (gạch ngói tráng men, cột đá cẩm thạch, bàn ghế xảm xà cừ) về Quy Nhơn. Từ đó mối quan hệ giữa Tây Sơn và người Hoa luôn ở trong tình trạng căng thẳng. Người Hoa ở Đồng Nai đã chuyển về định cư tại Sài Côn (TPHCM) lập Chợ Lớn để tiếp tục buôn bán sau sự kiện này. Thế nhưng, sau khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây sơn, lập ra triều Nguyễn năm 1802, thì người Hoa lại dành được ưu thế. Các vua triều Nguyễn, đặc biệt là vua Gia Long, rất biết ơn cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai nói riêng và Nam Bộ nói chung vì những cống hiến của họ đối với công cuộc xây dựng chính quyền của nhà Nguyễn. Để tỏ lòng biết ơn, năm 1787, Nguyễn Ánh cho thành lập bốn bang ngữ phương lớn gốc Hoa tại miền Nam, gồm các bang: Quảng Đông (廣東), Phúc Kiến (福建), Triều Châu (潮州), và Hải Nam (海南), để điều hành các vấn đề nội bộ trong cộng đồng người Hoa. Có thể nói, đây là lần đầu tiên, người Hoa ở hải ngoại được phép thành lập những tổ chức quản trị độc lập với nền hành chính của chính quyền địa phương. Bốn bang này đuợc hưởng nhiều đặc quyền trong sinh hoạt: thủ tục hành chính đơn giản, việc kiểm soát cư trú được bãi miễn, thuế khóa nhẹ nhàng. Sau này, theo yêu cầu của người Hoa, bốn bang này đã đuợc cải tổ lại thành bảy bang: Phúc Kiến, Phúc Châu, Triều Châu, Quảng Châu, Quế Châu, Lôi Châu và Hải Nam. Bang chúng trong các bang này được hưởng mọi quyền lợi như người Việt, mà không phải chịu các nghĩa vụ như: đi lính và nộp các thứ thuế định kỳ. Điều này chỉ diễn ra dưới thời Gia Long, các triều vua tiếp sau đó đã không ưu đãi người Hoa như thời Gia Long nữa. Năm 1841, sau khi Gia Long mất, những khu tự trị của người Hoa ở Đồng Nai và miền Tây dần dần bị hủy bỏ. Đến năm 1843, thời Thiệu Trị, có lệnh không cho người Hoa trở về Trung Quốc. Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ (1859 – 1862), Pháp đã dành cho người Hoa ở đây những quyền lợi ngang bằng hoặc hơn cả người Việt. Năm 1862, nhằm đánh thuế và kiểm tra sự di cư bất hợp pháp, chính quyền thuộc địa cho ban hành thuế thân và cho lưu hành thẻ kiểm tra đối với những người Hoa sinh sống tại Nam Kỳ. Năm 1867, chính quyền thuộc địa Pháp cho người Minh Hương (明香人 _明鄉人) những quyền như người Việt. Năm 1884, sau khi hoàn tất việc chiếm đóng Việt Nam và muốn giữ quan hệ ngoại giao tốt với Trung Hoa, chính quyền thuộc địa Pháp công nhận người Hoa sống tại Việt Nam là công dân của Trung Hoa. Ngày 9/6/1885, Pháp ký với Trung Hoa hiệp ước Thiên Tân lần thứ nhất xác nhận quy chế bình đẳng của Hoa kiều sống tại Việt Nam: được an toàn về tính mạng và tài sản, nhưng những người này phải có thẻ lưu trú và đóng thuế thân. Hiệp ước Thiên Tân ký lần thứ hai ngày 24/4/1886 cho phép người Hoa đi lại tự do và được thành lập những cơ sở kinh doanh trên khắp lãnh thổ Nam Kỳ. Tại Đồng Nai, thực dân Pháp có những chính sách tạo thuận lợi cho người Hoa nhập cư với mục đích kinh tế là chủ yếu, người Hoa đến Đồng Nai trong giai đoạn này chủ yếu bổ sung cho nguồn nhân lực làm việc ở các đồn điền cao su. Trong cùng thời điểm này Sài Gòn cũng là nơi thu hút người Hoa đến đông nhất với những chính sách ưu đãi của thực dân Pháp. Kể từ ngày 03/08/1900, Hội đồng Nam Kỳ đã quyết định miễn thuế cho người Hoa mới đến Nam Kỳ, khỏi phải nộp tiền đăng bạ trong năm đầu mới đến. Nhưng đến ngày 12/1/1907, Hoa kiều phải đóng các thứ thuế: - Thuế nhập cư (tân đáo): 6 đồng - Thuế thân cho người 18 tuổi trở lên: 15 đồng - Thuế công sưu: được miễn khi quá 35 tuổi - Phụ thu cho quản hạt: ít nhất bằng hai sắc thuế thân và nhập cư cộng lại; nếu có đóng thuế môn bài và ruộng đất thì cộng lại không quá 4.000 đồng. - Thuế huê lợi: để được cấp giấy thông hành khi mới đến hoặc ra đi: 2 đồng (trẻ em, phụ nữ và số đàn ông được miễn thuế thân). Thuế hêu lợi để được cấp giấy thông hành đi khắp Đông Dương (đối với nhà buôn giàu có là 15 đồng). Năm 1935, chánh tham biện Buy-ten-Mô-rít-xơ (Butel Maurice) liệt người Hoa thuộc diện ngoại kiều châu Á, đồng hóa với người Việt Nam, đàn ông phải nộp thuế thân hàng năm là 30 đồng và phụ thu 2 đồng. Ngày 28/2/1948, chính phủ Pháp và chính quyền Tưởng Giới Thạch kí thỏa ước Trùng Khánh dành cho Hoa kiều qui chế tối huệ quốc (最恵國槼制). Những sự kiện trên cho thấy dưới thời Pháp thuộc, người Hoa ở Việt Nam được chính quyền sở tại ưu đãi. Trên cơ sở đó, họ dần dần khẳng định chỗ đứng của mình trong lĩnh vực kinh tế, và trong xã hội Việt Nam. Như vậy, thời kỳ trước 1954, chính sách của các chính quyền đối với người Hoa ở Việt Nam là: Ở thời kỳ các chúa Nguyễn đã có những chính sách như: cho phép người Hoa được khai hoang những vùng đất trù phú ở Đồng Nai để định cư và lập nghiệp, chính sách này nằm trong chính sách Nam tiến của các chúa Nguyễn. Thời kỳ đầu nhà Nguyễn (Gia Long), lần đầu tiên 4 bang của người Hoa được thành lập, người Hoa sinh sống ở Việt Nam được hưởng mọi quyền lợi như người Việt, mà không phải chịu các nghĩa vụ như: đi lính, miễn thuế định kỳ. Nói chung, chế độ phong kiến Việt Nam đều có những thể chế tạo điều kiện thuận lợi cho người Hoa di cư sang Việt Nam được an cư, lạc nghiệp và hòa nhập vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đến khi chính quyền thuộc địa Pháp cai trị: Người Hoa sinh sống tại Việt Nam được hưởng quy chế ngoại kiều (多橋槼制). 1.1.2 Thời kỳ 1954 – 1975 Sau hiệp định Giơnevơ (1954) người Hoa ở Việt Nam mất điểm tựa chính trị của chính quyền thuộc địa Pháp, chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1955 – 1975) không công nhận những đặc quyền mà chính quyền Pháp đã dành cho người Hoa sinh sống tại miền Nam. Theo nhận định của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ: “Người Hoa tuy phần lớn đã sống lâu đời ở Việt Nam, nhưng không vì thế mà không tổ chức nhau lại thành một cộng đồng riêng biệt, một khối chặt chẽ gồm 700.000 người tập trung chủ yếu ở Chợ Lớn, một Chinatown (thành phố Tàu) thực sự nằm lọt trong lòng thành phố Sài Gòn, có ban quản lí riêng, có trường học và bệnh viện riêng. Là những thương gia học lõi, nhiều người Hoa đứng làm trung gian giữa các công ty lớn của Pháp, rồi của Mĩ với dân chúng Việt Nam. Món lợi lộc dồi dào từ viện trợ Mĩ đã giúp c._.ác nhà kinh doanh Chợ Lớn xây dựng nhanh chóng nhiều xí nghiệp quan trọng và nắm giữ guồng máy chính yếu của nền kinh tế Sài Gòn, bằng cách liên kết với một số bộ trưởng và tướng lĩnh Sài Gòn” [74; tr. 493]. Nhận định trên cho thấy, thế lực kinh tế của người Hoa thời kỳ này là rất lớn. Vì ở đất Nam Bộ, người Hoa có mặt ngay từ buổi đầu khai phá, nên cơ sở hạ tầng cũng như quan hệ kinh tế của họ đã bén rễ từ lâu. Những đặc quyền, đặc lợi dưới thời Pháp thuộc đã làm cho thế lực kinh tế của người Hoa ở miền Nam nói chung phát triển khá thuận lợi. Một bộ phận doanh nhân gốc Hoa đã lớn mạnh lên rất nhiều, trong khi đó doanh nhân người Việt dưới thời Pháp thuộc thì hầu như vắng bóng. Vì vậy, chính quyền Sài Gòn (1954 – 1975), muốn nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lệ thuộc kinh tế vào thế lực người Hoa ở miền Nam, nên chính quyền đã có những chính sách nhằm hạn chế ảnh hưởng kinh tế sâu rộng của người Hoa trong xã hội miền Nam. Ở tỉnh Biên Hòa, năm 1957, Hồ Văn Sĩ (tỉnh trưởng tỉnh Biên Hòa) cho áp dụng một loạt các dụ của chính quyền Sài Gòn về người Hoa như: Điều 12 trong Dụ số 10 quy định bộ luật về quốc tịch Việt Nam ngày 07/12/1955 ghi rõ: “con chính thức mà mẹ là người Việt Nam, và cha là người Trung Hoa, nếu sinh đẻ ở Việt Nam” thì là người Việt Nam. Như vậy, tất cả trẻ em gốc Hoa, kể cả con cái người Hoa kiều, đều là người Việt Nam. Thời hạn ấn định cho những Huê kiều sinh tại Việt Nam phải làm khai, để được cấp thẻ căn cước là ngày 08/04/1957, việc kiểm tra sẽ hoàn tất vào ngày 22/06/1957. Giới Huê kiều ở Biên Hòa không tỏ rõ thái độ trước việc ban hành Dụ số 12, đa số họ chờ đợi phản ứng trước từ Đô thành Sài Gòn về vấn đề nhập tịch (2/1957). Số Huê kiều đến xin nhập tịch ở Biên Hòa theo thống kê trong năm 1957, kể từ sau khi Dụ số 10 ban hành được 18 tháng như sau: Bảng1.1: Số Hoa kiều xin nhập tịch từ tháng 3/1957 đến 6/1957 Thời gian Số Hoa kiều xin nhập tịch 03/1957 35 người 04/1957 43 người 05/1957 675 người 06/1957 1.855 người (Nguồn: Trung tâm lưu trữ quốc gia II, TPHCM) Dụ số 48 ngày 21/8/1956: Điều 16 quy định: Hoa kiều thổ sanh (sinh trưởng tại Việt Nam) sẽ là người Việt Nam, bắt buộc phải nhập và khai nhận quốc tịch Việt Nam, hoặc xin hồi hương (về Đài Loan), trước ngày 31/8/1957. Năm 