Nguồn vố hỗ trợ phát triển ODA

Lời nói đầu Vốn luôn được coi là một trong những nhân tố quyết định cho quá trình sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Đặc biệt là để đạt tăng trưởng kinh tế cao, vấn đề tạo nguồn vốn và sử dụng nó một cách có hiệu quả càng trở nên cần thiết đối với tất cả các quốc gia muốn trở thành nước công nghiệp hoá với thời gian ngắn nhất. Công cuộc cải cách kinh tế của Việt Nam đã qua một chặng đường hơn 10 năm. Nền kinh tế đã thu được những kết quả đáng khả quan như tốc độ tăng

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1460 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nguồn vố hỗ trợ phát triển ODA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trưởng nhanh, lạm phát ở mức có thể kiểm soát được, nhưng để duy trì tốc độ tăng trưởng như vậy thì nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn. Trong khi đó nền kinh tế nước ta lại có xuất phát điểm thấp, nghèo nàn, lạc hậu nên nguồn vốn trong nước không thể đáp ứng hết nhu cầu về vốn đầu tư đó. Vì vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nói riêng là rất quan trọng. Nguồn vốn ODA đã góp phần đáng kể vào việc đạt được những thành tựu kinh tế xã hội của đất nước. Để có thể thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn ODA trong phát triển kinh tế - xã hội cần có những biện pháp cụ thể và toàn diện. Em xin trình bày một số hiểu biết của em về ODA trong bài này. Chương I Tổng quan về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). I. Khái niệm chung về ODA. 1. Khái niệm. Theo cách hiểu chung nhất, ODA là tất cả các khoản hỗ trợ không hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi (cho vay dài hạn và lãi suất thấp của các Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liệp hợp quốc, các tổ chức phi Chính phủ (NGO), các tổ chức tài chính quốc tế (IMF, ADB, WB...) giành cho các nước nhận viện trợ. ODA được thực hiện thông qua việc cung cấp từ phía các nhà tài trợ các khoản viện trợ không hoàn lại, vay ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán (theo định nghĩa của OECD, nếu ODA là khoản vay ưu đãi thì yếu tố cho không phải đạt 25% trở lên). Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần GNP từ bên ngoài vào một quốc gia, do vậy ODA được coi là một nguồn lực từ bên ngoài. ODA có các hình thức sau: Hỗ trợ cán cân thanh toán: Thường là tài trợ trực tiếp (chuyển giao tiền tệ. Nhưng đôi khi lại là hiện vật (hỗ trợ hàng hoá) như hỗ trợ nhập khẩu bằng hàng hoặc vận chuyển hàng hoá vào trong nước qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán hoặc có thể chuyển hoá thành hỗ trợ ngân sách. Tín dụng thương mại: Với các điều khoản "mềm" (lãi suất thấp, hạn trả dài) trên thực tế là một dạng hỗ trợ hàng hoá có ràng buộc. Viện trợ chương trình (gọi tắt là viện trợ phi dự án): là viện trợ khi đạt được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định, mà không xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào. Hỗ trợ cơ bản chủ yếu là về xây dựng cơ sở hạ tầng. Thông thường, các dự án này có kèm theo một bộ phận không viện trợ kỹ thuật dưới dạng thuê chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó hoặc để soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho đối tác viện trợ. Hỗ trợ kỹ thuật: chủ yếu tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc tăng cường cơ sở lập kế hoạch, cố vấn nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu khi đầu tư. Chuyển giao tri thức có thể là chuyển giao công nghệ như thường lệ nhưng quan trọng hơn là đào tạo về kỹ thuật, phân tích kinh tế, quản lý, thống kê, thương mại, hành chính nhà nước, các vấn đề xã hội. 2. Phân loại ODA: Tuỳ theo phương thức phân loại mà ODAđược xem có mấy loại: a. Phân theo phương thức hoàn trả: ODA có 3 loại. - Viện trợ không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận không phải hoàn lại) để bên nhận thực hiện các chương trình, dự án theo sự thoả thuận trước giữa các bên. Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện dưới các dạng: + Hỗ trợ kỹ thuật. + Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật. - Viện trợ có hoàn lại: nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền (tuỳ theo một quy mô và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian trả nợ thích hợp. Những điều kiện ưu đãi thường là: + Lãi suất thấp (tuỳ thuộc vào mục tiêu vay và nước vay). + Thời hạn vay nợ dài (từ 20 - 30 năm) + Có thời gian ân hạn (từ 10 - 12 năm) - ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không hoàn lại và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển. b. Nếu phân loại theo nguồn cung cấp, ODA có hai loại: - ODA song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia thông qua hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ. - ODA đa phương: là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF, WB1...) hay tổ chức khu vực (ADB, EU,...) hoặc của một Chính phủ của một nước dành cho Chính phủ của một nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như UNDP (Chương trình phát triển Liên hiệp quốc), UNICEF (quĩ nhi đồng Liên Hiệp quốc)... có thể không. Các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp ODA chủ yếu: + Ngân hàng thế giới (WB). + Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF). + Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) c. Phân loại theo mục tiêu sử dụng, ODA có 4 loại: Hỗ trợ cán cân thanh toán: gồm các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân sách của Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao trực tiếp cho nước nhận ODA hay hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hoá). Tín dụng thương nghiệp: tương tự như viện trợ hàng hoá nhưng có kèm theo điều kiện ràng buộc. Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án): Nước viện trợ và nước nhận viện trợ kế hiệp định cho một mục đích tổng quát mà không cần xác định tính chính xác khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào. Viện trợ dự án: chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA. Điều kiện được nhận viện trợ dự án là "phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng mục sẽ sử dụng ODA". 3. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu: * Trong thời kỳ chiến tranh lạnh và đối đầu Đông Tây: Trên thế giới tồn tại 3 nguồn ODA chủ yếu: - Liên xô cũ, Đông Âu. - Các nước thuộc tổ chức OECD. - Các tổ chức quốc tế và phi Chính phủ. * Hiện nay, trên thế giới có hai nguồn ODA chủ yếu: các nhà tài trợ đa phương, và các tổ chức viện trợ song phương. * Các nhà tài trợ đa phương gồm các tổ chức chính thức sau: - Các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hiệp Quốc bao gồm: + Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP). + Quĩ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF). + Tổ chức Nông nghiệp và lương thực (FAO) + Chương trình lương thực thế giới (WFP) + Quĩ dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) + Tổ chức y tế thế giới (WHO) + Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO) + Quĩ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFDA). - Các tổ chức tài chính quốc tế: + Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) + Ngân hàng thế giới (WB) + Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) - Liên minh Châu Âu (EU). - Các tổ chức phi Chính phủ (NGO) - Tổ chức xuất khẩu dầu mỡ (OPEC) - Quĩ Cô - Oét. * Các nước viện trợ song phương: - Các nước thành viên Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC) của tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). - Các nước đang phát triển. 4. Quy trình thực hiện dự án ODA. Mỗi quốc gia có những quy định riêng đối với các cách quản lý và điều hành nguồn vốn này. Dưới đây là một số nội dung về quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến các vấn đề xung quanh các hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. 