Nguồn thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học & Công nghệ Quốc gia

Mục lục Mở đầu 4 Chương i Khái quát chung về trung tâm thông tin khoa học và công nghệ quốc gia 9 1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia 9 1.1.1 Chức năng của Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia 11 1.1.2 Nhiệm vụ của Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia 11 1.1.3 Các nhiệm vụ ưu tiên mang tính đột phá và mối quan hệ hợp tác 13 1.2 Cơ cấu tổ chức của Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia 13

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1175 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nguồn thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học & Công nghệ Quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.3 Nguồn lực thông tin tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia 19 Chương 2 Thực trạng nguồn lực thông tin kinh tế tại trung tâm thông tin khoa học và công nghệ quốc gia 21 2.1 Khái niệm về thông tin, thông tin kinh tế, nguồn lực thông tin, nguồn lực thông tin kinh tế 21 2.2 Vai trò của nguồn lực thông tin kinh tế trong xã hội hiện đại. 25 2.3 Điều tra về nguồn lực thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia 30 2.3.1 Nội dung của nguồn lực thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia 30 2.3.2 Loại hình nguồn lực thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia 36 - Sách. 37 - Tạp chí. 40 - Cơ sở dữ liệu. 42 - Tài liệu không công bố. 44 - Tổng luận, tổng quan. 46 - Tài liệu điện tử. 47 2.4 Phân tích và đánh giá hiệu quả phục vụ nguồn lực thông tin kinh tế cho sự phát triển kinh tế-xã hội của Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia 48 Chương 3 một số giải pháp phát triển và hoàn thiện nguồn lực thông tin kinh Tế tại trung tâm thông tin khoa học và công nghệ quốc gia 53 3.1 Đẩy mạnh công tác bổ sung các nguồn lực thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia 54 3.2 Cụ thể hóa hướng phát triển nguồn lực thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia 55 3.3 Tăng cường ngân sách nhà nước và kinh phí của Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia cho kế hoạch phát triển nguồn lực thông tin kinh tế 56 3.4 Xây dựng kế hoạch nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thông tin ở Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia 57 3.5 Tăng cường hợp tác quốc tế 58 3.6 Tin học hoá nguồn lực thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia 60 Kết luận 62 Danh mục tài liệu tham khảo 64 Mở đầu Sự cần thiết và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia, làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội loài người. Bước vào thế kỷ 21, trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa , giáo dục-đào tạo, môi truờng ...đều có những biến đổi sâu sắc. Cùng với việc xuất hiện các cơ hội phát triển mới, nguy cơ tụt hậu về kinh tế, khoa học và công nghệ, thông tin đang và sẽ là những thách thức lớn đối với nhiều quốc gia. Sự bất bình đẳng giữa các dân tộc, sự phân hóa giàu và nghèo ngay trong mỗi quốc gia ngày càng gia tăng, tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định trên thế giới. Nắm được tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu “Đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” từ nay đến năm 2020, đạt được mức tăng trưởng GDP từ 8 đến 10 lần so với năm 1990. Đây là mục tiêu tương đối khó khăn đối với nền kinh tế nước ta hiện nay. Việc duy trì một tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trong những thập kỉ tới đòi hỏi nuớc ta phải tìm kiếm, huy động, sử dụng có hiệu quả tất cả các nguồn lực trong nước cũng như tranh thủ những nguồn lực mà chúng ta có cơ hội tiếp cận từ bên ngoài. Trong xu thế chung của thời đại, thông tin khoa học và công nghệ ngày càng giữ vai trò quan trọng trong các nguồn lực phát triển kinh tế. Việc phát triển hệ thống thông tin, trong đó có hệ thống thông tin kinh tế không những chỉ huy động được sức mạnh tiềm lực thông tin, khoa học và công nghệ vốn có trong nước mà còn tranh thủ được các cơ hội, sự hỗ trợ của các tổ chức trên thế giới để phát triển kinh tế đất nước. Với sự tác động của cuộc cách mang khoa học công nghệ đương đại thì tiềm lực thông tin, khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh của những thập niên vừa qua. Trong một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như ở nước ta hiện nay, thông tin đang trở thành một nguồn lực quan trọng, đặc biệt là hệ thống thông tin kinh tế đã góp phần to lớn không chỉ trong công tác quản lí, điều hành các hoạt động kinh tế mà nó còn góp phần tạo ra các giá trị mới trong các hoạt động đó. Nhất là ở xã hội văn minh ngày nay, trong thời đại kinh tế thị trường, thông tin được coi là thứ hàng hóa đắt giá nhất, thậm chí còn quý hơn cả vốn liếng. Thời đại ngày nay "Ai nắm đuợc thông tin thì coi như nắm đuợc thành công trong tay, người đó sẽ làm chủ thế giới". Những câu nói đó đã và đang trở thành khẩu hiệu bất diệt. Tuy nhiên, sự thành công này còn tùy thuộc vào khả năng nhận thức, xử lí, sáng tạo của người sử dụng tin. Thu thập, xử lí như thế nào để hình thành một tư duy, một phưuơng án, một quyết định hiệu quả, để áp dụng tiếp trong hoạt động kinh doanh, hoạt động quản lý, tiêu dùng của mình. Đó là quá trình tái sản xuất mở rộng thông tin để phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Lúc đầu, thông tin kinh tế phát triển trên cơ sơ phân tán, tản mạn, không thống nhất. Đến nay thông tin kinh tế ở các nước tư bản đã phát triển trên một cơ sở kỹ thuật cao, với tiềm lực tính toán rất lớn và rất nhiều tổ chức, Trung tâm thông tin kinh tế lớn ra đời. ở một số nước công nghiệp phát triển, đã chuyển từ hình thức xử lí thông tin, phân tán, bằng điện tử sang hệ thống thông tin kinh tế liên kết trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Tại Việt Nam việc xây dựng và phát triển nguồn lực thông tin kinh tế đặc biệt được chú trọng. Đây là yếu tố không thể thiếu trong chiến lược phát triển ngành thông tin-tư liệu, là nhiệm vụ không phải của riêng tổ chức xúc tiến mà còn là trách nhiệm của nhà nuớc trong mục tiêu phát triển và nâng cao năng lực nội sinh của khoa học và công nghệ quốc gia. Thế nên, thông tin kinh tế luôn là bộ phận không thể thiếu trong các cơ quan thông tin. Với Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia- Trung tâm đầu ngành cả nước về khoa học-công nghệ, thông tin kinh tế tuy chiếm số lượng không đáng kể nhưng nó đã góp phần tạo nên sự hoàn chỉnh trong hệ thống thông tin tại cơ quan. Bởi vậy, đề tài: “Nguồn lực thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia " có ý nghĩa to lớn cả về mặt lí luận và thực tiễn. Mục đích nghiên cứu của đề tài Thông qua tìm hiểu thực trạng và công tác hoạt động, quản lí nguồn lực thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia để có hướng nhìn đúng đắn về tầm quan trọng của hệ thống thông tin kinh tế quốc gia, tác giả cũng mạnh dạn đưa ra một số đánh giá-nhận xét, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động lưu giữ, khai thác và phục vụ nguồn lực thông tin kinh tế có giá trị này góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, giúp nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển theo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Đảng và nhà nước đã đề ra. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu nguồn lực thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia. Mặc dù nguồn tài liệu nay có số lượng rất hạn chế trong cả kho tài liệu của Trung tâm, nhưng nó góp phần quan trọng hoàn thiện vốn tài liệu nhằm phục vụ đắc lực cho bạn đọc và người dùng tin cả nước. Đây cũng là cơ sở để các nhà quản lí hoạt động thông tin kinh tế có chiến lược phát triển tăng cường nguồn lực thông tin kinh tế quốc gia trong thời kì tới. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lí luận Khóa luận dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học và công nghệ đặc biệt trong lĩnh vực hoạt động thông tin- tư liệu. - Phương pháp nghiên cứu Bên cạnh phương pháp tổng hợp, nghiên cứu, thống kê, đánh giá tài liệu, tác giả còn trao đổi, phỏng vấn các cán bộ thông tin để hiểu rõ thực trạng quản lí hoạt động nguồn lực thông tin kinh tế ở Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu Khảo sát, phân tích-tổng hợp thực trạng nguồn lực thông tin kinh tế của Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, đề xuất phương hướng phát triển và hoàn thiện nguồn lực thông tin kinh tế của Trung tâm này trong thời gian những năm đầu của thế kỷ XXI. Bố cục của khoá luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận bao gồm 3 chương Chương 1: Khái quát chung về Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia. Chương 2: Thực trạng nguồn lực thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia. Chương 3: Phương hướng phát triển và hoàn thiện nguồn lực thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia. Chương 1 Khái quát chung về trung tâm thông tin khoa học và công nghệ quốc gia Lịch sử hình thành và phát triển Thời đại hiện nay, việc áp dụng những thành tựu khoa học vào tất cả các lĩnh vực trong đời sống đang trở thành nhân tố cho sự lớn mạnh của xã hội. Sự phát triển khoa học và lực lượng sản xuất xã hội, việc áp dụng những thành tựu khoa học vào nền kinh tế quốc dân là đối tượng chú ý đặc biệt của các nuớc xã hội chủ nghĩa. Sự tiến bộ của khoa học-công nghệ đã đưa đến việc giảm bớt sức lao động rút ngắn ngày công, nâng cao phúc lợi của nhân dân lao động, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì thế mà hầu hết các quốc gia phát triển và nhiều quốc gia đang phát triển đều có Trung tâm khoa học quốc gia-bộ phận khoa học đầu não trong cả nước. Nhiều quốc gia có Viện hàn lâm khoa học với bề dày lịch sử hàng 100 năm. Nhưng hoạt động khoa học chỉ thực sự đạt hiệu quả khi có việc tham gia của hoạt động thông tin. Chính thông tin vừa là chất xúc tác, vừa là môi truờng để hoạt động khoa học đi lên. Do đó, bên cạnh việc chú trọng phát triển thông tin khoa học quốc gia, các nước cũng xây dựng và hoàn thiện cho mình Trung tâm thông tin mang tính đầu ngành cả nước. Hòa chung vào dòng chảy đó, ngay từ năm 1961 Việt Nam đã hình thành Viện Thông tin Khoa học Kỹ thuật Trung ương với nhiệm vụ ban đầu, chủ yếu là xuất bản tạp chí tóm tắt, tiến hành nghiên cứu các vấn đề lí luận, phương pháp và thực hành thông tin khoa học kỹ thuật; nghiên cứu, thu thập, xử lí, bảo quản và phổ biến những kinh nghiệm tiên tiến, những thành tựu khoa học-kỹ thuật của trong và ngoài nước; giúp đỡ về mặt phương pháp cho các cơ quan thông tin khoa học ngành và địa phương. Song song với sự tồn tại của Viện Thông tin này, trước đó vào năm 1958, Thư viện Khoa học Kỹ thuật Trung ương cũng đã ra đời dựa trên cơ sở chia tách Thư viện Khoa học Trung ương thành Thư viện Khoa học Kỹ thuật Trung ương và Thư viện Khoa học Xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước hiện nay, vai trò của Thư viện Khoa học Kỹ thuật Trung ương ngày càng được xác định rõ ràng. Để phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân đi tới văn minh hiện đại, đòi hỏi phải có tri thức khoa học kỹ thuật. Thư viện chính là nơi tàng trữ tài liệu khoa học kỹ thuật, là cây cầu giao lưu chất xám giữa các nhà khoa học trong nước, là cánh cửa giao lưu với thế giới bên ngoài cho các nhà khoa học của ta tiếp xúc với nền khoa học kỹ thuật tiên tiến toàn cầu. Hiện nay, thư viện còn là nơi lui tới của một đội ngũ đông đảo bạn đọc gồm toàn những cán bộ nghiên cứu, những chuyên gia khoa học xuất sắc của đất nước. Trong hoàn cảnh nền khoa học kỹ thuật của ta còn rất lạc hậu, Đảng và nhà nuớc đã nhận thức được tầm quan trọng của thư viện khoa học đối với việc thu thập và phổ biến các tri thức tiên tiến của nhân loại. Đại hội lần thứ 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới coi khoa học và công nghệ là một động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới đất nuớc. Vai trò của cách mạng khoa học kỹ thuật càng được khẳng định, trong đó hoạt động thông tin khoa học giữ vị trí thiết yếu. Ngày 24 tháng 9 năm 1990, Chủ nhiệm ủy ban khoa học kỹ thuật nhà nước (nay là Bộ Khoa học Công nghệ) đã ra quyết định số 487/TCCB hợp nhất hai đơn vị Thư viện Khoa học Kỹ thuật Trung ương với Viện Thông tin Khoa học kỹ thuật Trung ương thành Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia(Trung tâm TTKH & CN). Chức năng . Thông tin khoa học và công nghệ của Nhà nước. . Giúp Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý thống nhất hoạt động thông tin tư liệu khoa học, công nghệ trong cả nước. 1.1.2 Nhiệm vụ Những năm qua, bằng việc xác định rõ nhiệm vụ hàng đầu để bắt kịp sự đi lên của xã hội ở cơ quan mình, Trung tâm Thông tin-Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia đã không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ người dùng tin và bạn đọc trong cả nước. Các nhiệm vụ đó là: . Tổ chức xây dựng, trình Bộ trưởng Bộ Khoa học công nghệ (KHCN) phê duyệt kế hoạch công tác thông tin tư liệu KHCN trong cả nước và tổ chức thực hiện kế hoạch đó. Theo dõi kiểm tra hoạt động thông tin tư liệu KHCN ở các cấp, các ngành. . Tổ chức, thúc đẩy và hoàn thiện hệ thống thông tin tư liệu KHCN quốc gia qua việc tạo nguồn, thu thập, bảo quản và lưu trữ các nguồn thông tin, tư liệu về khoa học, công nghệ và môi trường trong và ngoài nước đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Hướng dẫn xây dựng các tổ chức thông tin tư liệu ở từng cấp, kể cả mạng lưới các Thư viện Khoa học Kỹ thuật. . Quản lý nhà nước các nguồn tư liệu về khoa học, công nghệ và môi trường. Trên cơ sở tổ chức thực hiện công tác đăng ký đề tài và kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ và môi trường. Tổ chức việc tạo nguồn, thu thập, bảo quản và lưu trữ các nguồn thông tin, tư liệu về khoa học, công nghệ và môi trường trong và ngoài nước. Xây dựng vốn thông tin, tư liệu đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, khoa học, công nghệ và môi trường của đất nước. . Xử lý phân tích-tổng hợp các nguồn thông tin tư liệu trong và ngoài nước nhằm tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thông tin đáp ứng nhu cầu người dùng tin và bạn đọc, tiến tới tạo lập ngân hàng thông tin quốc gia về tư liệu và dữ kiện khoa học, công nghệ, môi trường và kinh tế. . Tổ chức cung cấp thông tin, tư liệu cho các yêu cầu xét duyệt, đánh giá các chương trình, đề tài, giám định công nghệ, thẩm định các dự án đầu tư, các dự án phát triển kinh tế-xã hội. . Tổ chức phục vụ bạn đọc, thực hiện công tác nghiên cứu phát triển hoạt động thông tin, tư liệu; hướng dẫn chỉ đạo thống nhất nghiệp vụ trong cả nước cũng như đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cho cán bộ. Tuyên truyền, phổ biến các thành tựu và kiến thức về khoa học, công nghệ, môi trường trong và ngoài nước. . Tham gia hoạt động hợp tác quốc tế, trao đổi tài liệu, cho mượn giữa các thư viện. Thực hiện các dịch vụ thông tin-tư liệu về khoa học, công nghệ, môi trường cho mọi đối tượng có yêu cầu. Nhờ vậy, các sản phẩm-dịch vụ thông tin của Trung tâm ngày càng đa dạng về số lượng, chuyên sâu về chất lượng, phục vụ tốt hơn cho độc giả và người dùng tin góp phần đẩy mạnh dịch vụ thông tin công nghệ như marketing về thị trường thông tin công nghệ, xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin công nghệ, tư vấn công tác chuyển giao công nghệ.... 1.1.3 Các nhiệm vụ ưu tiên mang tính đột phá và mối quan hệ hợp tác. Trên cơ sở nguồn lực thông tin hiện có, Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia bước đầu xây dựng những đột phá cho mình như: . Đẩy mạnh thông tin phục vụ các địa phương. . Đẩy mạnh các sản phẩm và dịch vụ thông tin phân tích. . Đẩy mạnh dịch vụ thông tin công nghệ. . Xây dựng và phát triển thư viện điện tử. Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia có quan hệ hợp tác và trao đổi tư liệu với hơn 120 cơ quan, tổ chức và thư viện của hơn 40 nước trên thế giới như AIF (Tổ chức liên Chính phủ Pháp ngữ), SAREC/SIDA (Tổ chức hợp tác nghiên cứu với các nước đang phát triển của Thụy Điển), UNESCO, APCTT, Trung tâm Thông tin khoa học kỹ thuật quốc tế... 1.2 Cơ cấu tổ chức Với mục tiêu tổng quát của Chương trình hành động là tăng cường năng lực của Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của cơ quan thông tin khoa học công nghệ hàng đầu nhà nước và giúp Bộ quản lý thống nhất hoạt động thông tin khoa học công nghệ trong cả nước, cơ cấu tổ chức của Trung tâm hiện nay cũng có nhiều thay đổi so với trước. Toàn bộ Trung tâm gồm có 14 phòng ban hoạt động liên hoàn. Mỗi phòng đều có những chức năng riêng biệt song liên kết với nhau rất chặt chẽ. Do đó mà cả cơ quan luôn hoàn thành xuất sắc kế hoạch đặt ra. Hội đồng khoa học Phòng Tra cứu - chỉ dẫn Giám đốc Văn phòng Phòng Quản lý hoạt động thông tin Phòng Quan hệ quốc tế Phòng Tin học Phòng Phát triển các nguồn tin Phòng Xây dựng CSDL thư mục Phòng Nghiên cứu và phân tích thông tin Phòng Dịch vụ thông tin Phòng Đọc sách Phòng Đọc tạp chí Phòng Phổ biến KH&CN Phòng In - sao Trung tâm INFOTERRA Việt Nam Các phó giám đốc Sơ đồ tổ chức Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia. - Văn phòng Là đơn vị trực thuộc Trung tâm có chức năng giúp Giám đốc trong việc điều hoà, phối hợp các hoạt động của Trung tâm nhằm đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành của Giám đốc được toàn diện, kịp thời và đáp ứng tốt các yêu cầu trong quá trình thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm. Phòng Quản lý hoạt động thông tin + Tư vấn cho Ban Giám đốc trong việc quy hoạch phát triển, tổ chức và hoàn thiện hệ thống thông tin khoa học và công nghệ quốc gia, hướng dẫn xây dựng và điều hòa, phối hợp hoạt động các cơ quan trong hệ thống thông tin khoa học và công nghệ quốc gia. + Soạn thảo chính sách, chế độ, quy tắc về công tác thông tin khoa học và công nghệ, tổ chức hướng dẫn và chỉ đạo nghiệp vụ thống nhất cho các ngành, địa phương, các đơn vị thông tin khoa học công nghệ trong toàn hệ thống. + Xây dựng kế hoạch đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ thông tin khoa học và công nghệ, làm thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đề tài và kết quả nghiên cứu cho các tập thể, cá nhân. + Biên soạn tạp chí thông tin-tư liệu. Phòng Quan hệ quốc tế + Đề xuất với Giám đốc các định hướng và biện pháp nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác về hoạt động thôngtin khoa học và công nghệ với các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ. + Xây dựng các chương trình, kế hoạch dự án hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạt động thông tin khoa học công nghệ, giúp Ban Giám đốc đàm phán, ký kết các văn bản, văn kiện với các cơ quan thông tin bên ngoài. + Biên soạn bản tin điện tử Hội nhập và phát triển. Phòng Phát triển các nguồn tin + Nghiên cứu xây dựng chính sách phát triển nguồn thông tin của Trung tâm và đề xuất với Giám đốc. + Tổ chức việc thực hiện bổ sung các nguồn tin trong và ngoài nước thông qua các hoạt động mua, trao đổi, thu thập… + Duy trì quan hệ với các nhà xuất bản, các công ty xuất nhập khẩu sách, báo, tạp chí, CD-ROM… Theo dõi các hôi nghị, hội thảo nhằm thu thập các nguồn tài liệu xám, tài liệu đơn bản… + Kiểm soát toàn diện và quản lý nguồn thông tin nhập vào Trung tâm (đăng ký cá biệt, xử lý mã vạch cho các tài liệu mới nhập vào Trung tâm). Phòng Xây dựng cơ sở dữ liệu thư mục + Xây dựng và cập nhật các cơ sở dữ liệu thư mục. + Xử lý thư mục, làm tóm tắt, định chỉ số các loại hình tài liệu. + Biên soạn các sản phẩm dạng in trên giấy từ các cơ sở dữ kiện: Thông báo sách mới, Vietnamese S&T Abstracts. Phòng Nghiên cứu và phân tích thông tin + Biên soạn tổng quan thông tin, tổng luận, tổng hợp chyên đề… + Đáp ứng các yêu cầu thông tin cấp bách cho các cơ quan hoạch định chính sách, chiến lược phát triển cấp Quốc gia. + Xây dựng cơ sở dữ liệu toàn văn phục vụ cho công việc xử lý nghiên cứu, phân tích thông tin. + Biên soạn ấn phẩm Khoa học Công nghệ Môi trường, Vietnam Development News, các Bản tin điện tử. Phòng Đọc sách + Tổ chức quản lý kho tài liệu sách và kho tài liệu tra cứu. + Tổ chức công tác phục vụ bạn đọc tại chỗ và mượn về. + Cung cấp bản sao tài liệu gốc theo yêu cầu. + Xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu sách. + Tổ chức triển lãm, giới thiệu sách mới nhập vào Trung tâm. Phòng Đọc tạp chí + Tổ chức, quản lý kho tạp chí. + Tổ chức công tác phục vụ bạn đọc tạp chí tại chỗ. + Cung cấp bản sao tài liệu gốc theo yêu cầu. + Tổ chức, giới thiệu các mục lục tạp chí trên mạng. + Xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu tạp chí. Phòng Tra cứu-chỉ dẫn + Tổ chức công tác tra cứu và chỉ dẫn thông tin cho mọi đối tượng dùng tin. + Tổ chức thực hiện phổ biến chọn lọc thông tin, biên soạn, sưu tầm thông tin chuyên đề và các sản phẩm thông tin khác theo yêu cầu. + Tổ chức khai thác các cơ sở dữ liệu Multimedia. Điểm truy cập SYFED và STN. + Marketing, quảng cáo các sản phẩm và dịch vụ thông tin của Trung tâm. - Phòng Dịch vụ thông tin. + Xây dựng các cơ sở dữ liệu thông tin khoa học công nghệ. + Tổ chức tìm kiếm và giới thiệu công nghệ. + Thực hiện nhiệm vụ chia sẻ nguồn lực thông tin công nghệ trong Mạng Thông tin Chuyển giao Công nghệ Việt Nam và dịch vụ thông tin công nghệ theo yêu cầu. + Tham gia tổ chức các Triển lãm, hội chợ, hội nghị, hội thảo… về thông tin công nghệ. + Tham gia Marketing các dịch vụ thông tin công nghệ. - Phòng Tin học + Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực thông tin-thư viện. + Đảm bảo cho mạng VISTA hoạt động liên tục, thông suốt 24/24. + Vận hành ISP và ICP. + Đảm bảo kỹ thuật tin học cho các phòng trực thuộc Trung tâm. + Quản trị ngân hàng dữ liệu trên mạng VISTA. + Tổ chức và thực hiện các dịch vụ mạng. - Phòng In-sao + Quản lý, vận hành và bảo dưỡng các thiết bị in, sao, đóng xén. + Đảm bảo việc in sao các ấn phẩm và tài liệu của Trung tâm đúng kế hoạch và có chất lượng kỹ thuật cao. + Sao nhân các tài liệu theo yêu cầu của các phòng chuyên môn trong Trung tâm. - Phòng Phổ biến khoa học và công nghệ + Marketing các sản phẩm và dịch vụ thông tin khoa học và công nghệ của Trung tâm. + Tổ chức các triển lãm, trình diễn công nghệ, hội chợ, hội nghị, hội thảo. + Tuyên truyền, phổ biến khoa học công nghệ. + Sản xuất và phổ biến các chương trình phim khoa học công nghệ. - Trung tâm INFOTERRA Việt Nam + Là đầu mối của Việt Nam trong giao dịch và thực hiện các nhiệm vụ đối với mạng lưới trao đổi thông tin môi trường toàn cầu của chương trình môi trường Liên hiệp quốc. + Tổ chức và điều phối các hoạt động trao đổi thông tin môi trường với các cơ quan, các tổ chức môi trường và các điểm nguồn thông tin môi trường chuyên ngành trong nước và quốc tế thuộc mạng lưới INFOTERRA toàn cầu. + Xây dựng và phát triển mạng lưới điểm nguồn thông tin chuyên ngành trong nước liên quan đến môi trường. + Xây dựng tiềm lực quốc gia về thông tin môi trường trên cơ sở xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu thông tin môi trường. + Xuất bản và phổ biến các tài liệu thông tin môi trường. + Cung cấp các dịch vụ thông tin và dịch vụ tư vấn… trong các hoạt động thông tin môi trường nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về môi trường, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. 