Nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại và giải pháp tạo lập vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam

Lời cảm ơn Khi chọn đề tài này, em vẫn chưa thể hiểu hết được cần phải trình bày những gi và trình bày như thế nào. Tất nhiên em cũng có sự hiểu biết một chút về vấn đề này. Tuy chưa được đầy đủ hoàn thiện lắm nhưng em sẽ cố gắng tìm tòi các tài liệu tham khảo. Để nắm rõ được nội dung ý nghĩa của đề tài này,có rất nhiều tài liệu liên quan mà em cần phải biết. Để hoàn thành tốt đề án này, em cần có sự hướng dẫn của thầy, cô rất nhiều. Thầy, cô đã cho em biết cách trình bày đề án một cách rõ r

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1256 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại và giải pháp tạo lập vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng và hoàn hảo. Cô đã sửa nhữnh chỗ sai, những chỗ em không hiểu để em hiểu rõ được vấn đề cần làm. Cô là người giúp em phần lớn trong việc hoàn thiện đề tài của mình. Em xin chân thành cảm ơn cô Cao Thị ý Nhi-giáo viên hướng dẫn em. Em xin cảm ơn những thầy, cô và những người đã viết lên tài liệu giúp em tham khảo. Lời mở đầu Cho đến thời điểm này, công cuộc đổi mới ở nước ta đã tiến hành hơn một thập kỉ. Đất nước đã thay đổi nhiều theo chiều hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều đó không chỉ được ghi nhận trong các báo cáo tổng kết và Nhị quyết của Đại hội Đảng IX, mà còn được thế giới thừa nhận qua các đánh giá của các tổ chức tài chính quốc tế. Vấn đề lớn hiện nay còn tồn tại chưa được giải quyết triệt để là hệ thống Ngân hàng Việt Nam - hệ thần kinh huyết mạch của nền kinh tế còn quá nhỏ bé. Qúa trình tiếp tục xây dựng công nghiệp hoá, đưa nước ta vào vị thế một nước công nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hoá, cạnh tranh nghiệt ngã trong cơ chế thị trường đòi hỏi bức xúc là phải có vai trò "bà đỡ" khoẻ khoắn và đắc lực của một hệ thống Ngân hàng mạnh. Chính vì tầm quan trọng đó của hệ thống Ngân hàng mà thu hút sự quan tâm của nhiều người. Một trong những vấn đề mà tôi quan tâm đến về hệ thống Ngân hàng là: "Nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại và giải pháp tạo lập vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam ". Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài này được chia thành 3 chương: Chương I : Lý luận chung về Ngân hàng Thương mại. Chương II : THực trạng nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại Việt Nam. Chương III : Những thuận lợi, khó khăn và giải pháp đưa ra nhằm tạo lập vốn kinh doanh cho Ngân hàng Thương mại Việt Nam. CHƯƠNG 1 : Lý luận chung về Ngân hàng Thương mại 1.1. Lịch sử hình thành Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Qúa trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi có sự phát triển của Ngân hàng, đến lượt mình sự phát triển của hệ thống Ngân hàng trở thành dộng lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Nghề Ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng. Việc lưu hành những đồng tiền riêng của môi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ kết hợp với thương mại và giao lưu quốc tế tạo ra yêu cầu đúc và đổi tiền tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại. Người làm nghề đúc, đổi tiền, thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuận thu được là từ chênh lệch giá mua bán. Người làm nghề đổi tiền thường là người giàu, trước đó có thể đã làm nghề cho vay nặng lãi. Họ thường có két tốt để cất giữ đảm bảo an toàn. Do yêu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa, các nhà buôn… nhiều người làm nghề đổi tiền thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Thực hiện cất trữ hộ làm tăng thu nhập, tăng khả năng đa dạng các loại tiền và tăng quy mô tài sản của các nhà kinh doanh tiền tệ. Việc cất trữ hộ nhiều người khác là điều kiện để thực hiện thanh toán hộ và thanh toán kông dùng tiền mặt. Với những ưu điểm của mình thanh toán không dùng tiền mặt đã thu hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại ( bạc hoặc vàng ) các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền. Những