Nguồn vốn & vai trò của vốn đối với doanh nghiệp doanh nghiệp

LỜI NÓI ĐẦU Theo quy định của pháp luật , một doang nghiệp muốn thành lập cần phải có một số vốn ban đầu tối thiểu bằng vốn pháp định . tiếp sau đó doanh nghiệp muốn tiến hành các hoạt động sản xuất –kinh doanh củng cần phỉa có vốn. Chỉ với đôi lời ngắn gọn trên chúng ta cũng có thể nhận thấy được vai trò vô cùng quan trọng của vốn đối với một doanh nghiệp. Nó là yếu tố không thể thiếu để một doanh nghiệp được hình thành , là điều kiện tiền đề của sản xuất kinh doanh, là yếu tố cơ bản để doanh

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1980 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nguồn vốn & vai trò của vốn đối với doanh nghiệp doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp tồn tại, cạnh tranh Nhưng vấn đề đặt ra là vốn của doanh nghiệp từ đâu mà có ? Doanh nghiệp đã huy động từ những nguồn nào?Và doanh nghiệp nên sử dụng nguồn tài trợ nào là hiệu quả hơn ? Kết hợp sử dụng các nguồn với tỷ lệ như thế nào cho phù hợp ? Trong phạm vi bài viết này bằng việc liệt kê các phương pháp , phân tích các ưu nhược điểm , so sánh lợi ích khi sử dụng các nguồn tài trợ chúng ta sẽ lần lượt giải quyết các vấn đề trên, đồng thời trong tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chúng ta cần phải đưa ra các biện pháp khơi thông nguồn vốn trong các doanh nghiệp . I.Nguồn vốn và vai trò của vốn đối với doanh nghiệp doanh nghiệp : Trong mọi doanh nghiệp ,vốn đều bao gồm 2 bộ phận : vốn chủ sở hữu và vốn nợ ,mỗi bộ phận này lại được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tùy theo tính chất của chúng . 1.Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp : Đối với mọi loại hình doanh nghiệp ,vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp gồm bộ phận sau : Vốn góp ban đầu Lợi nhuận không chia . Các quỹ của doanh nghiệp Tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới 1.1.Vốn góp ban đầu : Khi doanh nghiệp được thành lập thì bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có 1 số vốn ban đầu nhất định ,và vốn ban đầu này không được thấp hơn vốn pháp định đối với loại hình doanh nghiệp mà nhà nước quy định cụ thế : Đối với doanh nghiệp quốc daonh ,vốn pháp định là 1000 tỉ đồng . Đối với công ty cổ phần : nông thôn là 5 tỉ đồng Thành thị : 70% tỉ động Vốn góp ban đầu được hình thành thế nào là tùy thuộc vào tính chất sở hữu của loại hình doanh nghiệp : Đối với doanh nghiệp nhà nước vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của nhà nước , đồng thời chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước chính là nhà nước .Trong công ty tư nhân thì vốn góp ban đầu do chính chủ công ty bỏ ra .Đối với các công ty cổ phần là do cổ đông đóng góp và mỗi cổ đông là 1 chủ sở hữu công ty , họ chỉ trịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ .Vốn góp ban đầu này được ghi trong điều lệ công ty do đó còn được gọi là vốn điều lệ .Thông thường vốn điều lệ lớn hơn vốn pháp định ,nó có thể tăng thêm trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp .Và 1 điều lưu ý là vốn điều lệ không nhất thiết phải góp đủ khi quyết định thành lập doanh nghiệp , mà có thể góp sau 1 thời gian .Nếu sau 1 thời gian mà không góp đủ thì phải ghi giảm vốn điều lệ hoặc thay đổi hình thức doanh nghiệp . 1.2.Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia : Quy mô vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là 1 yếu tố quan trọng , nó phản ánh tiềm lực ban đầu của doanh nghiệp .Tuy nhiên thông thường số vốn này cần được tăng cường theo quy mô .Trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh ,nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì sẽ có điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn .Lợi nhuận sau thuế sẽ được chia làm 2 phần . Phần 1 : chia cho các cổ đông , trả lương cho nhân viên . Phần 2 : giữ lại để trích lập các quỹ và bổ sung