Nhân vật trung tâm từ tác phẩm văn học đến Tác phẩm điện ảnh

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM PHAN BÍCH THUỶ NHÂN VẬT TRUNG TÂM TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG TP. HỒ CHÍ MINH - 2005 DẪN LUẬN I/ Lí do chọn đề tài –mục đích nghiên cứu: Văn hĩa của một dân tộc bao giờ cũng là sự chắt lọc những gì tinh túy nhất, tế nhị nhất trong quan niệm sống, trong giao tiếp ứng xử của con người với thiên nhiên, với quá khứ, hiện tại và tương lai, cái

pdf110 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3462 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Nhân vật trung tâm từ tác phẩm văn học đến Tác phẩm điện ảnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hữu hình và cái vơ hình, giữa con người với nhau, và ngay con người với chính bản thân mình. Qua văn học nghệ thuật và đặc biệt qua điện ảnh, những nét đẹp truyền thống của dân tộc như tình tương thân tương ái, lịng yêu nước nồng nàn, những quan niệm nhân sinh: ở hiền gặp lành, gieo giĩ gặp bão… sẽ được thể hiện một cách sống động qua những hình ảnh cụ thể. Khi đĩ, ý nghĩa giáo dục của chúng càng trở nên sâu sắc và đại chúng hơn gấp nhiều lần. Điện ảnh là nghệ thuật tổng hợp, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các ngành nghệ thuật : Văn học, điêu khắc, tạo hình, sân khấu, âm nhạc, khiêu vũ, nên thành cơng của một tác phẩm điện ảnh là thành cơng của sự giao thoa hịan chỉnh và tuyệt vời giữa các ngành nghệ thuật. Giải thưởng của một tác phẩm điện ảnh cĩ thể ở kịch bản văn học, đạo diễn, quay phim, diễn viên, âm nhạc, thiết kế mỹ thuật …Tất cả các nghệ thuật đã hợp sức để làm nên vẻ đẹp lộng lẫy cho nghệ thuật thứ bảy. Kịch bản là biểu hiện cụ thể của tính văn học trong điện ảnh, đĩ là khâu đầu tiên trong thành phần sáng tạo của một bộ phim, trên generique phim bao giờ cũng là tên nhà biên kịch rồi mới đến đạo diễn. Yếu tố quan trọng nhất của kịch bản là xây dựng hình tượng nhân vật. Vì vậy, điều ấn tượng và quan trọng nhất mà tác phẩm văn học đem lại cho điện ảnh là những hình tượng nhân vật đã được định hình thành cơng từ văn học. Người đọc đã từng say mê những nhân vật trên trang sách bao nhiêu, thì họ lại càng mong mỏi được tiếp xúc trực diện với nhân vật bấy nhiêu qua màn ảnh. Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh đã trở thành quan hệ cộng sinh, khi mà thơng qua nĩ, giá trị của các tác phẩm văn học và điện ảnh càng được nhân lên, khẳng định, và phát huy thế mạnh độc lập của riêng mình. Gần đây, trên màn ảnh thành phố trình chiếu ba bộ phim nhựa được chuyển thể từ ba tác phẩm văn học nổi tiếng, đã đem lại niềm phấn chấn cho những người làm cơng tác văn học nghệ thuật trong cả nước và đặc biệt cơng chúng - những người đã từng yêu mến các nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn Minh Châu và Lê Lựu. Đĩ là phim Mê Thảo –thời vang bĩng, phỏng theo tác phẩm Chùa Đàn của Nguyễn Tuân do Việt Linh đạo diễn; Thời xa vắng dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Lê Lựu do Hồ Quang Minh đạo diễn; bộ phim Người đàn bà mộng du của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân, được chuyển thể từ truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu. Chọn ba tác phẩm văn học nổi tiếng được chuyển thể thành ba bộ phim thành cơng, làm đề tài nghiên cứu của luận văn là cách thể hiện thiết thực những tình cảm, sự trân trọng đối với vốn văn hĩa nghệ thuật của dân tộc, đồng thời đĩ cũng là một sự trao đổi, nhắn gửi những suy nghĩ trăn trở về những vấn đề đang đặt ra cho văn học nghệ thuật nước nhà nĩi chung và điện ảnh nĩi riêng. Đây là những tác phẩm thành cơng cả trong văn học và điện ảnh, tạo được tiếng vang trong giới chuyên mơn và được đơng đảo người yêu nghệ thuật chào đĩn nồng nhiệt. Qua ba tác phẩm văn học và ba bộ phim, chúng tơi muốn tìm hiểu một cách hệ thống về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh, trong quá trình xây dựng sáng tạo nhân vật trung tâm ở cả hai lọai hình nghệ thuật này. Bởi nhân vật là “hồn cốt” của cả tác phẩm văn học và điện ảnh, tìm hiểu nhân vật trung tâm là tìm ra những vấn đề mấu chốt tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Từ việc nghiên cứu những đặc trưng riêng biệt của văn học và điện ảnh, chúng tơi muốn tìm hiểu một cách hệ thống và sâu sắc hơn mối quan hệ qua lại của văn học và điện ảnh, gĩp phần tìm ra tiếng nĩi chung giữa nhà văn và các tác giả điện ảnh trong việc bổ sung, hỗ trợ nhau trong quá trình sáng tác. 2/ Lịch sử vấn đề: Xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm trong tác phẩm văn học và điện ảnh là một vấn đề luơn được đề cập rất nhiều trong nghiên cứu văn học và điện ảnh và đã cĩ rất nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết đi sâu vào tìm hiểu nhân vật trung tâm trong văn học và điện ảnh ở nhiều phương diện. Theo GS. Hồng Ngọc Hiến :”…Nhân vật là yếu tố quan trọng nhất của tác phẩm phim truyện (cũng như của các tác phẩm truyện). Chủ đề tư tưởng của các tác phẩm phim truyện được bộc lộ tập trung ở số phận, tính cách của nhân vật. Nhân vật mờ nhạt thì truyện cĩ li kỳ, hấp dẫn đến mấy cũng khơng bù lại được” (113- 67). Từ nhiều gĩc độ khác nhau, nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung làm nổi bật những nét đặc trưng của hình tượng nhân vật và hiệu quả của hình tượng nhân vật trong văn xuơi nĩi chung và trong truyện ngắn, tiểu thuyết nĩi riêng. Nhà văn Nga M.Gorki cho rằng: ”…Bằng ngơn ngữ tiểu thuyết nhà văn cĩ thể tác động trực tiếp đến tri giác, thính giác, xúc giác của người đọc, làm cho họ cảm giác được nhân vật một cách vật chất ”(21- 156). Các cơng trình nghiên cứu, các bài viết hoặc đi sâu tìm hiểu những vấn đề cơ sở lí luận chung về: nhân vật và tính cách, thi pháp nhân vật hoặc đánh giá tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học cụ thể, hay những vấn đề cĩ liên quan ít nhiều đến xây dựng tính cách nhân vật... Theo GS. Lê Đình Ky: “Tác phẩm văn học là chuyện cuộc đời, thuật lại cuộc đời phiêu lưu của những tâm hồn, phơi bày ra trước mọi người những bước thăng trầm của những hạng người khác nhau, giống như những kinh nghiệm sống cụ thể được tái hiện lại, gắn liền với những mẫu đời, mẫu người nhất định, họ khơng cịn là của riêng ai mà như là của chung, liên quan đến tất cả mọi người.”(36 – 26). Nhà nghiên cứu Lê Bá Hán cho rằng:”Nhắc đến tên một bộ tiểu thuyết, một truyện vừa, một truyện ngắn hoặc một kịch bản văn học quen biết, chúng ta liền nghĩ đến câu chuyện và những con người được thể hiện trong đĩ…Vì chỉ bằng con đường đĩ, chúng ta mới cĩ cơ sở thâm nhập nội dung cũng như hình thức của tác phẩm để đánh giá tác phẩm.” [17(I),74] Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử “Tìm hiểu nhân vật là tìm hiểu cách hiểu về cuộc đời và con người, là tìm hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả đối với con người” (82-26.) Nĩi về tính văn học trong điện ảnh, nhà văn Nguyễn Quang Thân viết:“Phía sau tất cả vẻ huy hịang trên màn bạc, người xem vẫn thấy rõ sức mạnh ngơn từ của kịch bản văn học tức là sự sáng tạo của nhà văn. Đĩ là sức mạnh lơi cuốn của tính cách nhân vật, vẻ hấp dẫn của chi tiết và tình huống, cũng như chất nha phiến của những lời đối thọai”(85) Trao đổi về sự cần thiết của hình tượng nhân vật trên màn ảnh, nhà văn Lê Ngọc Minh cĩ bài viết về : “Nhân vật và thể hiện nhân vật, nỗi hằng lo của phim truyện Việt Nam”(57); nhà văn Chu Lai với bài viết “Hình hài nhân vật với thời gian”(38), đạo diễn Huy Thành nĩi về phương pháp diễn xuất của diễn viên trong bài :”Để cĩ sức bền trong diễn xuất”(87)… Tất cả đều khẳng định việc xây dựng hình tượng và tính cách nhân vật là yếu tố nghệ thuật hết sức quan trọng trong văn học cũng như trong điện ảnh. Điện ảnh là nghệ thuật tổng hợp, ra đời và phát triển trên cơ sở của khoa học kỹ thuật tiên tiến, nĩ kế thừa tinh hoa của các nghệ thuật khác và đặc biệt là văn học, cĩ ảnh hưởng rất đậm đặc đối với điện ảnh. Ngay từ những ngày đầu phơi thai của điện ảnh, văn học đã cái nền để xây nên những kịch bản điện ảnh, từ cái nền ấy đã cĩ được những bộ phim làm nức lịng người xem. Hơn một thế kỷ qua, trên thế giới các tác phẩm văn học cổ điển nổi tiếng thường được các nhà điện ảnh chuyển thể thành những bộ phim nổi tiếng đến mức trở thành những tác phẩm điện ảnh kinh điển thế giới: Cuốn theo chiều giĩ, Ngày tận thế (Mỹ ), Bác sĩ Zhivago (Y), Chiến tranh và hịa bình, Sơng Đơng êm đềm, Khi đàn sếu bay qua, Người thứ 41 ( Nga), Hồng lâu Mộng, Cao lương đỏ (Trung Quốc)… Trong gần 50 năm của điện ảnh Việt Nam, lúc hồng kim cũng như lúc khủng khỏang hầu như năm nào cũng cĩ đến hơn nửa số phim truyện được thực hiện từ nguồn gốc văn học. Những kinh nghiệm của các thế hệ đạo diễn khi đưa các tác phẩm văn học lên màn ảnh là rất phong phú và cĩ giá trị thực tiễn cao, gĩp phần thúc đẩy sự phát triển của điện ảnh nước nhà. Cĩ thể kể tên một số tác phẩm