Ngân hàng loại này được gọi là Ngân hàng của những người thợ vàng. Nghề Ngân hàng được bắt đầu từ những người cho vay nặng lãi. Một số người cho vay nặng lãi đã thực hiện cả nghiệp vụ đổi tiền, giữ hộ và thanh toán hộ. Các Ngân hàng đầu tiên đã dùng vôn tự có để trả nợ cho hoạt động của họ, nhưng điều đó không kéo dài. Từ hoạt động thực tiễn, các chủ Ngân hàng nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền vào không rút tiền ra cùng một lúc nênđã tạo số dư thường xuyên ở Ngân hàng. Do tính chất vô danh của tiền, chủ Ngân hàng có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách hàng sẽ cho vay. Hoạt động cho vay tạo nên lợi nhuận lớn cho Ngân hàng, do vậy các Ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Bằng cách cung cấp các tiện ích khác nhau mà Ngân hàng huy động dược ngày càng nhiều tiền gửi, là điều kiện để mở rộng cho vay và hạ lãi suất cho vay. Tóm lại, Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng , các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế , rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm cả công ty chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của Ngân hàng. Ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh ( các tổ chức tài chính phi Ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. 1.2. Khái niệm NHTM. Trước hết, Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa đạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. ở việt nam, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động cho vay đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn- hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM- đóng vai trò quan trọng hướng tới chất lượng hoạt động của Ngân hàng. 1.3. Chức năng của Ngân hàng Thương mại. 1.3.1. Chức năng trung gian tài chính. Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư đòi hỏi sự tiếp xúc với 2 loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu tức chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là người cần bổ sung vốn, (2) Các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức thu nhập hiện tại của họ nhiều hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. 1.3.2. Chức năng tạo phương tiện thanh toán. Ban đầu các Ngân hàng tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thê, dần dần giấy nợ của Ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiền cất trữ, nó trở thành tiền giấy. 1.3.3. Trung gian thanh toán. Thay mặt khách hàng, Ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng thuận tiện và tiết kiệm chi phí, Ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… Cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. 1.4. Các dịch vụ Ngân hàng. - Mua bán ngoại tệ. - Nhận tiền gửi. - Cho vay. - Bảo quản vật có giá. - Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. - Quản lý ngân quỹ. - Tài trợ các hoạt động của Chính phủ. - Bảo lãnh. - Cho thuê thiết bị trung và dài hạn. - Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn. - Cung cấp dịch vụ môi giới, đầu tư chứng khoán. - Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm. - Cung cấp các dịch vụ đại lý. 1.5. Các loại hình Ngân hàng thương mại. 1.5.1. Các loại hình Ngân hàng thương mại chia theo hình thức sở hữu có: Ngân hàng sở hữu tư nhân. Ngân hàng sở hữu của các cổ đông (Ngân hàng cổ phần). Ngân hàng sở hữu nhà nước. Ngân hàng sở hữu liên doanh. 1.5.2. Các loại hình Ngân hàng thương mại chia theo tính chất hoạt động. Ngân hàng chuyên doanh và đa năng. Ngân hàng bán buôn và Ngân hàng bán lẻ. Chương 2: thực trạng nguồn vốn kinh doanh ở ngân hàng thương mại việt nam. Vốn của Ngân hàng là điều kiện ban đầu để thành lập Ngân hàng. Vốn là nguồn tài trợ chính do xây dựng trụ sở Ngân hàng, mua sắm thiết bị. Vốn Ngân hàng có chức năng quan trọng là chống đỡ rủi ro cho những người gửi tiền. Do vậy vốn tối thiểu luôn được các cơ quan chức năng kiểm soát Ngân hàng quân tâm. Rất nhiều các chỉ tiêu hoạt động của Ngân hàng bị ràng buộc với vốn như mức huy động tối đa, mức cho vay tối đa cho một khách hàng… Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động cho vay đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho Ngân hàng thương mại- đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của Ngân hàng. 2.1. Các nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại. 2.1.1. Vốn chủ sở hữu. Để bắt đầu hoạt động Ngân hàng (được pháp luật cho phép), Ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên các trang thiết bị, nhà cửa cho nNgân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ thuộc theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ Ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. 