Nguồn vốn đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp . Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp nhà nước

Nguồn vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước. MỤC LỤC Lời mở đầu CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP Tài chính Việt Nam 2001-2010, nhà xuất bản tài chính. Để sử dụng vốn nhà nước có hiệu quả nhất, diễn đàn doanh nghiệp,16/12/2006. DNNN không thể chủ đạo bằng cách giữ nhiều vốn, dân trí, 22/9/2006. DNNN sử dụng vốn vay kém hiệu quả, thời báo kinh tế Việt Nam, 27/01/2008. Đ

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nguồn vốn đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp . Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổi mới phương thức quản lý phần vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp, hội nghị quốc tế quản trị doanh nghiệp, 6/12/2004. Giáo trình Kinh tế đầu tư-PGS,TS Nguyễn Bạch Nguyệt;PGS,TS Từ Quang Phương Giáo trình Quản trị doanh nghiệp-Nguyễn Hải Sơn Thị trường BĐS,những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam-PGS.TS Thái Bá Cần; TS-Trần Nguyên Nam Tạp chí cộng sản số 6(150) năm 2008. Báo thương mại 27/1/2008 Tạp chí Tài chính Doanh Nghiệp,số 4/2006, số 12/2007 Nghị quyết số 14/2003/QH11 ngày 26/11/2003 về DNNN. www.mso.gov.vn Tienphongonline.com.vn Dantri.com.vn Trần Thị Thanh Tú (2006).Một số vấn đề về cơ cấu vốn của DNNN Việt Nam hiện nay.Tạp chí Thanh tra tài chính Nghiên cứu: Đổi mới cơ cấu vốn của các DNNN Việt Nam hiện nay Niên giám thống kê 2006 Kết quả nghiên cứu các đề án của Việt Nam - Hà Lan VNPR 2001 Bảo toàn và phát triển vốn NXB Thống Kê Hướng đến tầm cao mới – Báo cáo phát triển Việt Nam 2007 Tổng kết kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005 - lý luận và thực tiễn LỜI MỞ ĐẦU Sau hơn 20 năm kể từ bước ngoặt năm 1986, cùng với công cuộc đổi mới đất nước là quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Việt Nam đã trở thành một nền kinh tế có nhiều bên tham gia một cách hiệu quả. Từ chỗ hoàn toàn do doanh nghiệp nhà nước chi phối đến lúc bắt đầu tiến hành đổi mới, sản xuất hàng hoá và dịch vụ ngày càng chuyển dần sang tay các doanh nghiệp với các cơ cấu sở hữu và quản trị đa dạng. Hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển đổi hình thức sở hữu, nhờ đó phần nào khẳng định được vị trí quan trọng trong việc tạo thu nhập và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước còn thấp là một thực tế không thể phủ nhận. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trên là tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp còn nhiều bất cập, đặc biệt là tình hình sử dụng vốn sau khi huy động. Nguồn vốn đầu tư phát triển chiếm vị trí quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp, chính vì vậy việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này là yêu cầu cấp thiết để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập đầy cạnh tranh hiện nay. Nghiên cứu đề tài “ Nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp. Phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước” để thấy rõ vai trò của nguồn vốn đầu tư phát triển và cụ thể hơn là xem xét và đánh giá thực trạng sử dụng nguồn vốn đó hiện nay của các doanh nghiệp nhà nước, đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước. Nhóm 11 xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo hướng dẫn Từ Quang Phương đã giúp chúng em thực hiện đề tài này. Trong quá trình hoàn thành đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót mong thầy giáo và các bạn đóng góp ý kiến. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRONG DOANH NGHIỆP 1.1.1. Khái niệm đầu tư Đầu tư là sự hi sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt được các kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực hi sinh có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn ), tài sản vật chất( nhà máy, đường xá, bệnh viện, trường học…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, quản lý, khoa học kĩ thuật…) và nguồn nhân lựccó đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. 1.1.2.Các loại hình đầu tư 1.1.2.1. Đầu tư tài chính Đầu tư tài chính là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài chính là loại hình đầu tư không trực tiếp làm gia tăng tài sản cho nền kinh.Với hoạt động đầu tư này, vốn đầu tư bỏ ra được lưu chuyển dễ dàng khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng, do đó khuyến khích người có tiền bỏ tiền ra đầu. Để giảm rủi ro họ có thể đầu tư vào nhiều nơi để chia nguồn vốn vào nhiều mảng. Đầu tư tài chính là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. 1.1.2.2. Đầu tư thương mại Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua hàng hoá sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu được lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi giá bán. Đầu tư thương mại không trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà làm tăng tài sản tài chính cho người đầu tư tỏng quá trình mua đi bán lại chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán và nhà đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ.Hoạt động đầu tư này góp phần thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu ngân sách tăng tích luỹ vốn cho cho phát triển sản xuất,kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. 1.1.2.3. Đầu tư phát triển Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư,là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất và tài sản trí tuệ,gia tăng năng lực sản xuất,tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Đầu tư thương mại, đầu tư tài chính và đầu tư phát triển là 3 loại đầu tư luôn luôn tồn tại và có quan hệ tương hỗ với nhau. Đầu tư phát triển tạo tiền đề để tăng tích luỹ,phát triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại.Ngược lại đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường đầu tư phát triển. 1.1.3.Vai trò của đầu tư phát triển đối với doanh nghiệp Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. Hình thức đầu tư này đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia. 1.1.3.1.Tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư phát triển vừa tác động đến tốc độ phát triển vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng. Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế do đó nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng Hệ số ICOR ( Incremental - tỷ số gia tăng của vốn so với sản lượng ) là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng hay là phần đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lưọng GDP tăng thêm: Vốn đầu tư tăng thêm Đầu tư trong kỳ ICOR= = GDP tăng thêm GDP tăng thêm Chia cả tử cả mẫu của công thức trên cho GDP, ta có: Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP ICOR= Tốc độ tăng trưởng kinh tế Từ công thúc trên cho thấy: Nếu COR không đổi thì mức tăng trưởng kinh tế hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Hệ số ICOR của nền kinh tế cao hay thấp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: * Do thay đổi của cơ cấu đầu tư ngành.Cơ cấu đầu tư ngành thay đổi ảnh hưởng đến hệ số ICOR từng ngành, từ đó tác động đến ICOR chung. * Sự phát triển của khoa học công nghệ có ảnh hưởng đến ICOR.Gia tăng khoa học công nghệ làm cho đầu tư trong kỳ (tử số của công thức) tăng thêm, mặt khác sẽ làm cho máy móc hoạt động có hiệu quả hơn, năng suất cao hơn kết quả làm cho đấu tư tăng lên, GDP tăng lên (mẫu số của công thức). *Do thay đổi cơ chế chính sách và phương pháp tổ chức quản lý, nếu cơ chế chính sách phù hợp thì đầu tư có hiệu quả hơn làm cho ICOR giảm và ngược lại. 1.1.3.2. Đầu tư phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế là cơ cấu tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế ,có quan hệ chặt chẽ với nhau, được thể hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tuỳ thuộc thay đổi tỷ trọng của bộ phận cấu thành nền kinh tế.Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế xảy ra có sự phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ giữa các nghành , vùng.Những cơ cấu kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân bao gồm cơ cấu kinh tế ngành, lãnh thổ, theo thành phần kinh tế. Đầu tư có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.nó góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật và chiến lược phát triển kinh tế kinh tế xã hội của một quốc gia trong từng thời kỳ, tạo cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của nền kinh tế,trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực. Đối với cơ cấu ngành, đầu tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư ngành nhiều hay ít, việc sử dụng vốn hiệu quả cao hay thấp đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành ,tạo tiền đề vật chất để phát triển các ngành mới, do đó, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Có thể đánh giá vai trò của đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế qua các chỉ tiêu dưới đây: % thay đổi tỷ trọng đầu tư của Hệ số co dãn giữa việc ngành/tổng vốn đầu tư xã hội giữakỳ thay đổi cơ cấu đầu tư nghiên cứu so với kỳ trước với thay đổi cơ cấu = kinh tế ngành %thay đổi tỷ trọng GDPcủa ngành trong tổng GDP giữa kỳ nghiên cứuvới kỳ trước Chỉ tiêu này cho biết, để tăng 1% tỷ trọng GDP của ngành trong tổng GDP(thay đổi cơ cấu kinh tế ) thì phải đầu tư cho ngành tăng thêm bao nhiêu. % thay đổi tỷ trọng vốn đầu tư của ngành Hệ số co dãn giữa việc nào đó /tổng vốn đầu tư xã hội knghiên thay đổi cơ cấu cứu so với kỳ trước đầu tư ngành với thay = đổi GDP % thay đổi tốc độ tăng trưởng GDP giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước Chỉ tiêu này cho biết : để góp phần dưa tăng trưởng kinh tế ( GDP ) lên 1% thì tỷ trọng đầu tư vào một ngành nào đó tăng lên bao nhiêu. 1.1.3.3.Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học và công nghệ Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học công nghệcủa một doanh nghiệp và quốc gia. Công nghệ bao gồm các yếu tố cơ bản: phần cứng ( máy móc,thiết bị ),phần mềm( các văn bản,các tài liệu,các bí quyết …),yếu tố con người ( các kỹ năng quản lý,kinh nghiệm ),yếu tố tổ chức(các thể chế,phương pháp tổ chức…) .Muốn có công nghệ ,cần phải đầu tư vào các yếu tố cấu thành. Đối với các nước đang phát triển ,do có nhiều lao động và nguyên liệu thường đầu tư các loại công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu,sau đó, ảm dần hàm lượng lao động và nguyên liệu trong sản xuất sản phẩm và tăng dần hàm lượng vốn thiết bị và tri thức thông qua việc đầu tư công nghệ hiện đại hơn và đầu tư đúng mức để phát triển nguồn nhân lực. Đến giai đoạn phát triển,xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Công nghệ mà doanh nghiệp có được là do nhập khẩu từ bên ngoài hoặc tự nghiên cứu và ứng dụng.Dù nhập hay là nghiên cứu thì đề đòi hỏi vốn đầu tư lớn.Mỗi doanh nghiệp mỗi nước mỗi nước khác nhau cần có bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân. Để phản ánh sự tác động của đầu tư đến trình độ phát triển khoa học và công nghệ ,có thể sử dụng các chỉ tiêu sau : Tỷ trọng vốn đầu tư đổi mới công nghệ /tổng vốn đầu tư .Chỉ tiêu này cho thấy mức độ đầu tư đổi mới công nghệ nhiều hay ít trong mỗi thời kỳ. Tỷ trọng chi phí mua sắm máy móc thiết bị /tổng vốn đầu tư thực hiện.Chỉ tiêu này cho thấy tỷ lệ vốn là do máy máoc thiết bị chiếm bao nhiêu. Đối với doanh nghiệp sản xuất công nghệ khai khoáng, chế tạo, lắp ráp, tỷ lệ này phải lớn. Tỷ trọng vốn đầu tư theo chiều sâu /tổng vốn đầu tư thực hiện. Đầu tư chiều sâu thường gắn liền với đổi mới công nghệ. Do đó, chỉ tiêu này càng lớn phản ánh mức độ đầu tư đổi mới khoa học công nghệ cao. Tỷ trọng vốn đầu tư cho các công trình mũi nhọn ,trọng điểm. Các công trình trọng điểm mũi nhọn thường là các công trình đầu tư lớn,công nghệ hiện đại,mang tính chất đầu tư mồi,tạo tiền đề để đầu tư phát triển các công trình khác. Chỉ tiêu này cho thấy mức độ tập trung của công nghệ và gián tiếp phản ánh mức độ hiện đại của công nghệ. II. NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP 1.2.1.Khái niệm nguồn vốn đầu tư Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích luỹ được thể hiện dưới dạng giá trị được chuyển hoá thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. 