vào vốn điều lệ 1.3.Các quỹ của doanh nghiệp : Doanh nghiệp có thể có 1 số quỹ : Qũy thặng dư vốn ,quỹ dự phòng tổn thất …khi các quỹ này nếu có thặng dư thì sẽ được tính bổ sung vào vốn chủ sở hữu 1.4.Phát hành cố phiếu : Trong quá trình hoạt động sản xuất –kinh doanh , công ti cổ phần có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Phát hành cổ phiếu được coi là hoạt động tài trợ dài hạncủa doanh nghiệp . Công ti có thể phát hành các loại cổ phiếu sau:cổ phiếu thường và cổ phhiếu ưu tiên 2. Vốn nợ Để bổ sung vốn cho quá trìng sản xuất –kinh doanh , doanh nghiệp không thể chỉ sử dụng vốn chủ sở hữu mà còn có thể sử dụng vốn nợ thông qua các nguồn : tín dụng ngân hàng , tín dụng thương mại , vay thông qua phát hành trái phiếu. 2.1.Vốn từ tín dụng ngân hàng : Nguồn vốn vay từ ngân hàng là 1 trong những nguồn vốn quan trọng nhất ,không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân .Các ngân hàng thương mại cung cấp rất nhiều dịch vụ tài chính cho các doanh nghiệp ,trong có việc cung ứng các nguồn vốn . Không 1 doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương maịi nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thị trường .Doanh nghiệp vay vôn của ngân hàng để đảm bảo cho hoạt đông sản xuất – kinh doanh ,để tài trợ cho các dự án của doanh nghiệp . Xét về mặt thời hạn ,vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạn vay bao gồm : Vay dài hạn ( > 5 năm ) , vay trung hạn ( 1- 5 năm ) , vay ngắn hạn ( < 1 năm ) .Tiêu chuẩn và quan niệm về thời gian để phân loại trong thực tế không giống nhau giữa các nước và có thể khác nhau giữa các ngân hàng thương maị . Tùy theo tính chất và mục đích sử dụng ,ngân hàng cũng có thể phân loại cho vay thành các loại như : Cho vay đầu tư tài sản cố định ,cho vay tài sản lưu đông ,cho vay để thực hiện dự án ,cho vay để tiêu dùng …Cũng có những cách phân chia khác như : Cho vay theo ngành kinh tế ,theo lĩnh vực phục vụ ,hoặc hình thức bảo đảm tiền vay . 2.2.Tín dụng thương mại : Các doanh nghiệp cũng thường xuyên khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp .Nguồn vốn này hình thành 1 cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu ,mua bán trả chậm hay trả góp .Trong 1 số doanh nghiệp ,nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn ,thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn . 2.3.Một số nguồn tài trợ ngắn hạn không do vay mượn khác như : Các khoản nợ tích lũy ,tiền đặt cọc của khách hàng . 2.3.1.Nợ tich lũy : Các loại nợ tích lũy chủ yếu có :nợ lương của công nhân và nợ thuế của chính phủ Lương của công nhân thường được trả hàng tháng theo chế độ tạm ứng vào giữa mỗi tháng và thanh toán váo đầu tháng sau .Giữa 2 kì trả lương sổ sách kế toán của doanh nghiệp cho thấy những khoản nợ lương trong kì . Doanh nghiệp nộp thuế doanh thu túy theo mức doanh thu hàng tháng và nộp thuế lợi tức năm truớc vào đầu năm sau sau khi đã được duyệt quyết toán . Các khoản nợ tích lũy này tự phát thay đổi cùng với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp .Khi doanh nghiệp mở rộng hoạt động ,các khoản nợ này cũng tự động tăng và khi thu hẹp sản xuất chúng cũng giảm theo . 2.3.2.Tiền đặt cọc của khách hàng : Đây cũng là 1 nguồn tài trợ ngắn hạn “ tự động ” khi doanh nghiệp mở rộng sản xuất, số lượng khách tăng ,làm tăng các khoản tiền đặtt cọc , và khi thu hẹp sản xuất thìh các khoản tiền này cũng giảm theo 2.4 Phát hành trái phiéu công ty Trái phiếu là một tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn . Trái phiếu có thể do chính phủ hay công ty phát hành. Nếu do chính phủ phát hành thì gọi là trái phiếu chính phủ còn nếu do công ti phát hành thì gọi là trái phiếu công ti .Thời hạn phổ biến của các loại trái phiếu làcác loại 1năm , 3năm,5năm,10năm rất ít công ti phát hành trái phiếu có kì hạn tới 20 năm.Trong phần này chùng ta chỉ xem xét trái phiếu cua công ti trên một số khía cạnh cơ bản . Một trong những vấn đề cần được xem xét trước khi phàt hành làlựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp với điều kiện của công ti và tình hình trên thị trường tài chính.vd:sẽ phát hành trai phiếu với thời hạn và lãi suất bao nnhiêu cho thích hợp. Việc làm này rất quan trọng vì nó liên quan đến việc hấp dẫn của trái phiếu, khả năng lưu hành.Trước khi phát hành cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi loại trái phiếu .Trên thị trường nhiều nước hiện nay thường lưu hành nhiều loại trái phiếu công ti sau; 2.4.1Trái phiếu có lãi suất cố định Laọi trái phiều này thường được sử dụng phổ biến , cho nên khi nói đến trái phiếu công tin gười ta thường hiểu là trái có lãi suất cố định. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thăy đổi trong suốt kì hạn của nó . Như vậy cả công ti (người đi vay) và người sở hữu trái phiếu (người cho vay) đều biết rõ mức lãi suất của kghoản nợn trong suốt thời gian tồn tại của trái phiếu . Cách thức thanh toán lãi của trái phiếu cũng thường được quy định rõ . vd: trả 2 lần trên năm vào ngày 30/6 và 31/12 hoặc trả 1 năm một lần vào đầu năm hoặc cuối năm . Trái phiếu thường hấp dẫn người đầu tư không ưa mạo hiêm vì giá trái phiếu không biến động nên xuống nhiều như khi mua cổ phiếu . Để huy động vốn trên thị trường bằng trái phiếu phải tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu . Tính hấp dẫn phụ thuộc vào các yếu tố sau: Thứ nhất :lãi suất của trái phiếu Nói đến vấn đề lãi suất thì có sự đối lập về lợi ích giữa công ty phát hành và công chúng đầu tư .Đương nhiên công chúng đầu tư muốn mua trái phiếu có lãi suất cao còn công ty phát hành thì lại ngược lại ,muốn phát hành trái phiếi có lãi suất thấp để giảm chi phí sử dụng vốn .Vì vậy để trung hòa 2 nhu cầu trên thì buộc công ty phát hành phải cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận được đối với trái phiếu của họ chứ không thể trả quá cao hay quá thấp cho nhà đầu tư . Laĩ suất của trái phiếu phải được đặt ra trong mối tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn ,đặc biệt phải tính đến sự cạnh tranh với trái phiếu của các công ty khác và trái phiếu chính phủ .Gỉa sử tại 1 thời điểm trái phiếu chính phủ kì hạn 10 năm có lãi suất 8% /năm ,trái phiếu trung bình của 1 số công ty khác có cùng kì hạn là 9% /năm .tuy nhiên 1 khía cạnh khác cần được quan tâm là công ty có gánh nổi chi phí lãi vay này hay không ? Ngoìa ra nếu đưa thêm yếu tố khuyến khích vào trái phiếu thì có thể không cần nâng cao mức lãi suất . Thứ hai : Kì hạn của trái phiếu ; Đây cũng là 1 yếu tố quan trọng khi cân nhắc phát hành trái phiếu của công ty .Nếu thời hạn quá dài sẽ không hấp dẫn công chúng đầu tư vì thời hạn càng dài thì rủi ro càng cao .Mặt khác thời hạn càng dài thì lãi suất trái phiếu cũng càng cao . Thứ ba : Uy tín tài chính của của công ty và mức độ rủi ro : Mức độ thuận lợi và tính hấp dẫn của trái phiếu công ty luôn luôn phụ thuộc vào uy tín của công ty nhất là độ tin cậy về tài chính .Nếu công ty có uy tín lớn , tiềm lực tài chính mạnh thì tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường chứng khoán sẽ cao hơn do nhà đầu tư phải đánh giá uy tín của doanh nghiệp thì mới quyết định mua hay không mua .Các doanh nghiệp có uy tín và vững mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng .VD :Khi các công ty lơn như công ty sữa Vinamilk ,công ty bánh Kinh Đô ,Hải Hà phát hành trái phiếu huy động vốn thì sẽ dề dàng hơn các công ty nhỏ vì đây là các công ty lớn , khi nhắc đến ai cũng biết do đó họ tin tưởng hơn vào khả năng trả nợ của công ty . Ngoài ra khi phát hành trái phiếu ,cũng cần chú ý đên mệnh giá của trái phiều vì nó liên quan đến sức mua của dân chúng đặc biệt ở Việt Nam khi phát hành trái phiếu ,doanh nghiệp cần xác điịnh 1 mức mệnh giá thích hợp để nhiều người có thể mua được ,tạo ra sự lưu thông dễ dàng của trái phiếu trên thị trường .Nếu mệnh giá quá lớn sẽ ít có công chúng có khả năng mua ,chỉ đa phần các nhà đầu tư lớn mua ,như vậy tính thanh khoản trên thị trường sẽ rất kém . 