tiêu biểu được chuyển thể xuất sắc: Chim vành khuyên, Chị Tư Hậu (kháng chiến chống Pháp), Cánh đồng hoang, Người về đồng cĩi, Xa và gần ( kháng chiến chống Mỹ ), Thương nhớ đồng quê, Đời cát ( thời kỳ 1986 - 2002)… Hầu hết những bộ phim này đều phản ánh sinh động lịch sử đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc. Cùng với văn học, điện ảnh đã gĩp phần xây dựng nên những mẫu nhân vật mang hơi thở của thời đại và để lại dấu ấn khĩ quên trong lịng những người yêu mến văn học và điện ảnh. Tiếp theo giai đọan đất nước thống nhất, một lọat phim cĩ kịch bản chuyển thể từ những tiểu thuyết, truyện ngắn đặc sắc đã đem tới một tầm cao mới cho phim truyện Việt Nam, đặc biệt dịng phim “hiện thực – luận đề” và phim tâm lí xã hội, cĩ thể kể tên các phim tương đối thành cơng : Ngọai ơ ( theo tiểu thuyết cùng tên của Tơ Nhuận Vũ). Cỏ lau ( theo các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu). Tướng về hưu, Thương Nhớ Đồng Quê, Những người thợ xẻ ( theo các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp). Giơng tố ( theo tiểu thuyết cùng tên của Vũ Trọng Phụng). Người đi tìm dĩ vãng ( theo tiểu thuyết của Chu Lai). Cây bạch đàn vơ danh ( theo truyện ngắn của Nguyễn Quang Thân)… Đặc biệt, bộ phim Đời cát ( theo truyện ngắn Ba người trên sân ga của Hữu Phương) đã rất thành cơng, sâu sắc đằm thắm hơn cả nguyên tác. Đây là bộ phim được coi là dẫn đầu trong giai đọan điện ảnh phim truyện Việt Nam thời kỳ đổi mới :1986 – 2002. Các nhà điện ảnh đã cĩ cố gắng làm sáng tỏ chủ đề câu chuyện, đặc biệt làm sáng tỏ phần sâu sắc của cốt truyện, đã cụ thể hĩa hình tượng nhân vật tạo cho nĩ cĩ sức sống thực thụ, họ đã thành cơng lần thứ hai khi đưa các nhân vật đến với cơng chúng. Nhưng bên cạnh những thành cơng đĩ, người xem khơng khỏi thất vọng nhận thấy: phim của ta cịn đầy khỏang trống. Những bộ phim hiện nay nhàn nhạt với những đề tài về tình yêu, những mất mát của chiến tranh … Những điều đĩ tuy cần nhưng chưa đủ để tạo nên tầm vĩc lớn. Trong khi đĩ những mặt tích cực của lịch sử, những sự kiện, những nhân cách lớn lao của lịch sử cịn để trống. Đặc biệt là cuộc sống kinh tế thị trường sơi động đang nảy sinh biết bao vấn đề cần hiểu biết, thâm nhập và thích ứng để tồn tại và phát triển. Trong số những bộ phim được chuyển thể, khơng phải bộ phim nào cũng thành cơng, những phim chuyển thể khơng đạt, cĩ thể kể Đất nước đứng lên (theo tiểu thuyết của Nguyên Ngọc). Ám ảnh ( theo tác phẩm của Nguyễn Minh Châu). Con gái Thủy thần ( theo truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp). Khơng cĩ đường chân trời ( theo truyện Trại bảy chú lùn của Bảo Ninh)…đều là những bộ phim khơng sâu sắc, thấm thía bằng tác phẩm văn học. Các nhà nghiên cứu đều khẳng định kịch bản là yếu tố đầu tiên của bộ phim và khơng cĩ kịch bản hay khơng cĩ phim hay, bởi kịch bản mang trong lịng nĩ tất cả những yếu tố tạo nên bộ phim trong tương lai. Mầm mống của mọi thất bại hay thành cơng đều cĩ trong kịch bản. Nhưng tại sao những bộ phim được chuyển thể trên nền của một tác phẩm văn học nổi tiếng cũng khơng đạt được hiệu quả ? Nhiều nhà văn, đạo diễn, giới chuyên mơn đã cĩ những bài viết về vấn đề này như : “Cải biên tác phẩm văn học sang kịch bản điện ảnh”của Lê Cẩm Lượng (48), “Tác phẩm chuyển thể: những mặt mạnh và yếu”của Huyền Thanh (86), “Cần tránh tùy tiện trong việc chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh”của Phạm Hồng Thinh(90),”Cần đánh giá đúng giá trị của kịch bản”của Ơn Quang Thiên(89) …Cơng bằng mà nĩi những bộ phim từ kịch bản chuyển thể thường kém hiệu quả hơn so với tác phẩm văn học. Vậy do đâu ? Do nhà biên kịch hay đạo diễn ? Hay lí do nào khác ..v.v ? Tại sao các tác giả điện ảnh khơng tận dụng được tối đa những tác phẩm văn học hay để cĩ kịch bản hay ? Đĩ là vấn đề rất nan giải đang đặt ra cho điện ảnh hiện nay. Nhà văn Chu Lai, người cĩ nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết đã được đưa lên màn ảnh: Nơi núi rừng yên ả, Người đi tìm dĩ vãng…Và tiểu thuyết Ba lần và một lần được làm phim truyền hình, đã khẳng định “ Văn học và điện ảnh - Cuộc nhân duyên này đã nằm ngay từ trong bản chất” và ơng nhận định:” Một tác phẩm điện ảnh hay bao giờ cũng cĩ một giá trị văn học…Văn học là cái nền, điện ảnh bay lên từ cái nền vững chắc đĩ. Hiện nay ta đang thiếu những nhà văn biết viết điện ảnh, nhưng ta lại thừa những nhà biên kịch khơng cĩ năng lực văn chương” (101), nhưng đáng tiếc là ”Văn học và điện ảnh mối nhân duyên chưa thành” (37), Quả đúng như vậy, ”Điện ảnh cần nâng cao tính chuyên nghiệp”(64). Vì thiếu một đội ngũ biên kịch chuyên nghiệp nên đã xảy ra những trường hợp: cĩ kịch bản được về đề tài nhưng người viết non tay, thiếu kinh nghiệm để xây dựng một kịch bản điện ảnh; Cĩ kịch bản được về ý tưởng nhưng thọai dở, nhân vật chưa sắc nét ; cĩ kịch bản cả thọai và nhân vật đều được nhưng thiếu tầm bao quát ; kịch bản được ý tưởng nhưng hỏng đường dây, cốt truyện, phương pháp dẫn dắt khơng hay…Nhiều vấn đề bức xúc của cuộc sống đặt ra mà điện ảnh chưa khai thác hoặc thể hiện chưa tới trong tác phẩm. Nhiều địi hỏi ngặt nghèo về giá trị nhận thức và định hướng thẩm mỹ mà điện ảnh ta chưa đạt đến. Nhiều kịch bản là sự chắp vá, copy ý tưởng người khác để xây dựng, xào xáo lại một cách vội vàng, thiếu sự tìm tịi, sáng tạo. Sự nghèo nàn, đơn điệu vây ráp lấy những nhà làm phim. Điện ảnh cần thiết biết bao một sự đột phá trong tư duy nghệ thuật, trong thi pháp, trong tư tưởng. Nhà nghiên cứu Trịnh Mai Diêm cho rằng sở dĩ các nhà sáng tác điện ảnh chưa thành cơng trong việc khắc họa hình tượng nhân vật là do tập trung thể hiện “hành động của nhân vật, ít chú ý đến động cơ tư tưởng và cái cách mà nhân vật ấy hành động” (113-92)hoặc “…cịn xơ cứng trong cách thể hiện hoặc minh họa cho những ý tưởng vốn dĩ đã nghèo nàn” theo ý kiến của nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát (59). Mặt khác, lời thọai trong kịch bản là ngơn ngữ thơng tin, thơng tấn chứ chưa phải là lời của nghệ thuật, nên khĩ hấp dẫn đối với người xem, nhà văn Võ Thị Hảo cho rằng:”Kịch bản phim Việt Nam cịn quá dễ dãi về lời thọai” (26) Trong một số phim, người xem thường gặp những nhân vật được mơ tả qua vài nét chấm phá trong bức tranh tịan cảnh chung của quần chúng nhân dân, mang nét đại chúng, mà thiếu hẳn những mảnh đời, số phận về cá nhân con người.”Tính cổ động khiến nhân vật hoặc khơ khan, cứng nhắc hoặc trở nên siêu phàm, ít nhiều giảm đi tính chân thực. Điều đĩ cũng nhận thấy trong cả những phim được xem là cĩ thành cơng về nghệ thuật, nhân vật nữ như chị Vân trong Nổi giĩ…, nhân vật nam như Kim Đồng, Nguyễn Văn Trỗi…”(113- 99). Nhiều bộ phim mới dừng lại ở việc dựa vào cốt chuyện mà khơng khai thác hết những vấn đề bằng suy nghĩ về con người, về xã hội ẩn đằng sau những hành động của nhân vật. Sự giải quyết mẫu thuẫn giữa cái thiện và cái ác thường dễ dãi, đơn giản. Trên thực tế, cái ác khơng bao giờ cĩ thể tiêu diệt được cái thiện, nhưng cái ác vẫn lẩn quất đâu đĩ trong cuộc sống con người, đe dọa sự tồn tại của cái thiện. Sự song song tồn tại này tạo nên những xung đột, những kịch tính mà nếu được khai thác một hợp lí sẽ cĩ sức hấp dẫn rất lớn.“Trong nghệ thuật những chuẩn mực Chân – Thiện – Mỹ đã và đang cịn lâu dài là định hướng và nội dung của sáng tạo nghệ thuật. Nghệ sĩ dù cĩ nĩi đến cái ác, cái thấp hèn cũng cốt để làm nổi ra cái Thiện, cái Đẹp; chúng chỉ là cái cớ, là phương tiện trong quá trình xây dựng nhân vật” (113-75). Rất tiếc là nhiều bộ phim đã khơng dẫn dắt vấn đề vượt lên trên tầm suy nghĩ của người xem, khơng tác động khơi gợi được những cảm xúc của con người. Như vậy, điện ảnh cần biết bao sự tham gia của các nhà văn trong việc viết kịch bản, theo nhà văn Nguyễn Khắc Phục : ”Nĩi đến kịch bản là dính đến văn xuơi. Nền điện ảnh khơng thể hùng mạnh được khi văn xuơi kém. Chính nền văn xuơi sẽ cung cấp cho điện ảnh từ hình ảnh, ngơn ngữ, tạo dựng tâm lí, tính cách nhân vật, thúc đẩy hành động, tình huống trong phim ảnh. Kịch bản hay thì phim làm sẽ hay, sẽ cĩ giá trị. (97). Điện ảnh là một ngành nghệ thuật tổng hợp nên muốn phát triển, bên cạnh kịch bản, điện ảnh cịn cĩ những vấn đề về kỹ thuật và kinh tế đang được những nhà nghiên cứu chuyên mơn trăn trở: “ Tính chuyên nghiệp của Điện ảnh hiện nay” của Trịnh Đình Khơi (33), ”Thử bàn về một số phong cách nghệ thuật trong điện ảnh Việt Nam” của đạo diễn Hải ninh (70). Thế nào là phim hay ? của Từ Khơi (34)”Nghệ thuật là sự sáng tạo của tâm hồn” của Phương Lan.