1. Quy hoạch ODA. Bộ kế hoạch - Đầu tư căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch tổng thể và kế hoạch hàng năm chủ trì việc điều phối với các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan để nghiên cứu chủ trương và phương hướng vận động ODA, soạn thảo quy hoạch ODA và lập các danh mục chương trình, dự án ưu tiên sử dụng ODa trình Chính phủ phê duyệt. 2. Vận động ODA. Sau khi quy hoạch ODA và các danh mục các chương trình dự án ưu tiên sử dụng ODA được Chính phủ phê duyệt; Bộ Kế hoạch - Đầu tư phối hợp với các cơ quan liên quan chuẩn bị và tổ chức các hoạt động vận động ODA thông qua: - Hội nghị nhóm tư vấn hàng năm. - Các hội nghị điều phối viện trợ ngành. - Các cuộc trao đổi ý kiến về hợp tác phát triển với các nhà tài trợ. Trước khi tiến hành vận động ODA, các cơ quan, địa phương liên quan cần phải trao đổi ý kiến với Bộ Kế hoạch và Đầu tư về chính sách, khả năng và thế mạnh của các nhà tài trợ liên quan. 3. Chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án ODA. Sau khi đạt được sự cam kết hỗ trợ của các nhà tài trợ đối với các chương trình, dự án cụ thể, Bộ Kế hoạch - Đầu tư sẽ phối hợp cùng các đối tác tiến hành chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án ODA bao gồm lập đề án, lập báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả thi... 4. Thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án ODA. Việc thẩm định và phê duyệt các dự án sử dụng nguồn ODA như sau: - Các dự án đầu tư xây dựng cơ bản phải thực hiện theo quy định của Điều lệ quản lý xây dựng cơ bản hiện hành (Nghị định 52/CP, 12/CP và các văn bản hướng dẫn thuộc lĩnh vực này). - Đối với các dự án hỗ trợ ngân sách, đào tạo, tăng cường thể chế... Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan tiến hành thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Trong quá trình thẩm định có đề cập tới ý kiến tham gia của các bên cung cấp ODA. - Các dự án của các tổ chức phi Chính phủ thực hiện theo Quyết định số 80/CT ngày 28/3/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ). 5. Đàm phán ký kết. Sau khi nội dung đàm phán với bên nước ngoài được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì với sự tham gia của Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên quan tiến hành đàm phán với bên nước ngoài. Trong trường hợp Thủ tướng Chính phủ chỉ định một cơ quan khác chủ trì đàm phán với các bên nước ngoài thì cơ quan này phải thống nhất ý kiến với Bộ Kế hoạch - Đầu tư về nội dung đàm phán và với Bộ Tài chính về hạn mức và điều kiện vay trả (nếu là ODA hoàn lại). Kết thúc đàm phán, nếu đạt được các thoả thuận với bên nước ngoài thì cơ quan chủ trì đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ về nội dung làm việc, kết quả đàm phán và những ý kiến đề xuất có liên quan. Nếu văn bản ODA ký với bên nước ngoài là Nghị định thư, Hiệp định hoặc văn kiện khác về ODA cấp Chính phủ thì cơ quan được Thủ tướng Chính phủ chỉ định đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ nội dung văn bản dự định ký kết và các đề xuất người thay mặt Chính phủ ký các văn bản đó. Văn bản trình Thủ tướng Chính phủ phải kèm theo ý kiến chính thức bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (trường hợp cơ quan khác trình Thủ tướng Chính phủ), Bộ ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính. Trong trường hợp Nghị định thư và Hiệp định hoặc các văn bản khác về ODA yêu cầu phải ký kết với danh nghĩa Nhà nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Kế hoạch - Đầu tư (hoặc cơ quan khác với Chính phủ chỉ định đàm phán) phải báo cáo với văn phòng Chủ tịch nước ngay từ khi bắt đầu đàm phán với bên nước ngoài về nội dung các văn kiện dự định ký kết, đồng thời thực hiện các thủ tục Quy định tại điều 6 khoản 3, điều 7 và điều 8 của Nghị định 182/HĐBT ngày 28/5/1992 của Chính phủ. 6. Quản lý thực hiện. Bộ Kế hoạch - Đầu tư phối hợp cùng với Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lập kế hoạch bố trí vốn đối ứng trong kế hoạch Ngân sách nhà nước và thực hiện cấp phát theo đúng cam kết tại các Điều ước Quốc tế về ODA đã ký và các quyết định phê duyệt chương