1.3 Nguồn lực thông tin Trung tâm TTKH&CN có một nguồn lực thông tin về khoa học- công nghệ khá lớn vào bậc nhất ở Viêt Nam. Các tài liệu này luôn được bổ sung, cập nhật hàng ngày, nhất là các nguồn thông tin số hoá để đảm bảo cho nhu cầu tin cao của độc giả. Sách: Hơn 220.000 đầu sách đủ các loại tiếng như Anh, Nga, Pháp, Vito, Trung... Trong đó, 35%các ngành khoa học cơ bản, 45% thuộc các ngành khoa học kỹ thuật và 19% thuộc nông-lâm-ngư nghiệp-y tế. Tạp chí: Có hơn 6300 tên, ước khoảng 1000 tên được quay vòng và bổ sung thường xuyên phục vụ rộng rãi người dùng tin: 5300 tên tạp chí tiếng La Tinh, 780 tên tạp chí tiếng Nga, 300 tên tạp chí tiếng Vito. Ngoài ra, trong kho còn có kho microfim khoảng 1000 tên tạp chí tiếng Anh . Tư liệu xám: Trung tâm cũng lưu trữ hơn 3500 báo cáo kết quả nghiên cứu, hơn 8000 đề cương nghiên cứu của các đề tài đăng ký tiến hành nghiên cứu. Cơ sở dữ liệu: Hiện có nhiều cơ sở dữ liệu khoa học công nghệ có giá trị ở trong nước và trên thế giới: Pascal, Chemical abtracts, Vendor, Energy and environment, Scitec, cơ sở dữ liệu trên CD-ROM.... Tất cả các cơ sở dữ liệu này được đông đảo độc giả quan tâm và tra cứu thường xuyên. Hơn nữa, Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia còn tổ chức, xây dựng và quản lý mạng VISTA. Đây là mạng thông tin máy tính diện rộng về khoa học và công nghệ được chuyển tải trực tuyến các thông tin, thành tựu mới nhất về khoa học công nghệ trong nước cũng như trên thế giới đến các thành viên làm công tác khoa học và công nghệ phục vụ công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Chương 2 Thực trạng nguồn lực thông tin kinh tế tại trung tâm thông tin khoa học và công nghệ quốc gia 2.1 Khái niệm thông tin, thông tin kinh tế, nguồn lực thông tin, nguồn lực thông tin kinh tế Trong đời sống con nguời, thông tin là một nhu cầu rất cơ bản, nhu cầu đó không ngừng tăng lên cùng với sự gia tăng các mối quan hệ trong xã hội. Mỗi người sử dụng thông tin lại tạo ra những thông tin mới. Các thông tin được truyền cho người khác trong quá trình thảo luận, truyền đạt mệnh lệnh, trong thư từ và tài liệu hoặc qua các phuơng tiện truyền thông khác. Thông tin đuợc tổ chức tuân theo một số quan hệ logic nhất định trở thành bộ phận của tri thức, đòi hỏi phải đuợc khai thác và nghiên cứu một cách hệ thống. Thông tin được thể hiện qua nhiều hình thức đa dạng và phong phú như con số, chữ viết, âm thanh, hình ảnh... Thông tin cũng có thể được ghi và truyền thông qua nghệ thuật bằng nét mặt, động tác và cử chỉ. Hơn nữa, con người đuợc cung cấp thông tin dưới dạng mã di truyền. Những hiện tượng này của thông tin được thấm vào thế giới vật chất và tinh thần của con người, cùng với sự đa dạng phong phú của nó khiến khó có thể đưa ra định nghĩa thống nhất về thông tin . Tựu trung lại có thể hiểu: - Thông tin là những tin tức phản ánh thế giới khách quan mà con người sử dụng trong mục đích của mình nhằm phát triển kinh tế xã hội, phục vụ và thỏa mãn mọi nhu cầu sống của con người. Hiện nay, người ta thừa nhận rằng vật chất, năng lượng, thông tin và bản sắc văn hóa dân tộc là các nhân tố quyết định sự tồn tại, phát triển của mỗi quốc gia. Nếu như trước đây mọi nền kinh tế đều dựa chủ yếu vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên, lấy việc khai thác và chế biến chúng là nguồn chủ yếu tạo ra của cải, sự giàu có trong xã hội; thì từ những năm cuối thế kỷ 20 thông tin đuợc xem là một nguồn tài nguyên kinh tế giống như các tài nguyên khác như vật chất, lao động, tiền vốn... Bởi vì việc sở hữu, sử dụng và khai thác thông tin có thể đem lại hiệu quả cho nhiều quá trình vật lí và nhận thức. Ngày nay các hoạt động liên quan đến xử lí thông tin trong công nghiệp chế tạo cũng như trong việc giải quyết các vấn đề xã hội và con người tăng lên đáng kể. Khác với các nguồn tài nguyên khác tài nguyên thông tin có thể mở rộng phát triển không ngừng và hầu như chỉ bị giới hạn bởi thời gian lẫn khả năng nhận thức của con nguời. Do đó, con người sử dụng thông tin ngày càng nhiều với nhu cầu rất cao ở xã hội hiện đại. Đặc biệt trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra với quy mô lớn như ngày nay cùng với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, số luợng thông tin tăng lên chóng mặt. Chính các tiềm lực này tạo ra sự phát triển nhảy vọt như vũ bão của các thông tin khoa học đã gây ra một hiện tượng "Bùng nổ thông tin ". Đứng trước tình hình trên, các cơ quan thông tin tư liệu phải gồng mình vì hiện tượng này. Họ phải chắt lọc trong số rất nhiều thông tin đó, những nguồn chính xác, có độ tin cậy, phù hợp để cung cấp cho nguời dùng tin và xây dụng vốn tư liệu cho cơ quan mình. Thế nên , thuật ngữ nguồn lực thông tin ra đời. - Nguồn lực thông tin là toàn bộ các thông tin phản ánh thế giới khách quan, là nguồn tri thức hiểu biết xã hội được lưu giữ trong các vật mang tin khác nhau, được tổ chúc có thể truy cập được giúp con người nhận thức, cải tạo thế giới khách quan và làm chủ xã hội. ở mỗi cơ quan thông tin-thư viện, nguồn lưc thông tin trở thành một trong những nguồn lực quan trọng cần phải quan tâm hàng đầu vì nó là cơ sở tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của chính cơ quan đó. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, kinh tế hiện đại, thông tin kinh tế cũng phát triển nhanh chóng. Thông tin phát ra từ các yếu tố của hệ thống nền kinh tế quốc dân từ trung ương đến cơ sở: các thông báo nội bộ của một hệ thống kinh tế, giữa những hệ thống kinh tế khác nhau. Bởi thế, thông tin kinh tế góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế hàng hóa và tăng cường hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước, là một phần không thể thiếu trong chính sách tạo nguồn đối với từng quốc gia. Từ trước đến nay, các hoạt động kinh tế và sản xuất đều cần đến thông tin. Các tổ chức sản xuất và kinh doanh đòi hỏi về nhu cầu đang thay đổi của khách hàng, các khuynh hướng thị trường đang tiến hóa, các vật liệu sản xuất đang xuất hiện, các trang thiết bị mới với khả năng kỹ thuật cao hơn, các công nghệ mới đang được áp dụng... Chính quá trình liên hệ nhiều thông tin với nhau, dù ở xã hội nguyên sơ nhất, đã dần dần đưa đến kiến thức về những nguyên lý thông dụng trong sản xuất, giúp con nguời đổi mới và hoàn thiện các quá trình lẫn phương pháp hiện hành. Đó chính là yếu tố quan trọng của sự phát triển, góp phần nâng cao sức sản xuất và tạo nên sự giàu có của xã hội. Từ giữa thế kỷ XX , nền sản xuất công nghiệp và kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ, nhiều nhu cầu thông tin và xử lý thông tin mới nảy sinh nhanh chóng, đòi hỏi được đáp ứng kịp thời, nên vai trò của thông tin kinh tế ngày càng thêm quan trọng. Thông tin kinh tế phản ánh các hiện tượng kinh tế-xã hội khách quan. Là những thông tin kinh tế xã hội và kinh tế-kỹ thuật, những số liệu, những sự kiện tin tức và các tài liệu khác trên cơ sở nhận thức ban đầu về chất lượng và sự ưu thế về mặt số lượng, phản ánh những quan hệ kinh tế-xã hội, đuợc dùng để phân tích, quản lý, lập kế hoạch và dự báo sự phát triển kinh tế-xã hội. Nó khác với các thông tin khoa học tự nhiên, thiên văn, sinh học. Đó là những thông tin về các hiện tượng tự nhiên trong thế giới khách quan. Trong lĩnh vực hoạt động kinh tế, thông tin kinh tế là đại lượng đo lường, miêu tả những hiện tượng phát sinh ra trong hoạt động kinh tế, đuợc thu thập và lựa chọn, xử lý để phục vụ cho mục tiêu và nhiệm vụ nhất định của công tác quản lý, trong quá trình tái sản xuất m._.