(41)… Qua quá trình tham khảo các cơng trình nghiên cứu của các tác giả về đề tài xây dựng nhân vật trong văn học và điện ảnh, chúng tơi nhận thấy các bài viết chủ yếu đi vào tìm hiểu những vấn đề, khía cạnh cĩ tính chất lí luận chung liên quan đến việc xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học và điện ảnh, hoặc những nhân vật cụ thể của từng tác phẩm… Nhìn chung chưa cĩ một chuyên luận nghiên cứu một cách tịan diện và hệ thống về nhân vật từ văn học đến điện ảnh. Chính vì vậy, việc chọn ba tác phẩm văn học nổi tiếng: Chùa Đàn, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Thời xa vắng được chuyển thể thành cơng sang điện ảnh để làm đề tài luận văn là cần thiết. Đây là những tác phẩm được giới chuyên mơn đánh giá cao và đơng đảo người yêu nghệ thuật chào đĩn nồng nhiệt ở cả trong văn học và điện ảnh. Ba bộ phim chuyển thể từ văn học đã gây xơn xao dư luận khơng chỉ với những cảnh quay đẹp, được dàn dựng khá cơng phu, nghiêm túc, hấp dẫn ấn tượng, ngơn ngữ điện ảnh được xử lí nhuần nhuyễn, mà cịn ở tính thời sự của từng bộ phim. Mê thảo - thời vang bĩng, câu chuyện xảy ra ở ấp Mê Thảo, một vùng quê miền Bắc bình yên xa xơi huyền bí, giàu cảnh sắc lãng mạn, vào những năm đầu thế kỷ XX, Nguyễn – người chủ ấp vì mất vị hơn thê mà quên đi trách nhiệm của mình, dẫn đến sự tan rã của một xĩm ấp vốn thanh bình, hạnh phúc. Một câu chuyện về bi kịch của những cuộc tình được lồng trong khơng khí của một vùng quê cĩ cảnh sắc đầy âm hưởng của văn hĩa dân tộc một thời xa xưa, đã cĩ sức lơi cuốn người xem. Thơng qua thần thái của nhà văn Nguyễn Tuân trong văn học, tác giả điện ảnh đã phê phán, cảnh báo tác hại của tư tưởng duy ý chí, độc đĩan. Đặc biệt, nếu tư tưởng đĩ ở những người lãnh đạo cĩ trọng trách, thì tai họa là vơ phương cứu chữa, bởi nĩ khơng chỉ hủy họai bản thân họ mà cịn phương hại đến cả cộng đồng. Một ý nghĩa nhân sinh gần gũi hơn mà bộ phim muốn gửi đến người xem là con người sống phải cĩ trách nhiệm, đừng vì khơng thỏa mãn được tham vọng cá nhân mà làm tổn thương đến những người xung quanh, đến lợi ích chung của cả cộng đồng. Theo nhà văn Anh Đức: Nguyễn Tuân là nhà văn lớn mà“khi ta gọi là một bậc thầy của nghệ thuật ngơn từ ta khơng hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vơ song mà mỗi dịng mỗi chữ tuơn ra đầu ngọn bút đều như cĩ đĩng một dấu triện riêng” 1 Nhân vật Nguyễn trong Chùa Đàn của “Nguyễn Tuân đa dạng, phức điệu, biến hĩa và tiến triển nhưng bao giờ cũng nhất quán một cách sâu sắc: bao giờ ơng cũng thủy chung, thắm đỏ với sự nghiệp của nhân dân, đất nước mình cho dù đĩ khơng phải là một tình yêu đơn giản”( GS.TS Mai Quốc Liên)2 Đạo diễn Việt Linh đã thành cơng khi “xây dựng được một nhân vật ấn tượng. Cĩ thể nĩi, đã lâu lắm phim của chúng ta khơng cĩ nhân vật nào để lại ấn tượng rõ nét như thế…Cĩ thể coi Mê Thảo - thời vang bĩng như một tia chớp trong điện ảnh. Một sự lĩe sáng trong bầu trời đêm” (80). GS. TSKH Lê Ngọc Trà đánh giá :phim Mê Thảo - thời vang bĩng” Ít lời, hàm súc, nhiều khỏang trống cho người xem suy nghĩ. Phim dựng được khơng chỉ hình thức hay khơng khí xã hội đầu thế kỷ mà cả một khơng khí văn hĩa”3 Thơng qua cuộc đời của nhân vật Quỳ, bộ phim Người đàn bà mộng du miêu tả những kí ức đau thương của chiến tranh, những di chứng của chiến tranh cịn để lại khơng dễ gì xĩa nhịa được trong tâm trí của những người đã từng trực tiếp tham gia. Mặc dù vậy, con người vẫn mong muốn sống tốt và cố gắng sống tốt hơn, khơng chỉ cho bản thân, mà cho cả những người thân yêu, những người bạn “năm xưa”. Sự chiêm nghiệm về niềm vui, nỗi buồn, về những gì được mất trong quá khứ, tính chất phức tạp trong tinh thần hướng đến sự hịan thiện của nhân vật Quỳ ở văn học, đã được các tác giả điện ảnh chú ý khai thác. Bộ phim chứa đựng ý nghĩa nhân văn, nhân bản sâu sắc. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng:”Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành …xuất hiện như một hiện tượng văn học mới, một phong cách trần thuật mới”4. Cái ------------------------------------------ 1.Báo Văn nghệ số 33, ngày 15/8/1987 2.Phác họa về Nguyễn Tuân - Báo nhân dân, 1997 3.Báo Lao động tháng 7/2004 4.Báo Văn nghệ, số 8, ngày 21/2/ 1987 mới trong tính cách của nhân vật Quỳ, mà nhà nghiên cứu Hùynh Như Phương phân tích là “Niềm say mê đuổi bắt cái đẹp phi thường mang ít nhiều tính chất tiên nghiệm của Quỳ dần dần được thay thế bằng ý chí tạo dựng cái đẹp ngay trong chính cuộc đời bụi bặm này. Trần thế, với chị đã trở thành nơi quy tụ của những con người bình thường mà vạn năng, những con người cịn “đáng yêu” hơn cả thánh thần, nguyên do chỉ vì đĩ là người, và là con người được bú mớm từ bầu sữa trí tuệ và tình cảm của nhân dân”(75-96 ) Từ nhân vật Quỳ trong văn học, các tác giả điện ảnh đã xây dựng nên Người đàn bà mộng du một bộ phim độc đáo với một số phận lạ thường. Bằng cách“Khai thác một nhân vật cĩ tính cách “đặc biệt”được đặt trong bối cảnh trong và sau cuộc chiến, đạo diễn, đạo diễn Thanh Vân đã sáng tạo được một bộ phim hay khi kết hợp giữa cái chung- cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam đánh Mỹ - và cái riêng- gĩc nhìn chiến tranh qua cuộc đời của một người đàn bà mộng du”(63) + Thời xa vắng: miêu tả chân thực và thành cơng cuộc sống của những con người chỉ biết sống theo khuơn mẫu đã định sẵn, khơng dám sống đúng như mình mong muốn, nhưng ở hịan cảnh thời đĩ họ cũng khơng thể sống khác, bởi lối sống “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã trở thành nếp nghĩ và hành động của họ. Cách sống đĩ, đã biến con người trở thành “nạn nhân”ngay giữa những người thân yêu, ngoan ngõan nghe theo lời chỉ bảo, kể cả điều đĩ mang lại bất hạnh cho bản thân. Bộ phim tái hiện thành cơng những nét văn hĩa gắn liền với vùng đất và con người Bắc bộ trong một giai lịch sử đầy biến động của đất nước. Đặc biệt, hình tượng nhân vật Giang Minh Sài được xây dựng chân thực gần gũi với tâm hồn người Việt Nam thời bấy giờ, nên đã chinh phục được trái tim của đơng đảo khán giả. Nĩi về cuốn tiểu thuyết Thời xa vắng của mình, nhà văn Lê Lựu viết:” Cả một thời kỳ dài từ những năm đầu chiến tranh đến những năm đầu 80, người ta khơng nĩi đến cái bi kịch riêng. Tơi muốn viết về một cá nhân, một cuộc đời cụ thể với niềm hạnh phúc và nỗi khổ đau, cĩ cái được và cái mất.” (18- 451) Theo nhà nghiên cứu Phong Lê: “Con người ở Thời xa vắng là thế. Phải trải qua nĩ để từ giã nĩ…Giang Minh Sài thất bại. Nhưng cả xã hội thì thắng lợi. Cả xã hội đang vật vã trong những chuẩn bị cho cái “thời xa vắng” ấy qua đi. Cho khơng cịn những bi kịch kiểu Giang Minh Sài. Cho những Giang Minh Sài khác được sống là mình ngay từ đầu. Cuộc chiến hẳn cịn là vất vả, khơng dễ tính bằng năm, mà hàng chục năm, nhiều chục năm, cĩ lẽ!” (43- 415). Nhà phê bình Thiên Sơn viết:” Thời xa vắng làm sĩng dậy bức tranh quê hồn hậu với những con người bình dị đã sống cách chúng ta nửa thế kỷ, những phong tục, lối sống… Thời xa vắng trau chuốt từ trong từng cảnh quay với những khuơn hình đẹp. Thời xa vắng cũng làm người xem day dứt, se lịng trước những đau thương của nhân vật truyện.”(79) “Thơng qua tấn bi kịch của cuộc đời Sài từ khi mới lên 10 đến lúc về già là cả bức tranh xã hội hiện lên chân thật. Đây là chủ kiến của đạo diễn khi ơng nĩi rằng với bộ phim Thời xa vắng ơng coi trọng yếu tố chân rồi mới đến thiện và mỹ. Cái khơng khí thời đại ẩn vào trong từng nếp nghĩ, chi phối đến cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất.”(65) Qua những đặc trưng ngơn từ và hình ảnh, văn học và điện ảnh đã trở thành nơi nuơi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ của con người, nơi giữ gìn cho tâm hồn con người khơng bị chai sạn đi mà luơn luơn mới mẻ, nhạy cảm với vẻ đẹp của từng cánh hoa, chiếc lá, tia nắng… Và do đĩ mà cũng khơng bao giờ nguội lạnh, thờ ơ với số phận con người, luơn luơn căm phẫn, đau đớn xĩt xa vì cái xấu cái ác và thiết tha yêu thương, hướng về cái tốt, cái đẹp. Như vậy, việc xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm là một yếu tố khơng thể thiếu trong tác phẩm văn học và điện ảnh. Vì vậy, việc nghiên cứu hình tượng nhân vật từ trong văn học được chuyển thể sang điện ảnh một cách hệ thống, bài bản là điều thật sự cần thiết. 3/. Nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nhiên cứu: Luận văn chọn đối tượng chính để nghiên cứu là “ Nhân vật trung tâm từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh”để thấy được những đặc trưng nổi bật của hình tượng nhân vật trung tâm trong văn học và điện ảnh. Căn cứ vào tác phẩm văn học, điện ảnh cụ thể và những cơng trình nghiên cứu hình tượng nhân vật đã cĩ trong văn học và điện ảnh, bước đầu hệ thống những đặc trưng giống và khác nhau trong việc xây dựng hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học và điện ảnh. Phạm vi tư liệu chúng tơi dùng để khảo sát trong luận văn này là những tác phẩm văn học và điện ảnh. Cụ thể là: 1/ Truyện vừa Chùa Đàn của Nguyễn Tuân, nhà xuất bản Văn học, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh, 1989. 2/ Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu - Nhà xuất bản Hội nhà văn – 1998. 3/ Truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu trong Nguyễn Minh Châu tịan tập (tập 3), nhà xuất bản Văn học, 2001. 