Nguồn gốc bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường

a: Phần mở đầu Sự thành công khi thực hiện các chính sách kinh tế luôn là một mục tiêu cơ bản của Đảng và nhà nước ta .Nếu một chính sách phát triển kinh tế không liên quan đến kết quả của chủ thể đặt ra thì chính sách ấy cũng không có tác dụng .Bất kẻ đất nước nào,bất kể ai dù là người đề xuất hay có vai trò xuất sắc ở những công đoạn nào đó của chính sách cũng không thể xây dựng chính sách theo chỉ đạo từ trên xuống như là cưỡi ngựa xem hoa mà bắt buộc phải thực hiện từ cơ sở lên. Nước ta mu

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nguồn gốc bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốn thực hiện chính sách phát triển kinh tế có hiệu quả thì người cầm lái phải là người có hiểu biết sâu rộng trong việc nắm bắt vấn đề để đưa ra các phương án tối ưu.Các chính sách phải hình thành từ sự hiểu biết một cách sâu sắc, những gì mà nó đem lại và những gì mà nó gây ra trong hiện tại, trong tương lai gần, tương lai xa, đứng trên vĩ mô và vi mô . Ngày nay, trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội nền kinh tế của chúng ta đang vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà Nước, chúng ta mong mỏi cho quá trình kinh tế thành công. Vì thế không phải ai khác một tổ chức quốc gia nào khác có thể thực hiện giúp chúng ta mà tự ta phải vận động tự ta phải tìm ra con đường phát triển phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay, điều đó đòi hỏi phải có những chính sách phát triển kinh tế đúng đắn. Muốn thực hiện chính sách phát triển kinh tế có hiệu quả thì người cầm lái phải là người có hiểu biết sâu rộng trong việc nắm bắt vấn đề để đề ra các phương án tối ưu. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ bản chất, nguồn gốc cuả những yếu tố bên trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là yếu tố chính quyết định,thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường.Đó chính là lợi nhuận. Vậy thế nào là lợi nhuận? Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận là gì? Và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào đối với nền kinh tế thị trường mà lại có thể xem nó là nhân tố chính yếu quyết định sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế thị trường, áp dụng lý luận về lợi nhuận như thế nào đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Để tìm hiểu những vấn đề trên em đã chọn đề tài: "Nguồn gốc bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường" để nghiên cứu. Đây là một vấn đề có tầm quan trọng lớn. Qúa trình nghiên cứu phải xuất phát từ các quan điểm của các học thuyết trước Mác kết hợp với lý luận của Mác về lợi nhuận và thực tiễn hiện nay của đất nước ta. Với những hiểu biết còn nhiều hạn chế cùng kinh nghiệm thực tiễn còn non kém chắc chắn đề án của em sẽ không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của thầy cô.Em xin chân thành cảm ơn. b: phần nội dung I:Nguồn gốc bản chất của lợi nhuận. 1.Các quan điểm trước K.Marx về lợi nhuận. 1.1.Quan điểm của trường phái trọng thương . Khi nền phong kiến bước vào thời kỳ suy đồi và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành thì chủ nghĩa trọng thương bước vào thời kỳ quá độ.Nó ra đời phản ánh những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản vào thời kỳ tiền tư bản và nó được phát triển rộng rãi ở các nước tây âu.Mặc dù thời kỳ này chưa biết đến các quy luật kinh tế và còn hạn chế về tính quy luật nhưng hệ thống quan điểm học thuyết kinh tế trọng thương đã tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã hội cho các lý luận kinh tế thị trường sau này phát triển.Điều này được thể hiện ở chỗ họ đưa ra quan điểm sự giàu có không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị của tiền.Mục đích hoạt động của kinh tế hàng hoá thị trường là lợi nhuận.Học thuyế kinh tế trọng thương cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông mua bán trao đổi sinh ra.Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có . Nhưng trong giai đoạn này các nhà kinh tế học chưa nêu quan hệ lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.Giai đoạn đầu của thời kỳ này các nước tư bản đã đưa ra các chính sách làm tăng của cải tiền tệ, giữ cho khối lượng tiền không ra nước ngoài , tập trung buôn bán để nhà nước dễ kiểm tra . Bắt buộc các thương nhân nước ngoài tập trung buôn bán phải dùng số tiền mà họ có mua hết số hàng mang về nước họ. Giai đoạn sau họ dùng chính sách xuất siêu để có chênh lệch mang tiền ra nước ngoài để thực hiện mua rẻ bản đắt..... Những chính sách trên của các nước tư bản chỉ mang tính chất bề mặt nông cạn chứng tỏ quan điểm về lợi nhuận cũng như kinh tế chưa có chiều sâu thực chất.Chính điều này đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong nền kinh tế và đòi hỏi phải có sự thoát khỏi phương pháp kinh nghiệm thuần tuý phải phân nền kinh tế xã hội với tư cách là một chỉnh thể. 1.2.Quan điểm của trường phái cổ điển . 1.2.1.Quan điểm của Kene. Trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương sự hoạt động của tư bản chủ yếu là trong lĩnh vực lưu thông.Do quá trình phát triển của công trường thủ công tư bản đã chuyển sang lĩnh vực sản xuất , lúc này các vấn đề kinh tế của sản xuất đã vượt quá khả năng giải thích của lý thuyết chủ nghĩa trọng thương và học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện. Kene được K.Marx đánh giá là cha đẻ của kinh tế chính trị học cổ điển và ông có công lao to lớn trong lĩnh vực kinh tế. Kene đã đặt nền tảng cho việc nghiên cứu sản phẩm tức là nền móng cho việc nghiên cứu thặng dư sau này . Ông đã đưa ra những quan điểm kinh tế để phê phán chủ nghĩa trọng thương , Kene cho rằng trao đổi thương mại chỉ đơn thuần là việc đổi giá trị này lấy giá trị sử dụng khác theo nguyên tắc ngang giá. Hai bên không có gì để mất hoặc được cả bởi trong thương nghiệp không thể đẻ ra được . Theo ông lợi nhuận thương nghiệp có được do tiết kiệm các khoản chi phí về thương mại và của cải có thể tạo ra trong lĩnh vực nông ngiệp chính quan điểm này đã chuyển việc nghiên cứu của cải từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất ngoài ra ông còn có lý luận về sản phẩm thặng dư.Ông cho rằng sản phẩm thặng dư được chỉ được tạo ra do sản xuất nông nghiệp kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa bởi vì trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp tạo ra được sản phẩm mới nhờ có sự giúp đỡ của tự nhiên . Đây là một quan điểm sai lầm nhưng ông cũng manh nha bước đầu tìm ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư.Ông cho chi phí sản xuất là tiền lương, sản phẩm thuần tuý là chênh lệch giữa thu hoạch và tiền lương đó chính là phần do lao động thặng dư tạo ra . Với Petty lợi nhuận là khoản dôi ra so với chi phí sản xuất và Petty cho rằng phần lợi nhuận dôi ra phụ thuộc vào nhà tư bản là hợp lý .Đó là công lao cho sự mạo hiểm cho nhà tư bản ứng tiền ra sản xuất . Đối với A.Đ Smith thì ông cho rằng lợi nhuận là “khoản khấu trừ thứ hai “ vào sản phẩm của người lao động, chúng đều có chung nguồn gốc là lao động không được trả công của người công nhân. Một mặt ông gắn lợi nhuận với quá trình sản xuất, là kết quả của sự bóc lột, nhưng mặt khác ông đã phạm phải một sai lầm đó là cho rằng lợi nhuận được tạo ra trong lưu thông. Khi nói về lợi tức, ông xem lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà Tư Bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả cho chủ nợ để được sử dụng Tư Bản. Ông đã thấy xu hướng bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận và xu hướng tỉ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng Tư Bản tăng lên,vạch ra một cách đúng đắn mối quan hệ giữa tỉ suất lợi nhuận với Tư Bản. Về địa tô, A.Smith chịu nhiều ảnh hưởng của trường phái trọng nông, ông đã thấy