1957, có 44.947 Huê kiều thổ sanh đã ghi tên tình nguyện về Đài Loan, chính phủ Sài Gòn đã cấp cho những người hồi hương này 400.00 $ Việt Nam theo luật định. Dụ số 53 ngày 6/9/1956: Chỉ định những nghề nghiệp mà các ngoại kiều, hay các Hội xã, công ty ngoại quốc không được hoạt động (gồm 11 nghề) bao gồm: - Buôn bán cá và thịt; - Buôn bán chạp phô; - Buôn bán than củi; - Buôn bán xăng, dầu lửa và dầu nhớt (trừ các hãng nhập cảng); - Cầm đồ bình dân; - Buôn bán vải sồ, tơ lụa (dưới 10.000 thước tính chung các thứ), chỉ sợi,….; - Buôn bán sắt, đồng thau vụn; - Buôn bán ngũ cốc; - Nhà máy xay lúa; - Buôn bán ngũ cốc; - Chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng xe hơi, hay tàu thuyền; - Trung gian ăn huê hồng. Thể hiện sự bất bình của mình trước những đạo dụ trên, giới Huê kiều ở miền Nam tẩy chay không hút thuốc điếu và không tiêu thụ thịt heo. Chính quyền Sài Gòn đã phải xoa dịu dư luận bằng cách cấp cho 4.500 Huê kiều thất nghiệp mỗi người được 200.00$. Việc này được diễn ra tại phòng thương mại Chợ Lớn trong tháng 7/1957. Tại Đồng Nai, lệnh đình chỉ hoạt động kinh doanh của Hoa kiều được áp dụng trước ngày 06/09/1956 một ngày rưỡi, nhưng họ vẫn được quyền giữ hàng tồn kho. Dụ số 58 ngày 25/10/1956: Tạo điều kiện cho Hoa kiều dễ dàng nhập quốc tịch Việt Nam, khuyến khích họ hợp tác, hùn vốn kinh doanh hoặc sang tên cho vợ con là người Việt. Chính phủ Đài Loan cũng chấp nhận cho Hoa kiều nhận Việt Nam làm quê hương, với ý ngầm cho hưởng chế độ hai quốc tịch để giữ bản sắc Trung Hoa. Qua bốn đạo dụ trên, chính quyền Sài Gòn muốn người Hoa sinh sống tại Việt Nam, trong đó có Đồng Nai nhanh chóng hội nhập hoàn toàn vào đời sống xã hội Việt Nam. Trước chính sách hội nhập của chính quyền Sài Gòn, người Hoa đã kịch liệt phản đối. Giới Huê kiều đã thành lập “Việt Nam Huê kiều để chế mỹ hóa ủy viên hội” (hội Hoa kiều tẩy chay hàng hóa Mỹ tại Việt Nam) ngày 27/05/1957 để phản đối việc chính quyền Sài Gòn cho ban hành những đạo luật trên. Tóm lại, những chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở Việt Nam: Về kinh tế, cấm Hoa kiều làm 11 nghề, nhằm hạn chế ảnh hưởng kinh tế sâu rộng của người Hoa. Về chính trị, người Hoa đang sinh sống ở Việt Nam buộc phải nhập quốc tịch Việt Nam, những Hoa kiều nào đang sinh sống tại Việt Nam mà không chịu nhập quốc tịch thì sẽ bị trục suất về Đài Loan. Thực chất chính sách này nhằm ngăn chặn ảnh hưởng kinh tế sâu rộng của Hoa kiều trong xã hội miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ. Nếu như ở giai đoạn trước 1954, quá trình hội nhập của người Hoa trên đất Nam Bộ nói chung và đất Đồng Nai nói riêng diễn ra một cách tự nguyện, dựa trên tinh thần tương thân, tương ái, thì đến thời điểm này, vì mục tiêu giành lại quyền chủ động trong kinh tế mà chính quyền Sài Gòn đã đẩy một bộ phận người Hoa ra khỏi xã hội Việt Nam. Chính quyền thời kỳ này đã không phát huy được sức mạnh đoàn kết của cộng đồng các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Điều đó đồng nghĩa với việc cản trở tiến trình hội nhập một cách tự nguyện, vốn có của người Hoa vào xã hội Việt Nam nói chung và Đồng Nai nói riêng. Tuy nhiên, là một trong những cộng đồng tộc người có công xây dựng đất Đồng Nai ngay từ buổi đầu khai phá, nên ngay trong giai đoạn khó khăn và mất lòng tin vào chính quyền nhất, thì người Hoa ở Đồng Nai vẫn xem đất Đồng Nai là mảnh đất mà cha ông họ đã khó khăn vất vả mới gầy dựng được, nên các yếu tố dân tộc vẫn tồn tại và phát triển. Trong thời gian này, Đồng Nai vẫn là nơi thu hút người Hoa đến sinh cơ và lập nghiệp. Điều này chứng tỏ ý thức sẵn sàng hội nhập của cộng người Hoa vào cộng đồng các dân tộc anh em ở Đồng Nai. 1.1.3 Thời kỳ 1975 – 2005 Sau năm 1975, nước nhà thống nhất, người Hoa tiếp tục cùng với nhân dân các dân tộc ở Việt Nam đoàn kết dưới lá cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, tích cực tham gia xây dựng chính quyền cách mạng, bảo vệ trật tự, trị an, phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội. Vấn đề về người Hoa đã được Đảng Cộng Sản Việt Nam quan tâm. Ngay từ khi Đảng mới được thành lập, Đảng nhận định: người Hoa chủ yếu là công nhân và nhân dân lao động, đã có một lịch sử lâu đời, cùng đồng cam, cộng khổ và sát cánh cùng các dân tộc ở Việt Nam đấu tranh cách mạng chống kẻ thù chung ở Việt Nam. Trong quá trình cách mạng, qua từng giai đoạn, Đảng đã đề ra những chỉ thị, chủ trương, và chính sách cụ thể về công tác người Hoa ở Việt Nam, để các ngành, các cấp thi hành, nhằm vận động, tổ chức người Hoa cùng với nhân dân các dân tộc khác trên lãnh thổ Việt Nam đoàn kết chặt chẽ phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình hội nhập của cộng đồng người Hoa vào xã hội Việt Nam đã từng có những thăng trầm. Những năm 1978 – 1979, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc có chiều hướng xấu, vụ “nạn kiều” đã gây nên những cản trở nhất định đối với tiến trình hội nhập của cộng đồng người Hoa vào xã hội Việt Nam. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị 53 – CT/TW về “chính sách đối với cán bộ, đảng viên người Hoa” và tiếp sau đó là Chỉ thị 74 – CT/TW cụ thể việc nhận biết người Hoa tiến bộ để bảo vệ, đồng thời đưa người Hoa đi sơ tán khỏi các địa bàn giáp biên giới Việt Nam – Trung Quốc để tránh có những thiệt hại về tính mạng khi có chiến sự xảy ra giữa hai nước. Để tiến trình hội nhập của người Hoa vào xã hội Việt Nam tiến triển một cách thuận lợi, chỉ thị 10/TW (ngày 17/11/1982) và chỉ thị 256 (ngày 11/10/1986) của chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã khẳng định: “Người Hoa là công dân Việt Nam, được hưởng mọi quyền và làm mọi nghĩa vụ của công dân Việt Nam, đoàn kết người Hoa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa”. Theo tinh thần trên, người Hoa tại Việt Nam được hưởng quyền lợi công dân Việt Nam về đủ các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với lợi ích của người Hoa trên khắp Việt Nam. Với việc thừa nhận tính hợp pháp của người Hoa trong xã hội Việt Nam, Nhà nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện cho người Hoa yên tâm hơn, tin tưởng hơn vào việc lựa chọn Việt Nam, trong đó có Đồng Nai là quê hương của mình. Tiếp sau đó, ngày 8/11/1995, Ban Bí thư Trung Ương Đảng ban hành Chỉ thị số 62 – CT/TW “Về tăng cường công tác người Hoa trong tình hình mới”, nêu lên 4 nguyên tắc cơ bản: Một là, người Hoa là công dân Việt Nam. Là một thành phần dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt Nam theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, thực hiện mọi chế độ, chính sách chung của Đảng và Nhà nước như các dân tộc khác. Hai là, tăng cường đoàn kết người Hoa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ba là, mục tiêu của công tác người Hoa nhằm nâng cao đời sống vật chất – tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của người Hoa. Bốn là, những Hoa kiều nhiều năm sinh sống ở nước ta, nay xin nhập quốc tịch Việt Nam hoặc những người gốc Hoa được công nhận là công dân Việt Nam xin chuyển sang quốc tịch nước ngoài thì căn cứ vào Luật quốc tịch để giải quyết. Chỉ thị cũng phân biệt rõ người Hoa (華人) và Hoa kiều (華橋) ở Việt Nam : - “Người Hoa bao gồm những người có gốc Hán và những người thuộc dân tộc ít người ở Trung Quốc đã Hán hóa di cư sang Việt Nam và con cháu của họ sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, đã nhập quốc tịch Việt Nam, nhưng vẫn còn giữ những đặc trưng văn hóa, chủ yếu là ngôn ngữ, phong tục tập quán của dân tộc Hán và tự nhận mình là người Hoa” - “Hoa kiều là những người có cùng nguồn gốc dân tộc với người Hoa, nhưng không nhập quốc tịch Việt Nam”. Nguyên tắc cơ bản từ trước tới nay, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam từ trước tới nay đối với cộng đồng người Hoa luôn thể hiện sự quán triệt quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Một số chính sách cụ thể từ chủ trương có tính nguyên tắc: người Hoa là công dân Việt Nam là một thành phần trong cộng đồng các dân tộc Viêt Nam, được hưởng mọi quyền lợi và thực hiện mọi nghĩa vụ của công dân Việt Nam. Trong việc giải quyết mọi vấn đề của người Hoa ở Việt Nam, Đảng đều xuất phát từ quan điểm và lập trường của giai cấp công nhân và coi đó là một bộ phận trong vấn đề chung của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc ở Việt Nam, nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập của người Hoa vào xã hội Việt Nam. Có thể nói chủ trương, chính