4/ Phim và kịch bản điện ảnh :Mê Thảo –thời vang bĩng Biên kịch : Phạm Thùy Nhân, Việt Linh, Đạo diễn : Việt Linh 5/ Phim và kịch bản điện ảnh : Thời xa vắng Biên kịch và đạo diễn : Hồ Quang Minh. 6/ Phim và kịch bản điện ảnh: Người đàn bà mộng du. Biên kịch: Nguyễn Quang Thiều. Biên tập : Nguyễn Quang Lập. Đạo diễn : Nguyễn Thanh Vân. Ngịai ra chúng tơi cịn tham khảo thêm một số tài liệu :bao gồm các báo, tạp chí chuyên ngành văn học và điện ảnh cĩ liên quan đến vấn đề xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm trong văn học và điện ảnh, để bổ sung kiến thức và cập nhật tư liệu phục vụ cho cơng việc nghiên cứu hình tượng nhân vật trong chuyên đề. 4/ Phương pháp nghiên cứu: Văn học và điện ảnh đều là những ngành nghệ thuật, nên việc nghiên cứu hình tượng nhân vật trung tâm trong văn học và điện ảnh để tìm ra vẻ đẹp đặc trưng của mỗi ngành nghệ thuật là điều vơ cùng cần thiết. Hơn nữa, hình tượng nhân vật là “linh hồn” của mỗi tác phẩm nghệ thuật, nên cĩ mối liên hệ với nhiều yếu tố về lịch sử, thời đại, văn hĩa xã hội, tâm lí…. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tơi sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành để tìm hiểu hình tượng nhân vật trung tâm một cách tịan diện sâu sắc. Phương pháp thống kê và so sánh rất cần thiết trong quá trình khảo sát các nhân vật trung tâm trong ba tác phẩm văn học : Lãnh Út trong Chùa Đàn, Giang Minh Sài trong Thời xa vắng và nữ y tá Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. Sau đĩ lại so sánh chúng với nhau để thấy vẻ đẹp riêng của từng nhân vật. Cũng tương tự chúng tơi lại so sánh ba nhân vật trung tâm của ba bộ phim : Nguyễn trong Mê Thảo –thời vang bĩng, Sài trong Thời xa vắng và Quỳ trong Người đàn bà mộng du. Cuối cùng là so sánh nhân vật Lãnh Út trong văn học và Nguyễn trong phim, Sài trong văn học và phim, Quỳ trong văn học và phim. Ở văn học nhà văn sử dụng chất liệu cơ bản là ngơn ngữ viết để miêu tả vẻ đẹp và chiều sâu thẳm của cuộc sống thơng qua hình tượng nhân vật. Cịn trong phim, vẻ đẹp được thể hiện bằng ngơn ngữ của âm thanh và hình ảnh. Chính vì vậy, nhân vật ở văn học và điện ảnh khơng thể cĩ sự trùng khớp vì đĩ là hai bình diện hịan tịan khác, trong điện ảnh ý đồ của tác giả ẩn sâu trong từng cơng cụ nghệ thuật riêng biệt. Từ chỗ hiểu rõ sự khác biệt giữa tác phẩm văn học và điện ảnh, sẽ tìm ra hướng kết hợp hiệu quả nhất giữa hai ngành nghệ thuật. Một khi sự kết hợp này thành cơng sẽ mang lại cho tác phẩm điện ảnh sự hịan mỹ, mà ở đĩ tính văn học sẽ là sự chắt lọc, mang đến cho điện ảnh sự tinh túy. Bên cạnh đĩ, để phục vụ cho việc khảo sát cụ thể, chính xác và tịan diện, chúng tơi cịn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: phân lọai, miêu tả, đối chiếu…giữa văn học và điện ảnh nĩi chung, giữa văn học với kịch bản văn học và giữa kịch bản văn học với bộ phim đã hịan thành. Từ đĩ sẽ tìm ra lời giải đáp chính xác cho những thắc mắc về thành cơng hay chưa thành cơng của những bộ phim được chuyển thể từ văn học. 5/ Đĩng gĩp mới của luận văn: Phần nghiên cứu về hình tượng nhân vật trong văn học và điện ảnh chủ yếu kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đây của các nhà nghiên cứu văn học và điện ảnh. Tuy nhiên, luận văn này cũng cố gắng tìm hiểu thêm một số vấn đề mới chưa được các nhà nghiên cứu đề cập hoặc nghiên cứu chưa sâu như: + Gĩp phần thấy rõ bản chất mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh. + Đặc trưng của hình tượng nhân vật trong văn học so với hình tượng nhân vật trong điện ảnh. + Bước đầu hệ thống những thuận lợi và khĩ khăn trong quá trình chuyển thể tác phẩm từ văn học sang điện ảnh. 6/ Kết cấu luận văn : Do những đặc điểm về đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu đã nêu trên, luận văn dày 140 trang. Dẫn luận :(12 trang ). Chương I : Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh.( 35 trang) Chương II: Nhân vật trung tâm trong tác phẩm văn học và điện ảnh (40 trang ) Chương III: Sáng tạo nhân vật trung tâm trong tác phẩm điện ảnh (40 trang ). Kết luận : (6 trang ) Ngịai ra, luận văn cịn cĩ phần danh mục tài liệu tham khảo gồm (7) trang. CHƯƠNG 1 : MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC VÀ ĐIỆN ẢNH ============ I/ NHỮNG ĐIỂM CHUNG CỦA VĂN HỌC VÀ ĐIỆN ẢNH. 1. Văn học và điện ảnh cùng là hình thái ý thức xã hội: Nghệ thuật nĩi chung, ngay từ thời kì sơ khai của nĩ đã tồn tại và phát triển trong sự gắn bĩ mật thiết với đời sống. Điều đĩ đã được minh chứng trong qu._.á trình vận động phát triển của lịch sử lịai người, nghệ thuật ngày càng thỏa mãn những yêu cầu đa dạng của đời sống tinh thần con người, và ngày càng khẳng định trước thực tiễn tính độc lập của nĩ. Qua mỗi thời đại, nghệ thuật đã để lại những thành tựu lớn lao và tồn tại như một bộ phận cấu thành của văn minh nhân lọai. Văn học nghệ thuật nĩi chung và văn học, điện ảnh nĩi riêng là một hình thái ý thức xã hội, là họat động tinh thần thực tiễn, thể hiện sâu sắc thái độ tư tưởng, tình cảm của con người đối với thế giới. Vì vậy, mỗi tác phẩm văn học hoặc điện ảnh khơng thể khơng mang một tư tưởng, một thái độ nhất định cho dù là tự giác hay khơng tự giác, trực tiếp hay gián tiếp. Mỗi thời đại lịch sử cĩ một nền văn học nghệ thuật tương ứng, “xã hội thế nào văn nghệ thế ấy”( Hồ Chủ Tịch ). Tư tưởng trong tác phẩm văn học và điện ảnh là tư tưởng nghệ thuật mang tầm khái quát được người nghệ sĩ thể hiện bằng những hình thức, phương thức nghệ thuật đầy sáng tạo mang dấu ấn của cá nhân và thời đại. Tư tưởng nghệ thuật đĩ được đem lại từ một cơ cấu nghệ thuật – thẩm mỹ độc đáo, đặc sắc, gĩp phần làm giàu thêm ĩc thẩm mỹ - nghệ thuật của con người. Giá trị của những tác phẩm văn học và điện ảnh bao giờ cũng thể hiện qua tư tưởng đúng, phù hợp với sự vận động, sự tiến bộ của xã hội của thời đại. Trong thế kỷ XX, khi khoa học và kỹ thuật phát triển, hàng lọat các tác phẩm văn học nổi tiếng từ cổ điển đến hiện đại đã được chuyển thể sang kịch bản điện ảnh.Điện ảnh là nghệ thuật thứ bảy “sinh sau đẻ muộn”, cĩ cùng chức năng phản ánh hiện thực như văn học, đã nhanh chĩng khai thác tiềm năng sẵn cĩ của văn học để làm phong phú thêm cho mình. Chỉ cĩ tư tưởng đúng, hình tượng sâu sắc chân thực thì phim mới cĩ nội dung phong phú và hấp dẫn. Bắt mạch được những điểm gần gũi của hai ngành nghệ thuật: văn học và điện ảnh, những người làm cơng tác điện ảnh đã cố gắng tìm cách chuyển thể những tác phẩm văn học sang điện ảnh. Họ tin tưởng và hiểu rằng: chính sự hấp dẫn từ các tác phẩm văn học gốc sẽ làm cho điện ảnh cĩ sự quyến rũ. Điều đĩ cũng đồng nghĩa với sự đảm bảo thành cơng cho tác phẩm điện ảnh, bởi điện ảnh là cơng nghệ kỹ thuật rất tốn kém. Nĩi về sự gần gũi giữa văn học và điện ảnh, nhà nghiên cứu điện ảnh Pháp Emmamuelle Toulet đã viết:“Điện ảnh cần sự tưởng tượng bởi vì trước khi trở thành sản phẩm của bộ ĩc và khoa học, điện ảnh là sản phẩm tưởng tượng của các nhà tiểu thuyết”.(121) Thật khĩ mà hình dung điện ảnh Trung Quốc sẽ ra sao nếu thiếu đi cả một kho tàng văn học phong phú ? Hàng trăm các bộ phim truyện đã được làm từ các tác phẩm văn học như: Hồng Lâu mộng, Thiên long bát bộ, Tam quốc diễn nghĩa, Tây du kí, Người tình của Tần Thủy Hịang, Tể tướng Lưu gù.... Đặc biệt gần đây cĩ bộ tiểu thuyết Cao lương đỏ của nhà văn Mạc Ngơn được đạo diễn Trương Nghệ Mưu chuyển thể thành cơng sang điện ảnh. Nhà văn Mạc Ngơn được coi là “Người khai phá thế kỷ” của văn đàn Trung Quốc, ơng nổi tiếng với bộ tiểu thuyết Cao lương đỏ gồm 5 tập. Câu chuyện trong Cao lương đỏ là bối cảnh xã hội ở nơng thơn Trung Quốc vào thập niên 80 với nhiều diễn biến phức tạp. Điều mà tác phẩm văn học gây ấn tượng nhất cho đạo diễn là ‘Những miêu tả của Mạc Ngơn về màu sắc, đĩ là lọai cảm giác tả ý sâu sắc.... Tơi thích sự hào sảng, khĩang đạt của câu chuyện. Hành động của các nhân vật đều rất mạnh mẽ, cốt chuyện cũng rất cĩ sức mạnh, chúng đặc biệt hấp dẫn tơi.” (112) Phim Cao lương đỏ, là bộ phim đầu tiên Trương Nghệ Mưu chuyển từ vai trị quay phim sang làm đạo diễn và với bộ phim này tên tuổi Trương Nghệ Mưu đã vượt ra khỏi biên giới Trung Quốc. Bộ phim này được giải Gấu vàng tại liên hoan phim quốc tế Berlin năm 1988, đây cũng là bộ phim đầu tiên nữ diễn viên Củng Lợi tham gia và được người xem ngưỡng mộ. Sau đĩ, đạo diễn Trương Nghệ Mưu và Củng Lợi lại tiếp tục thành cơng qua một số tác phẩm được chuyển thể từ văn học: Cúc đậu , Đèn lồng treo cao, Thu Cúc đi kiện ...Năm 1992, bộ phim Cúc đậu đạt giải Sư tử vàng tại liên hoan phim quốc tế Venise. Đạo diễn Trương Nghệ Mưu tâm sự:“... Đến nay nhiều người xem Trung Quốc vẫn cho rằng “Cao lương đỏ” là tác phẩm hay nhất của tơi, cơng này thuộc về giá trị của tiểu thuyết, mặc dù tơi cĩ thay đổi rất nhiều tình tiết, song thần vận trong phim và cảm giác về một sức sống mãnh liệt được