trình, dự án đầu tư sử dụng vốn ODA. Đồng thời có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện, xử lý những vấn đề liên quan thuộc thẩm quyền trong quá trình thực hiện và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định các biện pháp xử lý, báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA. Bộ Tài chính được xác định là đại diện chính thức cho "người vay" hoặc là Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các điều ước quốc tế cụ thể về ODA cho vay, có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng cơ chế quản lý tài chính (cấp phát, cho vay lại, thu hồi vốn...) đối với các chương trình, dự án ODA. Trong quá trình thực hiện, Ngân hàng nhà nước có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính chỉ định các Ngân hàng Thương mại để uỷ quyền thực hiện việc cho vay lại từ vốn ODA như đã nêu tại điểm điều khoản 3 điều 14 của Quy chế về quản lý và sử dụng ODA ban hành kèm theo Nghị định 87/CP ngày 5/8/1997 của Chính phủ, thu hồi vốn trả nợ ngân sách, đồng thời tổng hợp theo định kỳ thông báo cho Bộ Tài chính và cơ quan liên quan tình hình thực tế về rút vốn, thanh toán... thông qua hệ thống tài khoản được mở tại ngân hàng của các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA. Trong quá trình thực hiện chương trình, dự án ODA... tùy theo quy định và thoả thuận với bên nước ngoài, các chủ trương, dự án chịu trách nhiệm tổ chức các cuộc kiểm định kỳ hoặc đột xuất. Đại diện của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ ngoại giao, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, văn phòng Chính phủ là đại diện của Chính phủ tại các cuộc kiểm điểm này. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương và các chủ chương trình, dự án lập báo cáo 6 tháng và hàng năm về tình hình thực hiện các chương trình và dự án ODA gửi về Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Bộ ngoại giao, và Văn phòng Chính phủ. 7. Đánh giá. Sau khi kết thúc, giám đốc chương trình, dự án ODA phải làm báo cáo về tình hình thực hiện và có phân tích, đánh giá hiệu quả dự án với sự xác nhận của cơ quan chủ quản và gửi về Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Ngoại giao, và Văn phòng Chính phủ. II. Đặc điểm và vai trò của ODA. 1. Đặc điểm của ODA. Trong giai đoạn hiện nay đã xuất hiện một số đặc điểm quan trọng sau: Thứ nhất, tỉ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương có xu thế giảm đi. Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và xu thế hội nhập đã tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế, chính trị... giữa các quốc gia ngày càng được đẩy mạnh và tăng cường. Hoạt động của một số tổ chức đa phương tỏ ra kém hiệu quả làm cho một số nhà tài trợ ngần ngại đóng góp cho các tổ chức này. Điều đó là nguyên nhân chính tạo nên sự chuyển dịch, tỉ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương có xu hướng giảm đi. Điều đó đã được chứng minh trên thực tế là trong các năm 1980 - 1994 trong tổng số ODA của thế giới, tỉ trọng ODA song phương từ 67% tăng lên 69% trong khi đó tỉ trọng ODA đa phương giảm từ 33% xuống 31%. (Nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư). Thứ hai, sự cạnh tranh ngày càng tăng trong quá trình thu hút ODA. Trên thế giới, một số nước mới giành được độc lập hoặc mới tách ra từ các nhà nước liên bang tăng lên đáng kể và có nhu cầu lớn về ODA. Một số nước công hoà thuộc Nam Tư cũ và một số nước Châu Phi bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh sắc tộc đang cần đến sự hỗ trợ quốc tế. ở Châu á, Trung Quốc, các nước Đông Dương, Myanmar... cũng đang cần đến nguồn ODA lớn để xây dựng kinh tế, phát triển xã hội. Số nước có nhu cầu tiếp nhận ODA là rất lớn vì vậy sự cạnh tranh giữa các nước ngày càng trở nên gay gắt. Các vấn đề mà các nước cung cấp ODA quan tâm đến tạo nên sự cạnh tranh giữa các nước tiếp nhận là năng lực kinh tế của quốc gia tiếp nhận, các triển vọng phát triển, ngoài ra còn chịu nhiều tác động của các yếu tố khác như: Nhãn quan chính