được địa tô và lợi nhuận có cùng nguồn gốc với nhau, đều là kết quả lao động của người khác. Địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm người lao động còn lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai. Về mặt chất nó phản ánh quan hệ bóc lột. Tuy nhiên A.Mith còn có những hạn chế về lý luận lợi nhuận như: Chưa nêu ra được lý luận hoàn chỉnh về lợi nhuận. Mặt khác ông không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu thông nên cho rằng Tư Bản trong lĩnjh vực sản xuất cũng như trong lưu thông đều tạo ra lợi nhuận như nhau. Hơn nữa ông còn quan niệm lợi nhuận là số tiền trả cho chủ xí nghiệp về sự rủi ro trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, ông cũng phủ nhận lý luận giá trị thặng dư. 1.2.2.Quan điểm của Ricacdo. Nếu như A.Smith sống trong thời kỳ công trường thủ công phát triển mạnh mẽ thì D.Ricardo sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Đó là điều kiện khách quan để ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.Smith dừng lại. Theo Mác thì D.Ricardo là nhà tư tưởng của thời đại công nghiệp. D.Ricardo cho rằng: “ Lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân “. Ông đã thấy được xu hướng giảm sút tỉ suất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm sút nằm trong sự vận động biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp: Địa chủ, công nhân và nhà tư bản. Ông cho rằng do qui luật màu mỡ đất đai ngày càng giảm, giá cả nông phẩm ngày càng tăng lên làm cho tiền lương công nhân và địa tô tăng theo còn lợi nhuận không tăng. Do đó “lợi nhuận có khuynh hướng tự nhiên giảm xuống “. Như vậy theo ông địa chủ là người có lợi, công nhân không có lợi cũng như không bị hại còn nhà tư bản thì có hại vì tỉ suất lợi nhuận giảm xuống. Mặc dù có nhiều tiến bộ so với những học thuyết trước nhưng ông cũng vấp phải nhiều sai lầm như: ông đã giải về lợi nhuận căn cứ vào năng suất lao động, ông không phân biệt được giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư. Cũng xuất phát từ việc chưa phân biệt được tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư nên ông đã kết luận rằng tỷ suất lợi nhuận giảm là do tăng lương. 1.2.3.Quan điểm của Samuelson. Lợi nhuận trong học Theo Samuelson lợi nhuận là phần thưởng choviệc gánh chịu rủi ro cho sự đổi mới, lợi nhuận là lợi tức độc quyền. Ông cho rằng phần lớn giá trị lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chỉ là phần lợi tức của các chủ sở hữu công ty có được do lao động của họ hay do vốn đầu tư của họ mang lại. Nếu loại bỏ tất cả các lợi tức ẩn thì ta được lợi nhuận thuần tuý và đó là phần thưởng cho các hoạt động đầu tư có lợi bất định. Doanh thu của công ty phụ thuộc rất lớn vào thăng chầm trong chu kỳ kinh doanh. Do các nhà đầu tư không thích các trường hợp rủi ro nên họ đòi hỏi phải có mức phí dự phòng cho các đầu tư không chắc chắn nhằm bù đắp cho những rủi ro này. 1.3.Quan điểm của trường phái trọng nông . Những người trọng nông cho rằng lợi nhuận thương có được chẳng qua là nhờ tiết kiệm các khoản chi phí thương mại . Vì theo họ thương mại chỉ đơn thuần là “việc đổi những giá trị này lấy những giá trị khác ngang như thế ”. Và trong quá trình trao đổi đó nếu xét nó dưới hình thái thuần tuý thì cả người mua lẫn người bán chẳng có gì để được hay mất cả . Thương nghiệp không sinh ra của cải. “trao đổi không sản xuất ra được gì cả ”.Trao đổi không làm cho tài sản tăng lên ,vì tài sản được tạo ra trong sản xuất , còn trong trao đổi thì chỉ có sự trao đổi giá trị sử dụng này lấy giá trị sử sụng khác mà thôi.K .Marx trong khi phê phán chủ nghĩa trọng thương cũng viết: “người ta trao đổi những hàng hoá với hàng hoá hay những hàng hoá với tiền tệ có cùng giá trị với hàng hoá đó , tức là trao đổi những vật ngang gía , rõ ràng là không ai rút ra được từ trong lưu thông ra nhiều giá trị hơn số giá trị đã bỏ vào trong đó.Vậy giá trị thặng dư tuyệt nhiên không thể hình thành ra được ”.