sách của Đảng ta đối với cộng đồng người Hoa từ trước đến nay là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quyền lợi của người Hoa và quy luật phát triển tất yếu của lịch sử. Những chủ trương, chính sách ấy thể hiện sự quan tâm đặc thù đến các mặt của cộng đồng người Hoa nhằm phát huy tính tích cực, hạn chế tiêu cực trong cộng đồng người Hoa ở Việt Nam. Ở Đồng Nai, trước sự kiện “nạn kiều”, tháng 5/1980, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Nai đã chỉ đạo Ban dân vận Mặt trận tỉnh tổng kết công tác người Hoa và tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành thông tri số 21 – TT/TU (ngày 30/05/1980) chỉ đạo “về một số công tác trước mặt đối với vùng Hoa, Nùng, Tày di cư ở nông thôn” và Thông tri số 43/TT – TU (ngày 17/03/1981) về “Tăng cường công tác tuyên truyền vận động đối với người Hoa”. Ở vùng nông thôn, tình trạng người Hoa chỉ làm nhà tạm bợ, không kiên cố, đầu tư sản xuất không bền vững là có xảy ra, còn ở thành phố Biên Hòa cũng xảy ra tình trạng nghỉ việc, vượt biên. Mặc dầu có bị ảnh hưởng bởi sự kiện trên, nhưng trong thời gian này, Đồng Nai lại trở thành nơi tếp nhận 3.300 hộ /17.600 người Hoa từ các tỉnh miền Bắc và miền Trung vào đây lập nghiệp. Điều đó cho thấy Đồng Nai là vùng đất trù phú, giàu tiềm năng và nhiều hứa hẹn. Và kể từ khi có chỉ thị 62 – CT/ TW, Tỉnh ủy Đồng Nai có công văn số 678 – CV/TU, ngày 20/11/1995, chỉ đạo các cấp ủy Đảng quán triệt chỉ thị 62 – CT/TW của Ban Bí thư; đồng thời tổ chức hội nghị quán triệt cho tất cả cán bộ chủ chốt. Ban Dân vận Tỉnh ủy, cơ quan tham mưu của Tỉnh ủy về công tác dân vận, ngày 1/11/1996, đã có kế hoạch số 02 – KH/DV Hướng dẫn triển khai thực hiện Chỉ thị 62 – CT/TW của Ban Bí thư. Tiếp đến, ngày 27/11/1996, chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ra chỉ thị số 53/CT – UBT về thực hiện một số nhiệm vụ công tác đối với người Hoa. Từ đó, người Hoa ở Đồng Nai yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ Việt Nam, một bộ phận khá đông đã đầu tư sản xuất, phát triển kinh tế gia đình, xây dựng nhà cửa, trường học, cơ sở tín ngưỡng… Tóm lại, chính sách của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa đối với người Hoa ở Việt Nam : Về chính trị : người Hoa được gia nhập các đoàn thể chính trị, kinh tế, được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam. Về kinh tế : người Hoa được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ như mọi công dân Việt Nam. Về văn hóa : Giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc người Hoa. Về giáo dục : Có quyền và nghĩa vụ học tập như các dân tộc khác. Như vậy, người Hoa tại Việt Nam, mà đại đa số là công nhân và nhân dân lao động, có một vận mệnh gắn bó chặt chẽ với nhân dân các dân tộc Việt Nam và cách mạng Việt Nam. Người Hoa ở Việt Nam đã trở thành một thành viên trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, đó là một thực tế, là sự phát triển tất yếu, khách quan của quy luật xã hội, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của bất cứ chính quyền nào trong xã hội Việt Nam. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, các chính quyền đều có những chính sách khác nhau đối với người Hoa đã và đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Những chính sách đó đều nhằm mục đích quản lý người Hoa, khuyến khích họ hội nhập vào xã hội Việt Nam, cũng như tận dụng những ưu thế của họ trong công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam. 1.2 Quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai 1954 - 2005 1.2.1 Thời kỳ trước năm 1954 Khi nhà Thanh đánh bại nhà Minh năm 1697, thống trị toàn bộ đất Trung Hoa, thì nhiều cuộc di tản lớn từ Trung Hoa đến những vùng lân cận đã xảy ra. Việc xin tỵ nạn chính trị của hai vị tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch (Tổng binh quận Long Môn, tỉnh Quảng Tây, Trung Hoa) cùng phó tướng Hoàng Tiến và Trần Thượng Xuyên (Tổng binh các quận Cao - Lôi – Liêm, tỉnh Quảng Đông) cùng phó tướng Trần An Bình, không chịu hàng nhà Thanh mang 3.000 quân bản bộ là một trong những đợt di tản đó. Những người này đa số là binh lính, thương nhân và một số quý tộc phong kiến thuộc các nhóm Hải Nam, Triều Châu, Hẹ và Quảng Đông. Khi đến Đồng Nai họ đã vỡ đất phá rừng, đào kênh, cất phố, lập chợ... Khi định cư, người Hoa thường chọn những vị trí thuận lợi cho việc giao thông (những vùng đất cao cạnh mé sông), để tiện lợi cho hoạt động thương mại và tập trung khai thác những vùng đất mới. Nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên dẫn đầu đã nhìn thấy Cù Lao phố có những điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh, buôn bán và đã phát triển Cù Lao Phố thành một thương cảng lớn ở Nam Bộ. Khi định cư ở đất Đồng Nai, người Hoa đã lấy vợ là con gái người Việt, con gái người Khơme (cư dân bản địa), sinh con và xây dựng gia đình. Trong quá trình chung sống với cư dân người Việt và người bản địa, người Hoa vẫn duy trì nền văn hóa của dân tộc mình, đồng thời phổ biến nền văn hóa đó. Sau khi tạm ổn định việc cư trú và muốn phát triển vùng đất mới, một số thương nhân gốc Hoa từ Singapo, Mã Lai theo lời kêu gọi của Trần Thượng Xuyên cũng đã đến Đồng Nai lập nghiệp. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc định dư lâu dài của người Hoa và người Việt ở vùng đất mới, năm 1698, chúa Nguyễn đã cho tổ chức lại xứ Đồng Nai – Gia Định. Chúa Nguyễn đã xác lập được chủ quyền của mình ở đất Đồng Nai, đồng thời với việc xác lập chủ quyền đó thì chúa Nguyễn cũng tổ chức và sắp xếp cho người Hoa tập trung tại xã Thanh Hà (清河), kéo dài từ Bàn Lân đến Bến Gỗ, là xã đầu tiên được thành lập tại Đông phố, Trấn Biên dinh. Từ đó người Hoa trở thành công dân Việt Nam với đầy đủ nhiệm vụ và quyền lợi. Sau khi ổn định cuộc sống, người Hoa đã cùng với người Việt xây dựng Cù Lao Phố trở thành một thương cảng sầm uất một thời nhờ giao thương đuợc với nước ngoài. Những biến động chính trị lớn từ Trung Hoa thường là nguyên nhân của những đợt di tản lớn của người Hoa đến các nước lân cận. Sau cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911, nhiều nhóm người Hoa thuộc các bang Hải Nam, Triều Châu, Quảng Đông đã di cư sang Việt Nam. Họ là những thương nhân, thợ thủ công đến lập nghiệp tại Biên Hòa, Đồng Nai. Nhất là khi thực dân Pháp tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 – 1929), nhiều đợt di dân lớn từ Trung Hoa được Pháp cho nhập cư vào Việt Nam để khai thác mỏ quặng tại miền Bắc và trồng cây công nghiệp tại Đồng Nai. Khác với những đợt di dân trước, lớp người Hoa này phần lớn đến đất Đồng Nai mang theo đầy đủ thân tộc, thành phần nữ giới cũng được tăng cường hơn so với trước. Và sau khi chính phủ Pháp và chính quyền Tưởng Giới Thạch ký thỏa ước Trùng Khánh ngày 28/2/1948, dành cho Hoa kiều quy chế tối huệ quốc, một số người Hoa đến Đồng Nai sinh sống và cư trú ở các địa bàn: Phước Thiền (huyện Nhơn Trạch), Bến Gỗ (Long Thành), Bến Cá (Vĩnh Cửu), Long Khánh và thành phố Biên Hòa. Về sau, do ảnh hưởng điều kiện kinh tế, xã hội, nhóm người Hoa này sinh sống tập trung tại thành phố Biên Hòa và một bộ phận ở Long Khánh. Người Hoa ở Đồng Nai là một trong những cư dân cùng với người Việt và cư dân bản địa mở mang, khai phá vùng đất ở buổi đầu hoang sơ. Và cùng với quá trình ấy cộng đồng người Hoa đã được hình thành. Thời kỳ này đặt nền móng cho quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai. 1.2.2 Thời kỳ từ 1954 đến 1975 Sau chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 7 năm 1954, chiến tranh chấm dứt trên toàn Đông Dương, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền. Một làn sóng di cư mới của người Hoa đến các tỉnh Nam Bộ, trong đó có Đồng Nai đã diễn ra một cách ồ ạt, trên một quy mô lớn. Nếu như ở thời kỳ trước nơi xuất phát của làn sóng di cư là các tỉnh cưc Nam của Trung Quốc, thì điểm xuất phát của làn sóng di cư thời kỳ này là các tỉnh giáp biên giới phía Bắc của nước ta, chủ yếu là tỉnh Hải Ninh (nay là tỉnh Quảng Ninh). Vào năm 1954, 1/3 dân số của tỉnh Hải Ninh, khoảng 30.000 người, đã di cư vào Nam, dưới sự chỉ huy của Voòng A Sáng (tỉnh trưởng tỉnh Hải Ninh) cùng một số binh lính. Họ đã mang theo gia quyến vào miền Nam, khi vào Nam họ đã tập kết ở khu vực sông Mao (huyện Bắc Bình – Bình Thuận). Một đặc tính rất cơ bản của người Hoa khi chọn nơi sinh sống thường là những nơi có điều kiện giao thông thuận lợi, đất đai màu mỡ. Trong khi đó, khu vực sông Mao (Bình