2.4.2.Trái phiếu có lãi suất thay đổi : Loại trái phiếu này không phải là phổ biến đối với trái phiếu .Gọi là trái phiếu có lãi suất thay đổi là do lãi suất của nó phụ thuộc vào 1 số yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế .VD :Lãi suất LIRBOR ( London Interbank Offered Rate ) hoặc lãi suất cơ bản do ngân hàng TW quy định .Có trường hợp lãi suất thông báo của 1 trái phiếu được ấn định như sau : i = LIBOR + 1%/năm . Một vấn đề đặt ra là đối với trái phiếu thả nổi thì sao ? Khi nào thì doanh nghiệp nên phát hành loại trái phiếu này ? Trong diều kiện có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định ,doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này .Do các biến động của lạm phát kéo theo sự giao động của lãi suất thực ,các nhà đầu tư mong muốn được hưởng một mức lãi suất thỏa đáng khi so sánh với tình hình thị trường . VD : Khi mức lạm phát tăng nhanh và ở mức cao ,nếu lãi suất trái phiếu giữ ở mức cố định thì lãi suất thực tế của trái phiếu giảm xuống do đó giảm hấp dẫn .Vì vậy mà một số người ưa thích trài phiếu thả nổi .Tuy nhiên loại trái phiếu này có một vài nhược điểm ,đó là : Doanh nghiệp không biết trước được về chi phí lãi vay của trái phiếu ,điều này gây khó khăn 1 phần cho việc lập kế hoạch tài chính của công ty . Thứ hai:việc quản lí trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn và phức tạp hơn do phải theo dõi và thông báo cáclần điều chỉnh lãi suất cho người mua cổ phiếu . 2.4.3 Trái phiếu có thể thu hồi Một số doanh nghiệp lựa chọn việc phát hành các trái phiếu có thể thu hồi , tức là doanh nghiệp có thể thu hồi vào một thời điểm nào đó . Trái phiếu như vậy phải được quy định ngay khi phát hành trái phiếu để người mua trái phiếu được biết. Doanh nghiệp phải quy định rõ thời hạn thu hồi và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái phiếu . Thông thường người ta quy định thời gian tối thiểu mà trái phiếu sẽ bị thu hồi , vd trong thời gian 36 tháng Loại trai phiếu này có những ưu điểm là : Thứ nhất : có thể sử dụng như một cách điều chỉnh vốn sử dụng . Khi không cần thiết , công ti có thể mua lại các trai phiếu , tức là giảm số vốn vay . Thứ hai : công ti có thể thay trái phiếu loại này bằng nguồng tài chính khác bằng cách mua lại các trái phiếu đó . Tuy nhiên nếu không có những hấp dẫn nào đó thì loại trái phiếu này sẽ không được ưu thích vì số vốn của họ sẽ bị biến động , họ sẽ phải chuyển hướng đầu tư khi mà bỗng nhiên doanh nghiệp mua lại trái phiếu 2.4.4 .Chứng khoán có thể chuyển đổi : Các doanh nghiệp đặc biệt là các công ti mỹ , thường phát hành những chứng khoán kèm theo những điều kiện có thể chuyển đổi được . Nói chung , sự chuyển đổi và lựa chọn cho phép các bên (doanh nghiệp , người đầu tư )có thể lựa chọn cách thức đầu tư có lợi và thích hợp . Có một số hình thức chuyển đổi , ở đây chỉ đề cập hai loại phổ biến : Giấy bảo đảm :người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ phiếu thường , được quy định với giá cả và thời gian xác định Trái phiếu chuyuển đổi : là loại trái phiếu cho phép sau một thời gian nhất định có thể chuyển đổi thành một số lượng nhất định cổ phiếu thường . Nếu thị giá cổ phiếu tăng lên thì người giữ trái phiếu có cơmay nhận được lợi nhuận cao do đó loại trái phiếu này có thể hấp dẫn 2.5 Vốn vay của nước ngoài hay hình thành liên doanh với nước ngoài Khhi một doanh nghiệp cần vốn thì một biện pháp có thể thực hiện là liên doanh với nước ngoài . Khi đó doanh nghiệp sẽ nhận được vốn và kĩ thuật từ phía nước ngoài . Bên chúng ta đa phần là góp quyền sử dụng đất , lựng vốn bỏ ra thường là ít . Hoặc là có thể vay của các tổ chức quốc tế , các nguồn như ODA, FDI…. II/ Ưu điểm và nhược điểm khi sử dụng các nguồn vồn nói trên Nguồn vốn chủ sở hữu Vốn tự có