1.2.2.Bản chất của nguồn vốn đầu tư Về bản chất nguồn vốn đầu tư là phần tiết kiệm hay tích lũy mà nền kinhn tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Theo lý thuyết tư bản của Adamsmith, một đại diện của trường phái kinh tế học cổ điển coi tư bản là điều kiện vật chất cần thiết cho sản xuất của mọi xã hội . Điều quý giá trong lý thuyết tư bản của ông là quan điểm về tiết kiệm. Ông cho rằng muốn có tư bản thì phải có tiết kiệm,nhà tư bản phải dành một phần thu nhập của mình để mở rộng sản sản xuất , tạo thêm công việc cho công nhân. Điều này xét đến cùng sẽ làm tăng xủa cải của quố dân . Ông ca ngợi tiết kiệm và lên án sự lãng phí, ông nói : “Mỗi kẻ hoang phí là kẻ thù của sự giàu có của xã hội, còn mỗi người tiết kiệm là người làm giàu cho xã hội “. Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776),Adasmith nói rằng: “Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp làm gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa,nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”. Sang thế kỷ XIX,khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề có liên quan đến tích luỹ, C.Mac đã chứng minh rằng :Trong một nền kinh tế với hai khu vực ,khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vựcđều bao gồm (c+v+m), trong đó c là tiêu hao vật chất,(v+m) là giá trị mới sáng tạo ra. Khi đó điều kiện đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v+m)của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất ở khu vực II : ( v+m )I >cII Hay: (c+v+m )I > cII+cI Vậy tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bù đắp tiêu hao vất chất của toàn bộ nền kinh tếmà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu ản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo. Đối với khu vực II ,yêu cầu phải đảm bảo : (c+v+m )II > (v+m)I +(v+m)II Tức là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn , nền kinh tế mới dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô đầu tư cũng sẽ tăng. Như vậy , để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất ,gia tăng quy mô đầu tư ,một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng tư liệu sản xuất tiết kiệm ở cả hai khu vực. Mặt khác, phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II,thực hiện tiết kiệm tiêu dùng ở cả hai khu vực. Vậy theo quan điểm của Mac để tái sản xuất mở rộng lâu dài thì phải phát triển sản xuất và tiến hành tiết kiệmở cả trong sản xuất và tiêu dùng. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quát về việc làm lãi suất và tiền tệ” của Jonh Maynard Keynes, một nhà kinh tế học hiện đại đã chứng minh rằng: Đầu tư chính là phần thu nhập mà không chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng : Ta có Thu nhập = Tiêu dùng +Đầu tư Tiết kiệm = Thu nhập –Tiêu dùng Như vậy : Đầu tư = Tiết kiệm Hay: (I) = (S) Theo Keynes,sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính chất song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người tiêu dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giưa doanh thu bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải bán cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới trong kỳ.Vì vậy về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng, gọi là tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất, gọi là đầu tư. Tuy nhiên điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Đầu tư và tiết kiệm là hai đại lượng quan trọng. Việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập đòi hỏi phải khuyến khích tăng đầu tư và tiết kiệm, từ đó giải quyết khủng hoảng và thất nghiệp. 1.2.3.Vai trò của nguồn vốn đầu tư trong các doanh nghiệp Vốn có vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp. Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp & tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Trong quản lý tài chính, các doanh nghiệp cần chú ý quản lý việc huy động & sự luân chuyển của vốn, sự ảnh hưởng qua lại của các hình thái khác nhau của tài sản & hiệu quả tài chính. 1.2.3.1. Điều kiện tiên quyết để thành lập doanh nghiệp. Vốn là điều kiện không thể thiếu để thành lập một doanh nghiệp. Về mặt pháp lý, mỗi doanh nghiệp khi thành lập đều phải có một lượng vốn nhất định và phải lớn hơn hoặc bằng mức vốn pháp định do Nhà nước quy định đối với lĩnh vực kinh doanh đó. Như vậy vốn lúc này có vai trò đảm bảo sự hình thành và tồn tại của doanh nghiệp trước pháp luật. Giá trị vốn ban đầu có thể ít hoặc nhiều tuỳ theo quy mô, ngành nghề, loại hình doanh nghiệp. Vốn pháp định ở Việt Nam chỉ quy định cho một số ngành nghề có liên quan đến tài chính như Chứng khoán, Bảo hiểm,Kinh doanh vàng và Kinh doanh tiền tệ. Đối với các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác mà Nhà nước không quy định giá trị vốn ban đầu tối thiểu thì giá trị vốn khi thành lập có thể dao động từ hàng triệu đến hàng tỷ đồng tuỳ khả năng của người thành lập doanh nghiệp. Ví dụ: Chứng khoán: (Theo Nghị định số 48/NĐ-CP) * Môi giới chứng khoán : 3 tỷ đồng * Tự doanh : 12 tỷ đồng * Quản lý danh mục đầu tư: 3 tỷ đồng * Bảo lãnh phát hành: 22 tỷ đồng * Tư vấn đầu tư chứng khoán: 3 tỷ đồng. Kinh doanh vàng (Theo Nghị định số 174/NĐ-CP): * Sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ: Đối với các doanh nghiệp hoạt động tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, có vốn pháp định tối thiểu là 5 tỷ đồng Việt Nam. Đối với các doanh nghiệp hoạtđộng tại các tỉnh và thành phố khác, có vốn pháp định tối thiểu là 1 tỷ đồng Việt Nam. * Sản xuất vàng miếng: 50 tỷ đồng. Kinh doanh bảo hiểm (Theo Nghị định số 42-43/NĐ-CP): * Bảo hiểm phi nhân thọ: 70 tỷ đồng. * Bảo hiểm nhân thọ: 140 tỷ đồng. * Môi giới : 4 tỷ đồng. 1.2.3.2. Cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn là điều kiện cơ bản và thiết yếu để tiến hành bất kỳ quá trình và loại hình sản xuất kinh doanh nào. Điều này thể hiện rõ trong hàm sản xuất cơ bản P= F(K, L, T), vốn (K) chính là 1 trong 3 yếu tố cơ bản của hàm sản xuất, bên cạnh các yếu tố lao động (L) và công nghệ (T). Hơn nữa, trong hàm sản xuất này thì vốn có thể coi là yếu tố quan trọng nhất bởi vì lao động và công nghệ có thể mua được khi có vốn. Sau khi thành lập, doanh nghiệp phải tiến hành sản xuất kinh doanh. Hoạt động thực tế hàng ngày đòi hỏi phải có tiền để chi tiêu, mua sắm nguyên vật liệu, máy móc; trả lương... Số tiền này không thể lấy ở đâu khác ngoài nguồn vốn của doanh nghiệp. Khi nguồn vốn tạm thời không đáp ứng đủ nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng khó khăn về ngân quỹ. Các hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp tạm thời bị đình trệ, suy giảm. Nếu tình hình này không được khắc phục kịp thời, doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng khó khăn tài chính triền miên; hoạt động sản xuất kinh doanh bị gián đoạn; tâm lý cán bộ công nhân viên hoang mang; mất uy tín với bạn hàng, chủ nợ và Ngân hàng. Những khó khăn này có thể nhanh chóng đưa công ty đến kết cục cuối cũng là phá sản, giải thể hoặc bị sát nhập với công ty khác. 1.2.3.3.Cơ sở cho việc mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh. Vốn không chỉ giúp doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn giúp doanh nghiệp mở rộng và phát triển. Trong quá trình phát triển của mình, doanh nghiệp luôn mong muốn mở rộng sản xuất kinh doanh, giữ vững và vươn lên trong thị trường. Để làm được điều đó, đòihỏi doanh nghiệp phải liên tục đổi mới, đầu tư, tái đầu tư, cải tến máy móc, thiết bị, công nghệ, hệ thống phân phối sản phẩm... Kỷ nguyên của công nghệ và sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ càng tạo sức ép cho doanh nghiệp; buộc phải liên tục làm mới mình, đổi mới không ngừng nếu không muốn giẫm chân tại chỗ hay bị tụt hậu. Để làm được tất cả những công việc đó doanh nghiệp không thể không cần đến nguồn vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay là rất lớn. Nhiều doanh nghiệp do không có nguồn vốn bổ sung kịp thời, đủ lớn nên đã bị mất đi vị trí của mình trên thị trường. Vốn còn là nhân tố cực kỳ quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Vốn không những là cơ sở để doanh nghiệp có thể nâng cao khả năng sản xuất, tăng cường mạng lưới phân phối mà còn có thể giúp doanh nghiệp vượt qua các đối thủ cạnh tranh hay hơn nữa là loại bỏ họ bằng các chính sách marketing hiệu quả (tăng cường quảng cáo, giảm giá, khuyến mại...). Như vậy, vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải nhận thức vấn đề này một cách rõ ràng, từ đó phải có một chính sách huy động vốn nhanh chóng,hiệu quả để có thể tồn tại và không ngừng phát triển trên thương trường 1.2.4.Cơ sở huy động nguồn vốn đầu tư phát triển trong các DNNN Có nhiều quan điểm về huy động vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhưng tựu chung lại các quan điểm này đều có những đặc điểm chung: Huy động vốn đầu tư phát triển phải phù hợp với cơ chế chung về huy động vốn từ nguồn trong nước. Quan điểm này thể hiện ở các tiêu chí: -Lãi suất huy động phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát -Lãi suất huy động vốn dài hạn lớn hơn lãi suất huy động vốn ngắn hạn và lớn hơn tỷ lệ lạm phát -Không nên huy động vốn ngắn hạn để thực hiện hoạt động đầu tư phát triển vì thời gian hoàn vốn cố định phải kéo dài, không đảm bảo hoàn vốn theo thời gian vay ngắn hạn. Huy động phải kết hợp và phát huy được sức mạnh của hệ thống công cụ tài chính tiền tệ và các công cụ khác. Đó là các công cụ: chính sách thuế, chính sách chi tiêu của nhà nước, chính sách tích luỹ, tiết kiệm và đầu tư, chính sách tiền tệ, lạm phát, tỷ giá,tỷ lệ dự trữ bắt buộc... Huy động vốn phải gắn với việc tổ chức hoàn thiện thị trường tài chính, đặc biệt phải gắn với việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán, gồm: đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác. 1.2.5. Nội dung nguồn vốn đầu tư phát triển trong các doanh nghiệp 1.2.5.1.Nguồn vốn bên trong (hay các nguồn ngân quỹ do doanh nghiệp tự tài trợ ) Các nguồn ngân quỹ do doanh nghiệp tự tài trợ là những nguồn vốn do doanh nghiệp tự tích luỹ hay điều chỉnh cơ cấu tài sản để hình thành nguồn vốn bằng tiền tài trợ cho các hoạt động của chính công ty. Các