Thuận) khí hậu khắc nghiệt, đất ở đây thì nhiều cát, thiếu nước tưới tiêu không phù hợp với việc làm ruộng của người Hoa khi di cư đến đây. Vì vậy mà khu vực sông Mao (Bình Thuận) không phải là lựa chọn dừng chân trong quá trình di cư vào miền Nam Việt Nam của họ. Vùng đất Đồng Nai, với những thành công của những lớp người Hoa đi trước đã thu hút số người Hoa này. Khi đến đây, họ sống tập trung thành từng khu vực ở xã Bàu Hàm – Sông Thao (Thống Nhất) trên 9.500 người, xã Phú Lộc trên 5.500 người, xã Cây Gáo 6.700 người. Tập trung đông nhất là ở xã Phú Hoa (nay là 3 xã: Phú Vinh, Phú Lợi, Phú Tân) thuộc huyện Định Quán gần 29.000 người. Ngoài ra, họ còn tập trung ở các phường: Tân Phong, Bình Đa (Biên Hòa); xã Bảo Bình, Xuân Bảo (Cẩm Mỹ); thị trấn Xuân Lộc (Long Khánh). Số cư dân người Hoa đến Đồng Nai trong giai đoạn này chiếm hơn 80% dân số người Hoa ở Đồng Nai hiện nay. Đa số họ sống ở nông thôn, là những nông dân chuyên làm rẫy: trồng lúa, các loại đậu, thuốc lá, cây ăn trái ngắn và dài ngày. Số cư dân người Hoa đến Đồng Nai giai đoạn này quyết định cả số lượng và cơ cấu dân cư người Hoa ở Đồng Nai hiện nay [64]. Thời kỳ này đất Đồng Nai không chỉ tiếp nhận làn sóng di cư của người Hoa, mà còn có cả người Việt với một số lượng khá đông đảo. Với vị trí địa lý thuận lợi, giàu tiềm năng Đồng Nai trở thành vùng đất đón nhận số lượng di dân lớn của mọi miền khi đến miền Nam. Đây là quá trình người Hoa tiếp tục hội nhập vào xã hội Đồng Nai, cũng như Việt Nam. Tuy nhiên thời kỳ này, miền Nam dưới sự cai trị của chính quyền Sài Gòn, quá trình hội nhập của người Hoa có lúc bị gián đoạn do chính sách của chính quyền đối với cộng đồng người Hoa ở Việt Nam. Nếu ở thời kỳ trước 1954 là thời kỳ định hình, đặt nền móng cho quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai, thì thời kỳ này (1954 – 1975) là đỉnh cao của quá trình đó, là thời kỳ quyết định số lượng người Hoa hiện nay ở Đồng Nai. 1.2.3 Thời kỳ từ 1975 – 2005 Sau năm1975, người Hoa đến đất Đồng Nai chủ yếu là người Hoa từ các tỉnh phía Bắc Việt Nam và các địa phương khác trong miền Nam. Sự kiện năm 1979 (chiến tranh Việt – Trung), cả nước có 34 vạn người Hoa ra đi, người Hoa ở Đồng Nai cũng có phần dao động. Người Hoa ở Đồng Nai chỉ còn 85.000 người, chiếm 9,1% tổng số người Hoa tại Việt Nam. Một số bộ phận người Hoa trong cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai do dao động, đã vượt biên giới trở về Trung Hoa. Số còn ở lại thì cũng lo lắng về số phận của mình, họ chỉ làm nhà tạm bợ, sơ sài, ít đầu tư vào sản xuất kinh doanh, làm cho sản xuất thời kỳ này của người Hoa không chỉ ở Đồng Nai mà khắp nơi trong cả nước đều bị ảnh hưởng ít nhiều. Tại Đồng Nai, đến năm 1979, tổng số người Hoa ở Đồng Nai (địa bàn rộng hơn tỉnh Đồng Nai hiện nay) là 85.000 người, chiếm 9,1% tổng số người Hoa ở Việt Nam [5, tr. 49]. Sau khi chỉ thị 62 và Nghị quyết 10 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ra đời năm 1995, thì người Hoa ở Việt Nam thật sự yên tâm và tin tưởng vào chính quyền. Người Hoa sinh sống ở Đồng Nai cùng với người Hoa sinh sống ở khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam đều là công dân Việt Nam, với đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của công dân. Như vậy, người Hoa đến Đồng Nai vào ba thời kỳ chính, lịch sử di dân và định cư của người Hoa suốt mấy thế kỷ qua gắn liền với sự hình thành và phát triển của đất Đồng Nai. Và dù ở thời kỳ nào, họ đều được nhân dân Đồng Nai đón nhận và cùng chung lưng đấu cật xây dựng một Đồng Nai giàu mạnh. Buổi đầu đến đất Đồng Nai để tỵ nạn chính trị, họ không mang theo gia quyến nên đã lấy con gái người Việt, người bản địa làm vợ, sinh con, và định cư lâu dài ở đây. Vả lại, đất Đồng Nai thuở đó gần như “vô chủ”, cuộc sống của họ ở vùng đất mới này cũng có phần dễ dàng hơn. Trong quá trình sống ở đất Đồng Nai, người Hoa đã cải tạo vùng đất “toàn là rừng rậm” trở thành một vùng đất màu mỡ, sầm uất. Những lớp người Hoa sau này đến đất Đồng Nai cũng bởi đây là vùng đất dễ kiếm sống. Những lớp người Hoa đầu tiên đã góp phần biến đất Đồng Nai thành vùng “đất hứa” cho những người Hoa muốn an cư lập nghiệp tại Đồng Nai. Những biến động lịch sử đã không thể cản bước của người Hoa đến với đất Đồng Nai giàu tiềm năng và nhiều hứa hẹn. Ngay cả khi người Hoa trên khắp Việt Nam hoang mang tìm đến những vùng đất mới, thì Đồng Nai vẫn là vùng đất thu hút người Hoa đến an cư lập nghiệp vì thành công của những lớp người Hoa đi trước. Họ đã đến và định cư tại các xã Lang Minh (huyện Bảo Lộc), xã Bảo Bình (huyện Cẩm Mỹ). Những cư dân này đến đất Đồng Nai theo thể tự do. Từ 1990 – 2000, số người Hoa ở các tỉnh phía Bắc vào Đồng Nai là 3.331 hộ, với 17.647 khẩu [67]. Dù đến Đồng Nai ở bất kỳ thời điểm lịch sử nào, dưới bất kỳ chính quyền nào, người Hoa đều được nhân dân Đồng Nai đón nhận, sát cánh, xây dựng một Đồng Nai giàu mạnh, bền vững. 1.3 Dân số, dân cư trong cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai (1954 – 2005) 1.3.1 Dân số Số người Hoa ở Đồng Nai thời kỳ trước 1954: hiện nay chưa có thống kê đầy đủ về số người Hoa ở Đồng Nai giai đoạn này. Tuy nhiên, khởi đầu nhóm người Hoa đến cùng Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch là khoảng 3.000 người, một số vào đất Biên Hòa, Gia Định lập nghiệp, số còn lại theo nhóm Dương Ngạn Địch định cư ở Định Tường (Mỹ Tho và Tiền Giang). Số người Hoa ở Đồng Nai thời kỳ 1954 – 1975: Theo số liệu của Địa phương chí tỉnh Biên Hòa (1956) thì tổng số người Hoa ở đây là 7.147 người, chiếm tỷ lệ 2,4% (dân số toàn tỉnh Biên Hòa lúc ấy là 298.653 người). Nếu so sánh với thời kỳ trước 1954 thì tỷ lệ tăng tự nhiên của người Hoa giai đoạn này là không đáng kể, góp phần vào sự gia tăng dân số người Hoa ở Đồng Nai thời kỳ này là sự kiện năm 1954, nhóm người Hoa từ Hải Ninh đến Đồng Nai để sinh cơ, lập nghiệp. Bảng 1.2: Diễn biến dân số tộc người Hoa ở Đồng Nai 1980 - 2005 Năm Số người Hoa Dân số toàn tỉnh Tỷ lệ 1980 71.225 1.082.894 6,58% 1985 87.883 1.333.696 6,59% 1990 88.087 1.638.840 5,37% 1995 98.600 1.843.702 5,35% 1999 102.444 1.990.678 5,15% 2000 104.949 2.042.166 5,14% 2005 116.412 2.218.900 5,25% (Nguồn: Cục thống kê tỉnh Đồng Nai) Qua phân tích, so sánh số lượng người Hoa ở từng thời kỳ ta thấy, tỷ lệ tăng dân số của người Hoa chủ yếu là qua các đợt di dân (tăng cơ học), tỷ lệ tăng tự nhiên là không đáng kể. Số người Hoa năm 1980 có giảm so với 1979 là do sự kiện “nạn kiều”. Nhưng từ những năm 1990 trở đi, số di dân người Hoa đến Đồng Nai không đáng kể, đa số di dân đến Đồng Nai từ 1990 trở đi ở Đồng Nai là người Việt, đến Đồng Nai tập trung ở những khu công nghiệp lớn, vì vậy mà tổng số dân toàn tỉnh tăng lên. Nên từ những năm 90 trở đi, tỷ lệ số dân người Hoa so với số dân toàn tỉnh có chiều hướng giảm đi rõ rệt. Ở Đồng Nai, huyện Trảng Bom là huyện có tỷ lệ tăng tự nhiên của người Hoa là đáng kể, từ năm 2001 có 19.998 người thì đến 2005 đã tăng lên 22.354 người. 1.3.2 Dân cư Người Hoa đến Đồng Nai gồm nhiều tầng lớp, nhiều thành phần, từ tầng lớp giàu có đến công nhân làm thuê. Thành phần của di dân người Hoa đến Đồng Nai cũng khá phức tạp. Ở buổi đầu họ vốn là quan lại và binh lính không chịu thần phục nhà Thanh, họ thà đến lập nghiệp nơi đất khách quê người chứ không chịu cộng tác với nhà Thanh đương triều. Họ đến đất Đồng Nai mà trong lòng vẫn canh cánh một lòng “phản Thanh phục Minh”, nhưng họ vẫn cần phải xây dựng đất Đồng Nai trở thành vùng “đất hứa” cho những người Hoa có cùng tư tưởng và niềm hy vọng như họ. Ngoài thành phần kể trên, lớp người Hoa đến Đồng Nai ở những thời kỳ sau này đa số là nông dân, thợ thủ công và thương nhân, họ là dân lao động, tìm đến đất Đồng Nai với mong ước có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Người Hoa có mặt ở hầu hết các đơn vị phường, xã, thị trấn của các huyện, thành phố thuộc địa bàn Đồng Nai. Tại các huyện, số người Hoa cư trú phần lớn là cộng đồng người Hoa đến từ sau 1954. Còn số người Hoa ở Biên Hòa đa số đến Đồng Nai trước 1954. Số lượng người Hoa được phân bố ở thành phố, và các huyện như sau: Bảng 1.3: Phân bố dân cư tộc người Hoa ở tỉnh Đồng Nai STT Đơn vị Số người Hoa Dân số toàn TP/huyện Tỷ lệ % 1 Định Quán 34.221 217.282 15,75% 2 Trảng Bom 22.354 192.410 11,62% 3 Cẩm Mỹ 17.410 153.912 11,31% 4 TX.Long Khánh 9.979 141.210 7,07% 5 Biên Hòa 7.876 541.495 14,55% 6 Tân Phú 7.417 166.462 4,46% 7 Xuân Lộc 6.670 213.483 3,12% 8 Long Thành 