của doanh nghiệp Đối với doanh nghiệp nhà nước thì vốn góp ban đầu do nhà nước cấp từ ngân sách nhà nước , được cấp đất xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh . Tuy nhiên phải nhình nhận thực tế Việt Nam là ngân sách rất hạn chế . Thường xuyên bị thâm hụt ngan sách , do đó việc doanh nghiệp chờ được cấp vốn là rất khó khăn , số lượng hạn chế . HiỆN tại doanh nghiệp nhà nước đang dần được cổ phần hóa , số lượng doanh nghiệp nhà nước còn lại không nhiều và thực tế việc sử dụng vốn của nhà nước của các doanh nghiệp này là không hiệu quả . Lợi nhuận các doanh nghiệp này là không cao , thậm chí còn bị thua lỗ trong thời gian dài . Trong giai đoạn hiện nay thì nguồn tài trợ này là khkông hiệu quả, do đó đây không phải là nguồn tài trợ tối ưu , nguồn này chỉ có hiệu quả trong cơ chế bao cấp trước đây Với công ti tư nhân thì vốn góp ban đầu do chủ công ti bỏ ra . Do đó lượng vốn này thường không lớn lắm . Nguồn vốn bổ sung từ lợi nhuận không chia Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là con đường tốt nhất và khá hấp dẫn của doanh nghiệp . Vì doanh ngghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài . Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại , họ đặt ra phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng . Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận , đuợc phép đầu tư . Đối với doanh nghiệp nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng sinh lợi của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của nhà nước Tuy nhiên , đối với các công ti cổ phần thì việc để lại lợi nhuận còn liên quan đến một số yếy tố rất nhạy cảm . Khi công ty quyết định để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư , tức là không dùng đến số lợi nhuận đó , không dùng để chia lãi cổ phần (lợi tức) hoặc mức cổ tức bị giảm , như vậy ảnh hưởng đến quyền lợi hiện tại của cổ đông do đó cần phải giữ một tỉ lệ thích hợp . Nhưng bù lại họ lại có quyên sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ti mà họ không cần phải góp thêm Như vậy giá tự ghi dổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cung với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ . Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài , nhưng mặt khác dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời ki trước mắt (ngắn hạn)do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỉ lệ chi trả cổ tức thấp , hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị giảm sút Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư , chính sách phân phối của công ti cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố có liên quan như: tổng số lợi nhuận ròng trong kì mức chia lãi trên một cổ phiếu các năm trước sự xếp hạng của cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ti , tâm lí va đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó hiệu quả của việc tái đầu tư Tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới(cổ phần hóa) Để huy động vốn kinh doanh có thể bán số lượng cổ phiếu cho người mua (cổ đông)tùy theo số vốn cần có . Nếu chỉ bán cho vài người thi thủ tục đơn giản dễ dàng , không phải đăng kí cổ phiếú . Có hai loại cổ phiếu :cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu tiên Cổ phiếu thường: Là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nố có ưu thế trong việc phát hành ra công chúng .và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu thường là chứng khoán quan trọng nhất được lưu hành trên thị trường chứng khoán , điều đó cũng đủ minh chứng sự quan trong của nó so vói các công cụ tài chính khác . Việc chuyển nhượng cổ phiếu dễ dàng là một cách thu hút người mua , thu hút các nhà đầu tư trước các hình thức đầu tư rất khó chuyển nhượng vốn đầu tư Việc huy động vốn theo hình thức phát hành cổ phiếu đang được ưa chuộng nhất hiện nay , và đây cũng là phương thức huy động vốn tối ưu nhất . Chúng ta nên chọn