trị, quan điểm cộng đồng rộng rãi, dựa trên sự quan tâm nhân đạo và hiểu biết về sự cần thiết đóng góp vào ổn định kinh tế - xã hội quốc tế. Cùng mối quan hệ truyền thống với các nước thế giới thứ ba của các nước phát triển, hay tầm quan trọng của các nước đang phát triển với tư cách là bạn hàng (thị trường, nơi cung cấp nguyên liệu, lao động). Mặt khác, chính sách đối ngoại, an ninh và lợi ích chiến lược, trách nhiệm toàn cầu hay cá biệt... cũng là nhân tố tạo nên xu hướng phân bổ ODA trên thế giới theo vùng. Ngoài ra còn có thêm lý do đó là sự chuẩn bị đáp ứng nhu cầu riêng biệt về thủ tục, quy chế, chiến lược, viện trợ ... khác nhau của các nhà tài trợ trên thế giới cũng tạo nên sự chênh lệch trong quá trình thu hút và sử dụng ODA giữa các quốc gia hấp thụ nguồn vốn này. Chính sự cạnh tranh gay gắt đã tạo nên sự tăng giảm trong tiếp nhận viện trợ của các nước đang phát triển. Kể từ năm 1970, ODA chủ yếu hướng vào Tiểu vùng Sahara và Trung Đông kể cả Ai Cập. Bên cạnh đó, Trung Mỹ là vùng nhận được tỷ trọng viện trợ tăng lên chút ít, tỷ trọng này đã thực sự bị cắt giảm mạnh đối với các vùng Nam á (đặc biệt là ấn Độ) và Địa Trung Hải trong vòng 10 năm, từ tài khoá 1983/1984 đến 1993/1994, tỷ trọng thu hút ODA thế giới của tiểu vùng Sahara đã tăng từ 29,6% lên 36,7%, của Nam và Trung á khác và Châu Đại Dương từ 20,3% lên 22,9%; Châu Mỹ La Tinh và vùng Caribê từ 12% lên 14% (nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư). Thứ ba, sự phân phối ODA theo khu vực nghèo của thế giới không đồng đều. Nguyên nhân tạo nên sự khác biệt như vậy có thể có rất nhiều lý giải khác nhau, có thể là do những mong muốn của các quốc gia đi viện trợ như mở rộng quan hệ hợp tác về chính trị hay kinh tế, mục đích xã hội, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào ý muốn chủ quan của nhà tài trợ. Lúc đầu họ chỉ quan tâm đến việc thiết lập các mối quan hệ với các nước láng giềng của mình, nhưng sau họ lại nhận thấy rằng cần thiết lập các quan hệ với các nước khác trên thế giới để tìm kiếm thị trường trao đổi buôn bán hay đầu tư mà việc đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao bằng cách viện trợ ODA. Mặt khác chính những yếu tố trong nội bộ của quốc gia cũng tạo nên những khác biệt lớn trong quá trình nhận viện trợ như các mối quan hệ với các nước phát triển, hay những thành tích trong phát triển đất nước hay cũng có thể là do nhu cầu hết sức cần thiết như chiến tranh, thiên tai... Thứ tư, triển vọng gia tăng nguồn vốn ODA ít lạc quan. Mặc dù Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã khuyến nghị dành 1% GNP của các nước phát triển để cung cấp ODA cho các nước nghèo. Nhưng nước có khối lượng ODA lớn như Nhật Bản, Mỹ... thì tỷ lệ này mới chỉ đạt ở mức trên dưới 0,3% trong nhiều năm qua. Tuy có một số nước như Thụy Điển, Na uy, Phần Lan, Đan Mạch... đã có tỷ lệ ODA chiếm hơn 1% GNP, song khối lượng ODA tuyệt đối của các nước này không lớn. Thêm vào đó tình hình kinh tế phục hồi chậm chạp ở các nước đang phát triển cũng là một trở ngại gia tăng ODA. Ngoài ra, hàng năm các nước cung cấp ODA dựa vào kết quả hoạt động của nền kinh tế của mình để xem xét khối lượng ODA có thể cung cấp được. Nhưng hiện nay các nước phát triển đang có những dấu hiệu đáng lo ngại trong nền kinh tế của mình như khủng hoảng kinh tế hay hàng loạt các vấn đề xã hội trong nước, chịu sức ép của dư luận đòi giảm viện trợ để tập trung giải quyết các vấn đề trong nước. Tuy nhiên, ở các nước phát triển, kinh tế tăng bình quân 6%/năm trong các năm 1991 - 1994 (4%/năm trong thập kỷ 80). Đời sống nhân dân đang được cải thiện rõ rệt. Do sự phục hồi kinh tế ở các nước phát triển, nguồn vốn chuyển dịch vào các nước đang phát triển có thể sẽ giảm sút trong các năm tới, ODA là một khoản vốn mà các nước phát triển hỗ trợ cho các nước đang phát triển nó được thực hiện từ rất lâu, qua các giai đoạn nhất định, có những xu thế vận động riêng, nhìn chung lại, xu hướng vận động hiện nay hàm chứa cả các yếu tố thuận