ở rộng nền kinh tế quốc dân. Thông tin kinh tế là những căn cứ để giúp cho cán bộ quản lý lựa chọn và ra các quyết định quản lý tối ưu để điều hành hoạt động quản lý trong các đơn vị. Lênin đã từng khẳng định "Khoa học thống kê kinh tế-xã hội một trong những công cụ mạnh mẽ nhất để nhận thức xã hội”. Có thể có nhiều định nghĩa khác nhau về thông tin kinh tế dưới những góc độ cụ thể. Nhưng ta có thể hiểu: - Thông tin kinh tế là loại thông tin chuyên ngành phản ánh về tình hình kinh tế-xã hội, về sản xuất kinh doanh và dịch vụ trong điều kiện nền kinh tế thị trường có định hướng phục vụ cho các nhà quản lý vi mô và vĩ mô lập kế hoạch phát triển nền kinh tế-xã hội, quản trị sản xuất và kinh doanh. Đối với việc xây dựng nền kinh tế quốc gia, thông tin kinh tế trở thành một đối tượng nghiên cứu độc lập cùng với sự ra đời của phương thức tư bản chủ nghĩa.Tính mâu thuẫn và sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản đã quyết định tính mâu thuẫn trong sự phát triển của lĩnh vục thông tin kinh tế. Đồng thời, nó cũng là đối tượng nghiên cứu độc lập đối với các nhà lãnh đạo quản lý. Bởi nó cung cấp những thông tin kinh tế-xã hội, kinh tế-kỹ thuật, số liệu, sự kiện, tin tức giúp họ phân tích, quản lý, lập kế hoạch, xây dựng chiến lược dự báo sự phát triển kinh tế, xã hội cho đất nước mình. Chính điều này làm cho thông tin kinh tế trở thành nguồn tài nguyên quan trọng trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, thông tin kinh tế đã thâm nhập vào mọi khâu của hoạt động kinh tế xã hội, nó trở thành nguồn lực cho sản xuất-kinh doanh, quản lý. Và vì vậy, nguồn lực thông tin kinh tế ngày càng được cán bộ quản lý, các doanh nghiệp nhất là các cơ quan thông tin-thư viện coi trọng, phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. - Nguồn lực thông tin kinh tế là toàn bộ những thông tin kinh tế được lưu trên các vật mang tin khác nhau, được tổ chức và có thể truy cập được phục vụ đắc lực cho việc phát triển kinh tế-xã hội, sản xuất kinh doanh của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. ở nước ta hiện nay, quá trình chuyển biến từ một nền kinh tế được quản lý một cách tập trung quan liêu sang một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nuớc rất cần có sự góp sức của nguồn tin kinh tế. Quá trình chuyển biến sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi nắm vững rất nhiều loại thông tin kinh tế khác nhau với chất lượng thông tin cao nhằm phục vụ cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các nhu cầu thông tin kinh tế được đáp ứng có hiệu quả sẽ thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới, cải cách làm cho nền kinh tế phát triển. Quốc gia nào càng có nguồn lực thông tin kinh tế lớn mạnh quốc gia đó càng có nền kinh tế phát triển. Thế nên, nguồn lực thông tin kinh tế trở thành một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của mỗi nước, là nguồn lực quan trọng góp phần tạo nên những ưu thế kinh tế-xã hội để quốc gia đó khẳng định được chính mình. Vai trò của thông tin kinh tế trong nền kinh tế hiện đại. Để cạnh tranh thành công trên thương trường, một doanh nghiệp phải đưa ra những quyết định đúng đắn và kịp thời. Trên thực tế có nhiều yếu tố tác động đến chất lượng của các quyết định đó như trình độ của các nhà quản lý, sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật ... và một yếu tố cực kỳ quan trọng đó chính là vấn đề cung cấp thông tin. Một trong những biến chuyển lớn lao của xã hội chúng ta hiện nay là từ xã hội công nghiệp chuyển sang xã hội thông tin. Điều này không có nghĩa là công nghiệp sẽ biến mất trong tương lai, mà nó nói lên rằng, nếu người quản lý không hiểu rõ vai trò của thông tin thì họ sẽ biến mất. Kiến thức ngày nay là sản xuất, là sức mạnh của doanh nghiệp. Kiến thức có vai trò là hệ số của sản xuất, bởi vì nó có đặc tính sáng tạo. Thông tin nói chung, thông tin kinh tế nói riêng và kiến thức đang đóng vai trò tích cực và nổi bật trong các hoạt động tạo ra giá trị cho các công ty và các tổ chức kinh doanh. Nó là một trong ba lĩnh vực (công nghiệp, thương mại, dịch vụ) tạo thành trục quan trọng của quá trình phát triển kinh tế-xã hội; nối liền giữa sản xuất, lưu thông, tiêu dùng; thỏa mãn các nhu cầu nhanh nhậy, chính xác, toàn diện trong hoạt động kinh tế của các nước, các đơn vị kinh tế cơ sở. Bởi thế, thông tin kinh tế đóng vai trò hết sức quan trọng không chỉ riêng với nền kinh tế mà còn đối với các lĩnh vục hoạt động khác. Thứ nhất, thông tin kinh tế góp phần thực hiện quá trình chuyển giao tri thức, tiến tới hỗ trợ việc ra quyết định giải quyết các vấn đề quan tâm cần thiết. Thông tin kinh tế phản ánh các mặt đời sống kinh tế của xã hội. Nó chủ yếu vận động trong lĩnh vực hoạt động kinh tế, giúp cho các chủ thể kinh tế ra quyết định thực hiện các hoạt động kinh tế của mình. Thông tin kinh tế nói chung đang trở thành một nhân tố cạnh tranh quan trọng nhất mà bất kỳ nguời lãnh đạo công ty nào cũng phải cố nắm lấy để cạnh tranh với các công ty khác trên thế giới, để xác định cho mình hướng kinh doanh mới, cũng như phát huy đuợc lợi thế vốn có của mình. Trong nền kinh tế thị trường, mỗi chủ thể kinh tế, dù là người sản xuất, người tiêu dùng, người chủ nguồn lực kinh tế hay những người trung gian, đều chịu sự chi phối của cơ chế thị trường. Các quyết định kinh tế của họ có liên quan đến những người còn lại thông qua các quan hệ thị trường. Việc đề ra và triển khai thực hiện các quyết định đòi hỏi chủ thể kinh tế phải hiểu rõ những gì diễn ra trong các quá trình kinh tế của họ cũng như của những người khác liên quan đến họ. Vì vậy, thông tin kinh tế trước hết và chủ yếu phục vụ cho quá trình ra quyết định về các hành vi kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Những xu hướng phát triển kinh tế thị trường ngày nay làm cho thông tin có nhiều vai trò mới. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn lịch sử đều gắn với một trình độ phát triển nhất định của loài người. Sự kế tiếp giữa hai nền văn minh xuất hiện hiện tượng chuyển giao tri thức. Tri thức là nguồn tài nguyên của nhân loại, biểu hiện của trí tuệ con người và công nghệ. Tri thức cũng là nguồn tài nguyên quan trọng để giúp đem lại sự thịnh vượng của các quốc gia ở những giai đoạn khác nhau. Vì nó là động lực để thúc đẩy kinh tế và đổi mới công nghệ mang tính xuyên ngành và xuyên quốc gia. ở xã hội hiện đại, vai trò của tri thức nổi lên như một nguồn lực kinh tế. Các nước đều dựa vào tri thức làm sức mạnh chủ yếu đem lại giá trị kinh tế-xã hội. Việc góp mặt của thông tin kinh tế đã làm cho tri thức đi sâu áp dụng vào đời sống con người, làm cho quá trình chuyển giao tri thức nhanh hơn, đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó, thông tin kinh tế làm cho người nhận được thông tin hiểu biết nhiều hơn về đối tượng để ra các quyết định hợp lý hơn. Với vai trò này, thông tin kinh tế luôn gắn liền với hoạt động quản lý kinh tế, nó vừa là "nguyên liệu", vừa là "sản phẩm", vừa là công cụ để thực hiện quá trình quản lý kinh tế cả ở tầm vi mô và vĩ mô. Đồng thời, thông tin kinh tế dưới dạng các thông lệ, qui tắc ứng xử, những quy luật được tổng kết về các mối quan hệ, các quá trình vận động kinh tế đóng vai trò tiền đề cho các hoạt động quản lý. Những thông tin đó làm tăng năng lực, kỹ năng của những người ra quyết định ở các doanh nghiệp, gia đình, cơ quan của chính phủ trong sự vận hành kinh tế thị trường. Nó là tiền đề để những nhà quản lý ra quyết định tránh chủ quan, cảm tính và xa lạ với thực tế. Thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác làm cho doanh nghiệp đánh giá sai về tiềm lực của mình hoặc về cơ hội, hay nguy cơ môi truờng hoạt động từ đó ra các quyết định kém hiệu quả. Cơ sở thông tin đầy đủ, cung cấp các thông tin chính xác, kịp thời sẽ giúp cho doanh nghiệp đáp ứng với thị trường một cách phù hợp và hiệu quả. Quá trình ra quyết định ở các doanh nghiệp không chỉ sử dụng thông tin như "nguyên liệu" mà kết quả của quá trình đó là các quyết định.Chính là những thông tin sẽ được truyền đạt đến đối tượng quản lý. Tuy nhiên, thông tin không chỉ được sử dụng như cơ sở, và công cụ của quá trình quản lý ở các doanh nghiệp. Thông tin còn là tiền đề tạo ra các khả năng, kỹ năng của người ra quyết định. Sự vận động liên tục của doanh nghiệp, của thị trường và môi truờng xung quanh đòi hỏi người ra quyết định ở các doanh nghiệp phải luôn cập nhật với những tri thức mới để có năng lực, phẩm chất mới, từ đó có thể hiểu được xu hướng vận động chung, có thể theo kịp được bước tiến của thời đại. Thứ ba, thông tin kinh tế giúp các nhà kinh tế, các nhà sản xuất kinh doanh phân tích sự kiện, hiện tượng, hiểu được những gì đang xảy ra trong công ty của mình và môi trường rộng lớn bên ngoài; sáng tạo ra các yếu tố kinh doanh, rút ngắn thời gian phát hiện quy luật từ triển khai đến ứng dụng. Thông tin và kiến thức có liên quan chặt chẽ đến trí tuệ con người.Việc sử dụng thông tin của mỗi cá nhân rất khác nhau, thậm chí các đánh giá đuợc xây dựng từ cùng một cơ sở dữ liệu, cùng một chất liệu thông tin, nhưng cũng khác nhau, tùy thuộc vào người sử dụng thông tin.Trình độ, kiến thức, kinh nghiệm và nhiều tố chất khác của con người, kể cả vị trí xã hội, trạng thái tâm lý...là các yếu tố tác động lên hiệu quả sử dụng thông tin của từng người. Tất cả những người lãnh đạo các doanh nghiệp đều có chiến lược cạnh tranh riêng cho doanh nghiệp của mình. Biết và hiểu những điều mà đối thủ không biết, biết trước đối thủ trao đổi thông tin để có kiến thức mới...Tất cả là những biện pháp cạnh tranh để đi trước đối thủ của mình một bước. Việc sử dụng có tính chiến lược các thông tin nói chung trong xây dựng kế hoạch kinh doanh, trong xác định mục tiêu, sản phẩm, trong sản xuất, tích lũy, có nghĩa là thông tin và kiến thức cần được đánh giá và quản lý như các nguồn lực khác của công ty ( lao động, vốn, máy móc...). Và cuối cùng, thông tin kinh tế giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiếp nhận công nghệ thích hợp, đổi mới sản phẩm, phát triển sản xuất, hiểu được nhu cầu và xu hướng thị trường... Tìm kiếm các cơ hội đầu tư có hiệu quả. Trong điều kiện hiện nay, khoa học-kỹ thuật-sản xuất là các bộ phận có quan hệ khăng khít với nhau tạo thành chu trình “Khoa học-kỹ thuật-sản xuất ". Thông tin kinh tế nói riêng và thông tin nói chung là sản phẩm của lao động trí tuệ con người. Hầu hết trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thông tin kinh tế được sử dụng rất lớn. Công nghiệp hóa tại các nước tiên tiến tập trung vào việc phát triển mạnh dịch vụ, xuất khẩu dịch vụ. Điều này không có nghĩa họ sẽ sản xuất ít hàng hóa đi mà là sản xuất càng nhiều hàng hóa nhung với giá càng rẻ, chất lượng cao khiến cho tỷ trọng đóng góp của hàng hóa vào GDP càng nhỏ. Thông tin kinh tế được lưu giữ và sử dụng nhằm làm tăng năng lực mỗi quốc gia. Con đường tăng trưởng của kinh tế ngày nay là sử dụng công nghệ mới trong quá trình sản xuất. Các thông tin về tình hình thị trường, về khách hàng, về cạnh tranh, về các môi trường tự nhiên, chính trị, xã hội bên trong và bên ngoài quốc gia còn giúp cho mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia tìm kiếm lợi thế trong cạnh tranh của họ. Vì vậy, thông tin được xem như một tài sản quan trọng của mỗi tổ chức trong nền kinh tế thị trường, như bất kỳ tài sản nào khác (Tài nguyên thiên nhiên, vốn kỹ thuật, vốn bằng tiền, lao động...) Do thông tin (bao gồm cả thông tin kinh tế ) có vai trò quan trọng như vậy, cho nên có thể nói, ngày nay thông tin đã trở thành nhu cầu của mọi dân tộc, mọi tầng lớp xã hội. Có thời người ta “định nghĩa" : Người nào không biết ngoại ngữ, người đó thuộc diện "mù chữ", nhưng gần đây, có “định nghĩa” mới: Người nào không biết thông tin-tin học, là thuộc diện "mù chữ". Như vậy, chúng ta đủ biết sức mạnh của tin học-thông tin trong thời đại ngày nay, mà thông tin kinh tế chỉ là một thí dụ. Nhiều nhà khoa học nổi tiếng đã khẳng định: Thông tin-tin học là công lực ảnh hưởng mạnh mẽ đến chiến lược kinh tế của các quốc gia. Nhưng cái quan trọng nhất đó là thông tin kinh tế giúp bồi dưỡng phương pháp tư duy, mục đích tư duy đúng đắn. Nó góp phần tạo ra một môi trường hoạt động kinh tế lành mạnh. Điều tra về nguồn lực thông tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học và công nghệ Quốc gia 2.3.1 Nội dung nguồn lực tin kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta phát động từ năm 1986 thật sự đã mang lại sinh khí mới cho các hoạt động kinh tế-xã hội. Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang tạo ra một tầng lớp doanh nhân ngày càng đông đảo, năng động, sáng tạo, dần dần thích nghi với những điều kiện kinh doanh của cơ chế thị trường. Nhờ vậy, nền kinh tế đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng và tăng nhanh nhịp độ phát triển. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế, các lĩnh vực kinh tế sôi động hẳn lên, đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Bên cạnh các nhà quản lý kinh tế, nhà doanh nghiệp của khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã xuất hiện ngày càng nhiều các nhà doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác. Những nhà kinh tế, doanh nghiệp có vai trò quan trọng cho việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nuớc, thực hiện “ Phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu", thực hiện quyền chủ động sản xuất, kinh doanh, vai trò của các nhà kinh tế doanh nghiệp ngày càng có vai trò quan trọng. Do đó, vấn đề cung cấp đầy đủ thông tin kinh tế cho họ có ý nghĩa rất tích cực, là tiền đề tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, kinh tế, kinh doanh. Nắm được điều này, với vị trí là cơ quan đầu ngành cả nước về khoa học và công nghệ, Trung tâm TTKH & CNQG đã không ngừng bổ sung và nâng cao chất lượng nguồn lực tin kinh tế để phục vụ đắc lực cho quá trình hội nhập kinh tế Việt Nam với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. So với những năm trước đây, thì hiện nay, nguồn lực tin kinh tế của Trung tâm TTKH & CNQG vừa phát triển cả về chiều sâu lẫn khối lượng. Các tài liệu về lĩnh vực kinh tế có nội dung liên quan đến việc phát triển kinh tế-xã hội đều được cơ quan đặc biệt chú trọng. Với đặc điểm người dùng tin ở đây hầu hết là những người có trình độ chuyên môn cao-thường là cán bộ lãnh đạo quản lý, nghiên cứu nên cung cấp tài liệu cho họ được xem là vấn đề đáng quan tâm. Sở dĩ như vậy là vì người dùng tin chính là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của bất kỳ hệ thống thông tin nào. Đây là yếu tố tương tác hai chiều với các đơn vị thông tin. Người dùng tin vừa là đối tượng phục vụ, vừa là khách hàng, là người tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ của cơ quan, đồng thời là người thể hiện cụ thể nhu cầu tin của các cá nhân, tập thể, nhóm. Người dùng tin còn là người đóng góp vào quá trình sản xuất "nguyên liệu thông tin " cho hoạt động của các cơ quan thông tin-tư liệu. Sau khi nhận được các sản phẩm và dịch vụ thông tin theo yêu cầu, người dùng tin tham gia vào hầu hết các công đoạn của hoạt động thông tin như: đánh giá nguồn tin, giúp đỡ, lựa chọn và bổ sung tài liệu, hiệu chỉnh các hoạt động thông tin. Người dùng tin