nguồn này . Chúng ta thấy các luồng truyền thông đại chúng không ngừng ca ngợi tán dương tác dụng việc huy động vốn qua phát hành cổ phiếu trong việc khởi sự kinh doanh cũng như lúc cân tăng cường vốn để đẩy mạnh hoạt động nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Vậy tại sao nguồn vốn cổ phần lại có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư như vậy ? Lí do chính là nó khiến cho doanh nghiệp có cảm giác “thoải mái” được sử dụng một lượng vốn “miễn phí”. Bởi vì doanh nghiệp không có trách nhiệm phải hoàn lại tiền vốn gốc và khoản lãi suất cho người đầu tưmua cổ phiếu . Lợi tức cổ phiếu (cổ tức )chỉ phải chi trả khi công ti làm ăn có lãi . Ngược lại nếu công ti làm ăn thua lỗ hoặc chưa có lãi công ti không có trách nhiệm hoàn trả ( đương nhiên , việc làm ăn của doanh nghiệp phải minh bạch , công khai ) Việc thiết lập doanh nghiệp theo mô hình công ti cổ phần hoặc chuyỷen đổi hình thành doanh nghiệp sang loại hình công ti cổ phần là việc làm được nhà nước khuyến khích . Vì đây là một loại hình doanh nghiệp có tổ chhức quản trị hệ thống và hiệu quả và các nhà đầu tư kinh doanh trên thế giới rất ưa chuộng công ti cổ phần có điều kiện tham gia thị trường chứng khoán do đó góp phần phát triển thị trường vốn . Tuy nhiên vẫn có những doanh nghiệp chưa hoàn toàn thích thú với loại công ti cổ phần do việc huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu vẫn còn có những hạn chế và các dàng buộc cần được doanh nghiệp cân nhắc kĩ lưỡng . Giới hạn phát hành quy định dàng buộc có tính chất pháp lí . Lượng cổ phiếu tối đa mà công ti được quyền phát hành gọi là vốn cổ phiếu được cấp phép . Đây là một trong nhhững quy định của ủy ban chứng khoán nhà nước nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát và giao dịch chứng khoán . Tại nhiều nước , số cổ phiếu dược phép phát hành dược ghi trong điều lệ của công ti , tuy nhiên một số nước khác không quy định ghi số lượng đó trong điều lệ công ti . Muốn tăng vốn cổ phần thì trước hết phải được đại đa số cổ đông cho phép , sau đó phải hoàn tất những thủ tục quy định khác Hầu hết các nước đều sử dụng giới hạn phát hành như một công cụ quan trọng để kiểm soát và hạn chế các rủi do cho công chúng . Thông thường một công ti có thể phát hành một lần hay một số lần trong giới hạn số cổ phiếu đã được cấp phép phát hành . VD: công ti X được phép phát hành 100 triệu cổ phiếu giả sử năm nay đã phát hết 40 triệu cổ phiếu thì đương nhiên công ti còn được phép phát hành 60 triệu cổ phiếu Tuy nhiên , trên thực tế việc quản lý và kiểm soát quá trình phát hành chứng khoán tùy thuộc vào chính sách cụ thể của nhà nước . Ở Việt Nam hiện nay , hệ thống văn bản pháp quy về chứng khoán mới được xây dựng và đang trong quá trình hoàn thhiện đẻ tạo điều kiện tốt hơn cho việc hoạt động huy động vốn của doanh nghgiệp và lưu chuyển vốn trong nền kinh tế Sau khi phát hành phần lớn cổ phiếu nằm trong tay các nhà đầu tư –các cổ đông . Những cổ phiếu này được gọi là những cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường . Tuy nhiên , có thể chính công ti phát hành mua lại một số cổ phiếu của mình nhằm mục đích nào đó . Những cổ phiếu được công ti mua lại như vậy gọi là cổ phiếu quỹ . Những cổ phiếu này được tạm thời coi như không lưu hành . Việc mua lại hoặc bán ra các cổ phiếu này phụ thuộc một số yếu tố như: tình hình cân đối vốn và khả năng đầu tư tình hình biến động thị giá chứng khoán trên thị trường chính sách đối với việc sáp nhập hay thôn tính công ty tình hình trên thị trường chứng khoán và quy định của ủy ban chứng khoán nhà nuớc mệnh giá và thị giá Gía trị ghi trên mặt cổ phiếu gọi là mệnh giá , giá cả của cổ phiếu trên thị trường gọi là thị giá . Gía trị cổ phiếu được ghih trong sổ sách của công ty gọi là giá trị ghi sổ , đó cũng chính là mệnh giá của các cổ phiếu đã phát hành Mệnh giá không chỉ được ghi trên mặt cổ phiếu mà còn được ghi rõ trong giấy phép phát hành và trên sổ sách kế toán của công ty . Tuy nhiên , mệnh giá chỉ có ý ngghĩa khi phát hành cổ phiếu và sau thời gian ngắn sau khi cổ phiếu được phát hành . Thị giá phản ánh sự đánh giá của thị trường đối với cổ phiếu , phản ánh lòng tin của các nhà đầu tư đối với công ty Vậy cổ đông có quền hạn gì ?Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường chính là những người sở hữu công ty , do đó họ có quyền trước hết với tài sản và sự phân chia tài sản hay thu nhập của công ty . Cổ đông có quyền tham gia vào kiểm soát và điều khiển các công việc của công ty . Tuy nhiên thông thường có một lượng cổ đông của công ty, nên mỗi cổ đông chỉ có một quyền lực giới hạn nhất định trong việc bỏ phiếu hay chỉ định thành viên của ban giám đốc . Một số công nhân viên hay một số vấn đề đặc biệt cần có sự nhất chí của đa số cổ đông Tùy theo việc quy định trong điều lệ công ty có thể hình thành các phương thức bỏ phiếu khác nhau . Hai phương pháp được sử dụng rộng dãi nhất là bỏ phiếu theo đa số và bỏ phiếu gộp Bỏ phiếu theo đa số là việc cổ đông có thể dùng mỗi lá phiếu đẻ bầu một người quản lý , các chức danh sẽ được bầu riêng rẽ . Điều này rõ ràng có lợi cho những người đang nắm đa số cổ phiếu của công ty vì: họ có thể tạo áp lực mạnh hơn bằng đa số cổ phiếu nắm giữ Cơ chế bỏ phiếu gộp cho phép cùng bỏ phiếu cho một số ứng cử viên nào đó , tức là một cổ đông có thể dồn toàn bộ số phiếu có trong tay cho một ứng cử viên được ưa chuộng . Đây là lý do tại sao một số các cổ đông thiểu số ủng hộ cơ chế bỏ phiếu gộp Trong điều lệ công ty , có quy định rõ về phạm vi những sự vụ cần đa số (trên 50%trở lên ) cổ đông tán thành và những vấn đề cần được đa số (trên 75%) cổ đông tán thành Vấn đề chống thôn tính , bảo vệ công ty trước sự xâm thực bằng cổ phiếu của các công ty khác là một khía cạnh đặc biệt . Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu phải xét đến nguy cơ bị thôn tính . Do đó phải xét đến tỷ lệ cổ phần tối thiểu cần duy trì quyền kiểm soát của công ty Cổ phiếu ưu tiên Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành . Tuy nhiên , trong một số trường hợp , việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp . Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cố định . Người chủ cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường . Nếu số lãi chỉ đủ để trả cho số cổ tức cho các cổ đôngưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó . Việc giải quyết chính sách được ghi rõ trong điều lệ công ty. Phần lớn cá công ty cổ phần quy định rõ :công ty có nghĩa vụ trả hết số lợi tức chưa thanh toán của các kì trước cho cổ đông ưu tiên , sau đó mới thanh toán cho các cổ đông thường . Các cổ phiếu ưu đãi cố thể được chính công ty phát hành thu hồi lại (chuộc lại ) khi công ty cần thiết . Những trường hợp nhưvậy cần quy định rõ những điểm sau : trường hợp nào thì công ty có thể mua lại cổ phiếu giá cả khi công ty mua cổ phiêu thời hạn tối thiểu được phép mua lại cổ phiếu (VD5 năm ) Trong thực tế ở một số nước như Mỹ chẳng hạn , rất hiếm khi cổ đông ưu tiên có quyền bỏ phiếu một cách đầy đủ . Tuy nhiên nếu có ít nhất 2/3 cổ đông ưu tiên nhất trí về một vấn đề nào đó thì ban lãnh đạo công ty phải xem xét ý kiến của họ . Nếu cá cổ phiếu ưu tiên không được trả cổ tức thì các cổ đông của những cổ phiếu đó có thể được quyền bỏ phiếu Một vấn đề rấ quan trọng khi phát hành cổ phiêu ưu tiên đó là thuế . Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty , cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế . Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên . Mặc dù vậy như đã đề cập cổ phiếu ưu tiên vẫn cố những ưu điểm với công ty phát hành và cả nhà đầu tư . Khi nào các hãng phát hành và thu hồi cổ phiếu ?