6.038 209.605 2,88% 9 Vĩnh Cửu 1.868 108.467 1,72% 10 Thống Nhất 1.795 153.299 1,17% 11 Nhơn Trạch 784 121.267 0,65% TỔNG CỘNG 116.412 2.218.892 5,25% (Nguồn: Ban Dân vận tỉnh Đồng Nai, 2005 ) Những số liệu trên đây cho thấy, người Hoa mặc dù đến vùng Cù Lao Phố nay thuộc thành phố Biên Hòa đầu tiên, nhưng số lượng người Hoa ở đây không phải là đông nhất tỉnh Đồng Nai. Ở Đồng Nai, huyện Định Quán có số người Hoa đông nhất tỉnh, ít nhất là huyện Nhơn Trạch. Trên toàn tỉnh có hai xã không có người Hoa cư trú là: xã Gia Tân I (huyện Thống Nhất), và xã Bình Hòa (huyện Vĩnh Cửu). Tại huyện Định Quán có 14/14 xã, thị trấn của huyện đều có người Hoa sinh sống, nhưng 91,9% tổng số người Hoa của toàn huyện lại nằm trong 3 xã: Phú Lợi, Phú Vinh, Phú Tân (trước năm 1975 là xã Phú Hoa). Tại huyện Trảng Bom, đây là huyện có số người Hoa đông thứ hai, sau huyện Định Quán. Các xã có số người Hoa tập trung sinh sống là: xã Bàu Hàm, Sông Thao, Cây Gáo, Thanh Bình, Sông Trầu. Tại huyện Cẩm Mỹ, huyện có số người Hoa đông thứ ba ở tỉnh Đồng Nai, cư dân người Hoa sống tập trung tại các xã: bảo Bình, Xuân Bảo, Xuân Tây. Tổng số người Hoa của 3 xã này lên tới 13.588 người, chiếm 78% tổng số người Hoa trên địa bàn huyện. Tỉnh Đồng Nai có 4 xã có số người Hoa chiếm trên 50% dân số đó là các xã: Sông Thao (53,4%), Bàu Hàm (66,22%), Phú Vinh (64,38%), Phú Lợi (81,59%). Ở mỗi huyện, tùy theo tình hình kinh tế - chính trị mà số người Hoa cũng thường xuyên biến động. Huyện Định Quán từ năm 2000 đến 2005 có 2.241 người Hoa chuyển đến các tỉnh như Lâm Đồng, Bình Phước, thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai tập trung đông ở nông thôn, sống bằng nghề làm rẫy là chủ yếu, còn người Hoa ở Biên Hòa chuyên về dịch vụ. Cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai phân bố không đều, có nơi không có người Hoa nào cư trú, ngược lại, có nơi lại có sự tập trung cư dân nhiều. Người Hoa ở Đồng Nai phân bố theo điều kiện kinh tế - xã hội. “Các lớp người Hoa vùng Quảng Đông, Phúc Kiến, nhập cư, giỏi nghề buôn bán, sinh sống tại các thị tứ; người Triều Châu, người Hẹ có truyền thống nghề rẫy khai thác các vùng trung du ở Định Quán, Tân Phú, Xuân Lộc….”[20, tr.34]. Đa số người Hoa ở Đồng Nai theo đạo Phật, số còn lại theo Công giáo, Cao đài, Tin lành được phân bố ở các TP, huyện như sau: Bảng 1.4: Dân cư theo tôn giáo của tộc người Hoa ở Đồng Nai. Tôn giáo STT Đơn vị Số khẩu Công giáo Cao đài Tin lành 1 Định Quán 34.221 0 0 102 2 Trảng Bom 22.354 0 0 0 3 Cẩm Mỹ 17.410 34 0 0 4 TX.Long Khánh 9.979 0 0 0 5 Biên Hòa 7.876 47 0 102 6 Tân Phú 7.417 51 04 05 7 Xuân Lộc ._. kiên quyết đập tan những âm mưu và hoạt động của các thế lực phản động trong và ngoài nước chia rẽ và phá hoại sự đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, lợi dụng người Hoa phá hoại cách mạng Việt Nam. - Đẩy mạnh công tác cải tạo XHCN, giáo dục động viên những người Hoa làm nghề buôn bán chuyển dần sang lao động sản xuất gia công chế biến, dịch vụ… - Xây dựng và phát triển lực lượng cán bộ quần chúng người Hoa nhất là trong các cơ sở đường phố, thôn ấp có người Hoa. - Củng cố bộ phận chuyên trách làm công tác người Hoa, các ngành có liên quan nhiều đến công tác người Hoa cần phân công cán bộ chuyên trách làm công tác này, đồng thời thường xuyên liên hệ và phối hợp với các đoàn thể quần chúng trong công tác giáo dục, vận động người Hoa thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. - Các Bộ, ngành có liên quan như: Nội vụ, Ngoại giao, Quốc phòng, Giáo dục Đại học và Trung học chuyênnghiệp, Văn hóa, xây dựng… cần sớm có văn bản hướng dẫn việc thực hiện chỉ thị. - Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng có trách tổ chức phổ biến chỉ thị này đến các cấp, các ngành và theo dõi kiểm tra việc thực hiện để báo cáo Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. K.T CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG Phó Chủ tịch (Đã ký và đóng dấu) VÕ CHÍ CÔNG 3. CHỈ THỊ 62-CT/TW của BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC NGƯỜI HOA TRONG TÌNH HÌNH MỚI: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Hà Nội, ngày 8-11-1995 BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG Số 62-CT/TW CHỈ THỊ VỀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC NGƯỜI HOA TRONG TÌNH HÌNH MỚI I. TÌNH HÌNH NGƯỜI HOA VÀ CÔNG TÁC NGUỜI HOA 1- Tình hình người Hoa Từ khi thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 17-11-1982 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa V) và Chỉ thị số 256/CT ngày 11-10-1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, đặc biệt là từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, khi quan hệ Việt Nam – Trung Quốc bình thường hóa, tình hình người Hoa ở nước ta phát triển theo xu thế ổn định. Hoạt động kinh tế trong người Hoa có bước phát triển mới cả về quy mô và ngành nghề, đã góp phần vào sự tăng trưởng ở một số địa phương, tạo thêm việc làm cho người lao động. Người Hoa vốn giỏi sản xuất kinh doanh nên hoạt động kinh tế có hiệu quả, phần lớn làm ăn khá hơn trước. Sinh hoạt văn hóa, giáo dục và xã hội trong người Hoa có những mặt tiến bộ. Đa số người Hoa tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng và chính sách của Nhà nước, muốn yên ổn làm ăn. Tuy nhiên, một bộ phận vẫn chưa ý thức đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân Việt Nam, một số người muốn thực hiện chính sách kiều dân. Bên cạnh những mặt tích cực, các hoạt động kinh tế, văn hóa – xã hội của nguời Hoa đã nảy sinh những vấn đề phức tạp, tiêu cực (buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả; hoạt động tôn giáo, lập hộ đòan không theo chính sách và pháp luật…). Một số người đã bỏ về Trung Quốc năm 1978-1979, nay với nhiều lý do muốn trở về Việt Nam. Trong khi đó, một số thế lực nước ngoài đang ra sức tranh thủ ngừơi hoa ở Việt Nam hòng khai thác, lợi dụng để phục vụ chó những ý đồ xấu của họ. 2- Công tác người Hoa Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách chăm lo cuộc sống vật chất và văn hóa của người Hoa, làm cho họ yên tâm sản xuất, kinh doanh và sinh sống ở Việt Nam. Công tác người Hoa trong các cấp, các ngành có hcuyển biến một bước, đã tác động tích cực vào việc ổn định tình hình. Song nhận thức, đánh giá người Hoa và công tác người Hoa chưa đầy đủ và thiếu nhất quán; quản lý nhà nước có nhiều sơ hở, không phân biệt rõ người Hoa với Hoa kiều. Công tác vận động, tập hợp và giáo dục còn nhiều hạn chế, việc xây dựng lực lượng cốt cán trong người Hoa còn rất yếu; bộ máy, cán bộ chuyên trách từ trung ương đến địa phương chưa được kiện toàn. Trước những thay đổi của tình hình trong nước và thế giới, cần điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối với người Hoa cho phù hợp để phát huy tiềm năng của người Hoa trong phát triển kinh tế - xã hội, ngăn ngừa âm mưu thủ đoạn của các thế lực lợi dụng vấn đế người Hoa để chống phá cách mạng. II. MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA 1- Khái niệm về người Hoa và Hoa kiều “Người Hoa bao gồm những nguời gốc Hán và những người thuộc dân tộc ít người ở Trung Quốc đã Hán hóa di cư sang Việt Nam và con cháu của họ sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, đã nhập quốc tịch Việt Nam, nhưng vẫn còn giữ những đặc trưng văn hóa, chủ yếu là ngôn ngữ, phong tục tập quán của dân tộc Hán và tự nhận mình là người Hoa”. Hoa kiều là những người có cùng nguồn gốc với người Hoa, nhưng không nhập quốc tịch Việt Nam. Những người không phải là người Hoa gồm: - Những người thuộc các dân tộc thiểu số của Trung Quốc sang sinh sống làm ăn ở Việt Nam (chủ yếu sống xen ghép với các dân tộc thiểu số tại các tỉnh phía Bắc nước ta). - Người dân tộc thiểu số Việt Nam cùng gốc dân tộc thiểu số của Trung Quốc. - Những người có nguồn gốc là người Hán nhưng hiện nay không dùng tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán của người Hán, sống gắn bó với các dân tộc Việt Nam và đã tự nhận mình là người của một dân tộc trong các dân tộc Việt Nam. 2- Nguyên tắc cơ bản - Người Hoa là công dân Việt Nam, là một thành phần dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được hưởng mọi quyền lợi và thực hiện mọi nghĩa vụ của công dân Việt Nam theo quy định của Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện mọi chế độ, chính sách chung của Nhà nước như tất cả các dân tộc khác. - Tăng cường đoàn kết công tác người Hoa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, cùng nhau phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. - Mục tiêu của công tác người Hoa là nâng cao đời sống mọi mặt và bảo vệ những lợi ích chính đáng của người Hoa, làm cho người Hoa trung thành với Tổ quốc Việt Nam, ngày càng gắn bó, hòa hợp cộng đồng các dân tộc Việt Nam; phát huy mọi khả năng và tiềm năng của người Hoa, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, động viên người Hoa góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phương châm của công tác người Hoa là bình đẳng, đoàn kết, hòa hợp, ổn định, phát triển. - Những Hoa kiều đã nhiều năm sinh sống ở nước ta, nay xin nhập quốc tịch Việt Nam hoặc những người Hoa công dân Việt Nam xin chuyển sang quốc tịch nước ngoài thì căn cứ vào Luật quốc tịch Việt Nam để giải quyết. Việc quản lý Hoa kiều và những người Hoa không nhập quốc tịch Việt Nam đều thực hiện theo quy chế ngoại kiều. Người nước ngoài quan hệ với Hoa kiều theo đúng luật pháp quốc tế và tôn trọng pháp luật của Việt Nam. Người Hoa là người Việt Nam, do Việt Nam quản lý, không để nước ngoài can thiệp. 