nguồn tài chính này hình thành từ các nguồn sau: -Vốn góp ban đầu -Quỹ khấu hao các loại tài sản cố định của doanh nghiệp. -Quỹ tích luỹ tái đầu tư phát triển sản xuất do phần lợi nhuận kinh doanh hàng năm được giữ lại. Các nguồn tài chính này có vai trò rất quan trọng ,vì nó góp phần nâng cao vị thế tài chính của doanh nghiệp do duy trì hay nâng cao chất lượng các tỷ số tài chính theo hướng có lợi .Mặt khác,các nguồn này còn thể hiện nội lực của doanh nghiệp, nó giúp doanh nghiệp có thể dùng làm đối trọng với các nguồn tín dụng huy động từ bên ngoài công ty. Vốn góp ban đầu Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do cổ đông - chủ sở hữu góp. Khi nói đến nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó. Vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp Nhà nuớc, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước, chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Chẳng hạn, đối với công ty cổ phần, vốn góp của các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ. Trong các loại hình doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, công ty liên doanh, nguồn vốn góp cũng tương tự như trên: tức là vốn có thể do chủ đầu tư bỏ ra, do các bên tham gia góp vốn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau... Quỹ khấu hao cơ bản Đây là một nguồn tự tài trợ có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanhnghiệp,bởi quỹ này phản ánh độ lớn các khoản khấu hao tài sản cố định và gián tiếp phản ánh tốc độ đổi mới doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp muốn nâng cao vị thế trên thương trường thì một yếu tố cực kỳ quan trọng có thể giúp doanh nghiệp thắng được các đối thủ cạnh tranh là yếu tố công nghệ.Do đó, nếu tốc độ khấu hao chậm ,các doanh nghiệp sẽ không thể bắt kịp tốc độ phát triển của công nghệbởi tài sản cũ chưa khấu hao hết,nguồn tích luỹ từ khấu hao thấp không đủ để mua máy móc thiết bị mới. Quỹ tích luỹ tái đầu tư phát triển sản xuất Quỹ này được hình thành từ nguồn lợi nhuận hàng năm được trích lập theo quy định của Bộ Tài Chính. Đối với các công ty cổ phần hay công ty TNHH nguồn trích lập quỹ này do doanh nghiệp quyết định.Nguồn vốn này có ý nghĩa rất quan trọng, nguồn này lớn chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn.Nguồn trích từ lợi nhuận để lại là bộ phận lợi nhuận được dùng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng sinh lợi của bản thân doanh nghiệpmà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước Đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố nhạy cảm.Khi công ty để lại một số lợi nhuận đểb tái đầu tư, thì các cổ đông sẽ bị giảm số tiền lãi nhận nhưng bù lại họ lại có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên.Vì vậy khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, doanh nghiệp cần phải lưu ý đến vấn đề này. Đối với các doanh nghiệp nước ta, việc tạo lập nguồn vốn đầu tư từ nguồn này cũng rất khó khăn, bởi các doanh nghiệp nước ta đều thuộc dạng vừa và nhỏ, tỷ lệ lợi nhuận thu được từ kinh doanh thấp, thậm chí có năm thấp hơn cả tỷ lệ lạm phát. Vốn góp ban đầu và lợi nhuận không chia được gọi là nguồn vốn nội bộ của doanh nghiệp.Hình thức này có một số ưu nhược điềm sau: Ưu điểm: - Doanh nghiệp không bị phụ thuộc vào bên ngoài (Ngân hàng...) - Tăng khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp - Giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong các quan hệ tín dụng tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc với các cổ đông. - Nguồn lợi nhuận để lại có tác động rất lớn đến nguồn vốn kinh doanh, tạo cơ hội cho công ty thu được lợi nhuận cao hơn trong các năm tiếp theo. Nhược điểm: - Khi doanh nghiệp không trả cổ tức cho cổ đông mà giữ lại lợi nhuận có thể làm cho giá cổ phiếu trên thị trường giảm, ảnNguồn hình thành từ nguồn vốn bên trong được doanh nghiệp sử dụng đầu tư cho sản xuất và chúng sẽ tạo cho ban lãnh đạo công ty quyền chủ động trong kinh doanh . 1.2.5.2.Nguồn vốn bên ngoài ( các nguồn tài trợ từ ngoài doanh nghiệp ) Bên cạnh nguồn vốn huy động nội lực, nguồn vốn bên ngoài cũng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có những bên có vốn nhưng không có cơ hội đầu tư và có những bên có cơ hội và khả năng đầu tư lại thiếu vốn, sự xuất hiện của thị trường tài chính giúp các bên có nhu cầu về vốn có thể vay bên không có nhu cầu về vốn đầu tư. Bên cầu vốn có thể phát hành các trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn của bên cung, đổi lại bên cung được hưởng lãi suất từ khoản vốn mình cho vay. Thị trường trao đổi giữa hai đối tượng trên gọi là thị trường tài chính. Thị trường tài chính gồm có : thị trường tài chính gián tiếp và thị trường trực tiếp. Trên thị trường gián tiếp các bên tham gia trao đổi vốn thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng. Thị trường tài chính trực tiếp gồm có thị trường tiền tệ và thị trường vốn, theo đó các bên có thể tham gia trao đổi trực tiếp các công cụ tài chính ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Nguồn vốn doanh nghiệp huy động từ ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng được gọi là nguồn vốn từ vay nợ, còn nguồn vốn huy động từ việc mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn trên ba thị trường: thị trường bất động sản, thị trường tín dụng thuê mua, thị trường chứng khoán gọi là nguồn vốn từ thị trường vốn. Nguồn vốn từ vay nợ Nguồn vốn tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể vay dài hạn, trung hạn hoặc vay ngắn hạn ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Tùy theo mục đích sử dụng các doanh nghiệp có thể vay ngân hàng để đầu tư tài sản cố định, đầu tư tài sản lưu động, cho vay để thực hiện dự án. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có rất nhiều ưu điểm: đây là nguồn vốn dồi dào trong xã hội được ngân hàng huy động, tập hợp từ nhiều nguồn vì vậy đáp ứn._.g tốt nhu cẩu về khối lượng vốn cũng như thời hạn vốn cho các doanh nghiệp nếu doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện của ngân hàng. Không chỉ có các doanh nghiệp lớn mà các doanh nghiệp nhỏ cũng có thể tiếp cận được nguồn vốn này thông qua bảo lãnh. Tuy nhiên nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, chi phí sử dụng vốn (lãi suất) và sự kiểm soát của ngân hàng. Doanh nghiệp muốn vay vốn thì phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện của ngân hàng: mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết, có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh,dịch vụ khả thi, có hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật. Và thường để vay vốn thì các doanh nghiệp có tài sản thế chấp, có bảo lãnh hoặc bị hạn chế tín dụng. Khi vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp chấp nhận chi phí sử dụng vốn đó chính là lãi suất tính trên số vốn vay và thời hạn vay mà doanh nghiệp phải trả cho ngân hàng. Đồng thời khi sử dụng vốn vay ngân hàng thì doanh nghiệp sẽ phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng trên hai phương diện: DN sử dụng nguồn vốn có đúng với mục đích ghi trong hợp đồng vay vốn không và DN có trả gốc và lãi đúng hạn không. Nguồn vốn tín dụng thương mại Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các DN, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp hàng hóa. Đến thời hạn thỏa thuận DN mua phải hoàn trả cả vốn gốc và lãi cho doanh nghiệp bán dưới hình thức tiền tệ. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các DN mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một số DN, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn. Đây là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh do DN sẽ vay trực tiếp bằng nguyên vật liệu và số lượng có thể thay đổi mỗi kỳ khi ký hợp đồng. Hơn nữa, nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền; giúp DN chủ động khi huy động vốn: chủ động về thời gian, số lượng, nhà cung ứng; huy động vốn một cách nhanh chóng dễ dàng; không phải chịu sự giám sát của ngân hàng cũng như các cơ quan nhà nước. Ngoài ra, đối với DN làm chủ nợ: có thể vay ngân hàng thông qua hình thức chiết khấu thương phiếu( bán hoặc cầm cố ). Tuy nhiên điểm hạn chế đó là về quy mô tín dụng( số lượng mua chịu lớn, khả năng của nhà cung ứng hạn chế); hạn chế về đối tượng vay mượn; hạn chế về không gian vay mượn; hạn chế về thời gian vay mượn do chu kỳ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau và thường bị hạn chế về thời hạn vay; Bị phụ thuộc vào quan hệ sản xuất kinh doanh trên thị trường. Ngoài ra, có thể gặp rủi ro khi buộc phải thay đổi nhà cung ứng và phụ thuộc nhiều vào sự đúng hẹn, uy tín của nhà cung ứng; rất dễ gặp rủi ro dây chuyền. Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua bán hàng hóa trả chậm, chi phí này có thể "ẩn" dưới hình thức thay đổi mức giá, tùy thuộc quan hệ và thỏa thuận cụ thể giữa các bên.Trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các hình thức tín dụng ngày càng được đa dạng hóa và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh hơn. Do đó, các DN cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của DN. Nguồn vốn từ thị trường vốn Thị trường vốn bao gồm nhiều thị trường khác nhau,nhưng có ba mảng lớn đều có ở Việt Nam nhưng đều ở mức độ ban đầu đó là: +Thị trường bất động sản +Thị trường tín dụng thuê mua +Thị trường chứng khoán Nguồn vốn từ thị trường bất động sản Bất động sản là những tài sản gắn liền với đất đai và không di dời được. ở Việt Nam, theo điều 181 của bộ luật dân sự : “ Bất động sản là những tài sản không di dời được” bao gồm : -Đất đai -Nhà ở,công trình xây dựng gắn liền với đất đai,kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng đó. -Các tài sản gắn liền với đất -Các tài sản khác do pháp luật quy định. Như vậy hàng hoá bất động sản bao gồm 2 chủng loại chủ yếu là đất đai và vật kiến trúc đã xây dựng xong. Thị trường bất đông sản là tổng hoà các giao dịch dân sự về bất động sản tại một địa bàn nhất định, trong một thời gian nhất định. Đó là thị trường của các hoạt động giao dịch bất động sản như: chuyển nhượng, mua, bán, cho thuê, thế chấp…trong phạm vi không gian và thời gian nhất định. Thị trường bất động sản góp phần quan trọng trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển.Trước hết, thị trường bất động sản phát triển chính là do yếu tố tăng đầu tư cho tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân , sự tăng lên của lượng tài sản cố định này đòi hỏi phải có nguồn vốn bảo đảm. Rõ ràng bản thân sự tăng trưởng của bất động sản trên thị trường đòi hỏi một sự gia tăng đầu tư. Thứ hai là, phát triển thị trường bất động sản được biểu hiện bằng 2 cách: -Cách thứ nhất tăng khối lượng hàng hoá bất động sản giao dịch trên thị trường -Cách thứ hai là mở rộng phạn vi các quan hệ giao dịch: mua bán,chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn…làm tăng các quan hệ giao dịch cũng là phát triển bất động sản nhất định trong giao dịch làm cho lượng hàng hoá như được tăng lên không bao giờ cạn và do đó tăng tốc độ chu chuyển vốn. Thứ ba là khi các giao dịch thế chấp bất động sản để vay vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh chẳng những làm nhân đôi giá trị sử dụng của bất động sản mà còn có tác dụng khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển . Thứ tư là khi dùng quyền sử dụng đất góp vốn liên doanh, nhà nước cũng như doanh nghiệp không phải đầu tư vốn bằng tiền mà với bất động sản có sẵn, nhất là đất đai dùng vốn để gọi vốn đầu tư trong và ngoài nước. Đất đai, bất động sản như một nguồn mới để khai thác các nguồn vốn khác . Thứ năm là nhà nước có thể dùng quỹ đất của mình tạo vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng, mà cuối cùng quỹ đất cũng không thể cạn đi . Thị trường bất động sản thực sự có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn cho đầu tư phat triển,và hiện nay ở Việt Nam thị trường này đang rất sôi động. Nguồn vốn từ thị trường tín dụng thuê mua Một doanh nghiệp cần tiền để mua máy móc thiết bị có thể sử dụng phương pháp huy động nguồn tín dụng nguồn tín dụng trực tiếp bằng các mua các loại tài sản cố định dưới hình thức thuê mua. Sở dĩ gọi là thuê mua vì khi cần sử dụng một hay nhiều loại máy móc mà doanh nghiệp chưa đủ để tự chi trả thì có thể đi thuê của các doanh nghiệp cho thuê tài sản hoặc các quỹ cho thuê, sau khi đã khấu hao hết máy móc thiết bị đó doanh nghiệp có thể mua lại với giá ưu đãi thậm chí là mức giá tượng trưng. Đây là hình thức huy động vốn rất phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ nhất, khi công ty tiến hành thuê mua tài sản thì họ được quyền sử dụng tài sản đó như thoả thuận. Thời gian thuê có thể kéo dài thậm chí cho tới khi hết đời sống hữu ích của máy móc thiết bị đó. Thứ hai, khi kết thúc hợp đồng bên đi thuê có thể mua lại với giá tượng trưng. So với hình thức mua trực tiếp thì doanh nghiệp đi thuê không phải bỏ ngay ra một số tiền lớn mà vẫn có thể thuê một đơn vị tài sản hoặc một dây chuyền và trả tiền thuê tài sản theo từng giai đoạn. Hình thức huy động vốn này còn có ưu điểm hơn hình thức tài trợ bằng tiền ở chỗ, nếu vay tiền doanh nghiệp bị giới hạn bởi năng lực tài sản phải có thế chấp, thậm chí không được vay tiền nếu số tiền doanh nghiệp muốn vay lớn hơn giá trị tài sản thế chấp. Ba là, trong trường hợp có lạm phát cao thì tài trợ bằng tài sản cũng an toàn hơn tài trợ bằng tiền. Cuối cùng, trường hợp có rủi ro thì bên tài trợ cũng có thể rút lại tài sản dễ dàng. Tài trợ bằng tài sản bên cho thuê không sợ bên đi thuê sử dụng khoản vay sai mục đich. Tuy nhiên hình thức huy động này cũng có một số điều kiện ràng buộc hợp đồng: chi phí sửa chữa bảo dưỡng bên đi thuê phải chịu hoàn toàn. Tiền thuê tài sản có thể trả dần nhưng giá trị hiện tại của tiền phải lớn hơn chi phí có thể tạo ra hoặc mua tài sản. Hình thức này cũng có bất lợi nữa là chí phí tài trợ thường cao hơn lãi suất cho vay của các hình thức tài trợ vốn khác trên thị trường vốn.Vào giai đoạn cuối của thoả thuận thuê mua, dù đã trả hết số tiền thuê, người thuê vẫn chưa được quyền sử dụng tài sản vào mục đích khác. Ở Việt Nam tuy thị trường tín dụng thuê mua chưa thực sự phát triển nhưng hình thức thuê mua tài sản là nguồn tài trợ vốn trung và dài hạn hiệu quả cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nguồn vốn từ thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán trung và dài hạn.Tức là nơi chuyển nhượng quyền và các lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với chứng khoán. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.Trên thị trường này,vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Vai trò của thị trường sơ cấp : -Chứng khoán hoá nguồn vốn huy động,vốn của công ty được huy động qua việc phát hành chứng khoán. -Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính, trực tiếp đưa các khoản tiền nhàn rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển sang dạng vốn dài hạn. Đặc điểm của thị trường sơ cấp: -Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho người phát hành. -Những người bán trên thị trường sơ cấp được xác định thường là kho bạc, ngân hàng nhà nước,công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành… -Giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát hành quyết định và thường được in ngay trên chứng khoán. Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp.Thị trường thứ cấp bảo đảm tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. Đặc điểm của thị trường thứ cấp : -Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về nhà kinh doanh và nhà đầu tư chứ không thuộc về nhà phát hành. -Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tác cạnh tranh tự do, giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định. -Thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp. Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của thị trường chứng khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp, về bản chất thị trường này không trực tiếp tạo vốn đối với đơn vị phát hành và cả nền kinh tế. Nó chỉ dịch chuyển quyền quyền sở hữu đối với các chủ thể. Tuy nhiên thị trường này có ảnh hưởng đến việc tạo vốn vì nếu thị trường thứ cấp phát triển sẽ ảnh hưởng đến huy động bổ sung, phát hành mới sẽ tăng lên do đó sẽ tăng vốn huy động trên thị trường thứ cấp. Huy động vốn trên thị trường chứng khoán có ưu điểm là huy động rộng rãi hơn( thông qua phát hành chứng khoán ra công chúng ). Bên cạnh đó, yêu cầu minh bạch, công khai cao trên thị trường chứng khoán cũng tạo điều kiện và sức ép buộc doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Tuy nhiên tính cạnh tranh và rủi ro cũng lớn hơn. Tóm lại mỗi nguồn vốn và phương thức tài trợ vừa có ưu điểm nhưng cũng có nhược điểm nhất định. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà doanh nghiệp cói thể lựa chọn nguồn và phương thức huy động vốn phù hợp 1.2.6. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân Khái niệm doanh nghiệp nhà nước Theo luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, Doanh nghiệp nhà nước là các tổ chức kinh tế do Nhà nước nắm toàn bộ vốn điều lệ hay có cổ phần, vốn góp chi phối hay được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Như vậy, theo luật doanh nghiệp nhà nước năm 200, nếu Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, từ 51% cổ phần trở lên thì doanh nghiệp đó được gọi là Doanh nghiệp nhà nước. Theo luật doanh nghiệp ban hành năm 2005 thì doanh nghiệp nhà nước là các doanh nghiệp trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ, trong đó phần góp vốn sở hữu của nhà nước là phần vốn từ ngân sách nhà nước vốn khác của nhà nước, do một cơ quan nhà nước hoặc một tổ chức kinh tế làm đại diện chủ sở hữu. Như vậy, những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp nhà nước là: -Doanh nghiệp nhà nước là một pháp nhân mà Nhà nước nắm giữ từ 51% vốn chủ sở hữu trở lên. -Doanh nghiệp nhà nước có thẩm quyền kinh tế bình đẳng với các doanh nghiệp khác và hạch toán kinh tế độc lập trong phạm vi vốn của doanh nghiệp. -Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, thực hiện hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích. Vai trò của DNNN Theo báo đầu tư số 95 ra tháng 10 năm 2000 ở châu Á DNNN vẫn giữ vai trò chủ đạo trong một số lĩnh vực chủ chốt, đặc biệt trong lĩnh vực viễn thông, ngân hàng. Ở Malaysia việc duy trì các DNNN được coi là nền tảng của nền kinh tế và là chỗ dựa cho việc thực hiện các chiến lược tạo việc làm, nguồn thu ngân sách. Ở Trung Quốc khu vực kinh tế nhà nước được coi là đòn bẩy để thực hiện những chiến lược lớn về kinh tế và xã hội. Ở Indonesia mặc dù nhiều DNNN bị tố cáo là nơi sản sinh tham nhũng, kém hiệu quả nhưng trên thực tế, các nhà kinh tế vẫn đánh giá cao vai trò của hệ thống DNNN. Còn ở Việt Nam vai trò của DNNN được kể đến : Cung cấp hàng hoá dịch vụ rất quan trọng cho nền kinh tế quốc dân như điện nước. Điện lực Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực chính là sản xuất và truyền tải điện năng. Gánh lấy những rủi ro lớn như những ngành đòi hỏi vốn lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị. Ví dụ Vinashin tổng công ty tàu thuỷ Việt Nam là một trong 17 tổng công ty lớn nhất của nhà nước trên cơ sở tổ chức lại ngành công nghiệp tàu thuỷ- một ngành đã có truyền thống lâu đời ở Việt Nam. Làm tròn nhiều chức năng đặc biết như đối với ngành bảo đảm xã hội cũng như an ninh quốc phòng. Bảo Việt là DNNN đầu tiên trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Giải quyết vấn đề việc làm, hỗ trợ xí nghiệp tư nhân, mở mang khu vực lạc hậu như kéo điện về miền núi vùng cao. Chỉ riêng tổng công ty Bảo Việt đã thu hút trên 5000 lao động. 1.2.7. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc huy động và sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước 1.2.7.1. Các nhân tố vĩ mô i) Năng lực tăng trưởng kinh tế Năng lực tăng trưởng kinh tế là một yếu tố quan trọng xác định triển vọng huy động nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Năng lực tăng trưởng càng cao thì năng lực tích luỹ của nền kinh tế càng được đảm bảo, khi đó việc huy động vốn trong nước được cải thiện. Nền kinh tế tăng trưởng cao cũng là tín hiệu tốt nâng cao lòng tin của các nhà đầu tư trong nước và hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư. Ngược lại khi nguồn vốn huy động được sử dụng đúng mục đích, hiệu quả thì sẽ thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn. Để thấy được mối liên hệ mật thiết giữa năng lực tăng trưởng kinh tế với việc huy động và sử dụng vốn đầu tư, ta cùng xem bảng số liệu về tỷ trọng vốn khu vực kinh tế nhà nước trong tổng số GDP từ năm 1995 đến năm 2005. Năm Vốn ngân sách nhà nước ( tỷ đồng) Vốn của DNNN và nguồn vốn khác ( tỷ đồng) Tổng vốn của khu vực kinh tế nhà nước ( tỷ đồng) Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ( tỷ đồng) Tỷ trọng vốn khu vực kinh tế nhà nước so với GDP (%) 1995 30447 10808 41255 228892 18,0 1996 42894 15070 57964 272036 21,3 1997 53570 17300 70870 313623 22,6 1998 65034 20334 85368 361017 23,6 1999 76958 20502 97460 399942 24,4 2000 89417 22637 112054 441646 25,4 2001 101973 27656 129629 481295 26,9 2002 114738 29591 144329 535762 26,9 2003 126558 30578 157136 613443 25,6 2004 139831 34990 174821 715307 24,4 2005 161635 37728 199363 839211 23,8 Nguồn: Niên giám thống kê 2006 và Tổng cục thống kê. Từ năm 1995 đến năm 2002 GDP qua các năm tăng đồng thời tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực nhà nước mỗi năm cũng đều tăng, từ năm 2002 đến năm 2005 tuy tỷ trọng này có giảm nhưng giảm không đáng kể, điều này nói lên rằng khi nền kinh tế tăng trưởng tốt thì vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước cũng tăng. ii) Môi trường kinh tế vĩ mô Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định có vai trò rất lớn trong quá trình ra quyết định đầu tư. Trước khi ra quyết định, các nhà đầu tư thường cân nhắc rất kỹ các yếu tố có ảnh hưởng đến hoạt động và hiệu quả đầu tư như yếu tố lãi suất, lạm phát, hoạt động của ngân hàng trung ương, thu chi ngân sách nhà nước, ngoài ra các doanh nghiệp xuất khẩu còn quan tâm tới tỷ giá hối đoái. Sự ổn định về chính trị, sự nhất quán trong chủ trương đường lối chính sách của Nhà nước luôn là yếu tố tạo mối trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn với các nhà đầu tư và doanh nghiệp trong và ngoài nước. Trong một xã hội ổn định về chính trị, các nhà đầu tư và doanh nghiệp được đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu tài sản, mức độ yên tâm của nhà đầu tư được củng cố thông qua việc đánh giá các yếu tố rủi ro chính trị. Ngoài ra còn có một số yếu tố quan trọng trong môi trường chính trị như xu thế chính trị, là định hướng của nhà nước sẽ áp dụng trọng việc điều hành quốc gia. Những chính sách đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế và các doanh nghiệp. Có thể nói môi trường chính trị là nhân tố hàng đầu, mỗi khi môi trường chính trị, xã hội bất ổn định thì mọi cơ chế chính sách đều mất đi tính hiệu lực của nó. Lãi suất là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới một dự án đầu tư trong việc huy động và sử dụng vốn. Lãi suất quá cao gây khó khăn trong quá trình huy động vốn của doanh nghiệp, và khiến chi phí sử dụng vốn bị đội lên cao do đó lợi nhuận thực của doanh nghiệp giảm. Việc Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt gần đây thông qua phát hành 20300 tỷ đồng tín phiếu và nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng lên 11% làm lãi suất tăng chóng mặt, điều này gây trở ngại cho các nhà đầu tư có ý định vay vốn ngân hàng trong đó có cả một số doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù được vay ưu đãi nhưng với mức lãi suất cao như hiện nay thì chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước cũng bị đẩy lên cao hơn trước. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu như dệt may, da giày, hải sản đặc biệt quan tâm tới tỷ giá hối đoái. Sự lên xuống của đồng nội tệ luôn là mối quan tâm của các doanh nghiệp xuất khẩu. Giá trị đồng nội tệ càng giảm hoặc thấp so với những ngoại tệ mạnh thì các doanh nghiệp xuất khẩu càng có lợi. Lợi nhuận cao thì khả năng quay vòng vốn của các doanh nghiệp cũng nhanh hơn. Tuy nhiên nguy cơ suy thoái nền kinh tế Mỹ hiện nay đang gây nên tâm trạng lo lắng cho những người làm xuất khẩu vì đồng đô la sụt giá có thể làm giảm lượng hàng xuất khẩu sang Mỹ - thị trường nhập khẩu lớn nhất của nước ta về hàng nông sản và may mặc. iii) Các chính sách kinh tế Bất kỳ doanh nghiệp nào vừa ra đời hoặc đang tồn tại cũng đều thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp lý và chịu sự quản lý giám sát của cơ quan nhà nước có chức năng, do đó các mỗi chính sách kinh tế được ban hành đều có ảnh hưởng tới tình hình hoạt động của các doanh nghiệp. Nổi bật nhất là chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm huy động và đa dạng hoá vốn chủ sở hữu. Quá trình cổ phần hóa không những huy động được nguồn vốn không nhỏ cho doanh nghiệp nhà nước mà còn tạo động lực cho các doanh nghiệp nhà nước trước đây vốn bị coi là chậm chạp trong đổi mới phương thức kinh doanh và phương pháp quản lý, nay với sự tham gia của tư nhân đã chủ động hơn trong sử dụng vốn và đạt được những thành công nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính sách mới của Chính phủ về việc quy định một số khoản mua sắm của doanh nghiệp nhà nước không được tính vào chi ngân sách khiến các doanh nghiệp nhà nước cân nhắc kỹ lưỡng hơn khi mua sắm vì đó được tính vào chi phí của doanh nghiệp, do đó việc sử dụng vốn cũng không bị lãng phí như trước. Một ví dụ khác như chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát của chính phủ hai tháng đầu năm 2008 được xem như sự hi sinh thị trường chứng khoán cho tăng trưởng. Lãi suất nâng cao cùng với việc ban hành chỉ thị 03 hạn chế các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng để đầu tư chứng khoán đã khiến lượng vốn huy động trên thị trường chứng khoán bị khủng hoảng, quá trình phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng (IPO) của một số doanh nghiệp nhà nước lớn như Vietcombank với mục đích huy động vốn bị chậm lại do vào thời điểm đó trên thị trường chưa đủ vốn. Từ sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cùng với việc cam kết phải đi đôi với thực hiện giảm thuế theo lộ trình đối với các doanh nghiệp nước ngoài. Thuế suất của các mặt hàng nhập khẩu giảm thúc đẩy nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường non trẻ Việt Nam làm gia tăng sức cạnh tranh. Để tồn tại và phát triển buộc doanh nghiệp trong nước đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước phải có giải pháp sử dụng vốn thực sự hiệu quả. Do đó chính sách này tác động không nhỏ tới việc sử dụng vốn của Doanh nghiệp nhà nước. 1.2.7.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp nhà nước i) Ngân sách nhà nước Ngân sách là nguồn huy động chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước. Trước đổi mới năm 1986 nền kinh tế còn mang nặng tư tưởng cấp phát, các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu hoạt động theo nhu cầu và phân phối của chính phủ do đó không phải quan tâm tới yếu tố đầu vào và tiêu thụ đầu ra, điều này tạo ra ảnh hưởng không nhỏ về tư tưởng bao cấp mà vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Nguồn huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp nhà nước lúc đó là từ ngân sách nhà nước nên không tạo cho doanh nghiệp tính chủ động trong huy động và tính trách nhiệm trong sử dụng sao cho có hiệu quả. Từ khi thực hiện cổ phần hoá nhằm đa dạng hoá cơ cấu chủ sở hữu vốn, đối với những doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn thì hiện nay nhà nước chỉ nắm từ 51% vốn trở lên. Quá trình cổ phần hoá không những giúp doanh nghiệp nhà nước huy động được nguồn vốn trong dân doanh mà còn giúp các doanh nghiệp năng động hơn trong việc quản lý việc sử dụng vốn. Thông qua cổ phần hoá, nhà nước đã giảm dần chức năng quản lý sang giám sát việc huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước đã chủ động hơn khi có sự tham gia góp vốn của tư nhân. Như vậy việc giảm dần nguồn vốn ngân sách cho doanh nghiệp nhà nước lại đem lại tín hiệu tích cực cho nền kinh tế. ii) Khấu hao hàng năm Trước năm 1986 nguồn vốn được chia thành nhiều nguồn trong đó có khấu hao tài sản cơ bản, khấu hao sửa chữa lớn. Các doanh nghiệp nhà nước trước đây được cấp vốn cố định để mua sắm xây dựng cơ sở vật chất (tài sản cố định ) ban đầu, khi đi vào hoạt động thì được cấp vốn lưu động để hoạt động. Mục đích của việc quản lý nguồn vốn khấu hao trước đây là nhằm bảo toàn vốn cố định được cấp tại doanh nghiệp trong việc quản lý vốn của doanh nghiệp. Theo thông tư của Bộ Tài Chính quyết định về khấu hao tài sản cố định (10/5/1990): Tất cả các Tài sản cố định hiện có ở các tổ chức kinh tế, các xí nghiệp quốc doanh, hạch toán kinh tế độc lập, có tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ nghiên cứu khoa học... đều phải thực hiện việc khấu hao và trích khấu hao vào giá thành sản phẩm hoặc phí lưu thông (dưới đây gọi chung là giá thành) để hình thành nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sửa chữa lớn TSCĐ và mua sắm, đổi mới thay thế TSCĐ. Tốc độ khấu hao tài sản cố định nhanh chóng thì tốc độ sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp càng nhanh nên thời gian quay vòng vốn cũng diễn ra với chu kỳ ngắn. Bên cạnh đó tốc độ khấu hao tài sản cố định cũng cho thấy khả năng sử dụng vốn của doanh nghiệp có hiệu quả hay không. iii) Lợi nhuận giữ lại Đây là một trong những nguồn vốn bên trong đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp muốn tồn tại trên thương trường phải có lợi nhuận giữ lại sau khi lấy doanh thu trừ các khoản chi phí. Một số chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận của doanh nghiệp như tỷ suất lợi nhuận trên vốn, tỷ suất lợi nhuận sau thuế. Thông thường mức tỷ suất lợi nhuận trên vốn của doanh nghiệp dương nhưng một số doanh nghiệp nhà nước vẫn có tỷ suất lợi nhuận trên vốn âm. Đó là những doanh nghiệp làm ăn không có lãi hoặc những doanh nghiệp không hoạt động vì mục tiêu sinh lời mà nhằm đảm bảo các mục tiêu dân sinh xã hội như giải quyết công ăn việc làm, đảm bảo cơ cấu kinh tế của ngành hoặc địa phương. Với một số doanh nghiệp nhà nước có tỷ suất lợi nhuận âm thì không có lợi nhuận giữ lại, các doanh nghiệp này hoạt động nhờ các khoản vốn ngân sách và vay nợ ngân hàng. Tuy nhiên số lượng các doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận trên vốn âm không nhiều. Khá nhiều tổng công ty nhà nước làm ăn có hiệu quả như Tổng công ty xây dựng, tổng công ty công nghiệp môtô Việt Nam, Tập đoàn bưu chính viễn thông, Tập đoàn điện lực Việt Nam... Lợi nhuận giữ lại của các tổng công ty này đóng vai trò quan trọng trong nguồn vốn kinh doanh. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Từ đại hội VI của Đảng năm 1986, đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã trở thành trọng tâm trong tiến trình đổi mới nền kinh tế theo hướng nhất quán chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là giai đoạn bước ngoặt đưa các doanh nghiệp nhà nước chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh theo nguyên tắc thị trường. Trải qua các đại hội VII, VII, IX chủ trương đổi mới doanh nghiệp nhà nước vẫn được đặt lên hàng đầu nhưng chủ yếu là đổi mới cơ chế theo hướng thương mại hoá. Từ năm 2001 đến nay các biện pháp đổi mới tập trung vào sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước được nhấn mạnh theo ba nội dung: i) sắp xếp doanh nghiệp nhà nước theo phương án tổng thể từng vùng, ngành. ii) tổ chức lại mô hình tổng công ty theo hướng thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế mô hình công ty mẹ - công ty con. iii) đẩy mạnh hơn nữa việc cổ phần hoá và chuyển đổi hình thức sở hữu. Có thể thấy trong giai đoạn đổi mới từ năm 1990 đến nay, với các biện pháp sắp xếp tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước, nhà nước đã tạo mọi điều kiện để DNNN phát huy nội lực và các yếu tổ thuận lợi trong việc sản xuất kinh doanh, giảm dần sự phụ thuộc vào nhà nước, đặc biệt giảm dần sự phụ thuộc vào cơ chế cấp phát vốn của nhà nước. Song bên cạnh những ưu điểm đạt được, DNNN vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém trong khâu huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển một cách hiệu quả để đem lại lợi nhuận kinh doanh cao. I.THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 2.1.1. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước Sau một chặng đường dài sắp xếp, đổi mới, đến nay cả nước còn khoảng 3.000 doanh nghiệp Nhà nước các loại, đang nắm giữ gần 70% tài sản cố định quốc gia, 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư của Nhà nước, 70% tổng vốn vay các ngân hàng nước ngoài và gần 60% tổng lượng vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại Nhà nước... Nhà nước chỉ tham gia quản lý doanh nghiệp với tư cách là chủ sở hữu, người góp vốn, quản lý tính hiệu quả và việc sử dụng hợp pháp đồng vốn giao cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền thực sự trong việc thay đổi cơ cấu tài sản để mở rộng kinh doanh, chủ động huy động vốn và tự chịu trách nhiệm về việc huy động vốn dưới các hình thức phát hành trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp, thì Nhà nước ở vị trí của người góp vốn vào doanh nghiệp, mà mối quan tâm hàng đầu của người góp vốn đó là lợi nhuận. Song trên thực tế, không ít tình trạng Nhà nước can thiệp trực tiếp bằng biện pháp hành chính, do đó rất khó đảm bảo tính tự chủ của doanh nghiệp. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, năm 2000 cả nước có 5.266 doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), với tổng số vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp này là 180.104 tỷ đồng, số vốn Nhà nước bình quân tại một doanh nghiệp là 34 tỷ đồng; Quá trình sắp xếp, cổ phần hoá đến cuối năm 2004 số lượng doanh nghiệp Nhà nước chỉ còn 3.811 đơn vị, với tổng số vốn là 270.159 tỷ đồng, số vốn Nhà nước bình quân tại một doanh nghiệp là 71 tỷ đồng, số vốn Nhà nước tại một doanh nghiệp tăng bình quân 2,08 lần so với năm 2000; Qua quá trình sắp xếp, cổ phần hoá số lượng DNNN giảm mạnh nhưng hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn tăng lên, vốn Nhà nước tăng bình quân 10%/năm.  Tnh hình vốn chủ sở hữu nhà nướctại các DNNN cổ phần hoá 2000 2001 2002 2003 2004 2005 SốDN hoàn thành CPH 211 203 185 537 805 744 DNcó vốn NNnăm giữ >51% 21 27 29 250 371 246 DN có vốn NN nắm giữ từ 35%-49% 30 25 22 38 217 126 DN có vốn NN nắm giữ <35% 160 151 134 249 217 372 Nguồn: Đánh giá chính sách và thực trạng đầu tư vốn nhà nước vào kinh doanh-Bùi Văn Dũng, CIEM, 2006 Dự kiến đến cuối năm 2010, cả nước còn 554 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, trong đó có 26 tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn. Đó là chưa kể đến những DN đã được cổ phần hóa nhưng NN vẫn nắm giữ trên 51% vẫn được hoạt động theo cơ chế DNNN Hệ số vốn chủ sở hữu trên tổng số vốn tổng hợp các ngành (%) Tổng cộng Vốn < 1 tỷ VND Vốn 1-5 tỷ VND Vốn 5-10 tỷ VND Vốn 10-20 tỷ VND Vốn > 20 tỷ VND Năm 2000 38,93 2,34 5,72 17,47 16,62 41,87 Năm 2001 32,16 2,11 10,43 17,24 15,60 33,56 Năm 2002 33,56 1,53 11,05 11,57 14,53 37,65 Năm 2003 33,80 -0,53 9,59 10,69 15,60 35,51 Năm 2004 20,85 -3,81 7,89 10,20 15,09 32,35 Năm 2005 29,56 -4,70 7,38 9,85 14,81 30,90 Nguồn: điều tra 357 DN nhà nước - Cục Tầi chính DN - Bộ Tài chính – Năm 2003. Có thể thấy đối với các DNNN có quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ (dưới 5 tỷ đồng) thì vốn NN chỉ chiếm dưới 10% tổng số vốn, thậm chí có những năm còn mang dấu âm. Điều này do các DNNN này kinh doanh thua lỗ kéo dài, làm giảm vốn chủ sở hữu đến mức dưới 0 Đối với các DN quy mô chủ sở hữu lớn, từ 10 tỷ trở lên, đạc biệt là các tổng công ty thì NN nắm từ 30-40% tổng vốn. Tuy nhiên hệ số này cũng có xu hướng giàm dần qua các năm từ 41% năm 2000 xuống còn 30% năm 2005 2.1.2.Quĩ khấu hao Theo mục tiêu đề ranày tổng nhu cầu vốn toàn ngành công nghiệptừ nay đến năm 2010 vào khoảng 900.000 tỷ đồng, chiếm 40% tổng nhu cầu vốn của toàn xã hội, tăn._.m thì muộn cũng thất bại. 2.3.3. Nguyên nhân 2.3.3.1. Tồn tại tư tưởng cấp phát, cơ chế mệnh lệnh của cơ chế cũ. Sau cổ phần hóa 81,5% giám đôc, 78% chức danh phó giám đốc không thay đổi. Rõ ràng các doanh nghiệp vẫn hoạt dộng như trước về tài chính, tư duy quản lý triết lý kinh doanh vẫn mang dáng dấp của DNNN. Việc thuê giám đốc điều hành đối với các doanh nghiệp vẫn còn rất mới mẻ. Các DNNN ít quan tâm đến lợi nhuận. Ngoài việc thăng tiến của lãnh đạo, doanh nghiệp không có động cơ rõ ràng đối với lợi nhuận. Các doanh nghiệp làm ăn có lãi thường tìm cách chia phần cho cán bộ công nhân viên (tăng lương, ăn giữa ca, thưởng,… ) Giảm lợi nhuận tới mức tối đa. Việc huy động vốn từ lợi nhuận để lại là rất ít. 2.3.3.2. Không nắm bắt được những cơ hội của cơ chế thị trường Do có một thời gian dài các DNNN sản xuất kinh doanh theo cơ chế bao cấp nên việc am hiểu về kinh tế hàng hoá, nắm bắt cơ hội thị trường của các DDNN là chưa nhậy bén. Trong cơ chế mới mỗi doanh nghiệp phải tìm ra cho mình những hướng đi riêng dựa trên nhu cầu của thị trường và năng lực cụ thể của doanh nghiệp mình trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang bước vào hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Đây là một thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp đặc biệt là những DNNN vốn quen với bao cấp của nhà nước, nay phải đổi mới để có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp ngoài một cách bình đẳng không có sự bảo trợ của nhà nước theo đúng lộ trình cam kết gia nhập WTO. Nhưng như một con sông ra biển lớn, các DNNN còn rất nhiều bỡ ngỡ chưa tận dụng được những thuận lợi khi nhập WTO. Hầu hết các doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa chú trọng đến việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình, việc am hiểu luật pháp quốc tế, cũng như tập quán tiêu dùng, thị hiếu của người tiêu dùng là rất hạn chế khó mà có chỗ đứng ở thị trường nước ngoài. 2.3.3.3. Chủ trương cổ phần hoá chưa thực hiện triệt để Có nhiều doanh nghiệp cổ phần hoá vẫn còn khép kín, chưa thu hút được các nhà đầu tư chiến lược. Các cổ đông bên ngoài chỉ có tỷ lệ vốn nhỏ do vậy không dám mạnh dạn đề xuất và áp dụng phương pháp quản lý, quản trị doanh nghiệp, phương án kinh doanh mới. Việc mua cổ phần doanh nghiệp mà các cổ đông bên ngoài thực ra chỉ có quyền nhận cổ tức, các quyền khác khó có thể thực hiện đầy đủ bởi cổ đông nhà nước với số cổ phần nắm giữ lớn hơn tất cả các cổ đông khác cộng lại, hầu như có quyền định đoạt mọi vấn đề trong đại hội cổ đông và hội đồng quản trị. Hiện nay việc thu hút cổ đông ngoài doanh nghiệp mới đạt 24,1% vốn điều lệ mới có trên 20 công ty có cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác quá trình cổ phần hoá diễn ra hết sức chậm chạp. Nhiều cán bộ cơ quan chủ quản do dự sợ mất quyền lợi, sợ mất đi bao cấp của nhà nước. Với trình độ và năng lực hạn chế họ lo sợ sẽ không được tín nhiệm để được bầu vào hội đồng quản trị. Nhiều lãnh đạo sắp về hưu lại muốn thúc đẩy nhanh cổ phần hoá để mua được nhiều cổ phần và có chân trong hội đồng quản trị. Các văn bản hướng dẫn thi hành nghị định 64/2002/ND – CP về cổ phần hoá còn chậm, bộc lộ nhiều hạn chế như chưa có những hướng dẫn cụ thể để tháo gỡ những khó khăn trong việc xác định giá trị tài sản chưa phù hợp với cơ chế thị trường nhất là việc xác định giá trị đất đai đưa vào giá trị doanh nghiệp đang gặp khó khăn lúng túng chưa có quy định rõ ràng cụ thể, quy chế hỗ trợ vốn tín dụng cho các doanh nghiệp sau cổ phần hoá, thiếu đồng bộ giữa các ngành, các địa phương. Việc xử lý những tồn tại về tài chính của tổng công ty; việc định giá xác định giá trị thực tế toàn Tổng công ty và giá trị phần vốn nhà nước tại Tổng công ty; việc quản lý và đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại Tổng công ty sau khi chuyển đổi; Chi phí thuê tư vấn nước ngoài định giá; việc cổ phần hóa gắn với niêm yết vẫn còn nhiều bất cập và khó khăn; chính sách để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược chưa được quan tâm đúng mức. Việc giám sát của cổ đông nhà nước là chưa rõ ràng một số khâu trong cổ phần hoá đặc biệt là khâu niêm yết và không niêm yết khi bán ra thị trường chứng khoán còn nhiều lỗ hổng để phát sinh tiêu cực. Gây mất tin cho người lao đông, nhà đầu tư. 2.3.3.4. Huy động vốn qua thị trường chứng khoán còn gặp nhiều khó khăn và nhiều DNNN chưa muốn niêm yết trên thị trường chứng khoán. Hiện nay trong bối cảnh hệ thống ngân hàng chủ động kiềm chế việc cho vay trung và dài hạn để đảm bảo an toàn hoạt động, thì việc phát hành trái phiếu công ty, đặc biệt là qua kênh thị trường chứng khoán sẽ dần trở thành xu hướng mới đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nghị định 52/2006/NĐ-CP của chính phủ cho phép tất cả các doanh nghiệp đều có thể huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu để phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Chỉ trong vòng 6 tháng sau khi Nghị định 52 ra đời, các doanh nghiệp đã huy động được khoảng gần 6.000 tỷ đồng trong đó có những doanh nghiệp như Tập đoàn Điện lực Việt Nam huy động được 5.000 tỷ đồng, Tập đoàn Công nghiệp và Tàu thuỷ huy động được 800 tỷ đồng. Đến nay, một số ngân hàng thương mại cũng đang dự kiến và đã phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2 thông qua huy động trái phiếu trên thị trường trong nước như Ngân hàng NN&PTNT (Agribank). Tuy nhiên thị trường trái phiếu doanh nghiệp nước ta so với thế giới vẫn chưa thực sự phát triển. Tổ chức phát thành chủ yếu mới chỉ là các ngân hàng thương mại, các công ty, tổng công ty lớn. Cơ cấu trái phiếu doanh nghiệp trong thị trường trái phiếu Việt Nam còn rất khiêm tốn(chỉ chừng 10%) trong khi trái phiếu chính phủ chiếm đa số (80-83%). Các nhà đầu tư chủ yếu mua và giữ trái phiếu tới khi đáo hạn, các dịch vụ liên quan hầu như chưa có…Việc phát hành trái phiếu ra nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân của việc phát hành trái phiếu công ty chưa được triển khai ở nước ta là: thông tin về các tổ chức phát hành còn quá thiếu và độ tin cậy thấp, chưa thực sự chứng tỏ năng lực cũng như hiệu quả kinh doanh; các tầng lớp dân cư chưa quen với trái phiếu công ty; tính hấp dẫn của trái phiếu kém; doanh nghiệp quen huy động vốn bằng hình thức vay vốn tín dụng từ ngân hàng; khuôn khổ pháp lý chưa khuyến khích doanh nghiệp phát hành trái phiếu công ty. Mặt khác, các doanh nghiệp có tâm lý không muốn công bố thông tin khi niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đây là một rào cản không chỉ ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp mà còn hạn chế sự phát triển của thị trường chứng khoán, hạn chế của toàn bộ nền kinh tế. Vì chỉ có niêm yết trên thị trường chưng khoán thì doanh nghiệp mới có được kênh huy động vốn lâu dài, thuận lợi và có áp lực buộc phải chuẩn hoá đội ngũ lãnh đạo, nhân viên, trình độ quản lý và kĩ năng tác nghiệp. Từ đó, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.. 2.3.3.5. Công tác ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong các DNNN còn nhiều hạn chế. Tốc độ triển khai công nghệ mới trong các doanh nghiệp khá chậm. Mức độ đầu tư cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn rất thấp. Hầu hết các doanh nghiệp tiến hành đổi mới công nghệ một cách thụ động, mang tính tình huống, do nhu cầu khách quan nảy sinh trong quá trình sản xuất mà không có kế hoạch dài hạn về đổi mới công nghệ. Phần lớn các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với 2 – 3 mức trung bình của thế giới, 80% -90% công nghệ nước ta là công nghệ ngoại nhập, 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 60- 70; 75% số thiết bị máy móc là đồ tân trang. Đổi mới công nghệ của Việt nam ở mức thấp, tính ra chi phí khoảng 0,2- 0,3% doanh thu (Ấn Độ 5%, Hàn Quốc 10%).Do nền tảng khoa học kỹ thuật của nước ta là thấp và yếu kém. Nên việc đổi mới công nghệ của ta chủ yếu phải nhập từ nước ngoài. Mà các công nghệ này chủ yếu là cũ, nhiều doanh nghiệp nhập về mới biết là sản phẩm sản xuất ra không thể cạnh tranh nổi trên thị trường. Mặt khác về yếu tố con người thì trình độ khoa học công nghệ của ta chưa cao nên khả năng hấp thụ công nghệ nhập là rất thấp. Đa số các doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ lẻ, nguồn vốn còn hạn hẹp không dám mơ tới những công nghệ hiện đại, buộc phải nhập công nghệ cũ khiến cho hiệu quả sản xuất kinh doanh đạt được là không cao. Sản phẩm làm ra không cạnh tranh được với hàng nhập ngoại về mẫu mã, chất lượng buộc phải bán với giá thấp hơn, dẫn đến doanh thu giảm, lợi nhuận thấp không có khả năng tích luỹ vốn mở rộng sản xuất, đầu tư vào máy móc công nghệ và mãi không bứt phá lên để tìm chỗ đứng vững chắc trên thị trường. CH Ư ƠNG 3 GIẢI PHÁP CHO VIỆC HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUÂ VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. Ngày nay, khi đã chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đã có hàng loạt những chính sách mới nhằm xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, xác lập một cơ chế quản lý năng động cởi mở trong khuôn khổ của pháp luật. Trong điều kiện đó, vai trò của việc huy động và sử dụng vốn ngày càng trở nên quan trọng đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp Nhà nước cũng phải tự tìm nguồn trang trải cho hoạt động của mình. Nhà nước lúc này đóng vai trò như một nhà đầu tư và được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ như một nhà đầu tư khác trên thị trường. Doanh nghiệp Nhà nước tiến hành hạch toán theo nguyên tắc lấy thu bù chi và đảm bảo làm ăn có lãi, sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả, nắm bắt nhu cầu thị trường, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh. Do đó, việc nâng cao hiệu quả của việc huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà nước ngày càng trở nên cấp bách. Đòi hỏi phải có những biện pháp nhanh chóng và hợp lý về vốn, giúp các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng phát triển. I. Giải pháp cho việc huy động vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. 