Điều này chững tỏ sự trưởng thành của các quan điểm kinh tế của phái trọng nông, phản ánh một giai đoạn mới trong sự phát triển tư tưởng kinh tế trong thế kỷ XVIII. 2.Lợi nhuận trong học thuyết của Mac – Lênin. 2.1.Sự tạo ra giá trị thặng dư. Marx viết :tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động biểu hiện trong hàng hoá.Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị lao động vì lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình lao động tạo ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Những yếu tố cơ bản của quá trình lao động là sức lao động và tư liệu sản xuất. Quá trình lao động là quá trình kết hợp hai yếu tố cơ bản đó. Quá trình lao động dưới chủ nghĩa tư bản là quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hoá đã mua được, đó là hàng hoá sức lao động và tư liệu sản xuất nên có các đặc trưng sau: - Người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản. - Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản. ¯Ví dụ: một nhà tư bản sản xuất sợi trong một ngày: Để sản xuất sợi , nhà tư bản cần phải mua 10 kg bông hết 10USD. Mua sức lao động sử dụng trong một ngày hết 3USD. Để chuyển 10 kg bông thành sợi, hao mòn máy móc hết 2USD. Giả định trong 4 giờ, người công nhân bằng lao động cụ thể của mình đã chuyển hết 10 kg bông thành 10 kg sợi và bằng lao động trừu tượng của mình đã tạo ra một giá trị mới là 3USD, nếu đến đây người công nhân nghỉ thì nhà tư bản không có lợi gì. Nhưng nhà tư bản thuê công nhân trong một ngày không phải là 4 tiếng mà có thể là 6 tiếng, 8 tiếng, 12 tiếng...Giả định ở đây là 8 tiếng, như vậy người công nhân phải tiếp tục lao động thêm 4 tiếng nữa. Trong 4 giờ lao động tiếp theo, nhà tư bản cũng chi 10 USD để mua 10 kg bông, khấu hao máy móc là 2 USD, nhưng không phải bỏ tiền ra thuê công nhân nữa. Nhưng trong 4 giờ này, người công nhân chuyển hết 10 kg bông thành 10 kg sợi, đồng thời lại tạo ra một giá trị mới là 3 USD cho nhà tư bản . Như vậy, trong một ngày lao động là 8 tiếng, nhà tư bản chi phí : Bông 20 kg = 20 USD. Hao mòn máy móc = 4 USD. Thuê công nhân = 3 USD. Tổng số tiền chi ra để sản xuất trong một ngày là 27 USD. Nhưng giá trị của sản phẩm mới (sợi) mà nhà tư bản thu về là 30 USD như vậy là dôi ra 3 USD, 3USD đó chính là giá trị thặng dư. Vậy giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động của người công nhân tạo ra đã bị nhà tư bản chiếm không. Đến đây ta có thể định nghĩa về tư bản là : Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê. Như vậy tiền tệ đã được chuyển hoá thành tư bản và mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Để phân biệt rõ tác dụng khác nhau của các bộ phận tư bản chuyển hoá thành sức lao động và tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, Mác đưa ra hai phạm trù tư bản bất biến và tư bản khả biến. 2.2.Lợi nhuận. Mặc dù giá trị thặng dư (m) chỉ là con đẻ của tư bản khả biến (v) nhưng khi quá trình sản xuất kết thúc thì m lại là khoản tăng thêm của giá trị tư bản bất biến và tư bản khả biến (c+v), tức là toàn bộ tư bản đã chi phí .Do đó công thức w=c + (v+m) chỉ ra rằng m là do v sinh ra, có thể viết là w=(c+v)+m , tức là m do (c+v) sinh ra. Vậy khi hình thành phạm trù chi phí sản xuất thì nguồn gốc của sự tăng thêm giá trị từ tư bản khả biển chuyển sang toàn bộ tư bản. Tuy nhiên m là phần tăng thêm của tư bản đã chi ra trong tổng tư bản đã ứng ra Cứ thoạt nhìn, ta thấy rằng lợi nhuận và giá trị thặng dư cũng là một , lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí hoá của giá trị thặng dư. Thực ra giá trị thặng dư là nội dung bên trong do sức lao động của công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất, còn lợi nhuận là hình thức chuyển hoá của giá trị thặng dư biểu hiện bên ngoài thông qua trao đôỉ . Về mặt lượng, nếu hàng hoá bán ra theo đúng giá trị của nó thì số