2.1.1. Nguồn vốn hình thành từ ban đầu. Tuỳ theo tính chất của mỗi Ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là Ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước, ngân sách nhà nước cấp (vốn của nhà nước). Nếu là Ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua cổ phần hay cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp. Ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân. 2.1.1.2. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động. Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng gia tăng vốn theo nhiều phương thức khác nhau: - Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ Ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào sự cân nhắc của chủ Ngân hàng về tích luỹ và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn hình thành từ ban đầu. - Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm. 2.1.1.3. Các qũy. Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi qũy có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ dự phòng tổn thất.Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát .Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của Ngân hàngvà chênh lệch giữa thị giá vàmệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới.Tuỳ theo quy định cụ thể của mỗi nước,các Ngân hàng còn có quỹ phúc lợi,quỹ khen thưởng quỹ giám đốc… Các quỹ Ngân hàng thuộc sở hữu của chủ Ngân hàng .Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của Ngân hàng. Tuy nhiên khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng quỹ. 2.1.1.4. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần. Các khoản vay trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu (vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như : sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn . 2.1.2. Nguồn tiền gửi. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Khi một Ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ Ngân hàng đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức dân cư . 2.1.2.1. Tiền gửi thanh toán . đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào Ngân hàng để nhờ Ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép,các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được Ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung , lãi suất của khoản tiền này tất thấp (hoặch bằng không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ Ngân hàng với mức chi phí thấp . 2.1.2.2. Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội . Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hốiễ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rât thuận tiện cho hoạt động thanh toán, song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu nhập của người gửi tiền, Ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn, người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến Ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kì hạn. 2.1.2.3. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiết kiệm) . Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với Ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. 2.1.2.4. Tiền gửi của các Ngân hàng khác. Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, Ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại Ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn này thường không lớn. 2.1.3. Nguồn đi vay. Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại . Tuy nhiên, khi cần Ngân hàng thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước, Ngân hàng TƯ thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Do vậy nhiều Ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. 