thích phĩng, hịan tịan do tiểu thuyết cung cấp.” Qua lịch sử điện ảnh, chúng ta cĩ thể khẳng định rằng: văn học là nguồn cung cấp đề tài, tư tưởng vơ tận cho điện ảnh. Hầu hết các tác phẩm văn học hay và vĩ đại của Nga: Anna Karênina, Phục sinh, đặc biệt Chiến tranh và hịa bình của Lep.Tơnstơi; Tội ác và hình phạt, Anh em nhà Karamazốp của Dostơiepski; Con đường đau khổ của A.Tơnstơi; Sơng Đơng êm đềm của Sơlơkhốp đều được các nhà điện ảnh Nga và phương Tây chuyển thể sang những tác phẩm điện ảnh tầm cỡ, làm nức lịng khán giả thế giới. Đặc biệt Chiến tranh và hịa bình là bộ sử thi về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Nga đầu thế kỷ 19 với hơn 500 nhân vật, được chuyển thể sang điện ảnh đến ba lần ( Nga: hai lần, Mỹ: một lần). Bộ phim được đánh giá thành cơng nhất là của đạo diễn S.Bondartchúc, một trong những đạo diễn tài ba nhất của Liên xơ cũ. Đĩ là một bộ phim vơ cùng tráng lệ trong điện ảnh Liên Xơ và đoạt giải Oscar năm 1968. M.Gorki nhà văn vơ sản vĩ đại, người cĩ nhiều tác phẩm văn học được chuyển thể sang điện ảnh. Tác phẩm Người mẹ được chuyển thể đến ba lần, Vát-xa Giê-lê-dơ-nơ-va ; Ê-go Bu-lư-sốp và những người khác hai lần …Đặc biệt Người mẹ do Puđốpkin làm đạo diễn, Darơkhi chuyển thể kịch bản là mẫu mực về nghệ thuật cải biên tác phẩm văn học sang điện ảnh. Sau này, Liên Xơ đã chuyển thể gần 20 tác phẩm của M. Gorki lên màn ảnh bao gồm cả tiểu thuyết, truyện ngắn và kịch. Tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, của nhà văn – nhà thơ Nga vĩ đại Boris Pasternak, cuốn sách được nhà văn ấp ủ và viết trong 10 năm (1946- 1956), tác phẩm được trao giải Nobel văn học năm 1958. Tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago là câu chuyện tình yêu của một nhà thơ trải qua cơn bão táp của Cách mạng tháng Mười Nga. Tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago đã được nhà sản xuất người Ý, Carlo Ponti, đạo diễn người Anh David Lean - người đã hai lần đọat giải Oscar ( phim “Cầu sơng Kwai” 1957 và “Lawrence of Arabia”1962) chuyển sang điện ảnh. Nhà biên kịch tài ba người Anh Robert Bolt, chuyển từ một tiểu thuyết dài 700 trang thành một kịch bản vừa tầm 284 trang. Sau một năm chuẩn bị và một năm quay phim, bộ phim được hịan thành và 27/12/1965 được chính thức cơng chiếu. Tại giải Oscar năm 1966, bộ phim Bác sĩ Zhivago đã được đề cử 10 giải Oscar và đã đọat 5 giải (quay phim, kịch bản chuyển thể, âm nhạc, thiết kế trang phục, thiết kế mỹ thuật). Nĩi đến điện ảnh Pháp, sẽ thật thiếu sĩt nếu khơng nhắc đến Victo Hugơ, nhà văn kiệt xuất của văn học Pháp thế kỷ XIX. Ơng là nhà văn đã kết hợp được những tình cảm phổ biến nhất, những khát vọng bình dị và sâu xa nhất của con người trong một sự nghiệp đồ sộ gồm thơ và văn xuơi. Ơng được các nhà nghiên cứu đánh giá như “nhà tiên tri của hịa bình trên tịan thế giới”. Đến cuối thế kỷ XX, người ta vẫn cho rằng nếu trong lịch sử văn học Pháp thiếu Hugơ, sẽ mất đi chẳng những một đỉnh cao nhất mà cịn thiếu cả một giải Trường Sơn đồ sộ nhất. Trong lĩnh vực văn xuơi, Hugơ cĩ nhiều sáng tạo độc đáo, gần như tất cả các tác phẩm văn học nổi tiếng của ơng đều được dựng thành phim, đặc biệt hai tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Pa ri, Những người khốn khổ. Tác phẩm Nhà thờ Đức bà Pa ri ra đời từ 1831, đã gặt hái được thành cơng ngay từ lần xuất bản đầu tiên và được cơng chúng đĩn nhận nồng nhiệt. Nhà văn đã miêu tả nền văn hĩa nước Pháp với đầy đủ những phong tục tập quán, sinh họat, tín ngưỡng, nghệ thuật thời ấy. Tác phẩm phản ánh tính nhân văn, triết học và lí tưởng thẩm mỹ của văn học châu Âu. Tác phẩm được chuyển thể sang điện ảnh đến 6 lần trong khỏang thời gian từ 1911 -1996, trong đĩ phiên bản đen trắng do Mỹ sản xuất năm 1939 của đạo diễn William Dieterle và bản màu năm 1958 do Pháp sản xuất, của đạo diễn Jean Delannoy là được yêu thích nhất. Như vậy, cùng là hình thái ý thức xã hội, cĩ chức năng và mục đích là phản ánh cuộc sống hiện thực, văn học và điện ảnh đã tìm thấy tiếng nĩi chung trong phản ánh hiện thực. Văn học đã cung cấp cho điện ảnh những nguyên liệu cĩ sẵn để từ đĩ các nhà điện ảnh cĩ cơ sở để tái sáng tạo lại. Tục ngữ cĩ câu: “Cĩ bột mới gột nên hồ ”, từ những tư tưởng, đề tài, tình huống...đặc biệt là hình tượng nhân vật trong văn học các nhà biên kịch, đạo diễn điện ảnh xây dựng thành kịch bản phim. Họ khơng phải mất cơng đi tìm kiếm đề tài, tư tưởng, xây dựng cốt truyện, tính cách nhân vật mà trên cơ sở cĩ sẵn, chọn lọc và tìm ra con đường phù hợp nhất để chuyển lên màn ảnh những điều mà đạo diễn điện ảnh tâm đắc cho tác phẩm của mình. Cũng như các nền văn học khác trên thế giới, văn học Việt Nam là kết tinh của nền văn hĩa và tâm hồn người Việt Nam. Mỗi giai đọan, mỗi thời kỳ văn học đều cĩ những nét riêng biệt tiêu biểu, nhưng bao trùm nhất vẫn là truyền thống yêu nước, gắn bĩ với quê cha đất tổ và với những con người cần cù một nắng hai sương. Đặc biệt, sau hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, văn học đã ghi nhận và phản ánh một cách trung thực lịch sử cách mạng và truyền thống vẻ vang của dân tộc. Văn học nghệ thuật của Việt Nam ra đời và phát triển trong hịan cảnh đất nước cĩ chiến tranh, vì vậy hiện thực đĩ tất yếu phải cĩ mặt trong nghệ thuật và được phản ánh khá thành cơng so với các mảng đề tài khác. Hầu hết các tác phẩm văn học hay, phản ánh chân thực cuộc kháng chiến của dân tộc đã được chuyển thể sang điện ảnh. Tiếng vang của điện ảnh cũng bắt đầu từ những phim đã được chuyển thể thành cơng. Nhà văn đầu tiên cĩ duyên với điện ảnh là Tơ Hịai, hai tác phẩm văn học: Vợ chồng A Phủ và Kim Đồng của ơng được chuyển thể sang điện ảnh đều là những phim hay, và do chính nhà văn tự chuyển thể. Cả hai phim cùng đạt giải bơng sen bạc tại liên hoan phim Việt Nam lần thứ II năm 1973. Vợ chồng A Phủ là tác phẩm trong tập Truyện Tây Bắc, được giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng hội Văn nghệ Việt Nam 1954 -1955. Phim Vợ chồng A Phủ (sản xuất năm 1961), do đạo diễn Mai Lộc, Hịang Thái dàn dựng. A Phủ và cơ Mỵ là đơi nam nữ thanh niên dân tộc Mèo bị tên thống lí gian ác cấu kết với Pháp áp bức bĩc lột cùng cực. Từ người dân nơ lệ, được giác ngộ cách mạng, họ đã cùng bà con dân bản đứng lên đấu tranh giải phĩng quê hương và xây dựng cuộc sống mới. Phim Kim Đồng (sản xuất năm1964) do Nơng Ích Đạt đạo diễn. Bộ phim là chân dung của người thiếu niên anh hùng dân tộc Nùng đã trở thành huyền thọai trong kháng chiến chống Pháp tại khu căn cứ Việt Bắc năm 1943. Phim Chị Tư Hậu (sản xuất năm 1963), dựa trên truyện dài của tác giả Bùi Đức Ái Một chuyện chép ở bệnh viện, do nhà văn tự chuyển thể. Từ một tác phẩm văn học dài gần 200 trang được rút ngắn lại thành kịch bản 80 trang. Phim được huy chương bạc tại liên hoan phim quốc tế Mátxcơva năm 1963 và giải bơng sen vàng tại liên hoan phim Việt Nam lần thứ II năm 1973. Phim Chị Tư Hậu đã khẳng định chân lí ngàn đời: “Ở đâu cĩ áp bức, ở đĩ cĩ đấu tranh”, cuộc sống áp bức khổ nhục đã buộc mỗi người dân bình dị hiền hịa sẵn sàng sống mái với kẻ thù và trở thành người chiến sĩ cách mạng ngoan cường. Chị Tư Hậu là điển hình tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ trong những năm kháng chiến. Phim Chim vành khuyên dựa trên truyện ngắn Câu chuyện về một bài ca của Nguyễn Văn Thơng, phim cũng do tác giả cùng với Trần Vũ chuyển thể và đạo diễn. Bộ phim được giải bơng sen vàng liên hoan phim Việt Nam lần thứ II năm 1973, giải đặc biệt dành cho phim ngắn tại Tiệp Khắc năm 1962. Chuyện phim kể về cha con bé Nga - một cơ sở Cách mạng. Trong một lần bị lộ, bé Nga đã anh dũng hy sinh để bảo vệ cán bộ. Bộ phim là một bài ca tuyệt đẹp về tính nhân văn cao cả và tính trữ tình sâu sắc, đến nay nĩ vẫn là bộ phim hay hiếm cĩ trong lịch sử điện ảnh Việt Nam. Phim Nguyễn Văn Trỗi, dựa theo tác phẩm Sống như Anh của nhà văn Trần Đình Vân, sản xuất 1966, phim được bơng sen vàng tại liên hoan phim Việt Nam lần thứ I năm 1970. Bộ phim do Bùi Đình Hạc đạo diễn. Phim đã khắc họa thành cơng sự hy sinh anh dũng của người thợ điện Nguyễn Văn Trỗi, ngay trên thành phố Sài gịn, giữa hang ổ của Mỹ ngụy, trong những năm sơi động nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Bộ phim như bức tranh minh họa sống động những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: Cĩ những phút làm nên lịch sử Cĩ cái chết hĩa thành bất tử Cĩ những lời hơn mọi bài ca Cĩ những con người như chân lí sinh ra. (Tố Hữu – Hãy nhớ lấy lời tơi) Phim Ngày lễ thánh dựa trên tác phẩm Bão biển của nhà văn Chu Văn, đạt giải bơng sen bạc tại liên hoan phim Việt Nam lần thứ IV năm 1977. Nữ diễn viên Trà Giang được giải diễn viên khá nhất. Phim do đạo diễn Bạch Diệp chuyển thể kịch bản từ văn học. Tâm đắc với tác phẩm văn học và đạo diễn kể lại: “Tơi mê đến mức làm ngày, làm đêm, phát ốm. Sau khi ốm nhìn lại những trang bản thảo