lượng lợi nhuận thu được bằng số giá trị thặng dư chứa đựng trong giá trị của hàng hoá ( p=w-k-m),nếu hàng hoá bán ra dưới giá trị của nó, nhưng vẫn cao hơn chi phí sản xuất thì lượng lợi nhuận thu được sẽ nhỏ hơn lượng giá trị thặng dư chứa đựng trong hàng hoá. Và ngược lại, nếu hàng hoá bán ra cao hơn giá trị của nó thì lượng lợi nhuận thu được sẽ lớn hơn lượng giá trị thặng dư chứa trong nó. Như vậy, từng tư bản cá biệt có thể thu được một lượng lợi nhuận lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng lượng giá trị thặng dư chứa đựng trong hàng hoá của mình. Nhưng trong toàn xã hội thì do tổng số giá cả bằng với tổng số giá trị của hàng hoá, nên tổng lợi nhuận vẫn bằng tổng giá trị thặng dư. 2.3.Tỷ suất lợi nhuận- Và những nhân tố ảnh hưởng . a.Tỷ suất lợi nhuận . Nhà tư bản sản xuất hàng hoá chỉ quan tâm đến phần dôi ra của hàng hoá so với giá trị của tư bản đã dùng để sản xuất ra nó. Họ ứng trước toàn bộ tư bản mà không cần chú ý đến tác dụng khác nhau của các bộ phận cấu thành tư bản trong việc sản xuất giá trị thặng dư. Nhà tư bản chẳng cần biết hắn ứng ra tư bản bất biến để rút lãi ra từ tư bản khả biến, hay ứng tư bản khả biến để làm cho tư bản bất biến tăng thêm giá trị . Mặc dù chỉ có bộ phận khả biến tạo ra giá trị thặng dư, nhưng điều đó chỉ có thể thực hiện được khi tư bản bất biến phải được ứng ra theo một tỷ lệ tương ứng. Cho nên trong tư tưởng của các nhà tư bản thì cả hai loại tư bản nói trên đều nhập làm một . Dù bắt nguồn từ đâu chăng nữa giá trị thặng dư cũng là phần dôi ra so với tổng tư bản ứng trước.Vậy khi giá trị thặng dư chuyển hoá thành lợi nhuận thì tỷ suất gía trị thặng dư sẽ chuyển hoá thành tỷ suất lợi nhuận, ký hiệu là p’. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số giữa giá trị thặng dư và tổng tư bản ứng trước. p’=m\k Tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư là hai tỷ lệ khác nhau của cùng một lượng (m) do dùng thước đo khác nhau (tư bản khả biến và toàn bộ tư bản) nên số lượng chúng khác nhau. Tỷ suất lợi nhuận bao giờ cũng nhỏ hơn tỷ suất giá trị thặng dư: p’=m\(c+v)<m\v Giá trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư là nội dung bên trong, biểu hiện chính xác bản chất quan hệ sản xuất TBCN. Khi giá trị thặng dư chuyển hoá thành lợi nhuận,và tỷ suất giá trị thặng dư chuyển hoá thành tỷ suất lợi nhuận, thì lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận là những hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận là mục đích cạnh tranh giữa các nhà tư bản trong việc giành thị trường tiêu thụ hàng hoá và nơi đầu tư có lợi nhất. b.Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất giá trị thặng dư phụ thuộc nhiều nhân tố khách quan sau: -Khi tỷ suất giá trị thặng dư tăng thì tỷ suất lợi nhuận cũng tăng và ngược lại. -Khi tỷ suất giá trị thặng dư không đổi, cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng thì tỷ suất lợi nhuận giảm và ngược lại. -Tốc độ chu chuyển của tư bản càng nhanh thì tỷ suất lợi càng cao và ngược lại. -Tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ thuận với số vòng chu chuyển và tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản. -Sự tiết kiệm tư bản bất biến cũng là một nhân tố quan trọng nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Các nhà tư bản đều rất quan tâm đến các nhân tố trên để nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Nhưng cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, khối lượng lợi nhuận tăng lên , còn tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống. ưXu hướng giảm xuống của tỷ xuất lợi nhuận. Do tác động của cạnh tranh và với mục đích sản xuất ra giá trị thặng dư ngày càng nhiều đã thúc đẩy các nhà sản xuất kinh doanh phải tăng cường tích luỹ, tích tụ và tập trung tư bản.Quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: Một là, với tỷ suất giá trị thặng dư không đổi , cùng một