2.1.3.1. Vay Ngân hàng nhà nước Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của Ngân hàng thương mại . Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ ( thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán) Ngân hàng thường vay Ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn) . Các thương phiếu đã được các Ngân hàng thương mại chiết khấu ( hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, Ngân hàng mang nhữnh thương phiếu này lên tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của Ngân hàng thương mại giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân hàng Nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ, Ngân hàng Thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà nước đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao và phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kì. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, Ngân hàng Nhà nước cho Ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. 2.1.3.2. Vay các tổ chức tín dụng khác. Đây là nguồn các Ngân hàng thương mại vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng. Các Ngân hàng đang có dự chữ vượt yêu cầu có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các Ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại các Ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các Ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ Ngân hàng Nhà nước. Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần luiên hệ trực tiếp với Ngân hàng cho vay hoặc thông qua Ngân hàng đại lý. Khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của Ngân hàng cho vay giảm đi và của Ngân hàng đi vay tăng lên. 2.1.3.3. Vay trên thị trường vốn. Giống như các doanh nghiệp khác, các Ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều Ngân hàng Thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung hạn và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những Ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Những Ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này. Họ thường phải vay thông qua các Ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của Ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của Ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy mô mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ….cũng được các Ngân hàng quan tâm. 2.1.4. Nguồn uỷ thác. Ngân hàng Thương mại thực hiện các dịc vụ uỷ thác như: uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo nên nguồn thác tại Ngân hàng. Ví dụ: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cho vay uỷ thác hộ cho Nhà nước đối với một số dự án trồng rừng với nguồn ngân sách hoặc nguồn ODA, theo hợp đồng giữa các bên, các nguồn vốn trên được chuyển tải đến địa điểm đã được xác định trước. Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế, xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của Ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới Ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nguồn uỷ thác, làm gia tăng nguồn vốn của Ngân hàng. 2.1.5. Nguồn trong thanh toán. Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán(séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C). Những Ngân hàng là những Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các Ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay. 2.1.6. Nguồn khác. Các khoản nợ khác như: Thuế trưa nộp, lương chưa trả… Nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại đơn vị: tỷ VNĐ Khoản mục Số dư (31-12-x) Tiền gửi của doanh nghiệp và cá nhân. Tiền gửi của doanh nghiệp. Tiền gửi tiết kiệm của cá nhân. Tiền gửi của các tổ chức tài chính. Phát hành kì phiếu, trái phiếu. Vay Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác. Các khoản phải trả khác. Nguồn khác. Vốn chủ sở hữu. Vốn điều lệ. Các quỹ và lãi chưa phân phối. 50946. 15521. 35425. 7270. 3,8. 4335. 791. 1100. 1814. 1150. 