3- Một số chính sách cụ thể Về chính trị: - Người Hoa được gia nhập các đoàn thể chính trị-xã hội, các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội…đã được thành lập và hoạt động đúng pháp luật. những người có đủ tiêu chuẩn để ứng cử, đề cử vào các cơ quan dân cử, ban chấp hành các đoàn thể nhân dân các cấp và tham gia vào các cơ quan quản lý nhà nước. - Người Hoa đủ tiêu chuẩn được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam theo quy định của Điều lệ Đảng. Cán bộ, đảng viên người Hoa được sử dụng trên cơ sở năng lực và phẩm chất của từng người. Về kinh tế: - Người Hoa được tham gia sản xuất, kinh doanh như mọi công dân Việt Nam khác theo đúng chính sách và pháp luật. - Phát huy khả năng và tiềm năng về vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý của người Hoa. Khuyến khích việc sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông-lâm-ngư-nghiệp và các mặt hàng truyền thống. Động viên người Hoa thu hút vốn, khoa học, công nghệ mới từ thân nhân và nước ngoài đầu tư để phát triển lực lượng sản xuất, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về văn hóa: Giữ gìn và phát huy những tinh hoa văn hóa dân tộc của người Hoa. Khuyến khích những sáng tác văn học, nghệ thuật phản ánh cuộc sống của người Hoa gắn bó với cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường sự giao thoa văn hóa giữa người Hoa với các dân tộc anh em trong nền văn hóa nói chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nghiêm cấm việc lợi dụng văn hóa, nghệ thuật để kích động, chia rẽ người Hoa với các dân tộc khác. Các công trình kiến trúc văn hóa của người Hoa chủ yếu là chùa, miếu được pháp luật thừa nhận thì được pháp luật bảo vệ theo quy định chung của Nhà nước. Nghiêm cấm các hoạt động mê tín, dị đoan hoặc thờ cúng những nhân vật có vấn đề phức tạp trong lịch sử không có lợi cho sự đoàn kết các dân tộc Việt Nam. Về giáo dục: Người Hoa có quyền và nghĩa vụ học tập như các dân tộc khác. Ngoài việc đào tạo theo chưong trình chung, ở những nơi tập trung đông người Hoa cần tạo điều kiện cho học sinh người Hoa được học tiếng Hoa theo chương trình và theo sự quản lý của Bộ giáo dục và đào tạo. Việc mở trường dân lập phải theo quy định chung của Nhà nước. III. CÔNG TÁC NGƯỜI HOA 1- Công tác vận động người Hoa gắn bó, hòa hợp với cộng đồng các dân tộc Việt Nam là công tác lâu dài, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân cần quán triệt sâu sắc những nguyên tắc cơ bản của Đảng về công tác người Hoa để thống nhất nhận thức và hành động. 2- Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động để người Hoa nhận rõ vinh dự và trách nhiệm là công dân Việt Nam, đấu tranh khắc phục ý thức dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi và tư tưởng kỳ thị dân tộc, nâng cao tinh thần cảnh giác với những âm mưu lợi dụng người Hoa gây mất an ninh, trật tự, không có lợi cho khối đại đoàn kết dân tộc. Tích cực vận động người Hoa tham gia vào mặt trận, các đoàn thể nhân dân, các hội quần chúng và các hoạt động xã hội chung. Thường xuyên hướng dẫn những chính sách mới về kinh tế để người Hoa sản xuất kinh doanh đúng pháp luật những vụ việc tiêu cực trong hoạt động kinh tế người Hoa (trốn thuế, lậu thuế, làm hàng giả, thông đồng với người nước ngoài hoặc những cán bộ mất phẩm chất làm trái pháp luật…) làm tổn hại đến lợi ích kinh tế và chính trị của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 3- Các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân cần có kế hoạch cụ thể chăm lo phát triển đảng viên, đoàn viên, hội viên và xây dựng lực lượng cốt cán người Hoa. Lựa chọn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ người Hoa có phẩm chất đạo đức tình cảm cách mạng trong sáng để làm nòng cốt trong công tác người Hoa, phục vụ yêu cầu trước mắt và lậu dài. 4- Củng cố bộ máy và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác người Hoa. Ở những tỉnh, thành phố có đông người Hoa cần có một số cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này đặt trong ban dân vận tỉnh, thành, quận, huyện ủy. Đối với những tỉnh, thành phố có ít người Hoa thì bố trí cán bộ theo dõi công tác này. 5- Ban Dân vận Trung ương, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia và các ban, ngành hữu quan phối hợp nghiên cứu cơ bản, hệ thống vấn đề người Hoa ở Việt Nam nhằm phục vụ việc hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về người Hoa. 6- Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực hoạt động của người Hoa. Trong công tác đối ngoại, cần chú ý loại trừ những tác động xấu từ bên ngoài vào người Hoa ở nước ta. IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN 1- Các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân nghiên cứu quán triệt và có kế hoạch thực hiện chỉ thị này. Ở những tỉnh, thành có đông người Hoa cần lâin hệ kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo trong thời gian qua. 2- Đề nghị Chính phủ thể chế hóa chỉ thị này bằng các văn bản pháp quy của Nhà nước và hướng dẫn thực hiện. 3- Ban Bí thư giao cho Ban Dan vận Trung ương chủ trì phối hợp với các ban của Trung ương Đảng và các bộ, ngành có liên quan tổ chức triển khai và đôn đốc, kiểm tra các cấp, các ngành thực hiện chỉ thị này, hàng năm sơ kết báo cáo Ban Bí thư. 4- Các chỉ thị trước đây trái với nội dung trong chỉ thị này đều bãi bỏ. 5- Chỉ thị này được phổ biến tới cấp ủy cơ sở. Nơi nhận: - Các tỉnh ủy, thành ủy, T/M BAN BÍ THƯ Các ban, ban cán sự đảng, đảng đoàn, (Đã ký và đóng dấu) đảng ủy trực thuộc Trung ương, - Lưu Văn phòng Trung ương Đào Duy Tùng 5. CHÚ GIẢI CÁC THẦN TÍCH TRONG CÁC TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CỦA NGƯỜI HOA Ở ĐỒNG NAI. 1. Quan Thánh Đế Quân Quan Thánh: Vị Thánh họ Quan. Đức Quan Thánh Đế Quân hay gọi đầy đủ là: Đức Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân, là Đệ Tam Trấn Oai Nghiêm, đại diện Đức Khổng Tử, cầm quyền Nho giáo trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ngài có nhiều danh hiệu, xin kể ra sau đây các danh hiệu thường gặp: Quan Công, Quan Thánh, Quan Đế, Nhân Đức Thánh Quân, Phục Ma Đại Đế, Thần Oai Viễn Trấn, Phật Già Lam, Cái Thiên Cổ Phật,…Theo Trung Quốc Sử lược, Ngài bị giết chết năm 219 sau Tây Lịch, và theo truyện Tam Quốc Chí, Ngài bị Tôn Quyền xử trảm, năm đó là năm Kiến An thứ 24, hưởng được 58 tuổi. Do đó, ta có thể suy ngược ra năm sanh của Đức Quan Thánh là: 219 - 57 = 162 sau Tây lịch. Vậy, Đức Quan Thánh sanh năm 162 và mất năm 219 sau Tây lịch, hưởng thọ 58 tuổi. 2. Quan Thế Âm Bồ Tát Quan: Nhìn xem, hình tượng đã xem, ý thức. Thế: đời. Âm: tiếng nói, âm thanh. Quan Thế Âm Bồ Tát là một vị Bồ Tát nhận biết được tiếng kêu cứu của chúng sanh nơi cõi trần, Ngài liền hiện đến để cứu khổ cứu nạn cho chúng sanh. Do đó, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát còn được gọi là: Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát, hay gọi vắt tắt là: Quan Âm Bồ Tát hay Quan Âm Như Lai. Ngài là một vị Nữ Phật, nhưng còn mang danh hiệu Bồ Tát là vì Ngài còn nhiệm vụ cứu độ chúng sanh. Phật giáo Tây Tạng gọi Ngài là Quán Thế Âm Phật, là vị Phật Nam, hộ trợ xứ Tây Tạng. Người Tây Tạng đều tin rằng, chính Ngài chuyển hóa vào thân Đức vua Đạt- Lai-Lạt-Ma cai trị xứ Tây Tạng, nên dân Tây Tạng xem Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma là vị Phật sống của họ. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có một hiện thân gồm 11 cái mặt, 1000 cánh tay, 1000 con mắt, có 108 hồng danh. Ngài ngự tại Đền Potala nơi kinh đô xứ Lhassa, Tây Tạng.Ở Trung Hoa và Việt nam, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là vị Nữ Phật do hai truyện tích: Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Diệu Thiện. Bất cứ hạng người nào trong chúng sanh, khi bị lâm nguy tánh mạng, như gặp phải tai nạn lửa cháy, tai nạn chìm tàu, bị cướp hãm hại, bị tra khảo, tù đày oan ức, v.v.... nếu thành tâm niệm danh hiệu của Ngài để cầu cứu thì Ngài liền hiện đến mà cứu giúp cho tai qua nạn khỏi. 3. Thiên Hậu Thánh mẫu Dưới triều vua Tống Thái Tổ ở Trung Quốc có gia đình họ Lâm ở làng Mi Châu, huyện Bồ Điền, phủ Hưng Hóa, tỉnh Phúc Kiến sinh được 1 trai và 6 cô con gái. Người con gái út có tên là Lâm Mặc Nương sinh vào giờ ngọ ngày 23 tháng 3 năm Canh Thân niên hiệu Kiến Long nguyên niên (960). Từ nhỏ nàng đã tỏ ra thông minh lanh lẹ, 7 tuổi đã đọc xong Tứ thư, Tả truyện, 12 tuổi đã biết ngâm thơ đối đáp, đặt bút thành văn. Năm 13 tuổi, Mặc Nương được một vị đạo trưởng xưng là Huyền Thông truyền thụ bí quyết ngũ hành dị thuật, linh thông biến hóa. Vào mùa thu năm đó cha và anh cả ra biển gặp sóng to gió lớn bị lật thuyền. Lúc ấy nàng đang ngồi dệt vải cạnh mẹ đột nhiên động lòng cảm ứng, xuất thần đi cứu cha và anh. Khi tỉnh dậy, nàng khóc nói với mẹ rằng, cha tuy được cứu nhưng còn anh cả không cứu được, từ đó siêng tu đạo pháp, quyết tâm cứu người gặp nạn trên biển. Năm Lâm Mặc Nương 29 tuổi, vào ngày mùng 9 tháng 9 niên hiệu Thái Tôn Hưng Quốc thứ 13, nàng lên núi Mi Phong tọa hóa thăng thiên, đắc đạo chứng quả. Từ đó về sau Bà thường giáng trần hiển linh độ phước, tế thế cứu dân. Mỗi khi thuyền bè ngoài khơi bị nạn, người dân đều gọi vái đến Bà. Đến đời vua Càn Long nhà Thanh, Bà được triều đình sắc phong là Thiên Thượng Thánh Mẫu. Để ghi nhớ công ơn của Bà, nhân dân Trung Quốc đã lập nhiều đền miễu để thờ Bà, mỗi năm xuân thu nhị tế: ngày 23 tháng 3 là ngày vía bửu đản, ngày 23 tháng 9 là ngày vía thăng thiên. Ở Đồng Nai, người Hoa thờ Thiên Hậu Thánh mẫu tại một số cơ sở chính và phối tự ở một số miếu thờ khác. Các cơ sở thờ bà Thiên Hậu của người Hoa ở Đồng Nai đa số tập trung ở thành phố Biên Hòa với 4 cơ sở chính: Thiên Hậu Cổ Miếu và Thiên Hậu Miếu (Miếu Cây Quăn) ở phường Bửu Long, Thiên Hậu Cung và Thiên Hậu Tự phường Hòa Bình. Ngoài ra có 5 cơ sở tín ngưỡng phối tự Thiên Hậu với Quan Thánh Đế Quân, Kim Hoa nương nương, Linh Sơn Thánh Mẫu, Bà Chúa Xứ, Phật Bà Quan Âm và Phúc Đức Chính thần. 4. Quảng Trạch Tôn vương Nhân vật xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ tên Quách Vĩ đời Hậu Đường, người Phụng Sơn, huyện Nam An, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Ông luyện được bửu pháp trong màu trắng bạch, đậu võ trạng đời Tống. Ông thường dùng pháp thuật độ bá tánh. Ông giúp dân dẹp lọan, sau khi chết hiển linh nên được người Hoa ở Phúc Kiến suy tôn là Quách thánh vương (hay còn gọi là Quảng Trạch Tôn vương). Người Hoa Phước Kiến chọn núi Phụng nơi ông hiển linh đặt tên là “Phụng Sơn Tự”. Lễ vía Quảng Trạch Tôn vương vào ngày 22/2 âm lịch. Ở Đồng Nai, Quảng Trạch Tôn vương được thờ chính ở Phụng Sơn Tự, phường Quyết Thắng – Biên Hòa. 5. Ông Bổn Vị thần được giải thích bằng nhiều nhân vật khác nhau, đó là Bổn Đầu Công hay còn gọi là Phúc Đức Chính Thần hoặc Ông Bổn, là người đã phù hộ và hướng dẫn người Hoa vượt biển bình yên đến cư ngụ ở Nam Bộ và giúp họ làm ăn ổn định, gia đình an khang. Ở tư liệu khác, ông Bổn là hiện thân của Trịnh Hòa (thời Minh) hoặc Châu Đạt Quan (sứ thần nhà Nguyên). Những người nà được xem là phúic thần độ trì của người Hoa di dân. Ông Bổn còn là thần Thành hoàng của làng xã kiêm Thần Tài của người Hoa. Người Hoa Triều Châu tại Nam Bộ đuề thờ bài vị chữ “Thần” ở nhà, họ xem đó là thờ Ông Bổn, là vị thần bảo hộ sự bình yên cho gia đình, làng xóm. 6. Tổ Sư nghề (Tam vị Tổ) Tại miếu Tổ Sư (nay là Thiên Hậu cổ miếu) của người Hẹ, phường Bửu Long, Biên Hòa thờ các vị Tổ Sư của nghề thủ công làm đá. Các vị Tổ Sư được thờ với hình dạng bộ ba tượng tròn bằng đá xanh do các nghệ nhân đá Bửu Long chế tác. Tổ nghề gồm 3 vị là: Ngũ Đăng Tiên Sư (tổ nghề đá), Lỗ Ban Tiên sư (Tổ nghề mộc) và Uấtt Trì Tiên sư (Tổ nghề sắt). Hàng năm vào ngày 13 tháng 6 âm lịch là ngày vía Tổ nghề. Đây chính là ngày vía của Lỗ Ban Tiên Sư Đản thần. 7. Kim Hoa nương Bà là nữ tướng đời nhà Chu (Trung Quốc), còn gọi là Kim Huê, Kim Hoa Thánh Mẫu hay Mẹ Sinh, Mẹ Đậu là nữ thần trong Lục Cung Thánh Mẫu (6 vị nữ thần) của Trung Quốc được phong thần vào thời Khương Tử Nha. Bà giúp các sản phụ sinh nở mẹ tròn con vuông. Bà có 12 đệ tử là 12 bà mụ lo các trẻ sơ sinh mạnh khỏe, gọi là Thập Nhị Huê Bà hoặc Thập Nhị Tiên cô. Người Hoa ở Đồng Nai thờ bà với tên gọi là Mẹ Thai Sanh (vị thần trông nom về việc sinh nở, chữa bệnh cho trẻ con) với quan niệm là “mười hai Mụ Bà và ba Đức Thầy” 8. Tiên cô nương nương Còn gọi là Nương Tơ tiên thường có danh xưng bà Thánh. Người Hoa ở Biên Biên Hòa – Đồng Nai cho rằng: đối tượng thờ cúng chính trong miếu là một phụ nữ người Hẹ, từ Trung Hoa qua Việt nam sinh sống, lập nghiệp tại Biên Hòa từ thế kỷ XVIII. Bà là một phụ nữ bình thường, khi qua đời, làm phép lạ rất hiển linh nên được dân chúng lập miếu thờ. Tương truyền ngôi mộ của bà (ở sau miếu hiện nay) lâu ngày bị sụt xuống, làm lộ các vách hòm. Những người dân trong vùng mắc bệnh hiểm nghèo đến cầu xin và lấy gỗ từ vách hòm về làm thuốc chữa khỏi bệnh. Dân chúng địa phương tin vào sự giúp đỡ của Bà nên đã lấp mộ lại, chỉnh trang và xây miếu thờ Bà với tên gọi miếu Bà Thánh hay miếu Nương Tơ Tiên. 9. Địa Tạng vương Bồ tát Là một vị Bồ tát, danh hiệu Địa Tạng có nghĩa là an nhẫn, bất động như đại địa, tư duy sâu sa kín đáo nh7 kho tàng bí mật. Tiền thân của người là ocn gái dòng họ Bà la môn đầy đủ phước đức, được mọi người cung kính. Biểu tướng của Ngài là người xuất gia, đầu tròn mặc áo cà sa, tay phải cầm tích tượng có 12 khoen, tay trái cầm hạt minh châu, hiện thân là một người Tỳ kheo. Bản nguyện của Ngài là cứu thoát chúng sinh khỏi kiếp địa ngục. Ở Đồng Nai một số cơ sở tín ngưỡng của người Hoa phối thờ Địa Tạng như: miếu Quan Đế Xã Hiệp Phước, Huyện Nhơn Trạch; các nghĩa từ ở Biên Hòa. 10. Phật A Di Lặc Di-lặc hay Di Lặc là “người có lòng từ”, cũng có tên khác là Vô Năng Thắng, là một vị Bồ Tát và cũng là vị Phật cuối cùng sẽ xuất hiện trên trái Đất. Trong Phật giáo Tây Tạng, Bồ Tát Di-lặc được thờ cúng rất rộng rãi. Cõi giáo hóa của Bồ Tát hiện nay là trời Đâu-suất .Theo truyền thuyết, Bồ Tát Di-lặc sẽ giáng sinh trong khoảng 30.000 năm nữa. Không chỉ ở Trung Quốc mà ở cả Việt Nam, Phật Di Lặc là một trong những vị Phật được yêu quý nhất. Phật là người phù hộ cho trẻ em và người nghèo khổ. Người Hoa ở Đồng Nai thờ Phật Di lặc ở các cở sở tín ngưỡng, và theo truyền thống “thần trước, thánh sau”. 11. Nho giáo Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Phu Tử, tên tậh là Khổng Khâu, một nhà cải cách chính trị và cũng là một nhà giáo dục. Khổng Tử sinh sống vào thời nhà Chu. Ông từng đi chu du nhiều nước học hỏi nhiều điều hay, có những tư tưởng lớn, cuối cùng ông trở về quê hương là nước Lỗ dốc hết sức mình cho việc giáo huấn. Sách kinh điển của Nho giáo có Tứ Thư, Ngũ Kinh. Ngũ Kinh là bộ sách gồm 6 cuốn: kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Dịch, và kinh Xuân Thu (kinh Nhạc vốn bị thất lạc nên sau ghép chung thành một thiên trong kinh Lễ). Sau khi Khổng Tử mất, các học trò đã tập hợp những lời dạy của ông viết ra thành 4 cuốn sách gọi là Tứ thư: sách Luận ngữ (các lời bàn luận), sách Đại học (những sự học lớn), Trung dung (ở giữa và trung hòa), Mạnh Tử (triết lý Nho giáo của Mạnh Tử). Ngũ kinh và Tứ thư là hai bộ sách kinh điển của nhà Nho. 12. Phật giáo Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI TCN. Đến thế kỷ thứ II TCN, một sứ thần của vua nước Đại Nguyệt Chi (Trung Á), tới kinh đô Trường An để giảng kinh Phật cho đồ đệ là Cảnh Lư. Cúng có ý kiến cho rằng Phật giáo cũng có thể được du nhập vào Trung Quốc từ thời Hán Vũ đế. Tuy vậy đến đời thứ 10 đời vua Minh đế năm 67 SCN, mới được coi là thời gian lần đầu tiên Phật giáo được truyền tới Trung Quốc. Phật giáo được truyền vào Việt Nam theo hai đường từ phương Bắc (Trung Quốc) truyền xuống và từ phương Nam (Ấn Độ) truyền lên, nên đặc điểm của Phật giáo Việt Nam có những điểm khác