run run chữ, hĩa ra mình ốm lâu rồi mà khơng biết”. Bộ phim liên quan đến nhiều vấn đề lớn: tơn giáo, chính trị , thời đại... Nĩ vừa gai gĩc lại vừa tinh tế. Bộ phim đi sâu khai thác nhiều vấn đề của số phận con người, nhất là cuộc đời người phụ nữ cơng giáo. Tất cả tỏa sáng và nĩng bỏng những mong ước, khao khát những niềm tin trong sáng thánh thiện bị phủ lấp bởi những giáo đìều, định kiến. Rồi khơng khí của cuộc sống mới đã thúc đẩy họ tự làm chủ, tự đĩn nhận sự phán xét của lương tâm, sự quyết định của chính mình. Phim Cánh đồng hoang, do nhà văn Nguyễn Quang Sáng chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của ơng do Hồng Sến đạo diễn. Bộ phim được giải bơng sen vàng tại liên hoan phim Việt Nam lần thứ V năm 1980 và bốn giải xuất sắc nhất cho biên kịch Nguyễn Quang Sáng, đạo diễn Hồng Sến, quay phim Đường Tuấn Ba, diễn viên Lâm Tới .Năm 1981, phim lại đạt giải vàng tại liên hoan phim quốc tế Mátxcơva. Qua bộ phim này, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc đã được khái quát một cách sinh động. Cánh đồng hoang đã đặt cả gia đình người chiến sĩ giao liên vào một hịan cảnh đầy khĩ khăn khốc liệt. Họ vừa phải chinh phục thiên nhiên, tăng gia sản xuất để bảo tồn cuộc sống, vừa phải chiến đấu chống ngọai xâm để bảo vệ tự do độc lập. Phim khơng chỉ lên án chiến tranh phi nghĩa, ca ngợi người lính chiến đấu hy sinh cho nền tự do độc lập của Tổ quốc mà cịn thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của người chiến thắng. Trong luận văn này, chúng tơi khảo sát ba tác phẩm văn học :Chùa Đàn của Nguyễn Tuân, Thời xa vắng của Lê Lựu và Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu. Cả ba tác phẩm văn học đều là những tác phẩm đã khẳng định vị trí trên văn đàn và được cơng chúng yêu mến vì những giá trị tư tưởng nhân văn và giáo dục. 2. Văn học và điện ảnh cùng chung đối tượng mục đích và chức năng là phục vụ cuộc sống của con người. Phạm vi quan tâm của nghệ thuật rất rộng lớn nhưng nĩ được xác định bởi một tiêu chí: hiện thực trong mối quan hệ thẩm mỹ với con người. Điều đĩ nĩi lên rằng con người là trung tâm chú ý , là đối tượng chủ yếu, nổi bật của nghệ thuật. Lấy con người làm đối tựơng chủ yếu, nghệ thuật bao giờ cũng nhìn nhận hiện thực qua cái nhìn của con người. Qua cái nhìn đĩ, nghệ thuật phát hiện ra bản chất của hiện thực, và mặt khác trở lại nhận thức sâu sắc hơn về con người. Xã hội lịai người càng nảy sinh nhiều mối quan hệ thì đối tượng của nghệ thuật càng mở rộng. Các tác phẩm nghệ thuật đi sâu mổ xẻ các mâu thuẫn xã hội cũng nhằm để ngợi ca và tơn vinh con người, đúng như nhà triết học D.Diderot đã viết : “Con người là giá trị cao nhất, là kẻ sáng tạo duy nhất tất cả mọi thành tựu văn hĩa trên trái đất, là trung tâm, là điểm mà tất cả xuất phát từ đĩ và phải quay về đĩ”. Các nhà văn luơn luơn khao khát được tìm hiểu khám phá những điều mới mẻ ở con người, nhà văn vĩ đại Nga, Đơxtơiepxki từng nĩi : “Con người là một điều bí ẩn, cần phải khám phá con người. Tơi tìm hiểu điều bí ẩn ấy vì tơi muốn trở thành con người”. Nhưng con người khơng tồn tại đơn độc, nĩ tồn tại và phát triển trong quan hệ với thiên nhiên, xã hội. Mác đã đúc kết: “Trong tính hiện thực trực tiếp của nĩ, bản chất con người là tổng hịa các quan hệ xã hội”. Do vậy, khi sáng tạo ra các hình tượng nhân vật, nhà văn luơn đặt nhân vật vào hệ chuẩn giá trị về con người, bắt nhân vật phải bộc lộ hành vi trong các mối quan hệ xã hội, cụ thể hơn là trong mối quan hệ giữa người và người. Tác phẩm nghệ thuật là hình ảnh của hiện thực đời sống đồng thời là đứa con tinh thần của nghệ sĩ. Tính khách quan và dấu ấn chủ quan bao giờ cũng xuyên thấm trong hình tượng, đĩ chính là sự thống nhất biện chứng giữa tình cảm, tư tưởng – thẩm mỹ của nghệ sĩ và chất liệu đời sống. Hình tượng càng sâu sắc bao nhiêu, tác phẩm càng cĩ giá trị bấy nhiêu, càng chứng tỏ tài năng của nhà văn. Sự hấp dẫn của tác phẩm văn học và điện ảnh thường cuốn hút người xem ở hình tượng nhân vật. Hình tượng nghệ thuật là vũ khí của nghệ sĩ trong cuộc đấu tranh cho lí tưởng. Nghệ sĩ dùng hình tượng để bảo vệ cái đẹp, lên án cái xấu, tác động đến xúc cảm người đọc, giáo dục người đọc về mặt thẩm mỹ. Bằng những sáng tác của mình, người nghệ sĩ khẳng định những tư tưởng tiến bộ, ngợi ca điều thiện và chính nghĩa. Những giá trị nghệ thuật chân chính trong trong mỗi tác phẩm dù ở bất kỳ thể lọai nào, đề tài nào cũng đều cĩ khả năng cảm hĩa con người. Các nhà triết học Hilạp cổ đại đã khẳng định, văn học nghệ thuật nĩi chung giải phĩng con người thĩat khỏi những dục vọng tầm thường xấu xa, làm cho con người, tâm hồn con người trở nên thanh khiết. Nghệ thuật khơi dậy những nguồn cảm xúc đạo đức tích cực, làm phong phú hơn đời sống tình cảm của con người. Từ tiếng cười trong ca dao dân gian đến nỗi buồn trong những câu thơ cổ, từ lời hịch đánh giặc vang vọng hào khí Đơng A tới niềm vui xốn xang trong tình yêu Kim - Kiều, tất cả đều cĩ thể làm tâm hồn người ta trong sáng hơn, nhắc nhở người ta yêu thương sự sống, trân trọng cái đẹp. Văn học nghệ thuật khơng thuyết minh cho những nguyên tắc đạo đức, cũng khơng trực tiếp trưng bày những tấm gương đạo đức, nhưng gĩp phần cải tạo tâm hồn – cái nguồn mạch sâu xa và sinh động của đạo đức. Nghệ thuật bắt nguồn từ đời sống nhưng khơng sao chép đời sống. Từ những quan sát, thể nghiệm, khái quát từ cuộc sống, nghệ sĩ sáng tạo những hình tượng cụ thể sinh động phản ánh chân lí đời sống. Ở đây người nghệ sĩ cĩ thể dùng một hình thức khơng cĩ thực để phản ánh cái cĩ thực. Từ vơ số hiện tượng trong đời sống, từ hàng lọat các cuộc đời, số phận cá nhân riêng lẻ, từ muơn vàn những mối quan hệ, những sự kiện đan chéo nhau, chồng chất lên nhau trong đời sống xã hội, nhà văn phải tìm được cái cơ bản nhất, cĩ tính quy luật và thể hiện nĩ trong một hình thức cá biệt, sinh động. Đĩ là quá trình nhào nặn, tái tạo hiện thực rất cơng phu và giàu tính sáng tạo của nhà văn để xây dựng nên hình tượng nghệ thuật. Đĩ là “con người, nhiều người, nhân vật – nhiều nhân vật”, là “một người lạ quen biết”, nghĩa là “ mỗi nhân vật là biểu hiện của cả một thế giới riêng của nhiều nhân vật đồng thời lại chỉ là một nhân vật trọn vẹn” (Biêlinxki). Tư duy hình tượng là kiểu tư duy đặc thù của nghệ thuật. Mục đích của tư duy nghệ thuật là tìm đến bản chất của sự vật và hiện tượng để nắm bắt quy luật đời sống khách quan. Từ những phát hiện về “cái phổ biến” trong “cái đặc thù”, “cái cá thể”, tư duy hình tượng giữ lại cảm giác và biểu tượng để xây dựng hình tượng – một phương tiện phản ánh hiện thực giàu tính thẩm mỹ. Hình tượng nghệ thuật là phương tiện, là hình thức mang tính nội dung của văn học và điện ảnh. Chính nhờ đặc điểm gần gũi nhau ở tư tưởng và hình tượng nghệ thuật, nên tác phẩm văn học đã trở thành nền tảng cốt lõi cho tác phẩm điện ảnh. Điều đĩ thể hiện rất rõ qua sức sống bền bỉ của những nhân vật trong các tác phẩm văn học bất hủ của nhân lọai, khi được sống cuộc sống thứ hai trên màn ảnh. Đĩ là hình ảnh trong trắng, lãng mạn của đơi tình nhân trong tác phẩm Rơmêơ và Giuliét. Đĩ là lịng thù hận của nhân vật Hăm Lét với câu nĩi đầy ý nghĩa của Hămlét khi giải thích với mẹ việc làm của mình: “Vì nhân nghĩa con phải trở nên bạo tàn”. Đĩ là lịng ghen tuơng mù quáng đã dẫn đến kết cục bi thảm của tướng quân Ơtenlơ và nàng Đexđêmơna xinh đẹp... trong những tác phẩm của nhà văn vĩ đại người Anh Secxpia....Đĩ là một Mađơlen từ tâm thánh thiện, từ nghèo đĩi phải sống 19 năm trong bĩng tối nhà tù tư sản, đầy đau khổ vươn lên, muốn khẳng định quyền sống của con người bằng một lương tâm tốt đẹp; một cảnh sát trưởng Giave hiện thân cho pháp luật hung thần, thú dữ, hiện thân của luật pháp tư sản khắc nghiệt trong tác phẩm Những người khốn khổ của Victo Hugơ .Với cách miêu tả hình tượng sống động nhất quán và chân thực, những hình ảnh nhân vật trên phim đã tạo được ấn tượng khĩ quên trong lịng người xem. Bởi khán giả được cảm nhận trực diện với nhân vật bằng xương bằng thịt, nhìn nghe, thổn thức và trăn trở cùng nhân vật. Điều đĩ càng làm cho nhân vật văn học trường tồn mãi cùng thời gian. Sự gắn bĩ với hiện thực đời sống của đất nước, của con người, sự rung động thực sự với hiện thực đã gĩp phần “mách bảo” người nghệ sĩ tìm ra hình thức thể hiện nghệ thuật thích hợp, tìm ra con đường đến với tư tưởng, trái tim của số đơng quần chúng. Mỗi người Việt Nam mấy ai trong đời khơng từng rung động trước buồn vui gian khổ, hy sinh của dân tộc, qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, khơng từng cĩ trong mình hình ảnh anh bộ đội, cơ thanh niên xung phong, bà mẹ hậu phương... Hoặc hình ảnh làng quê tươi đẹp đã trải qua bao thăng trầm của chiến tranh đang cải tạo, xây dựng cuộc sống mới, với những con người giản dị, chất phác, quen thuộc và gần gũi. Cũng mấy ai khơng từng băn khoăn suy nghĩ hoặc khắc khỏai trước những vấn