664. Tổng nguồn 66259,8 2.2. Thực trạng nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại Việt Nam. Rất nhiều Ngân hàng được thành lập vào cuối những năm 80 và đầu những năm 90. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ chế tại Việt Nam. Do thị trường tài chính chưa phát triển, dân chúng chưa quen với cổ phần và hơn nữa thu nhập của đại bộ phận đân cư còn thấp, thu ngân sách nhỏ nên phần lớn các Ngân hàng được thành lập với mức vốn thấp (các Ngân hàng Thương mại quốc doanh được cấp 200 tỷ VNĐ, các Ngân hàng cổ phần từ 5-50 tỷ). Vốn thấp đang hạn chế các Ngân hàng Việt Nam tiếp cận với các khách hàng có nhu cầu vay lớn. Vốn thấp cũng gây gánh nặng tài chính to lớn cho quốc gia khi các Ngân hàng bị phá sản. Vốn thấp hạn chế các Ngân hàng mở rộng các dịch vụ và quy mô hoạt động. Sự phát triển của thị trường tài chính, nhu cầu mở rộng chi nhánh, thành lập các công ty con, và đối đầu vối rủi ro, đang buộc các Ngân hàng phải tăng vốn. Đây là quá trình tự tích luỹ hoặch phát hành cổ phiếu mới. Các Ngân hàng Thương mại Nhà nước có số vốn từ khoảng 1400 đến 1800 tỷ VNĐ năm 2001, nhiều Ngân hàng cổ phần tăng vốn lên 70-100 tỷ. Đây là xu hướng quan trọng nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng trong nước với các chi nhánh nước ngoài. Các nguồn trung và dài hạn, các tài sản trung và dài hạn đang ngày càng gia tăng. Đầu những năm 90 phần lớn tiền gửi ngắn hạn (tỷ trọng tiền gửi loại kì hạn 6 tháng là lớn nhất), gần 90% là cho vay ngắn hạn (trừ Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam có tỷ lệ này trên 50%). Đầu thế kỷ 21, tiền gửi trung và dài hạn đã gia tăng (kỳ hạn chủ yếu của tiền gửi tiết kiệm là 12 tháng, trái phiếu 2- 3.5) ; tỷ lệ cho vay trung và dài hạn tại nhiều Ngân hàng đạt tới 25- 40%. 2.2.1. Thực trạng về tỷ lệ an toàn vốn của Ngân hàng Thương mại Việt Nam. Triển khai luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và luật các tổ chức tín dụng, ngày 25/8/99 Thống đốc NHNN đã kí quyết định 297/1999/QĐ-NHNN5 về việc ban hành "Qui định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng". Tại khoản 1, Điều 6, Mục III, quy định:"Tổ chức tín dụng phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so vối tài sản "Có", kể cả các cam kết ngoại bảng, được điều chỉnh theo mức độ rủi ro". Tại Thời điểm quyết định có hiệu lực , tất cả các Ngân hàng Thương mại Nhà nước (NHTMNN) đều không bảo đảm được tỷ lệ an toàn tối thiểu như quy định và ở mức rất thấp, chỉ vào khoảng 3%; riêng NHNNo trên 4%. Lúc đó, các NHTMNN và ngay cả NHNN còn chưa vội quan tâm lo lắng vì tại Khoản 2, Điều 6, Mục III cũng quy định: "Tại thời điểm quyết định này có hiệu lực thi hành , tổ chức tín dụng có mức tỷ lệ an toàn tối thiểu thấp hơn mức quy định tại khoản 1 điều này, trong thời gian 3 năm kể từ ngày Quyết định này có hiệu lực thi hành phải tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bằng mức tỷ lệ quy định. Mức tăng tỷ lệ hàng năm tối thiểu bằng 1/3 số tỷ lệ còn thiếu". Như vậy , tại thời điểm Quyết định 297 có hiệu lực, tuy tỷ lệ an toàn vốn của mỗi NHTMNN có khác nhau nhưng đều còn thiếu và phải tăng tỷ lệ này hàng năm thêm khoảng 1.2-1.7%. Trên thực tế, tỷ lệ an toàn vốn của các NHTMNN sau một năm không những không tăng mà còn giảm. Điều này là hiển nhiên và nếu không có những bước đột phá thì tỷ lệ an toàn vốn của các NHTMNN vẫn tiếp tục suy giảm. Điều này quá rõ ràng khi các NHTMNN luôn phải tăng tài sản "có" rủi ro (chủ yếu là dư nợ cho vay nền kinh tế) nhưng vốn tự có hầu như tăng không đáng kể. 2.2.2. Thực trạng về vốn điều lệ của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Theo lời tiên đoán bất hủ của V.Lênin "Không có Ngân hàng lớn không thể xây dựng được CNXH". Ta đang trên con đường đi lên CNXH vậy mà thực trạng hiện nay ở Việt Nam vốn tự có của hệ thống Ngân hàng Thương mại quá nhỏ bé. Nhiều NHTM vốn tự có chỉ nằm ở mức tương đương 70 ngàn USD NHƯ Các Ngân hàng cổ phần nông thôn (một con số không đáng gọi là Ngân hàng). Đặc biệt, các NHTMNN ở Việt Nam có số vốn tự có quá khiêm tốn (NHTMNN lớn nhất như Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đang cung ứng vốn cho hơn 50 triệu nông dân cũng chỉ có số vốn không quá 200 triệu USD -chỉ số vốn tự có của một trong hàng chục nhà máy xi măng ở nước ta hiện nay. Đây thực sự là một nghịch lý khi ta thường nói kinh tế Nhà nước nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. 