lượng tư bản nhất định, nếu cấu thành của nó tăng thì tỷ suất lợi nhuận giảm, và do đó khối lượng giá trị thặng dư hay khối lượng lợi nhuận sẽ giảm một cách tuyệt đối. Hai là, với m’ không thay đổi , nếu cấu thành hữu cơ tư bản tăng, thì tỷ suất lợi nhuận giảm, nhưng nếu mức giảm của nó bằng mức tăng của tồng tư bản thì khối lượng giá trị thặng dư hay khối lượng lợi nhuận vẫn không thay đổi. Ba là, với m’ không thay đổi, nếu cấu thành hữu cơ của tư bản tăng, thì tỷ suất lợi nhuận giảm , nhưng nếu mức giảm của nó nhỏ hơng mức tăng của tổng tư bản, thì khối lượng giá trị thặng dư hay lợi nhuận sẽ tăng lên một cách tuyệt đối. Bốn là, cấu thành tư bản tăng, tỷ suất lợi nhuận giảm, giá cả hàng hoá do tư bản này sinh ra giảm,nhưng khối lượng lợi nhuận chứa đựng trong các hàng hoá này tăng lên một cách tương đối. 2.4.Tỷ suất lợi nhuận bình quân. Quá trình hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân bắt nguồn từ cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.Cạnh tranh là hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá . Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành , cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hóa có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch .Từ đó hình thành lên giá trị xã hội của từng loại hàng hoá .Điều kiện sản xuất trung bình trong một ngành thay đổi , kỹ thuật sản xuất phát triển , tỷ suất lợi giảm xuống đòi hỏi cải tiến và sáng kiên làm cho năng suất lao động năng lên giá trị xã hội của hàng hoá giảm xuống. Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau , nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn , kết quả của cuộc cạnh tranh này là hình thành dần tỷ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá trị sản xuất. Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư trong xã hội tư bản và tổng tư bản xã hội đã đầu tư vào tất cả các lĩnh vực , các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nếu ký hiệu p là tỷ suất lợi nhuận bình quân thì: p = (ồm/ồ(c+v))x100% Quá trình bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư bản. Sự hoạt động của quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân là biểu hiện cụ thể của sự hoạt động của quy luật giá trị thặng dư trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản. 2.5.Hình thức biểu hiện của lợi nhuận. 2.5.1.Lợi nhuận thương nghiệp. Tư bản thương nghiệp hoạt động trên lĩnh vực lưu thông, nó không tạo ra giá trị thặng dư. Nhưng nó là một ngành kinh doanh độc lập, do đó nó cũng phải thu được một khoản lợi nhuận. Vậy tư bản thương nghiệp thu lợi nhuận từ đâu và bằng cách nào? Mác viết:”Vì tư bản thương nghiệp không sản xuất ra giá trị thặng dư, nên rõ ràng là phần giá trị thặng dư mà nó thu được dưới hình thái lợi nhuận bình quân là một bộ phận của giá trị thặng dư do toàn bộ tư bản sản xuất sinh ra ”. Tư bản công nghiệp nhường một phần giá trị thặng dư cho tư bản thương nghiệp thông qua giá bán nghĩa là tư bản công nghiệp bán hàng hoá cho tư bản thương nghiệp thấp hơn giá trị xã hội. Trên thị trường, tư bản thương nghiệp bán hàng hoá đúng theo giá trị xã hội. Do đó mà thu được một khoản chênh lệch, khoản chênh lệch này đúng bằng với phần lợi nhuận bình quân của số tư bản thương nghiệp bỏ ra kinh doanh so với tổng tư bản xã hội. ¯Ví dụ: Tư bản công nghiệp ứng ra một số tư bản là 900 để tiến hành sản xuất, cấu tạo hữu cơ là 4\1 và m’=100%. Sau quá trình sản xuất, tư bản công nghiệp tạo ra một khối lượng hàng hoá có giá trị là: 720c+180v+180m=1080. p’=(180/900)*100%=20% Để lưu thông hàng hoá trên, lẽ ra tư bản công nghiệp phải ứng ra thêm một lượng tư bản nữa. Nhưng đến nay công việc này do tư bản thương nghiệp đảm nhiệm. Giả định tư bản thương nghiệp bỏ ra 100 tư bản chẳng hạn. Như vậy tổng tư bản xã hội là: 900+100=1000. Lợi nhuận bình quân của xã hội là : p’=(180/1000)*100%=18%. Lợi nhuận của tư bản công nghiệp là: 900*18%=162. Tư bản công nghiệp bán hàng hoá cho tư bản thương nghiệp với giá. 700c+180v+162m=1062. Tư bản thương nghiệp bán hàng hoá trên thị trường đúng theo giá trị xã hội là 1080. Như vậy tư bản thương nghiệp sẽ thu được một khoản chênh lệch là 18. Khoản chênh lệch này đúng bằng số lợi nhuận bình quân mà thương nhân bỏ ra kinh doanh . 