so với Phật giáo nguyên thủy và ở một số nơi khác trên thế giới. Đa số người Hoa ở Đồng Nai theo Phật giáo. Các cơ sở tín ngưỡng của người Hoa ở Đồng Nai thường được gọi là chùa như : chùa Ông, chùa Bà… bởi lẽ các cơ sở này ngoài thờ các thần, còn thờ cả Phật nữa. 13. Đạo giáo Đạo giáo hình thành khoảng thế kỷ thứ II từ phong trào nông dân ở vùng Nam Trung Hoa. Dưới thời vua Thuận Đế (126 – 144 SCN), Trương Lăng đã lập ra Ngũ Đẩu Mễ Đạo (có nghĩa các tín đồ gia nhập đạo phải nộp 5 đấu gạo) để truyền bá Đạo giáo cho mọi người. Dưới thời Linh đế nhà Đông Hán, Trương Giao và anh trai đã thành lập Thái Bình đạo đã thu hut hàng trăm ngàn tín đồ. Năm 184 SCN, Trương Giao đã phát động cuộc khởi nghĩa Hoàng Cân (Khăn Vàng), trong đó Thái Bình đạo là lực lượng chính. Cuộc khởi nghĩa thất bại, sức mạnh của Thái Bình đạo đã giảm đi đáng kể. Các tổ chức của Đạo giáo là Ngũ Đẩu Mễ Đạo và Thái Bình Đạo là hai tổ chức có ảnh hưởng lớn nhất của Đạo giáo. Hai tổ chức này lấy Đạo đức kinh (cò gọi là cuốn năm ngàn chữ) của Lão Tử làm kinh sách chính cho Đạo giáo. Cơ sở lý luận của Đạo giáo là Đạo gia, một triết thuyết do lão Tử đề xướng và được Trang Tử hoàn thiện (nên còn gọi là học thuyết Lão – Trang). Những nhà sáng lập ra Đạo giáo như Trương lăng đã tôn Lão Tử như người cha tôn giáo và thờ ông dưới danh hiệu Thái Thượng Lão Quân. Những tư tưởng của Đạo giáo xuất phát từ việc thờ cúng thánh thần và ma quỷ, phép phù thủy, thuật giả kim, các thuyết Âm Dương và Ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). . 6. PHỤ LỤC ẢNH CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI HOA Ở ĐỒNG NAI Ảnh 1: Hoa văn trang trí mái nhà bằng gốm của nghệ nhân người Hoa ở Biên Hòa. (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 2: Phù điêu gốm của nghệ nhân người Hoa ở Biên Hòa. (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 3: Bàn thờ bằng đá do nghệ nhân người Hoa ở Biên Hòa chế tác. (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 4: Các sản phẩm đá của nghệ nhân người Hoa Biên Hòa. (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 5: Một số cơ sở làm đá hiện nay của nghệ nhân người Hoa Biên Hòa. (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 6: Trang phục của nam giới người Hoa trong lễ hội ở Đồng Nai. (Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007) Ảnh 7: Lồng đèn trong lễ hội Kỳ Yên của người Hoa ở Đồng Nai. (Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007) Ảnh 8: Nơi đăng ký thỉnh lồng đèn trong lễ hội Kỳ Yên của người Hoa ở Đồng Nai. (Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007) Ảnh 9: Thỉnh lồng đèn về nhà trong lễ hội Kỳ Yên của người Hoa ở Đồng Nai (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 10: Tín ngưỡng thờ Bà của người Hoa ở Đồng Nai. (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 11: Thờ Tổ Sư nghề ở Chùa Bà Thiên Hậu – Biên Hòa (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 12: Tín ngưỡng thờ Nhân thần của người Hoa ở Đồng Nai.(Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 13: Thờ Quan Âm bồ tát ở Miếu 5 ông phường Bửu Hòa (Biên Hòa). (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 14: Thờ Phật Di Lặc ở Miếu 5 Ông phường Bửu Hòa – Biên Hòa. (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 15: Đình Tân Lân thờ Trần Thượng Xuyên ở Biên Hòa. (Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007) Ảnh 16: Chùa ông (Thất phủ cổ miếu) ở Biên Hòa. (Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007) Ảnh 17: Đền thờ họ Lâm – xã Phú Lợi, huyện Định Quán. (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 18: Đền thờ họ Đường, xã Phú Vinh, huyện định Quán. (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 19: Chùa Quan Âm hộ quốc miếu, xã Phú Vinh, huyện Định Quán. (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 20: Miếu 5 ông, phường Bửu Hòa (Biên Hòa). (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 21: Miếu thờ Thổ thần ở xã Núi Tượng (Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007) Ảnh 22: Chùa Bà Thiên Hậu phường Bửu Long – Biên Hòa (Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007) Ảnh 23: Cách bài trí nhà cửa của người Hoa ở Biên Hòa – Đồng Nai. (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 24: Cách bài trí nhà cửa của người Hoa ở xã Bàu Hàm -Thống Nhất. (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 25: Tục đốt nhiều giấy vàng bạc trong lễ hội của người Hoa ở Đồng Nai (Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007) Ảnh 26: Nghĩa từ Phước Kiến – xã Hóa An – Biên Hòa (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) Ảnh 27: Người Hoa ở Đồng Nai tham gia lễ hội Kỳ Yên – Bửu Long – Biên Hòa (Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007) Ảnh 28: Đoàn Lân – Sư - Rồng của người Hoa ở Đồng Nai tham gia lễ hội Kỳ Yên – Bửu Long – Biên Hòa. (Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007) Ảnh 29: Một cơ sở Hoa văn dân lập của người Hoa ở xã Bàu Hàm – Thống Nhất (Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007) DANH MỤC CHÚ THÍCH NGUỒN ẢNH MINH HỌA Ảnh 1: Hoa văn trang trí mái nhà bằng gốm của nghệ nhân người Hoa Biên Hòa. Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 2: Sản phẩm gốm của nghệ nhân người Hoa Biên Hòa Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 3: Bàn thờ bằng đá do nghệ nhân người Hoa Biên Hòa chế tác Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 4: Các sản phẩm đá hiện nay của nghệ nhân người Hoa Biên Hòa Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 5: Một số cơ sở làm đá hiện nay của nghệ nhân người Hoa Biên Hòa Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 6: Trang phục của nam giới người Hoa ở Đồng Nai trong các lễ hội Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007 Ảnh 7: Lồng đèn trong Lễ hội Kỳ Yên của người Hoa Biên Hòa Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007 Ảnh 8: Nơi dăng ký thỉnh lồng đèn trong Lễ hội Kỳ Yên của người Hoa Biên Hòa Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007 Ảnh 9: Thỉnh lồng đèn về nhà trong Lễ hội Kỳ Yên của người Hoa Biên Hòa Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007 Ảnh 10: Tín ngưỡng thờ Bà của người Hoa ở Đồng Nai. Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 11: Thờ Tổ Sư nghề ở Chùa Bà Thiên Hậu – Bửu Long – Biên Hòa. Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 12: Tín ngưỡng thờ Nhân thần của người Hoa ở Đồng Nai Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 13:Thờ Quan Âm Bồ Tát ở Miếu 5 Ông - Bửu Hòa – Biên Hòa. Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 14: Thờ Phật Di Lặc ở Miếu 5 Ông - Bửu Hòa – Biên Hòa. Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 15: Đình Tân lân thờ Trần Thượng Xuyên ở Biên Hòa Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007 Ảnh 16: Chùa Ông (Thất phủ cổ miếu) ở Biên Hòa Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007 Ảnh 17: Đền thờ họ Lâm – xã Phú Lợi – Định Quán Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 18: Đền thờ họ Đường – xã Phú Vinh – Định Quán Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 19: Chùa Quan Âm hộ quốc miếu – xã Phú Vinh – Định Quán Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 20: Miếu 5 ông phường Bửu Hòa – Biên Hòa. Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 21: Miếu Thổ thần ở xã Núi Tượng - Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007 Ảnh 22: Chùa Bà Thiên Hậu – Bửu Long – Biên Hòa Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 23: Cách bài trí nhà cửa của người Hoa ở Biên Hòa Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 24: Cách bài trí nhà cửa của người Hoa ở xã Bàu Hàm – Thống Nhất Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 25: Tục đốt nhiều giấy vàng bạc trong Lễ hội Kỳ Yên của người Hoa ở Đồng Nai Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007 Ảnh 26: Nghĩa từ Phước Kiến xã Hóa An – Biên Hòa Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007 Ảnh 27: Lễ rước kiệu trong Lễ hội Kỳ Yên của người Hoa ở Đồng Nai Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007 Ảnh 28: Đoàn Lân – Sư – Rồng của người Hoa ở Đồng Nai ham gia Lễ hội. Nguồn: Bảo tàng Đồng Nai năm 2007. Ảnh 29: Một cơ sở Hoa văn dân lập của người Hoa ở xã Bàu Hàm – Thống Nhất Nguồn: Trịnh Thị Mai Linh chụp năm 2007. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7250.pdf
Tài liệu liên quan