2.2.3. Hiệp định Thương mại Việt -Mĩ được kí 7/2000 mở ra nhiều cơ hội và thách thức mới cho các NHTM Việt Nam. Từ tháng 8/2000, NHNN đã chuyển sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam, lãi suất nội tệ xích gần với lãi suất ngoại tệ và lãi suất quốc tế. Thị trường tiền tệ thế giới biến động mạnh trong năm 2000, đồng đô la Mỹ lên giá mạnh so với hầu hết các ngoại tệ, lãi suất trên các thị trường tài chính lớn của thế giới đều tăng, cung cầu ngoại tệ trong nước tiếp tục mất cân đối theo chiều cung nhỏ hơn cầu. Trong năm 2000, các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng được thực hiện một cách cơ bản có nhiều chuyển biến tích cực: Tổng phương tiện thanh toán tăng 26.5%, huy động vốn tăng 29%, dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 25%. Tuy nhiên, việc huy động vốn và cho vay của hệ thống Ngân hàng còn một số hạn chế: tỷ lệ vốn huy dộng dài hạn có tăng song vẫn chiếm tỉ trọng thấp trong tổng nguồn vốn huy động, chất lượng kế hoạch hoá nguồn vốn chưa cao; chất lượng tín dụng vẫn chưa có sự cải thiện đáng kể. Ngân hàng Đầu tư và Phát triểnViệt Nam giữ vững nhịp độ tăng trưởng, vinh dự được nhận danh hiêu đơn vị anh hùng lao động trong thời kì đổi mới. Tổng tài sản tăng 21%; nguồn vốn huy động tăng 35%; tổng dư vợ tăng 35%; lợi nhuận tăng 20%…Hầu hết các chỉ tiêu đều hoàn thành hoặc vượt mức kế hoạch đề ra. Ngân hàng Đầu tư đã tích cực đổi mới, mở rộng, nâng cao sức cạnh tranh trong các hoạt động dịch vụ. Ngân hàng Công thương Việt Nam đã vững bước vượt qua khó khăn, chấn chỉnh lại hoạt động, xúc tiến nhanh tiến độ thực hiện Dề án cơ cấu lại nợ, giải quyết những tồn tại cũ. Tổng vốn huy độnh tăng 30%, tổng dư nợ tăng 26.4%, dư nợ cho vay trung và dài hạn tăng 60% và chiếm tỉ trọng 25% tổng dư nợ. Công tác kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế phát triển mạnh, dặc biệt là doanh số thanh toán quốc tế tăng 50%. Lợi nhuận vượt trên 10% kế hoạch Nhà nước giao. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có tổng tài sản tăng43% so với cùng kì năm1999, đứng đầu về tổng tài sản trong các Ngân hàng ở Việt Nam. Nguồn vốn tăng hơn 35%, dư nợ tín dụng tăng 25%…Ngân hàng Ngoại thương đã xây dựng nhiều giải pháp công nghệ hiện đại, ngang tầm với các Ngân hàng trong khu vực và trên thế giới, đã hoàn tất việc xây dựng chiến lược kinh doanh từ năm 2001-2005. Một số Ngân hàng cổ phần đã được củng cố, sắp xếp lại bằng các biện pháp như: sáp nhập, hợp nhất, mua lại, thay đổi nhân sự, tăng vốn điều lệ…Các Ngân hàng được củng cố sắp xếp lại đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực. 2.2.4. Thực trạng nguồn vốn huy động của các NHTM tại các tỉnh phía Nam năm 2002. Đến cuối năm 2002 tổng nguồn vốn huy động của các Ngân hàng tại 30 tỉnh thành phố phía Nam đạt 140 040 tỷ đồng, tăng 28.6% so với đầu năm. Các tỉnh có nguồn vốn huy động tại chỗ tăng cao như: Bình Dương (tăng 60.1%), Bình Phước (tăng 47.2%), Bạc Liêu (tăng 47.9%), Long An (tăng 40.4%), Sóc Trăng ( tăng 39.3%), Trà Vinh (tăng 38.8%), Tây Ninh (tăng 37.8%), Ninh Thuận (tăng34.8%), Đồng Tháp (tăng 32.9%). Riêng thành phố Hồ Chí Minh do tích cực đưa ra nhưỡng hoạt động dịch vụ theo hướng hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng , áp dụng các mức lãi suất linh hoạt, hấp dẫn phù hơp với nhiều hìng thức và các kì hạn khác nhau nên nguồn vốn huy động đạt 89 670 tỷ đồng, tăng 36.5% so với đầu năm, chiếm 64% tổng nguồn vốn huy động của 30 tỉnh phía Nam. Đến cuối năm 2002, tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế tại các tỉnh phía Nam đạt 162 700 tỷ đồng, tăng 25% so với đầu năm. Trong đó dư nợ cho vay trung và dài hạn chiếm tỉ trọng 41% , tăng 30.8% so với đầu năm, chưng tỏ các Ngân hàng đều quan tâm chú ý, mạnh dạn đầu tư đối với các dự án trung dài hạn. Dư nợ cho vay tại các tỉnh thuộc các tỉnh Nam