đề của xã hội hiện tại khi đất nước đang đổi mới, chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với biết bao biến động, xáo trộn, cĩ xây dựng và đổ vỡ, cĩ thành tựu và mất mát, cĩ tin tưởng phấn khởi nhưng khơng phải khơng cĩ lúc hịai nghi, bên cạnh những kỳ tích lớn lao cĩ khơng ít những bi, hài kịch. Tất cả những vấn đề đĩ đã được các nhà văn chuyển tải qua tác phẩm văn học và trở thành những nguyên liệu màu mỡ để khai thác, xây dựng nên những kịch bản hay, những bộ phim hay. Hình tượng người chiến sĩ giao liên Ba Đơ được diễn viên Lâm Tới thể hiện một cách sinh động và chân thực trong phim Cánh đồng hoang của đạo diễn Hồng Sến, dựa theo truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Tại liên hoan phim Việt Nam lần thứ V năm 1980, cố nghệ sĩ nhân dân Lâm Tới đã được trao giải nam diễn viên xuất sắc nhất. Nếu hình tượng Chim vành khuyên đậm đà chất thơ, chất trữ tình thì chị Tư Hậu nghiêng về khai thác nội tâm, một trong những phương pháp cĩ hiệu quả để xây dựng điển hình. Quá trình phát triển tính cách của chị Tư Hậu là quá trình vượt qua hàng lọat các thử thách: từ một người vợ, một người mẹ, tới một chiến sĩ. Từ khiếp sợ tới dũng cảm, từ non nớt đến giác ngộ, sự thể hiện chân thực, cĩ sức thuyết phục. Từ ngơn ngữ văn học của nhà văn Bùi Đức Ái, đạo diễn Phạm Kỳ Nam đã sáng tạo cho nghệ thuật một điển hình người phụ nữ kháng chiến cĩ tầm khái quá cao. Hình ảnh của Chị Tư Hậu – từ người phụ nữ hiền hịa lương thiện thành chiến sĩ họat động cách mạng ngoan cường trong lịng địch. Với diễn xuất chân thực của mình qua hình tượng Chị Tư Hậu, nghệ sĩ nhân dân Trà Giang đã nhận được giải đặc biệt tại liên hoan phim quốc tế Mátxcơva năm 1963. Trong Vợ chồng A phủ của Tơ Hịai, nhân vật Mỵ được đánh giá “là một nhân vật thành cơng bậc nhất trong văn xuơi cách mạng đương đại Việt Nam “ (Trần Đình Sử). Một trong những bí quyết thành cơng là nhà văn đã khắc họa quá trình tâm lí đầy biến hĩa, ngẫu nhiên, bất ngờ, mà vẫn nằm trong vịng tình lí của cuộc sống. Nhân vật trở nên đa diện, đầy mâu thuẫn nhưng lúc nào cũng là nhân vật chứ khơng phải ai khác. Mỵ là nhân vật trung tâm, linh hồn của truyện, hiện thân cho tuổi trẻ miền núi bị vùi dập và đã vùng lên giải thĩat cho mình. Ngịi bút của tác giả đã thâm nhập sâu sắc vào những biến hĩa, đổi thay tinh vi của tình cảm nhân vật :từ cách uống rượu, cơn say đưa nhân vật vào quá khứ...con người của hiện tại chợt tỉnh...con người của tâm trạng xĩt thương mình, ĩan hờn...Tấm lịng nhân đạo của tác giả sâu sắc khơng chỉ phơi bày thĩi tục phi nhân tính của giai cấp thống trị, mà cịn thể hiện ở chỗ nhìn ra con người bên trong của Mỵ và đặt trọn niềm thương yêu vào đĩ. Cố nghệ sĩ ưu tú Đức Hịan, diễn viên đĩng vai Mỵ nhận xét: “Nhân vật cĩ số phận thật sự, những kịch tính, nhất là kịch tính tâm lí được đẩy đến cao độ... tạo được đất diễn cho diễn viên. Bộ phim dài gần hai tiếng nhưng nhân vật Mỵ chỉ nĩi 17 câu.” Thành cơng của phim Vợ chồng A phủ là đã diễn giải về cuộc giải phĩng dân tộc mà khơng đao to búa lớn, chỉ bằng những hình tượng màn ảnh sống động. Các vai diễn tuy khơng phải là người Mèo (Hmơng) nhưng vào vai rất thật, rất “Hmơng”. Một đặc điểm tạo nên sức hấp dẫn của của hình tượng nghệ thuật là điển hình hĩa nghệ thuật. Đĩ là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa cái khái quát và cái cá biệt, là chất nhụy được kết tinh từ hiện thực. Xuất phát từ sự phong phú của bản thân hiện thực và từ tính đặc thù của sự phản ánh nghệ thuật, hình tượng văn học và điện ảnh thường là một hiện tượng thẩm mỹ đa nghĩa. Nhà văn Gorki khẳng định :văn học từ ngàn năm trước đã khơng đơn giản là thỏa mãn nhu cầu giải trí. Nhà văn muốn thơng qua những hình tượng nghệ thuật để khơi gợi những ước mơ, giúp con người được vui, buồn, yêu, ghét nhiều hơn, tạo ra những biến đổi trong tư tưởng tình cảm của con người, cổ vũ và tiếp sức cho con người trong cuộc sống. Như vậy, từ những tác phẩm nghệ thuật cụ thể, ý tưởng của các tác giả ẩn sâu trong từng cơng cụ kỹ thuật riêng biệt, chính sự chắt lọc từ văn học đã mang lại cho điện ảnh sự phong phú, tinh túy. Đạo diễn Trương Nghệ Mưu, một đạo diễn Trung Quốc, từng cĩ nhiều phim đọat giải quốc tế được chuyển thể từ văn học cho biết bí quyết thành cơng của ơng: “Các phim của tơi đều chuyển thể từ tiểu thuyết... tơi thường xem tiểu thuyết để tìm đề tài... Điều khĩ nhất đối với tơi là ngồi trước trang giấy trắng hoặc ngồi trước máy vi tính, bắt tơi làm việc từ con số khơng. Cho nên tơi rất khâm phục các nhà văn, sao họ cĩ thể viết ra được lắm câu chuyện đến thế ?”(112). 3. Văn học và điện ảnh cùng là anh em trong “gia đình nghệ thuật”. Theo các nhà nghiên cứu, trong thời kỳ đầu của lịch sử, lọai hình nghệ thuật vũ đạo chiếm ưu thế. Sang thời cổ đại, lọai hình điêu khắc chiếm vị trí tiên phong. Đến thời đại Phục hưng và chủ nghĩa cổ điển, thì vai trị đĩ chuyển sang hội họa. Và đến thế kỷ XIX, văn học đã vươn tới vị trí hàng đầu trong nghệ thuật. Mỗi lọai hình nghệ thuật phản ánh hiện thực thơng qua hình tượng nghệ thuật đặc thù của nĩ. Hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với chất liệu cụ thể. Mối quan hệ giữa hình tượng và chất liệu là mối quan hệ hữu cơ, xuyên thấm, thâm nhập vào nhau. Chất liệu sẽ mất tính thẩm mỹ nếu rời bỏ hình tượng và ngược lại hình tượng chỉ cĩ thể tồn tại qua chất liệu. Đặc tính và chất lượng của các hình tượng gắn liền với các đặc tính nguyên liệu làm cơ sở cho nĩ. Hình tượng hội họa được xây dựng bằng đường nét, màu sắc; hình tượng điêu khắc được xây dựng bằng đường nét, hình khối; hình tượng âm nhạc được xây dựng bằng nhịp điệu, giai điệu; hình tượng sân khấu tồn tại qua hành động, cử chỉ, ngơn ngữ của các diễn viên; hình tượng điện ảnh được xây dựng trên âm thanh và hình ảnh. Văn học xây dựng hình tượng bằng ngơn từ. Qua hình tượng nghệ thuật xây dựng từ chất liệu ngơn từ, văn học cĩ thể sử dụng đa dạng, linh họat hình ảnh, sắc màu, đường nét do từ ngữ chứa đựng. Nhà văn cĩ thể vẽ nên những bức tranh ngơn từ tuyệt đẹp về cảnh thiên nhiên, về con người và đời sống xã hội. Ai đã từng đọc truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, chắc chắn khơng thể quên được vẻ đẹp kiều diễm của hai chị em Thúy Kiều: “ Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”. Khơng những đẹp người, họ cịn là những cơ gái ‘Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. Nĩi đến nét đẹp của Thúy Vân, nhà thơ gợi cho người đọc vẻ đẹp của vầng trăng, đĩa hoa, áng mây, và màu tuyết. Một vẻ đẹp như tranh vẽ. Vân xem trang trọng khác vời, Khuơn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tĩc, tuyết nhường màu da. Đến Thúy Kiều, vẻ đẹp rực rỡ “sắc sảo, mặn mà ” của nàng đã làm cỏ hoa phải “hờn , ghen ” vì khơng thể sánh bằng. Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Một hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành địi một, tài đành họa hai. Nguyễn Du đã vận dụng tài tình tất cả nét đẹp của nghệ thuật vào thơ ca để tạc nên vẻ đẹp người thiếu nữ. Trong trường hợp này, nhận xét của nhà thơ Sĩng Hồng thật chính xác:”Thơ là thơ, đồng thời cũng là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng”. Mặt khác, từ ngữ cịn chuyển tải qua âm thanh lời nĩi, khi chúng được sắp xếp trong một trật tự nào đĩ chúng sẽ “vang lên những nhạc điệu khác thường”. Vì vậy thơ ca rất gần gũi với phần lời và phần nhạc trong các làn điệu dân ca gắn bĩ mật thiết trong quá trình biểu diễn. Khi được nghe tiếng đàn của Kiều theo cách Nguyễn Du miêu tả, người nghe như được sống trong khơng gian thiên nhiên đầy âm sắc, vừa gần gũi vừa đẹp như một giấc mơ: Trong như tiếng hạc bay qua Đục như nước suối mới sa nửa vời Tiếng khoan như giĩ thỏang ngịai Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa. Điều đĩ cĩ thể lí giải vì sao, đầu thế kỷ XX, nhiều nhà mĩ học trên thế giới đã ngợi ca và khẳng định vị trí tối cao của văn học. Bêlinxki, nhà mĩ học Nga nổi tiếng lúc bấy giờ đã viết : “Thơ văn ._.