được cung cấp những sản phẩm và dịch vụ thông tin có chất lượng sẽ tạo ra nguồn tin có giá trị. Và với các nguồn tin có giá trị ấy, các cơ quan thông tin lại tạo ra những sản phẩm thông tin có chất lượng cao hơn. Có thể nói người dùng tin đóng vai trò quan trọng giúp cho một cơ quan thông tin-thư viện hoạt động. Do thế, để phục vụ nhu cầu tin đông đảo bạn đọc từ cán bộ lãnh đạo quản lí, doanh nghiệp đến các hộ gia đình sản xuất vừa và nhỏ, nguồn lực thông tin kinh tế tại Trung tâm có nội dung rất phong phú với tính chuyên ngành sâu trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh, sản xuất. Mặc dù không phải là cơ quan thông tin chuyên ngành về lĩnh vực kinh tế, nhưng Trung tâm đã không ngừng cố gắng xây dựng nguồn lực thông tin kinh tế ngày càng lớn mạnh, cơ bản đáp ứng nhu cầu tin cho người dùng tin. Nguồn lực thông tin kinh tế ở đây, chủ yếu bao quát ở những khía cạnh sau - Tài liệu về kinh tế xã hội Đây là những tài liệu phản ánh tất cả mọi mặt nền kinh tế trong thời gian qua và cả định hướng phát triển kinh tế xã hội trong thời gian tới của đất nước. Đồng thời, nó cũng đưa ra dự báo thiết thực về xu thế phát triển kinh tế trong nước đối với kinh tế khu vực và thế giới để từ đó các nhà lãnh đạo, quản lí đề ra chiến lược sao cho kinh tế phát triển hài hòa trong xã hội hiên đại. Các tài liệu này chủ yếu phục vụ cho nhà lãnh đạo, quản lí. Bởi vì họ chính là những người đề ra chiến lược, sách lược phát triển kinh đất nước. Họ cần có các thông tin về tình hình chung ở lĩnh vực sản xuất, trao đổi, tiêu dùng trong nước cũng như các nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng tới nền kinh tế quốc dân. Việc đề ra các chính sách hợp lí sẽ kích thích phát triển kinh tế, việc giải quyết có hiệu quả các khuyêt tât của kinh tế thị trường, việc ban hành các luật lệ, thể chế cho các hoạt động kinh tế và nhiều hoạt động do nhà nước thực hiện đều dựa trên những thông tin đầy đủ, tin cậy và thích hợp. Khi có được cái nhìn toàn cảnh về kinh tế xã hội ở đất nước mình, người cán bộ quản lí sẽ nắm bắt tình hình, xu hướng vận động của nền kinh tế, từ đó hoạch định các hướng phát triển của mỗi ngành cũng như cân đối giữa các ngành kinh tế có lợi nhất cho quốc gia. Nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, hoạt động kinh tế đang được đẩy mạnh, sự liên kết hợp tác ở các khu vực đang là nét nổi bật của nền kinh tế thị trường hiện đại thì các tài liệu này sẽ như một sơ đồ kinh tế để Chính phủ chọn hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế nước nhà. - Tài liệu về kinh doanh- thương mại Cung cấp tên các mặt hàng, sản phẩm và cả thị trường tiêu thụ các sản phẩm đó . Bên cạnh đó, tài liệu đưa ra những cách kinh doanh, buôn bán sao cho người kinh doanh có được lợi nhuận cao. Nó cũng là nguồn tài liệu đặc biệt quý giá đối với những người có ý tưởng và mới bước vào nghề kinh doanh. Bởi đây sẽ là cẩm nang thương mại trong lĩnh vực kinh tế giúp cho các quan hệ ngày càng được thông suốt. - Tài liệu về kinh tế nông- lâm- ngư nghiệp Là những tài liệu đưa ra tất cả thông tin về tình hình sản xuất cho người làm trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp cũng như phương pháp làm kinh tế đạt hiệu quả cao ở mỗi lĩnh vực ấy giúp người dân tiếp cận dễ dàng. Đây là mảng tài liệu mang tính chất truyền thống. Vì nước ta là một nước thuần nông trong đó gần 80% dân số sống bằng nông nghiệp. Do vậy, muốn phát triển nền kinh tế nước nhà ta phải dựa trên cơ sở những cái đã có sẵn và muốn đáp ứng tốt hơn nhu cầu tin cho người dùng tin thì việc trước tiên Trung tâm đã xây dựng một khối lượng khá lớn tài liệu về các ngành này. Theo như E.O.Heady- một chuyên gia về kinh tế nông nghiệp Anh nhận xét: "Kinh tế nông nghiệp là nền kinh tế ứng dụng vào nông nghiệp với kiểu phân tích cơ bản.". Chính các thông tin về kinh tế nông-lâm-ngư nghiệp đã hình thành một quan niệm giữa người thống kê và người nghiên cứu kỹ thuật. Như vậy, nguồn tài liệu này không chỉ liên quan đến người sản xuất mà còn được các nhà nghiên cứu kỹ thuật, thống kê đưa ra những bài toán thực tiễn góp phần vào việc nâng cao chất lượng cũng như giá thành sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế lớn. - Tài liệu về kinh tế công nghiệp Loại tài liệu này thực sự được Trung tâm chú trọng phát triển từ những năm 90 khi mà Đảng và nhà nước ta có chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một mặt, chúng ta vẫn sản xuất nông nghiệp nhưng mặt khác chúng ta có chính sách phát triển ưu tiên các ngành công nghiệp. Các nước tư bản chủ nghĩa hầu như đã qua nền kinh tế công nghiệp. Do đó, trong nền kinh tế thị trường hiện đại- nền kinh tế hậu công nghiệp này, các tài liệu về kinh tế công nghiệp rất quan trọng đối với nước ta. Nó giúp chúng ta đi kịp với sự phát triển chung của toàn thế giới mà không lạc hậu rất là trong những ngành sản xuất công nghệ cao: điện tử, phần mềm máy tính, các ngành tự động hóa... Theo các nhà kinh tế, kinh tế công nghiệp liên quan đến hoạt động sản xuất như thế nào để hài hòa với nhu cầu phát triển của xã hội và phục vụ cho vấn đề cơ khí hóa có hiệu quả. - Tài liệu về kinh tế thị trường Bao gồm những tài liệu được cập nhật thường xuyên về thông tin thị trường trong và ngoài nước. Đó là những tin tức, thông báo về tình hình thị trường. Các thông tin này là sự phản ánh tình hình thị trường, là sự truyền đi, phản hồi của tình hình thị trường. Đây cũng là hình thức mà giới trung gian thị thị trường liên kết các chủ thể hoạt động kinh tế với nhau. Nhờ nó mà nhiều doanh nghiệp biết rõ khách hàng là ai, họ cần hàng hóa nào, bao nhiêu, ở đâu, đáp ứng được cầu trên thị trường chưa?... Qua đó, doanh nghiệp và người sản xuất sẽ tìm lợi thế cạnh tranh của họ làm cho hoạt động trao đổi trên thị trường trở nên thông suốt giúp hoạt đông sản xuất phù hợp với nhu cầu tiêu dùng xã hội, tạo sự hiểu biết và thích ứng lẫn nhau giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, giữa người bán với người mua tránh tình trạng "cung không đáp ứng cầu" hay "cầu vượt quá cung". - Tài liệu về tài chính, tiền tệ Thông báo các tin tức về sự biến đổi giá cả của tiền tệ để từ đó nhà quản lí kinh tế và doanh nghiệp có chiến lược điều chỉnh việc lưu thông tiền trong nước nhằm tránh lạm phát. Vấn đề ngân sách, tài chính của mỗi quốc gia là một yếu tố đánh giá mức độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó. Nguồn ngân sách dồi dào sẽ là cơ sở để nhà nuớc đưa ra các dự án tăng cường phát triển kinh tế. Tuy nhiên, sự biến động giá trị của ngoại tệ cũng là một hình thức biểu hiện của nền kinh tế. Do đó thông tin về tài chính-tiền tệ góp phần đưa cho các nhà quản lý, kinh doanh, sản xuất biết được mức độ phát triển kinh tế của đất nước đến đâu để có chiến lược ứng phó kịp thời. - Các tài liệu về những loại thông tin kinh tế khác Nguồn lao động, giá cả, dân số, môi trường, quản lý kinh tế ... Đây là những tài liệu chiếm lượng không đáng kể trong kho tài liệu của Trung tâm TTKH & CNQG. Nhưng nó cũng góp phần hoàn thiện nguồn tin kinh tế ở đây. Thiếu các tài liệu này thì hoạt động kinh tế trở nên khó khăn và kém linh hoạt. Mỗi yếu tố về: lao động, giá cả, môi trường đều có ảnh hưởng trực tiếp đến việc doanh nghiệp đó sản xuất cái gì? Như thế nào? Ai là người trực tiếp sản xuất ? Và nó cũng là yếu tố để Chính phủ quan tâm trước khi đưa ra quyết định phát triển kinh tế. Thế cho nên, phạm vi phản ánh của thông tin kinh tế trong Trung tâm TTKH & CNQG là tổng thể nền kinh tế thị trường. Thông qua nguồn tin này, cá nhân, doanh nghiệp hoặc nhà nước xây dựng các chương trình, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, định hướng hoạt động kinh tế lâu dài, bố trí các nội dung theo chương trình kế hoạch; người này có thể tận dụng kết quả của người khác để tiến lên, "đứng lên vai" người khác mà đi. Chính nhờ nó mà tiết kiệm được sức lực, tiền của đầu tư cho nghiên cứu-phát huy tốt chức năng cung cấp thông tin, cung cấp tư liệu sẽ có ý nghĩa lớn đối với công tác nghiên cứu khoa học kinh tế. Rộng hơn, thông tin kinh tế giúp “con người triết học” phát triển thành “con người kinh tế-xã hội”. 