Trung Bộ tăng 24.7% so với đầu năm. Bên cạnh việc cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế vườn, phát triển nghề nuôi tôm sú trên cát (còn gọi là nuôi tôm cao triều), một số tỉnh còn chú ý cho vay nuôi trồng khai thác thuỷ sản, cho vay khai hoang ruộng bậc thang , xây dựng hệ thống thuỷ lợi để tăng diện tích canh tác cây lúa nước cho đồng bào thiểu số và các xã vùng cao. Dư nợ cho vay tại các tỉng Đông Nam bộ tăng 25.5% so với đầu năm. Đối tượng cho vay của khu vực này được tập trung vào các lĩnh vực: sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, dịch vụ, chế biến, cho vay khuyến khích phát triển kinh tế trang trại. Riêngtrên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, do các Ngân hàng thực hiện nhiều biện pháp nhằm mở rộng mạng lưới hoạt động nên dư nợ cho vay đạt 70 150 tỷ đồng, tăng 24.3% so với đầu năm, chiếm tỉ trọng 43.1% dư nợ cho vay toàn phía Nam, góp phần thúc đẩy lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ của thành phố có những chuyển biến tích cực, đạt tốc độ tăng trưởng cao: thúc đẩy chuyển dịch và phát triển kinh tế khu vực nông nghiệp nông thôn theo hướng hiện đại hoá. Nhiều Ngân hàng tích cực tham gia cho vay đối với chương trình tín dụng kích cầu đầu tư của thành phố với tổng dư nợ 549 tỷ đồng; cho vay KCL-KCX với tổng dư nợ 4 872 tỷ đồng. Một số Ngân hàng xác địng mục tiêu đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế trọng điểm, cho vay lớn đối với các dự án có tính khả thi cao, nhất là các dự án vừa và nhỏ, tham gia thực hiện chương trình tín dụng di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường ra các khu công nghiệp tập trung. Để tiến tới hội nhập , nhiều Ngân hàng trên địa bàn đồng loạt đưa ra những hoạt động dịch vụ Ngân hàng theo hướng hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng như: chuyển tiền điện tử, thanh toán liên Ngân hàng qua mạng, dịch vụ cung cấp thông tin tín dụng qua mạng …Tại khu vực đồng bằng Sông Cửu Long, dư vợ cho vay tăng 28.2% so với đầu năm. Đối tượng cho vay khu vực này chủ yếu phục vụ sản xuất và thu hoạch lúa Đông-Xuân, lúa Hè Thu. Ngoài ra một số tỉnh còn chú ý cho vay thực hiện dự án chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngư-nông -lâm nghiệp; chuyển đổi cơ cấu cây trồng; cho vay cải tạo vườn cây ăn trái…Tại khu vực Tây Nguyên, dư nợ cho vay tăng 11.8% so với đầu năm, cho vay chi phí trồng trọt, chăm sóc các loại cây nông sản. 2.2.5. Thực trạng về nguồn vốn của các NHTM năm 2002 và dự báo năm 2003. Nhìn lại năm 2002 chúng ta thấy, nền kinh tế tăng trưởng 7.0%, lạm phát ( chỉ số tăng giá hàng tiêu dùng) 4.0%, đồng tiền Việt Nam ổn định , tỷ giá chỉ tăng có 2.0%,thấp nhất trong nhiều năm qua. Hệ thống Ngân hàng Thương mại tiếp tục được cơ cấu lại nâng cao sức mạnh cạnh tranh và hội nhập về mọi mặt, không có Ngân hàng nào bị đổ vỡ. Hầu hết các tổ chức tín dụng kimh doanh có lãi trong môi trường cạnh tranh ngày càng sôi động. Do đó có thể khẳng địng, năm 2002 đã có những thành công quan trọng về điều hành chíng sách tiền tệ của NHNN và sự phát triển đi lên vững chắc của hệ thống NHTT Việt Nam. Phân tích về các chỉ tiêu cụ thể hoạt dộng của hệ thống Ngân hàng trong năm 2002 chúng ta thấy bức tranh khái quát như sau: Tại Hà nội , nơi tập trung đầu mối của hầu hết các NHTM NN và nhiều NHTM CP, thị trường huy động vốn lớn nhất, thường xuyên chiếm 40% thị phần hoạt động Ngân hàng trong toàn quốc, ước tính đến hết tháng 12-2002 tổng nguồn vốn huy động đạt 122 700 tỷ đồng, tăng 25% so vơi 31-12-2001; trong đó vốn huy động nội tệ đạt 68 830 tỷ đồng , tăng 25.5%. Dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng ước tính đến năm 2002 đạt 57 850 tỷ đồng, tăng 26.1% so với năm trước. Tại TP. Hồ Chí Minh, Trung tâm tài chính- tiền tế sôi động nhất và lớn nhất cả nước , ước tính đến năm2002 tổng nguồn vố huy động của hệ thống Ngân hàng trên địa bàn đạt 89 673 tỷ đồng, tăng tới 6.4% so với năm 2001, trong đó vốn huy động nội tệ đạt 53 804 tỷ đồng, tăng 41.7% so với năm trư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28172.doc
Tài liệu liên quan