Để trả lời câu hỏi này cần xem xét những khía cạnh sau: Các hãng thường cố cân bằng giữa nợ và vốn chủ sở hữu , để giữ vững khả năng thanh toán , củng cố uy tín tài chính . Khi tỉ lệ nợ ở mức thấp , nếu cần vốn thì các công ty thường chọn cách phát hành trái phiếu tức là tăng nợ (mà không tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu). Nếu tỉ lệ nợ ở mức cao công ty phải tránh tăng tỷ lệ nợ và chon cách phát hành cổ phiêu Tuy nhiên , thực tế các công ty không quan tâm nhiều đến giữ một mức cânn bằng chính xác . Việc điều chỉnh vốn chủ sở hữu và vốn nợ thường ngẫu hứng và theo kiểu linh hoạt” tùy cơ ứng biến” Sự phản ứng trước các biến động của thị trường chứng khoán là một yếu tố đáng chú ý . Một số nhà phân tích tài chính doanh nghiệp đả dưa ra một số nhận xét sau : Phần lớn các cổ phiếu được phát hành bổ xung sau khi thị giá của cổ phiếu của công ty đó tăng lên trên thị trường chứng khoán Giá cổ phiếu tăng lên là một cơ hội có nhiều cơ hội đầu tư mở rộng vào những dự án có triển vọng trong doanh nghiệp Tuy nhiên , người ta chưa lí giải được một cách tường tận vì sao trên thực tế các công ty thường chọn việc phát hành cổ phiếu sau khi giá cổ phiếu tăng . Một số nguyên nhân có thể là những yếu tố sau đây : do đòi hỏi cân bằng tỉ lệ nợ (như nói ở trên ) do tỷ lệ P/E ở mức cao , tức là thị giá cổ phiêu tăng mạnh hơn tốc độ tăng của tỉ suất lợi nhuận ròng do yếu tố tâm lý của công chúng và các nhà đầu tư trên thị trường Ngoài ra , vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể được bổ xung từ phần chênh lệch giá lại TSCĐ , chênh lệch tỉ giá 2 Vốn nợ 2.1 Nguuồn vốn tín dụng ngân hàng Nguồn vốn tín dụng ngân hàng luôn chiếm tỉ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp . Nó có rất nhiều ưu điểm . Khi có đủ điều kiện để vay thì doanh nghiệp sẽ được cấp ngay tín dụng đêt đáp ứng nhu cầu với nhiều hình thức như :cho vay ngắn hạn , dài hạn , trung hạn, với nhiều mức lãi suất và cách thức thanh toán khác nhau . Tuy nhiên , bản thân việc vay vốn không phải lúc nào cũng là thượng sách . Do khi vay ngân hàng doanh nghiệp phải chịu chi phí sử dụng vốn (lãi suất )và các hạn chế về điều kiện tín dụng , kiểm soát của ngân hàng Điều kiện tín dụng : Các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thương mại cần đảm bảo các yêu câu bảo đảm an toàn tín dụng của ngân hàng . Doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay vốn và các thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu . Trước tiên ngân hàng phải phân tích hồ sơ vay vốn , đánh giá các thông tin liên quan đén dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuât- kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn Điêu kiện bảo đảm tiền vay : Khi doanh nghgiệp vay vốn nói chung các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có các bảo đảm tiền vay, phổ biến nhất là tài sản thuế chấp . Việc yêu cầu người vay có tài sản thuế châp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện vay , kể cả những thủ tục pháp lí về giấy tờ …Đây là một dào cản vì rất nhiều trường hợp doanh nghiệp có dự án sản xuất- kinh doanh rất khả thi , khả năng thành công mang lại lợi nhuận là rất lớn nhưng hiện tai doanh nghiệp không đủ tài sản đẻ thuế chấp vay ngân hàng . Đây là vấn đề doanh nghiệp cần tính đến khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng Sự kiểm soát của ngân hàng : Một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay . Nói chung sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp , tuy nhiên trong một số trường hợp cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị “kiểm soát” Lãi suất vay vốn : Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn . Lãi suất vay vốn tùy thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kì . nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp sẽ phai chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp . Có thời kì lãi suất vay vốn ở nước ta khá cao và thiếu tính cạnh trannh do đó không tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0282.doc
Tài liệu liên quan