lợi lẫn khó khăn cho một số nước đang phát triển như nước ta đang tìm kiếm nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, tuy nhiên các yếu tố thuận lợi là cơ bản. Xét trên phạm vi quốc tế, ODA có thể huy động được lại tuỳ thuộc voà chính sách đối ngoại khôn khéo và khả năng hấp thụ vốn nước ngoài của chính nền kinh tế nước đó. Qua đó ta có thể thấy rõ được những đặc điểm riêng biệt của ODA so với các nguồn vốn khác. 2. Vai trò của ODA. ODA thể hiện mối quan hệ đối ngoại giữa hai bên cung cấp và bên tiếp nhận. Tuy vậy, đối với mỗi bên nó sẽ mang một ý nghĩa khác nhau. a. Đối với nước xuất khẩu vốn. Viện trợ song phương tạo điều kiện cho các công ty của bên cung cấp hoạt động thuận lợi hơn tại các nước nhận viện trợ một cách gián tiếp. Cùng với sự gia tăng của vốn ODA, các dự án đầu tư của những nước viện trợ cũng tăng theo với những điều kiện thuận lợi, đồng thời kéo theo sự gia tăng về buôn bán giữa hai quốc gia. Ngoài ra, nước viện trợ còn đạt được những mục đích về chính trị, ảnh hưởng của họ về mặt kinh tế - văn hoá đối với nước nhận cũng sẽ tăng lên. Nguồn ODA đa phương mặc dù cũng có ưu điểm giúp các nước tiếp nhận khôi phục và phát triển kinh tế, nhưng nó cũng có mặt tiêu cực ở chỗ dễ tạo ra nạn tham nhũng trong các quan chức Chính phủ hoặc phân phối giàu nghèo trong các tầng lớp dân chúng nếu không có những chính sách kiểm soát và quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguồn vốn này trong nước. Điều nguy hiểm nhất có thể xảy ra của viện trợ ODA là các nước cung cấp không nhằm cải tạo nền kinh tế - xã hội của nước đang phát triển mà nhằm vào các mục đích quân sự. b. Đối với các nước tiếp nhận: Tầm quan trọng của ODA đối với các nước đang và kém phát triển là điều không thể phủ nhận. Điều này được thể hiện rõ qua những thành công mà các nước tiếp nhận ODA đã đạt được. Đầu tiên, trong khi các nước đang phát triển đa phần là trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng nên thông qua ODA song phương có thêm vốn để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. ODA mang lại nguồn lực cho đất nước. Thứ nữa, theo các nhà kinh tế, việc sử dụng viện trợ ở các nước đang phát triển nhằm loại bỏ sự thiếu vốn và ngoại tệ, tăng đầu tư vốn đến điểm mà ở đó sự tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho các nước này đạt được đến quá trình tự duy trì và phát triển. Tạo điều kiện để các nước tiếp nhận có thể vay thêm vốn của các tổ chức quốc tế, thực hiện việc thanh toán nợ tới hạn qua sự giúp đỡ của ODA. ODA còn có thể giúp các nước đang lâm vào tình trạng phá giá đồng nội tệ có thể phục hồi đồng tiền của nước mình thông qua những khoản hỗ trợ lớn của các tổ chức tài chính quốc tế mang lại. ODA giúp các nước nhận hỗ trợ tạo ra những tiền đề đầu tiên, đặt nền móng cho sự phát triển về lâu dài thông qua lĩnh vực đầu tư chính của nó là nâng cấp cơ sở hạ tầng về kinh tế. ODA tác động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và vùng lãnh thổ, đặc biệt là ở các thành phố lớn: nguồn vốn này trực tiếp giúp cải thiện điều kiện về vệ sinh y tế, cung cấp nước sạch, bảo vệ môi trường. Đồng thời nguồn ODA cũng góp phần tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, phát triển nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo... ODA giúp các doanh nghiệp nhỏ trong nước có thêm vốn, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dần dần mở rộng qui mô doanh nghiệp. Ngoài ra ODA còn giúp các nước nhận viện trợ có cơ hội để nhập khẩu máy móc thiết bị cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, từ các nước phát triển. Thông qua nước cung cấp ODA nước nhận viện trợ có thêm nhiều cơ hội mới để tham gia vào các tổ chức tài chính thế giới, đạt được sự giúp đỡ lớn hơn về vốn từ các tổ chức này. Bên cạnh những mặt tích cực, ODA cũng có không ít những mặt hạn chế. Hạn chế rõ nhất của viện trợ phát triển chính thức ODA là các nước nếu muốn nhận được nguồn vốn này phải đáp ứng các yêu cầu của bên cấp viện trợ. Mức độ đáp ứng