2.3.2 Các loại hình tài liệu kinh tế tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia Một trong những yếu tố góp phần quan trọng vào sự phát triển của một trung tâm thông tin-thư viện là nguồn lực thông tin của trung tâm ấy. Người ta có thể đánh giá sự phát triển của một cơ quan thông tin-thư viện thông qua việc nhìn tổng quát vốn tài liệu ở chính đó. Trong thời đại ngày nay và trong hoạt động thông tin-tư liệu-thư viện, việc xây dựng các nguồn lực thông tin, kiểm soát, quản lý chia sẻ và sử dụng chúng một cách rộng rãi, có hiệu quả là điều vô cùng quan trọng. Việc tham khảo bắt kịp các thông tin từ nhiều nơi và sử dụng ngay nguồn tin sẵn có tại chỗ được các cơ quan thông tin-thư viện rất coi trọng. Mặc dù mới hoạt động 14 năm nhưng nguồn tài liệu của Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia đã được xây dựng từ trước đó vào những năm 50. Với vị trí là cơ quan Thông tin Khoa học đầu ngành cả nước về khoa học và công nghệ nên số lượng tài liệu khoa học kỹ thuật ở đây chiếm tới 80%. Trong tống số 20% còn lại lượng tài liệu về thông tin kinh tế ở mức còn hạn chế. - Sách Đây là nguồn lực thông tin khá lớn của Trung tâm. Bởi sách là một vật mang tin truyền thống lâu đời mà cơ quan thông tin-thư viện nào khi mới ra đời cũng thông thể thiếu nó trong vốn tư liệu. Trong số các vật mang tin hiện nay thì sách được coi là vật mang tin chủ yếu, dễ sử dụng. Từ xa xưa, sách có vai trò vô cùng to lớn. Đó chính là nguồn, là phương tiện truyền bá kiến thức nhân loại với nhiều dữ kiện, thông tin, hình minh hoạ sinh động. Với hơn 220.000 đầu sách ở Trung tâm, tài liệu về kinh tế có 1951, chiếm 5%. So với một số lĩnh vực khác như y tế, thủy sản, quản lý kỹ thuật thì 5% không phải là nhỏ. Ta có thể thấy điều này khi thống kê một số lĩnh vực ở mục lục sách của Trung tâm. Bảng 1: Thống kê một số sách chuyên ngành ở Trung tâm TTKH&CNQG Lĩnh vực Năm Toán Cơ học Sinh học Năng lượng Kinh tế Tin học Vật lý 2002 18 1 16 1 5 28 2 2003 24 11 37 7 15 3 27 Trong đó, 392 sách Tiếng Việt, còn lại là sách La Tinh, sách Nga Văn. Hàng năm trung tâm cũng đặt mua từ nước ngoài khối lượng không nhỏ sách kinh tế để làm giàu nguồn tin này bằng kinh phí do nhà nước cấp. Tuy nhiên, sách kinh tế được mua không đồng đều giữa các năm nên nó cũng ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách phát triển nguồn tin. Bảng2: Số sách kinh tế bổ sung hàng năm tại Trung tâm TTKH&CNQG Năm Tổng số Sách kinh tế 2000 2050 55 2001 2900 102 2002 3934 400 2003 2250 13 Dựa vào bảng trên ta thấy có nhiều biến động. Đó chính là số lượng sách kinh tế được nhập hàng năm không đồng đều. Nguyên nhân chủ yếu chính là do giá tiền các loại sách cần mua ngày càng tăng trong khi nguồn kinh phí được cấp vẫn giữ nguyên. Các sách kinh tế này được phân bố cho một số phòng ban để phục vụ việc tìm tin của độc giả đến Trung tâm. Số ít, Trung tâm lưu vào kho dự trữ. Bảng 3: Sách kinh tế phân theo ngôn ngữ tại Trung tâmTTKH&CNQG Ngôn ngữ Tiếng Việt Tiếng La Tinh Tiếng Nga Số lượng(bản) 454 1082 418 Các loại sách kinh tế được viết bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Trong đó tài liệu viết bằng tiếng Anh có trữ lượng khá phổ biến khoảng 37%. Nguồn lực bổ sung chủ yếu thông qua các cuộc trao đổi, biếu tặng hoặc qua các đơn đặt hàng quốc tế, qua mạng. Trung bình mỗi tháng có khoảng 42 tài liệu về kinh tế được mua. Trong đó số lượng sách 30 cuốn, số còn lại là tạp chí. Những năm qua, kho đọc sách của Trung tâm phục vụ rất có hiệu quả tài liệu kinh tế cho các cán bộ nghiên cứu, giảng dạy và cả sinh viên nhất là sinh viên Trường Đại học kinh tế quốc dân. Các sách kinh tế được phân loại cụ thể: . Sách kinh tế- xã hội. . Sách về kinh tế thương mại, thị trường. . Sách về kinh tế công nghiệp. .Sách về kinh tế nông-lâm-ngư nghiệp. . Sách về kinh tế vùng. . Sách về tài chính, . Sách về thông tin kinh tế. . Một số loại sách kinh tế khác. Ngoài ra, ở Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia còn có số lượng ít các sách tra cứu kinh tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dùng tin tiếp cận tài liệu đạt chất lượng cao. - Tạp chí Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia rất chú trọng đến việc bổ sung tạp chí. Vì vậy mà khối lượng tài liệu tăng lên trông thấy. Loại hình tài liệu này đã đáp ứng đáng kể nhu cầu tin cho người dùng tin. Số lượng tạp chí về kinh tế ở đây có 2350 đơn vị với hơn 40 tên được cập nhật thường xuyên, bằng 2% trong tổng số 6300 tên tạp chí. Trong đó, 37 tên tạp chí được đông đảo bạn đọc sử dụng và tìm đọc: Kinh tế Sài Gòn, Tạp chí thương mại giá cả, Thương nghiệp thị trường Việt Nam, Kinh tế và phát triển Việt nam, Business, Investment review, The ASEAN Economic... Bảng 4: Số lượng tạp chí kinh tế ở Trung tâm TTTLKH&CNQG Năm Tổng số đơn vị tạp chí Số đơn vị tạp chí kinh tế 1999 8500 1620 2000 6900 1780 2001 8500 1870 2002 10200 2153 2003 9200 2350 Các tạp chí ở đây chủ yếu được viết và xuất bản trong nước. Ngoài ra còn có tạp chí viết bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga; số lượng chiếm gần 50%. Chúng ta có thể thấy điều này khi khảo sát riêng kho dự trữ của Trung tâm. Bảng 5: Tạp chí kinh tế phân theo ngôn ngữ tại kho dự trữ( lấy từ mạng VISTA). Ngôn ngữ Tiếng Việt Tiếng La Tinh Tiếng Nga Số lượng 29 38 4 Sở dĩ có điều này là vì người dùng tin đến đọc tạp chí ở Trung tâm có trình độ ngoại ngữ còn hạn chế. Thông tin kinh tế lại là những thông tin cần phải cập nhật hàng ngày để nắm bắt xu thế phát triển của thế giới. Thế nên muốn phục vụ nhanh chóng những thông tin đó cho bạn đọc, Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia đã không ngừng cung cấp các tạp chí về kinh tế bằng Tiếng Việt. Bên cạnh đó, vốn tạp chí ở kho mở tại đây cũng ngày càng được gia tăng theo cấp số cộng. Mỗi năm, có hơn 500 tạp chí được mua hoặc trao đổi từ Anh và Mỹ. Bởi xu thế hội nhập, toàn cầu hoá đã làm cho quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ, Việt nam với các nước trên thế giới trở nên thân thiện hơn, nhất là trong lĩnh vực chính trị-kinh tế. Từ đó, mối quan hệ trao đổi tài liệu của ta với Mỹ cũng như các nước khác được đảm bảo chất lượng, số lượng. Mặc dầu vậy, việc trao đổi ở đây còn có hạn chế: một số tạp chí kinh tế được đặt mua theo định kỳ chưa cập nhật hoặc đến chậm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tạp chí về lĩnh vực kinh tế chủ yếu chứa đựng những thông tin: +Thị trường, giá cả thị trường. + Thương mại-dịch vụ. +Quản lý kinh tế. + Kinh tế khu vực và thế giới. + Kinh tế Việt Nam. Bảng 6: Số lượng tạp chí theo một số tên (đơn vị) Tên tạp chí Thị trường Thương mại-dịch vụ Quảnlý kinh tế Kinh tế khu vực,thế giới Kinh tế Việt Nam Số lượng 638 87 324 310 19 - Cơ sở dữ liệu Hiện nay, sự ra đời và khai thác mạng Internet đã làm cho nhu cầu tin của con người tăng lên rất nhanh. Vì thế, nguồn lực thông tin kinh tế không chỉ được lưu trên các vật mang tin truyền thống như: sách, tạp chí mà còn được xây dựng thành những cơ sở dữ liệu rồi đưa lên mạng, giúp cho người dùng tin có thể truy cập và tìm thông tin một cách nhanh chóng, dễ dàng. Nguồn cơ sở dữ liệu ở Trung tâm rất phong phú, đủ các lĩnh vực bao quát.._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0162.doc
Tài liệu liên quan