3.1.1. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá , đa dạng hoá sở hữư doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ngay nay được áp dụng hết sức rộng rãi . Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thực sự có bước chuyển biến mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng .Mục đích của chương trình này là tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có chủ sở hữu là người lao động, để quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tạo cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, đồng thời giúp doanh nghiệp có thể huy động vốn trong toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp. Việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần không chỉ giúp Nhà nước bảo tồn nguồn vốn mà còn tăng đáng kể tỉ suất lợi nhuận trên đồng vốn. Các doanh nghiệp hoạt động năng động, nhạy bén và tự chủ hơn trong kinh doanh. Quá trình cổ phần hoá đã thu hút rộng rãi các nguồn vốn của người lao động cả trong doanh nghiệp và ngoài xã hội, nhờ đó doanh nghiệp có vốn đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh theo chiều sâu. Để có thể thực hiện cổ phần hoá một cách hiệu quả nhất ph ải: - Rà soát lại các tiêu chí phân loại DNNN cần duy trì 100% sở hữu nhà nước, những doanh nghiệp có cổ phần chi phối và những doanh nghiệp trong đó nhà nước sẽ bán phần lớn cổ phần hoặc toàn bộ cổ phần, giảm bớt ngành nghề, lĩnh vực nhà nước nắm cổ phần chi phối. - Đối với những doanh nghiệp nhà nước cần nắm 100% sở hữu: + Từng bước tạo lập khuân khổ pháp lý để tiến hành công ty hoá DNNN (chuyển DNNN 100% vốn Nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty và luật doanh nghiệp). Đối với các doanh nghiệp loại này: · Cần tiến hành tách quyền sở hữu các DNNN kinh doanh ra khỏi các cơ quan của Chính phủ; xác định cơ quan duy nhất thực hiện quyền sở hữu và kiểm soát đối với doanh nghiệp. Cơ quan này thay mặt nhà nước thực hiện quyền sở hữu đối với doanh nghiệp. · Chuyển giao những trách nhiệm tài trợ và thực hiện các chức năng xã hội của doanh nghiệp sang cho chính quyền địa phương thực hiện, thực hiện quỹ luận ngân sách nghiêm ngặt. · Nâng cấp hệ thống thông tin tài chính và công bố những báo cáo về kiểm toán, tài chính; nâng cáo năng lực quản lý và kế toán. · Đưa ra hệ thống đòn bẩy khuyến khích các nhà quản lý và công nhận nâng cao kết quả, các cán bộ quản lý phải có các hợp đồng quy định những điều khoản trả lương theo kết quả công nghiệp. + Xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát có hiệu quả đối với các DNNN còn giữ 100% sở hữu Nhà nước, trong đó có các DNNN đã chuyển sang công ty hoá. - Đối với DNNN thuộc diện cổ phần hoá: +Làm rõ những vấn đề còn tồn tại về cổ phần hoá như đánh giá lại tài sản, các thủ tục, phương thức cổ phần hoá. + Đổi mới chế độ chính sách đối với nhà đầu tư, người mua cổ phần. +Thiết lập quỹ hỗ trợ thất nghiệp cho những người bị mất việc làm do cổ phần hoá. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giải thích động viên các thành viên trong xã hội tham gia mua cổ phần. - Đối với các DNNN quy mô chỉ thua lỗ kéo dài hoặc nhà nước không cần nắm giữ cổ phần: + Đẩy nhanh việc ban hành nghị định giao, bán khoán kinh doanh cho thuê DNNN để đẩy mạnh đa dạng hoá sở hữu, phương thức quản lý doanh nghiệp, giảm bớt doanh nghiệp quy mô nhỏ Nhà nước không giữ 100% vốn sở hữu. + Ưu tiên về chính sách đối với các trường hợp tiếp nhận nhiều lao động của các doanh nghiệp này. + Ban hành chính sách giải quyết nợ cho các doanh nghiệp chuyển sang áp dụng giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê. 3.1.2. Thực hiện sát nhập các doanh nghiệp: tích tụ và tập trung vốn. Trong nên kinh tế thị trường, khi nước ta ra nhập VVTO doanh nghiệp vừa và nhỏ đồng nghĩa với việc đơn điệu về sản phẩm, chất lượng thấp, giá thành cao, không đủ lợi thế so với những doanh nghiệp có quy mô lớn, trang bị hiện đại chi phí sản xuất thấp.... Để đạt được mục tiêu đề ra về đổi mới, sắp xếp lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, đến năm 2005 các doanh nghiệp nhà nước phải có quy mô vừa và lớn, với mức vốn bình quân doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đạt trên 71 tỷ đồng.Do vậy cần phải xúc tiến thành lập các tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con,... trên cơ sở các doanh nghiệp có sản phẩm, thương hiệu có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế là rất cần thiết. Hiện nay ở nước ta đang tồn tại nhiều hình thức hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp, trong đó, nổi bật là những hình thức: hợp tác giữa hai doanh nghiệp hoặc nhiều doanh nghiệp trong mô hình tổng công ty nhà nước; hợp tác giữa một doanh nghiệp và một ngân hàng trong nước; hợp tác giữa một doanh nghiệp trong nước với đối tác nước ngoài để xuất khẩu sản phẩm và tìm được sự hỗ trợ về vốn, công nghệ. Quan hệ giữa các công ty thành viên và với tổng công ty là quan hệ phối thuộc tương hỗ lẫn nhau, chứ không phải quan hệ phụ thuộc, do đó tránh được tình trạng ỷ lại, dựa dẫm vào Tổng Công ty mà không tự phát triển bản thân mình. Liên kết, hình thành các tập đoàn doanh nghiệp mạnh đủ năng lực cạnh tranh và giảm thiểu khả năng rủi ro nhờ chia xẻ với nhiều nhà đầu tư khác là hướng đi hiệu quả để các doanh nghiệp mở rộng quy mô, tăng cường tích tụ, tập trung vốn. Quá trình tập trung, tích tụ và huy động vốn có thể thông qua mô hình các tập đoàn kinh tế, mô hình Công ty mẹ, công ty con hay qua hình thức Hiệp hội,... dưới hình thức nào, mô hình nào cũng phải đi vào thực chất, bảo đảm hiệu quả và sự phát triển của doanh nghiệp. 3.1.3. Tạo lập vốn chủ sở hữu Muốn tạo lập dược vốn chủ sở hữu các doanh nghiệp phải làm ăn có lãi. Nếu sản xuất kinh doanh khá, sản phẩm cạnh tranh được với thị trường thì không những có lợi nhuận mà vốn cũng được quay vòng nhanh, ngược lại nếu sản xuất kinh doanh kém hiệu quả thì vốn sẽ bị ứ đọng. Để từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN cần tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DN, kinh nghiệm cho thấy chỉ có cổ phần hóa thì vốn mới được quản lý chặt chẽ hơn. Thực tế cho thấy cũng có rất nhiều doanh nghiêp làm ăn có lãi, lợi nhuận đạt dược rất cao .Đây là nguồn vốn quan trọng dể bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Để tao lập vốn được nguồn vốn này các DN cần thực hiện những giải pháp sau: - Thứ nhất là, ưu tiên sản xuất các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao và có thể xuất khẩu. Giữ vững thị trường trong nước và phát triển thêm thị trường ngoài nước, cải tiến mẫu mã sản phẩm phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. - Thứ hai là, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn , nắm bắt được những cơ hội đầu tư một cách nhanh chóng - Thứ ba là, thực hiện đầu tư có hiệu quả và có những thiết bị mang tính “vượt trội”, áp d ụng mh ững ti ến b ộ khoa h ọc k ĩ thu ật hi ện đ ại v ào s ản xu ất kinh doanh , trên cơ sở tổ chức hợp tác sâu rộng trong và ngoài nước. - Thứ tư là, tăng cường đào tạo và thu hút đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân có chuyên môn và tay nghề cao. - Thứ năm là, làm tốt công tác tài chính kinh doanh để tái sản xuất mở rộng Tcty và các doanh nghiệp thành viên. - Thứ sáu là , tổ chức hợp tác sâu rộng, liên doanh, liên kết trong và ngoài nước. 3.1.4. Đổi mới, phát triển,nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN Trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập, doanh nghiệp nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hoạt động của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả, khả năng tạo ra lợi nhuận kém, hàng tồn kho tiêu thụ chậm, công nợ chưa thanh toán được... cộng thêm các cơ chế, quy chế quản lý của doanh nghiệp nhà nước cũng ngày càng trở nên bất cập với thực tiễn... khiến các ngân hàng e ngại khi xem xét cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước.Do vậy để có thể tìm nguồn vốn huy động từ bên ngoai mà chủ yếu là từ các NHTM DNNN phải nâng cao độ tín nhiệm đối với ngân hàng. Để đạt dược điều này các DNNN phải đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp, tổ chức lại,đổi mới, phát trển và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước: * Đổi mới DNNN: Từng bước tạo lập môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; tách bạch rõ chức năng quản lý nhà nước, quản lý của chủ sở hữu với chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp; xóa bỏ cơ chế chủ quản; phân định rõ quyền của các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với DNNN; cơ cấu lại vốn và tài sản theo hướng tích cực và có hiệu quả, giảm các khoản nợ xấu và tài sản tồn đọng; kiên quyết và khẩn trương xóa bỏ tình trạng bao cấp, bảo hộ bất hợp lý, đặc quyền và độc quyền trong kinh doanh của các DNNN.  * Đẩy mạnh cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: +) Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, trong đó phân định rõ chức năng quản lý của Nhà nước và doanh nghiệp, nhất là các quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp +) Ban hành chế độ phân phối cổ phần hợp lý; +) Đổi mới phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, giám sát hoạt động kinh doanh và việc chấp hành quy định của Nhà nước tại doanh nghiệp. II. Giải pháp cho việc sử dụng vốn đầu tư phát triển DNNN 3.2.1. Tăng cường giám sát , quản lý phần vốn được dầu tư Về cơ cấu vốn trong doanh nghiệp bao gồm nhiều nguồn như nguồn vốn chủ sở hữu, vốn được bổ sung từ lợi nhuận hàng năm, các quỹ của xí nghiệp, vốn đi vay của các tổ chức tín dụng; vốn đi chiếm dụng của khách hàng. Mỗi loại vốn phản ánh tính chất và nguồn hình thành khác nhau. Thực tế hiện nay cần đi sâu xem xét công tác quản lý vốn của DN chủ yếu là các loại vốn trong thanh toán như công nợ phải thu; các khoản nợ phải trả trong đó có nợ vay ngân hàng. Bởi lẽ những khoản nợ này chiếm tỷ trọng lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu công tác quản lý tốt thì khả năng phát sinh những khoản nợ này chỉ tồn tại trong thời gian nhất định và ngược lại nếu công tác quản lý yếu kém (nợ từ các năm trước chuyển sang) thì công nợ sẽ tăng lên. Vấn đề đặt ra là không cho phép DN để khách hàng chiếm dụng vốn lâu ngày, chỉ được phép chiếm dụng trong thời hạn cho phép khoảng trong vòng 1 tháng (khoảng 30 ngày). - Nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ các bộ quản ký điều hành - Sửa đổi bổ sung cơ chế chính sách phù hợp với quá trình sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước - Khuyến khích hình thức thuê người quản lý điều hành, đồng thời gắn hiệu quả sử dụng đồng vốn với quyền hạn và nhiệm vụ thông qua hưpi đồng kinh tế. -Tăng cường quản lý ,giám sát, phàn vốn được đầu tư: ban hành các cơ chế giám sát, thực hiện rà soát một cách nghiêm ngặt, có hiệu qủa - Dung quyền của cổ đông đưa các doanh nghiệp có đủ điều kiện tham gia thị trường chính khoán tạo ra một kênh minh bạch thông tin, tạo sự giám sát mạh mẽ của xã hội đối với các doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về chính khoán - Rà soát, kiểm soát và có phương án cơ cấu lại vốn đang đầu tư tại các DNNN - Thực hiện công khai minh bạch và tuân thủ nghuyên tắc thị trường trong quá trình hoạt động đầu tư - Nhà nước cần sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cơ chính trong việc quản lý vốn đầu tư tại các DNNN 3.2.2. Khai thác triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn, cần tìm nghuồn vốn tập trung vốn cho cho DNNN.Trong đó , cần khai thác triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: từ lợi nhuận dể lại , từ các quỹ. Để có dược điều này cần thiết nhất các DNNN phải hoạt động kinh doanh có lãi, có hiệu quả , lợi nhuận đạt dược phải cao đặc biệt trong những ngành lĩnh vực có tích chất quan trọn. Và từ đó có sự quản lý doanh thu, chi phi và phân phối lợi nhuận một cách hợp lý: * Quản lý doanh thu ,chi phí - Cơ chế quản lý chi phí của doanh nghiêp theo hướng mở rộng quyền của người quản lý và điều hành doanh nghiêp trong việc quyết định các khoản chi phí, trên cơ sở trách nhiệm rõ ràng, cụ thể.  - Xây dựng và ban hành cơ chế kiểm soát chi phí của các doanh nghiệp trong các ngành có lợi thế hoặc độc quyền, chống việc lợi dụng những lợi thế, độc quyền để tạo nên những đặc quyền, đặc lợi.  * Phân phối lợi nhuận   - Cần khẳng định lợi nhuận sau thuế là của Nhà nước, Nhà nước có toàn quyền quyết định việc sử dụng các khoản lợi nhuận này. Nhà nước dành một phần khoản lợi nhuận sau thuế để khen thưởng và đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong doanh nghiệp, song không tạo thành một đặc quyền của họ so với những người lao động ở các doanh nghiệp khác tạo nên sức ì khi chuyển đổi hình thức sở hữu.   - Xác định lại hệ thống quỹ của doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế sau khi dành một phần để trích quỹ khen thưởng, phúc lợi, còn lại dùng để đầu tư đổi mới công nghệ, thay thế thiết bị, bổ sung vào vốn cho doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp không có các nhu cầu này hoặc nhà nước thấy không cần thiết phải đầu tư lại cho doanh nghiệp thì nhà nước sẽ thu hồi lại để đầu tư cho những doanh nghiệp có nhu cầu hoặc cần thiết phải đầu tư.  - Cải cách chế độ tiền lương: Thực hiện chế độ tiền lương theo chức danh tiêu chuẩn, tiền lương phải thực sự là thu nhập chủ yếu của người lao động đủ sức nuôi sống bản thân người lao động và gia đình (thậm chí còn có tích luỹ), còn tiền thưởng chỉ là thứ yếu nhằm kích thích người lao động hoàn thành tốt công việc được giao.  3.2.3. Tìm nguồn huy động vốn bên ngoài hợp lý, hiệu quả -Trước hết, DNNN cần kiên quyết xóa bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của DNNN. Thực hiện đầu tư vốn thông qua các Công ty đầu tư tài chính của Nhà nước. Hiện nay, vẫn còn nhiều vướng mắc về cơ chế chính sách trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ, tiến độ thực hiện chậm, hiệu quả hoạt động của nhiều DNNN còn thấp, tình trạng thất thoát, lãng phí và tham nhũng chưa được khắc phục. -Trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn phải giải quyết nhu cầu chi tiêu lớn cho an ninh quốc phòng và các nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa xã hội khác nên việc trợ giúp cho các DN cũng rất hạn hẹp. Bản thân các ngân hàng thương mại cũng là DN nên nguồn vốn cho vay cũng là nguồn vốn huy động. Nếu DN không trả được nợ thì ngân hàng cũng sẽ không có vốn để quay vòng và ngược lại. Nên DN phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh là chính, tận dụng mọi nguồn thu và huy động vốn từ nhiều nguồn để giảm bớt những áp lực khó khăn nói chung. -Đối với các DNNN đã, đang và sẽ sắp xếp lại để cổ phần hóa, các ngân hàng thương mại chủ động tham gia xây dựng và quyết định phương án sắp xếp lại DNNN với vai trò là chủ nợ, phù hợp với chính sách và giải pháp tiếp tục đổi mới DNNN. Đồng thời, tiếp tục mở rộng đầu tư vốn tín dụng để giúp cho các DN đổi mới công nghệ bằng nguồn vốn trung dài hạn để mua sắm các loại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và xây dựng nhà xưởng để DN có đủ sức cạnh tranh cao, phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế. -Đối với tín dụng ngân hàng cần tập trung đầu tư vốn vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có dự án khả thi và có khả năng trả nợ. -Tăng cường đôn đốc thu hồi nhanh vốn nhanh, thực hiện phương thức "tiền vào hàng ra, tiền trao cháo múc" hạn chế tối đa nhất các khoản vốn đi chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng trong thanh toán. Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó tạo ra lợi nhuận trong DN, nâng cao đời sống của người lao động. -Phát triển mạnh các DN vừa và nhỏ, khuyến khích đầu tư cho các DN tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, cần phát triển mạnh mẽ các mô hình DN tư nhân, mô hình này rất thích hợp với nền kinh tế thị trường ở nước ta. 3.2. 4. Xây dựng chiến lược đầu tư đúng hướng, sử dụng vốn tiết kiệm có hiệu quả. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc rất lớn vào hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Do đó: - Doanh nghiệp cần xây dựng một kết cấu tài sản hợp lý: kết cấu tài sản tùy thuộc vào đặc thù kinh doanh của từng doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần xây dựng một cơ cấu tài sản tối ưu, phù hợp với đặc thù ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. - Tăng tốc độ chu chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. + Thường xuyên cập nhật khoa học kỹ thuật, chú trọng đổi mới trang thiết bị, tận dụng tối đa công suất máy móc, thiết bị, hợp lý hóa môi trường công nghệ. + Kịp thời thanh lý các tài sản cố định không cần dùng hoặc đã hư hỏng. + Không dự trữ quá mức các tài sản cố định chưa cần dùng, linh hoạt sử dụng quỹ khấu hao vào việc đầu tư kinh doanh sinh lòi, mua bảo hiểm tài sản để phòng ngừa rủi ro. + Sử dụng đúng các chức năng của quỹ dự phòng tài chính, trích trước chi phí dự phòng, giảm giá các khoản đầu tư tài chính. + Cân nhắc thận trọng khi đầu tư đổi mới tài sản cố định, thực hiện biện pháp đánh giá đúng giá trị tài sản cố định, lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp, mức khấu hao thích hợp không để mất vốn, hạn chế tối đa ảnh hưởng của hao mòn vô hình. + Sau mõi kỳ kinh doanh doanh nghiệp cần tiến hành phân tích đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định vào vốn, kiểm kê tài sản cố định, mọi trường hợp phát hiện thừa, thiếu đều phải lập biên bản tìm nguyên nhân và có biện pháp xử lý. + Nhà nước công bố hệ số trượt giá thì vốn doanh nghiệp phải tăng theo cùng hệ số để trích khấu hao cho đủ. + Doanh nghiệp có thể áp dụng các biện pháp tăng tốc độ vốn lưu động như: áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, sớm đưa nguyên vật liệu và chế biến. Như vậy vấn đề sử dụng vốn tiết kiệm có hiệu quả vốn kinh doanh được coi là giải pháp nóng, nhằm khắc phục tình trạng thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản do lãng phí, tham ô tham nhũng và hiệu quả sử dụng vố thấp. Việc tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có tầm quan trọng và tính khả thi hơn là biện pháp tăng vốn. Vì vậy các DNNN cần phải tich cực thực hiện các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển. 3.2.5. Xây dựng một cơ cấu nguồn vốn hợp lý, tối đa hóa giá trị doanh nghiệp Cơ cấu nguồn vốn phản ánh thành phần, tỷ trọng từng nguồn chiếm trong tổng nguồn vốn doanh nghiệp tại một thời điểm. Doanh nghiệp tài trợ vốn từ hai nguồn là nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu. Cơ cấu nguồn vốn tối ưu sẽ đáp ứng được các mục tiêu quan trọng như: tối thiểu hóa chi phí sử dụng, tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, kết hợp hài hòa giữa các nguồn vốn và đảm bảo an toàn tài chính doanh nghiệp. Thực tế nhiều doanh nghiệp Nhà nước có tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu quá thấp cho thấy doanh nghiệp đã sử dụng không hiểu quả nguồn vốn chủ sở hữu. Do vậy, khi xây dựng cơ cấu nguồn vốn doanh nghiệp cần căn cứ vào tỷ suất sinh lời của tổng tài sản so với lãi suất tiền vay. Nếu tỷ suất sinh lời/tổng tài sản lớn hơn lãi suất tiền vay, doanh nghiệp nên cho vay và ngược lại. Và khi vay nợ, doanh nghiệp cần phải cân nhắc đến rủi ro có thể gặp phải: vỡ nợ, không đảm bảo an ninh tài chính, giảm uy tín... KẾT LUẬN Qua nghiên cứu nguồn vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp ta thấy rõ vai trò quan trọng của nguồn vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nguồn vốn bên trong đóng vai trò chủ yếu, nhưng nguồn vốn bên ngoài lại rất quan trọng đối với sự sống còn của doanh nghiệp. Để làm rõ vai trò của nguồn vốn đầu tư phát triển chúng em đi phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của một số doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được thì còn rất nhiều hạn chế, bất cập trong việc huy động đặc biệt là sử dụng vốn. Nguyên nhân khách quan là yếu tố kinh tế vĩ mô nhưng chủ yếu do nguyên nhân chủ quan dẫn đến sự kém hiệu quả của việc sử dụng đồng vốn, đó là: năng lực quản lý việc sử dụng vốn kém, tâm lý ỷ lại không năng động do vốn đa phần của Nhà nước cấp. Nhưng từ khi đi vào cổ phần hoá nhiều doanh nghiệp nhà nước đặc biệt là các tổng công ty lớn đã phần nào khắc phục được hiện tượng này, bằng chứng là những dấu hiệu đáng mừng trong kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Để tránh tình trạng lãng phí nguồn lực lớn do sử dụng không hiệu quả vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước, chúng em đã kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đã huy động được. Tuy số liệu phân tích trong bài chưa thật đầy đủ nhưng có thể cung cấp được cái nhìn tổng quan về tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN nước ta trong thời gian gần đây, chỉ khi nào các DNNN thực sự bắt tay vào cải cách theo đúng nghĩa thì nguồn vốn đầu tư phát triển mới được sử dụng hết công suất và đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24700.doc
Tài liệu liên quan