càng cao thì viện trợ tăng lên càng nhiều. Ngay ở trong một nước, tình trạng tập trung ODA vào các thành phố trọng điểm cũng tạo nên sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế - xã hội của quốc gia đó, làm cho hố ngăn cách giàu nghèo thành thị và nông thôn càng trở nên cách biệt. Cho đến nay, mặc dù bối cảnh quốc tế đã có nhiều biến đổi, song mục tiêu và lợi ích của các nước cấp vốn theo đuổi hầu như không thay đổi so với trước đây: tập trung cho an ninh của hệ thống TBCN, tuyên truyền dân chủ kiểu phương tây, trói buộc sự phát triển kinh tế của các quốc gia phụ thuộc thế giới thứ ba vào trong một trật tự tự do mà các trung tâm tự bản đã sắp đặt khuyến khích tự do hoá kinh tế để mở đường cho tư bản nước ngoài tràn vào... III. Tình hình cung cấp và tiếp nhận ODA trên thế giới: 1. Tình hình chung: Nguồn ODA song phương được phân bố rộng khắp trên thế giới do các nhà tài trợ một mặt phải thực hiện nghĩa vụ quốc tế như qui định bắt buộc của Liên Hiệp Quốc, mặt khác bản thân các nhà tài trợ cũng muốn nâng cao vị thế của mình, vươn rộng tầm ảnh hưởng ra các khu vực khác. Hơn nữa, trật tự an ninh mà các nhà tài trợ chủ trương thiết lập tại nước nhận viện trợ dựa trên mong muốn một nền kinh tế phụ thuộc vào nền kinh tế của họ. ở Châu á: Nhật là nước đầu tư lớn nhất. Trung Quốc và Đông Nam á là khu vực thu hút nhiều ODA nhất. Châu Phi: Là khu vực tập trung hầu hết các nước nghèo, kém phát triển nên nguồn viện trợ chủ yếu là viện trợ không hoàn lại và thường chiếm tỉ lệ cao. 2. Nhà tài trợ lớn nhất: a. ODA song phương: Mục đích của các nước cung cấp viện trợ đều là xác lập vị trí toàn diện và áp đặt vai trò của mình ở khu vực muốn thôn tính. Do đó việc phân bổ ODA diễn ra khác nhau giữa các khu vực. Trong số các nước cung cấp ODA song phương, Hoa Kỳ và Nhật Bản là những nước dẫn đầu thế giới. Cụ thể: - ở Châu á : Nhật Bản với mục tiêu là phải thiết lập được mối quan hệ tốt đẹp giữa các nước trong khu vực, sao cho Nhật sẽ là nước đóng vai trò chủ đạo về kinh tế nên đứng đầu trong danh sách các nhà tài trợ ở Châu á là Nhật Bản. - Châu Phi: Nước cung cấp ODA chiếm tỉ lệ cao nhất là Pháp. - Châu Mỹ La Tinh: Mỹ là nước có tỉ lệ viện trợ lớn nhất. - Châu Đại Dương: Pháp đứng đầu với tỉ lệ viện trợ 46,9%. - Trung Đông: Mỹ có tỉ lệ viện trợ ODA cao nhất. b. ODA song phương: Các tổ chức tài chính quốc tế thường là những nhà tài trợ lớn với lượng vốn cung cấp lớn hơn nhiêù lần so với các quỹ của Liên hiệp quốc. Một số tổ chức đa phương cung cấp ODA Nhiều nhất trong năm 1996. (Nguồn: Bộ kế hoạch - Đầu tư - tháng 7/1997). Một số tổ chức đa phương cung cấp ODA nhiều nhất trong năm 1996 Đơn vị tính: tỉ USD Tổ chức đa phương Tổng ODA tài trợ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) 61,5 Ngân hàng thế giới (WB) Bình quân 28,6 tỉ/năm Công ty tài chính quốc tế (IFC) 17,9 (từ tháng 7/1996 - 6/1997) Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) 5,8 Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) 2,186 Chương trình lương thực thế giới (WFP) Bình quân 1,5 tỉ /năm Cao uỷ LHQ về người tị nạn (UNHCR) 1,3 (Nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư - tháng 7/1997) 3. Khu vực tiếp nhận nhiều nhất: Trước đây, khi Liên xô và Đông âu chưa tan rã, viện trợ phát triển chính thức ODA được phân bố theo chế độ chính trị của từng nước. Thế giới lúc bấy giờ chia làm 2 cực do Liên xô và Mỹ đứng đầu luôn có sự cạnh tranh và thù địch. Khối SEV (hội đồng tương trợ kinh tế) , đứng đầu là Liên xô, tập trung viện trợ giúp đỡ các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa còn khối tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu cũng ra sức dùng các khoản viện trợ để mua chuộc sử trung thành của các nước thuộc thế giới thứ ba theo những quan điểm của Mỹ. Từ đầu thập niên 90 với sự kết thúc chiến tranh lạnh, nguồn vốn ODA được mở rộng ra khắp các nước trên thế giới không kể thuộc hệ thống chính trị nào. Các nước nhận được nguồn hỗ trợ nhiều hay ít còn tuỳ thuộc vào vị thế