100*18%=18. Như vậy tư bản thương nghiệp tham gia vào việc bình quân hoá lợi nhuận và làm cho tỷ suất lợi nhuận chung của xã hội bị giảm xuống, nhưng vẫn lợi hơn nhiều nếu để tư bản công nghiệp đảm nhiệm cả quá trình lưu thông. 5.2.2.Lợi tức cho vay và tỷ suất lợi tức. a.Bản chất của lợi tức cho vay. Tư bản cho vay đã từng xuất hiện từ lâu, sớm hơn cả tư bản công nghiệp, đó là tư bản cho vay nặng lãi. Sở dĩ gọi là tư bản cho vay nặng lãi là vì tỷ suất lợi tức thường rât cao có khi lên tới 100% hoặc hơn. Trong đề án này chúng ta không nghiên cứu loại tư bản cho vay đó, mà nghiên cứu tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản . Tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản hoàn toàn khác với tư bản cho vay nặng lãi.Tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra. Sở dĩ như vậy là vì sự xuất hiện và tồn tại của tư bản cho vay là sự cần thiết vừa có khả năng thực hiện . Điều đó được thể hiện ở chỗ.Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển tư bản công nghiệp, luôn có số tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, ví dụ, tiền trong quỹ khấu hao tư bản cố định, tiền dùng để mua nguyên liệu, vật liệu nhưng chưa đến kỳ mua,bộ phận tiền để trả lương cho công nhân, nhưng chưa đến thời hạn trả, bộ phận giá trị thặng dư tích luỹ(dưới dạng tiền) để mở rộng sản xuất, nhưng chưa sử dụng. Số tiền nhàn rỗi như thế không đem một thu nhập nào cho nhà tư bản, tức là tư bản nhàn rỗi không sinh lợi.Nhưng đối với nhà tư bản thì tiền tệ phải đẻ ra tiền. Vì vậy, nhà tư bản phải đưa cho người khác vay để kiếm lời. Về phương diện khác mà xét, cũng chính trong thời gian đó, có những nhà tư bản khác rất cần tiền. Ví dụ, tiền để mua nguyên liệu, vật liệu, nhưng bản thân nhà tư bản không vì hàng hoá chưa bán được; tiền để mở rộng sản xuất nhưng tích luỹ chưa đủ v.v... Do đó tất yếu nhà tư bản phải đi vay.Từ hai mặt trên đây tất yếu sinh ra sự vay mượn lẫn nhau,mà sinh ra quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa. Nhờ có quan hệ vay mượn này mà tư bản nhãn rỗi đã trở thành tư bản cho vay. Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời nào đó.Số lời đó được gọi là lợi tức. Tư bản cho vay có những đặc điểm khác căn bản với tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp.Điều này được biểu hiện ở chỗ đối với tư bản cho vay, quyền sử dụng tư bản tách rời quyền sở hữu tư bản; tư bản cho vay là hàng hoá đặc biệt. Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp luôn có số tư bản tạm thời nhàn rỗi thí dụ như tiền trong quĩ khấu hao của tư bản cố định, tiền để mua nguyên vật liệu nhưng chưa đến kỳ ; bộ phận giá trị thặng dư tích luỹ ( dưới dạng tiền ) để mở rộng sản xuất nhưng chưa sử dụng...số tiền nhàn rỗi đó không đem lại một thu nhập nào cho nhà tư bản. Nhưng đối với nhà tư bản tiền phải đẻ ra tiền. Vì vậy nhà tư bản phải cho người khác vay để kiếm lãi. Trong cùng thời gian đó có những nhà tư bản khác rất cần tiền để mở rộng sản xuất do đó họ có nhu cầu vay. “ Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một khoản lời nào đó, Số lời đó được gọi là lợi tức “. Bản chất của lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay đã đưa cho nhà tư bản cho vay sử dụng. Vì vậy nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Lợi tức vận động theo qui luật tỉ suất lợi tức. Tỉ suất lợi tức là tỉ lệ tính theo % giữa tổng số lợi nhuận bình quân, tỉ lệ phân chia lợi nhuận thành lợi tức và thu nhập của xí nghiệp mà nhà tư bản hoạt động, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của tư bản cho vay. b.Tỷ suất lợi tức. Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tiền tư bản tiền tệ cho vay(thường tính cho tháng, quý, năm). Nếu gọi lợi tức là Z,tỷ suất lợi tức là Z’ ta có: Z’=Z/(tư bản cho vay)x100%. Tỷ suất lợi tức cao hay thấp, điều đó phụ thuộc vào các nhân tố sau đây: Một là, tỷ suất lợi nhuận bình quân(ảnh hưởng theo quan hệ tỷ lệ thuận). Hai là, tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia lợi nhuận thành lợi tức và thu nhập của xí nghiệp(nhà tư bản hoạt động). Ba là, tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về tư bản cho vay. Tuy nhiên, ảnh hưởng của cung cầu đối với tỷ suất lợi tức có sự khác biệt với ảnh hưởng của cung cầu đối với giá cả hàng hoá. Giới hạn tối đa của tỷ suất lợi tức không thể lớn hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân, tức là Z’<=P’;còn mức thấp nhất của nó cũng phải lớn hơn số 0.Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản thì tỷ suất lợi tức luôn luôn có xu hướng giảm sút. 2.5.3.Lợi nhuận ngân hàng. Lợi nhuận ngân hàng là thu nhập của nhà tư bản ngân hàng là hình thái biến tướng riêng biệt của giá trị thặng dư m. Nghiệp vụ chính của ngân hàng là thu nhận tiền gửi cho vay. Lợi tức cho vay của ngân hàng cao hơn lợi tức tiền gửi, con số chênh lệch này là nguồn gốc lợi nhuận của ngân hàng. Tuy vậy không phải toàn bộ con số chênh lệch ấy đều là lợi nhuận ngân hàng mà lợi nhuận ngân hàng chỉ là con số còn lại sau khi đã trừ đi một phần để bù vào chi phí nghiệp vụ ngân hàng.Ngân hàng trực tiếp cho các nhà sản xuất,kinh doanh vay.Nhà tư bản lấy số tiền đó để sản xuất ra giá trị thặng dư,sau đó đem một phần m thu được thành lợi tức trả cho ngân hàng.Do đó lợi nhuận ngân hàng cũng là giá trị thặng dSự cạnh tranh giữa các ngành trong xã hội tư bản cũng là do lợi nhuận ngân hàng bằng lợi nhuận binh quân, nếu không chủ ngân hàng sẽ chuyển sang kinh doanh ngành khác. 2.5.4.Địa tô tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không chỉ hình thành và thống trị trong lĩnh vực công nghiệp,mà nó ngày nay càng được hình thành, phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp.Khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được hình thành, nếu không kể đến một số ít nông dân cá thể tự canh tác trên mảnh đất của họ, thì trong nông nghiệp tư bản chủ nghĩa có ba giai cấp chủ yếu:giai cấp địa chủ, giai cấp các nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp(các nhà tư bản thuê ruộng đất để kinh doanh) và giai cấp công nhân nông nghiệp làm thuê. Chúng ta đều thấy rằng, cũng như các nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp, nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân. Nhưng muốn kinh doanh trong nông nghiệp thì họ phải thuê ruộng đất của địa chủ.Vì thế,ngoài lợi nhuận bình quân ra, nhà tư bản kinh doanh phải thu thêm một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân đó, tức là lợi nhuận siêu ngạch.Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và họ phải trả nó cho chủ ruộng đất dưới hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa. Vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Chúng ta đều thấy dưới chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa do có sự độc quyền về tư hữu ruộng đất, nên đã cản trở sự phát triển của tư bản chủ nghĩa trong lĩnh vực nông nghiệp.Điều đó được thể hiện ở chỗ :nông nghiệp thường lạc hậu hơn so với công nghiệp cả về kinh tế lẫn kỹ thuật, vì thế cấu tạo hữu cơ của trư bản trong nông nghiệp thường thấp hơn trong công nghiệp.Điều này phản ánh một điều:nếu trình độ bóc lột ngang nhau, thì một tư bản ngang nhau, sẽ sinh ra trong nông nghiệp nhiều giá trị thặng dư hơn tron công nghiệp(bởi vì lao động sống trong nông nghiệp lớn hơn sống trong công nghiệp). Từ sự phân tích trên đây, ta nhận thấy rằng: Địa tô tuyệt đối cũng là._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34620.doc