kinh tế của từng khu vực, từng nước. Những năm gần đây, vốn ODA trên thế 0giới có chiều hướng tập trung vào Châu á, đặc biệt là khu vực Đông Nam á. Trung quốc là nước thu hút nhều ODA nhất trong khu vực này. Chương II Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam I. Tình hình thu hút ODA: 1. Giai đoạn trước tháng 10/1993. Trước đây, nước ta nhận được hai nguồn ODA song phương chủ yếu. Một từ các nước thuộc tổ chức SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế) trong đó chủ yếu là Liên xô (cũ). Hai là từ các nước thuộc tổ chức DAC (Uỷ ban hỗ trợ phát triển) và một số nước khác, trong đó chủ yếu là Thuỵ điển, Phần Lan, Đan mạch, Nauy, Pháp, ấn độ... Các khoản ODA trên giúp chúng ta xây dựng một số ngành quan trọng nhất của sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế nước ta. Sau cuộc khủng hoảng chính trị ở Liên xô cũ và Đông âu, SEV giải thể đã làm cho nguồn viện trợ từ các nước này chấm dứt dẫn tới rất nhiều khó khăn cho nước ta, nhiều kế hoạch không có vốn để hoàn thành. 3/2/1994 Hoa Kỳ xoá bỏ cấm vận với Việt Nam. Cùng vói các chính sách đối ngoại mở rộng quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực tạo điều kiện cho Việt Nam nhận được một số lượng viện trợ lớn từ các nước phát triển và các tổ chức quốc tế. 2. Giai đoạn phát triển hợp tác mới từ tháng 10/1993: Báo hiệu đáng mừng cho giai đoạn này được bắt đầu bằng sự kiện rất quan trọng vào tháng 10/1993, quan hệ của ta với quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân Hàng thế giới (WB), Ngân hàng Châu á (ADB) được khai thông. Tháng 11/1993 Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam họp tại Pari mở ra giai đoạn hợp tác phát triển mới giữa nước ta và cộng đồng các nhà tài trợ, tạo ra các cơ hội quan trọng để hỗ trợ Việt Nam tiến hành công cuộc phát triển nhanh và bền vững thành công của hội nghị thể hiện ở chỗ Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế vào công cuộc đổi mới phát triển của Việt Nam thông qua đối ngoại, bằng cách cam kết dành ODA cho Việt Nam . Thu hút ODA qua các năm 1993 - 1999. (Đơn vị tính tỷ USD) Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số Tổng mức cam kết ODA 1,18 1,94 2,26 2,43 2,4 2,2 2,7 15,14 Nguồn: Bộ kế hoạch - Đầu tư Những con số trên là tương đối khả quan. Tuy nhiên, trong những năm tới, nguồn vốn ODA của các nước cung cấp cho Việt Nam có thể sẽ giảm xuống. Sở dĩ có nhận định như vậy là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Châu á, vừa qua làm cho nền kinh tế của một số nước cung cấp viện trợ gặp khó khăn dẫn đến việc các nước có thể cắt giảm lượng viện trợ ODA hàng năm. Đồng thời, do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các nước trong khu vực và trên thế giới trong việc thu hút ODA. Việc hình thức hoá các chương trình , dự án ODA bao gồm nhiều tác nghiệp khác nhau như thẩm định và phê duyệt dự án, Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ kí kết các điều ước quốc tế (Bản ghi nhớ (MOU), Hiệp định, chương trình, Nghị định thư,...) các chương trình, dự án đã được ký kết đạt hơn 10 tỷ USD, chiếm gần 70% tổng số vốn ODA đã cam kết. Việt Nam dành được sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng tài trợ quốc tế và các nhà đầu tư nước ngoài sẽ không quan tâm tới Việt Nam nếu như họ không tin tưởng vào triển vọng phát triển tốt đẹp ở đất nước ta. Điều quan trọng chính là sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế về những gì mà Việt Nam đã làm trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới nền kinh tế, trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (đây là kế hoạch hoàn thành quá trình cải tổ và đầu tư vào nhưngx ngành trọng điểm của nền kinh tế nhằm xây dựng một nền kinh tế có hiệu quả để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, thì cần phải có nhiều sự trợ giúp hơn nữa). Tiếp theo đó là những kết quả đáng mừng trong giai đoạn này. II. Tình hình giả._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8647.doc
Tài liệu liên quan