ên chiếm một vị trí quan trọng mà điện ảnh thiếu họ thì khơng thể thành nghệ thuật biểu diễn. Ngay từ buổi khởi đầu nghệ thuật, khán giả đã bị “hút hồn” bởi tài năng diễn xuất mang tính ngẫu hứng, nhờ vào cái duyên “trời cho” của người diễn viên mà ít thấy vai trị của biên kịch và đạo diễn. Ngày nay, các ngành nghệ thuật đã chính quy hĩa hiện đại, vai trị của kịch bản và đạo diễn đã được đề cao, thì vị trí của người diễn viên vẫn khơng đổi, họ vẫn được coi là một đơn vị sáng tạo trong nghệ thuật biểu diễn. Bằng những tư chất riêng biệt “trời cho”của mỗi người – ngọai hình, cử chỉ, khả năng phát âm, sự duyên dáng và đặc biệt là sự biểu cảm trên gương mặt thơng qua cảm xúc nội tâm, người diễn viên gĩp phần khắc họa các hình tượng nghệ thuật, làm giàu cho tính cách nhân vật bằng chính tâm hồn khát vọng và cả con người của họ. Đạo diễn là người chịu trách nhiệm chính của bộ phim, hiểu rất rõ vai trị của người diễn viên trong tác phẩm, nên thường rất cẩn trọng trong lựa chọn diễn viên cho tác phẩm của mình. Họ cho rằng ở một mức độ nhất định, sự thành cơng của bộ phim khởi đầu từ diễn viên, vì tất cả cuộc sống trong tác phẩm đều được phản ánh qua diễn viên - nhân vật. Như vậy, thành cơng của người diễn viên khơng thể tự nhiên cĩ được. Trước hết họ khơng thể tự tạo ra vai diễn, mà họ bị lệ thuộc vào kịch bản và sự chỉ đạo của đạo diễn. Trong quá trình quay, diễn xuất và sự sáng tạo của họ cũng phải tuân theo sự hướng dẫn của đạo diễn để nhằm tạo ra nhân vật đúng với ý tưởng yêu cầu của kịch bản. Phim Thời xa vắng, đạo diễn Hồ Quang Minh đã chọn tới 125 diễn viên chính và phụ khắp Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Dương ... Chủ yếu là diễn viên miền Bắc vì phần kinh tế sản xuất bị hạn chế, nên mời một diễn viên trong Nam ra Bắc sẽ gặp nhiều phức tạp. Lúc đầu đạo diễn tự nhủ, nếu khơng tìm ra diễn viên phù hợp cho các nhân vật thì khơng nên triển khai dự án làm bộ phim này, nhưng rất may mắn, cuối cùng sự lựa chọn cũng như mong muốn của ơng. Dàn diễn viên của Thời xa vắng chủ yếu là chuyên nghiệp như Phương Dung, Trần Hạnh, Ngọc Bích… chỉ cĩ hai diễn viên nghiệp dư cho hai vai quan trọng trong phim là Ngơ Thế Quân, họa sĩ đồ họa cho vai Giang Minh Sài và Nguyễn Thị Huyền, cơ nữ sinh vừa tốt nghiệp lớp 12 cho vai Hương. Các diễn viên đều phù hợp với vai diễn về hình thức và tính cách của nhân vật, nên đều diễn xuất tốt. Đạo diễn rất hài lịng với sự tuyển chọn của mình và khẳng định nếu mình mang được họ vào phim thì đã coi như thành cơng. Cĩ thể nĩi, Ngơ Thế Quân là một người may mắn, anh đến với vai Sài bằng ngọai hình “trời cho” chứ khơng phải bằng tài năng diễn xuất, thậm chí, anh rất ngạc nhiên và nghĩ đạo diễn “hơi liều”, nhưng anh tin vào con mắt nhà nghề của đạo diễn và đã cố gắng diễn hết khả năng của mình. Khi xem phim, người xem cĩ cảm giác Quân khơng phải diễn nhiều. Sài là một vai diễn khơng quá khĩ đối với anh, bởi anh cĩ nhiều nét rất “giống “Sài, đặc biệt ở ánh mắt và giọng nĩi. Ánh mắt đĩ đã gây được sự ám ảnh cho người xem, khơng biết ánh mắt đĩ là của Quân hay anh “diễn xuất” để thành ánh mắt Sài ? Một điểm nữa là giọng nĩi của Quân, người xem khĩ mà quên được, nĩ thật đặc biệt và khơng thể trộn lẫn. Tất cả thế mạnh ”trời cho”về ngọai hình của Quân đã chuyển tải một cách đầy đủ, trọn vẹn những tính cách tiêu biểu của nhân vật Giang Minh Sài trên phim. Tuy nhiên, trong quá trình làm phim, đạo diễn đã khá vất vả để chỉ đạo Quân diễn xuất và phàn nàn quay anh chàng này, khơng khác gì “đốt phim”. Cịn nhà văn Lê Lựu đánh giá Quân cịn ”quê” và “khù khờ” hơn nhân vật Giang Minh Sài của ơng. Ngược lại, em bé đĩng Sài lúc nhỏ lại rất thơng minh, cĩ nét tội tội vì em cũng cĩ hịan cảnh khĩ khăn, hiện đang sống trong làng SOS. Trong Thời xa vắng, hai người đàn bà cĩ ảnh hưởng trực tiếp nhân vật Sài là Hương và Tuyết. Hương trên phim, do nội dung của kịch bản mà cĩ phần mờ nhạt hơn so với tiểu thuyết. Nguyễn thị Huyền dù khơng phải là diễn viên chuyên nghiệp nhưng đã thể hiện nhân vật Hương: một cơ gái thơn quê xinh đẹp, hồn hậu, nền nã với mối tình đầu trong sáng. Từ lời nĩi đến hành động cử chỉ của Hương do Huyền đĩng đều vừa độ, hợp lý. Đặc biệt, sau khi phim hịan thành, Nguyễn thị Huyền đã đậu đại học và trở thành hoa hậu Việt Nam. Đây là yếu tố thu hút sự chú ý của cơng chúng đối với phim Thời xa vắng, một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà khơng phải phim nào cũng cĩ được. Tuyết, người vợ khốn khổ của Sài trên phim là một nhân vật mà tác giả Hồ Quang Minh gửi gắm nhiều ý tưởng. Theo đạo diễn : “ Đây là vai nữ chính quan trọng nhất của phim với những diễn biến tâm lí phức tạp nên nếu khơng đúng vai thì bộ phim cầm chắc thất bại. Vai diễn này tơi cũng phải đặt 100% lịng tin cậy”. Vì thế, sau khi khơng tìm ra diễn viên ưng ý cho vai này, đạo diễn đã chọn Phương Dung, cơ là giải pháp cuối cùng mang lại cho đạo diễn sự an tâm, bởi Phương Dung vừa là vợ, vừa là một trợ lí rất đắc lực của Hồ Quang Minh trong các phim trước đây. Nhân vật Tuyết của Thời xa vắng được Phương Dung ấp ủ nhiều năm. Trước khi đĩng phim, cơ đã về quê và sống cạnh vợ của nhà văn Lê Lựu trong thời gian khá dài. Là một phụ nữ đã xa Hà Nội từ khi cịn rất trẻ, chưa bao giờ biết đến đời sống nơng thơn, đã diễn đạt đến mức mà cha đẻ của nhân vật, nhà văn Lê Lựu cảm thấy quá hài lịng. Ngạc nhiên hơn khi biết chính Dung tự hĩa trang cho mình thành người phụ nữ nơng thơn già ở những cảnh cuối phim, nhiều người vẫn tưởng phải cĩ bàn tay của nghệ sĩ hĩa trang. Hai trường đoạn thành cơng nhất của Thời xa vắng, đã giúp Phương Dung giành được giải nữ diễn viên xuất sắc nhất tại liên hoan phim quốc tế tại Singapore, ngày 28/4/2005. Đĩ là khi Tuyết (vợ Sài) lên đơn vị thăm chồng, cơ đã nĩi rất nhiều để mong làm vừa lịng chồng, mong giành được một tình cảm dù là sự xĩt thương của chồng. Sài nĩi:”Cơ đừng nĩi nữa, thà cơ câm đi cịn hơn”. Vậy là Dung đã diễn cái câm lặng đến khơn cùng của một người đàn bà chưa bao giờ được chồng để mắt tới. Khuơn mặt ấy, dưới ánh đèn dầu leo lét đã gây ấn tượng rất mạnh với khán giả. Đạo diễn kể: “ Trần Hùng đã chuẩn bị ánh sáng cho cảnh quay ấy suốt 4 tiếng đồng hồ, chỉ để cho Dung diễn một đúp duy nhất”. Trường đọan cuối cùng của phim, khi được chụp ảnh chung với chồng, Tuyết cúi mặt với những giọt nước mắt, thợ chụp ảnh bảo: ” Ơ, đám cưới sao lại khĩc, phải cười lên chứ!” Tuyết dần ngẩng mặt lên và gượng cười, một cái cười như mếu mà khơng phải là mếu trong ánh chiều tà, cái khĩc và cười trong trong tích tắc ấy chứa đựng tất cả thân phận suốt một đời của một người phụ nữ nơng thơn. Đây được coi là cảnh diễn độc đáo, xuất sắc nhất của Phương Dung trong Thời xa vắng. “Cảnh diễn này nâng Dung lên một đẳng cấp khác trong diễn xuất”, một nhà biên kịch đã nĩi như vậy. Phim Mê Thảo -Thời vang bĩng, từ khi cĩ kịch bản văn học trong tay, đạo diễn Việt Linh đã để mắt lựa chọn diễn viên trong khỏang thời gian chờ đợi kinh phí khỏang 10 năm, cuối cùng đã lựa được : Dũng Nhi vai ơng chủ Nguyễn, Minh Trang vào vai cơ Cam (cơ gái câm), Đơn Dương vai Trương Tam và diễn viên Thuý Nga vai cơ Tơ. Dũng Nhi là một giáo viên, nhưng anh lại rất cĩ duyên với điện ảnh, và tham gia khá nhiều phim với đủ lọai nhân vật. Vai ơng chủ Nguyễn là một vai diễn khĩ, tâm lí phức tạp ẩn chứa trong một tâm hồn nghệ sĩ phong lưu và đào hoa. Xưa nay trên màn ảnh Việt Nam chưa cĩ một vai nào phức tạp và để lại ấn tượng rõ nét như vậy. Để diễn và nhập vai ơng chủ Nguyễn một cách sâu sắc và thuyết phục, Dũng Nhi đọc sách và nghiên cứu khá kỹ các nhân vật Huấn Cao, Lãnh Út, Nguyễn … trong tác phẩm của Nguyễn Tuân. Dũng Nhi đã diễn xuất đạt tới sự xuất thần từ nét mặt, cử chỉ động tác đến những diễn biến tâm lí đau đớn, điên khùng và những hành động vơ lí, bất thường của Nguyễn. Đĩ là gương mặt u tối của một con người tuyệt vọng, khơng chấp nhận thực tế như nĩ vốn cĩ. Sự cố chấp đĩ càng quyết liệt liệt hơn khi người ta cĩ quyền định đọat. Sự quẫn trí được đẩy đến đỉnh cao khi Nguyễn “sống” với người gỗ hàng đêm như người bằng da bằng thịt. Tất cả đã được Dũng Nhi thể hiện đặc biệt thành cơng từ diện mạo, hành động đến tâm hồn ẩn chứa nhiều phức tạp của nhân vật, nên tạo cho nhân vật một sức sống mãnh liệt. Minh Trang vốn là một diễn viên kịch nĩi của địan kịch Hà Nội, chị đã khá nổi tiếng qua các vở kịch : Hà Mi của tơi, Thung lũng tình yêu, Hẹn ngày trở lại và Tơi và chúng ta của nhà văn Lưu Quang Vũ. Từ lĩnh vực kịch chị đã chuyển sang điện ảnh và được chào đĩn nhiệt liệt ngay từ bộ phim đầu tay của đạo diễn Việt Linh Nơi bình minh chim hĩt, rồi vai diễn nối tiếp vai diễn, chị lại tham gia phim Chung cư và Mê Thảo -Thời vang bĩng của đạo diễn Việt Linh. Việt Linh chọn Minh Trang vai cơ Cam, bởi chị cĩ một vĩc dáng duyên dáng, khĩe miệng tươi tắn với một lúm đồng tiền nhỏ khi cười, đặc biệt là đơi mắt biết nĩi và thái độ làm việc hết sức trách nhiệm đối với vai diễn của mình. Minh Trang đã thống nhất với đạo diễn khơng dùng ngọai hình để diễn tả nhân vật, mà hịan tịan là những biến chuyển từ bên trong, chị phải tập diễn mà khơng nĩi gì trước mỗi cảnh quay và dần dần thấy mình nhiều lúc câm như hến. Trong phim cĩ cảnh cơ câm bị ơng chủ bỏ rọ trơi sơng, đạo diễn yêu cầu quay cận nên khơng thể cascadeur. Và khơng chỉ đứng trong rọ mà cịn bị dựng lên dập xuống u đầu váng ĩc, Minh Trang đã khĩc vì đau, nhưng hơn cả là khĩc cho nhân vật của mình. Một tháng sau, Minh Trang vẫn cịn bị sưng u vì những cú va đập. Cuối cùng vai diễn cơ Cam của Minh Trang đã rất ấn tượng, chị hạnh phúc khi nĩi về vai diễn của mình:“Đĩ là một bộ phim xưa, nhưng những gì xảy đến với cơ Cam thật mạnh mẽ, bạo liệt, tơi chưa cĩ một vai nào bạo liệt đến thế, đời sống đến thế, mà mang đầy hồn Việt, đầy chất thơ…” Thúy Nga là một diễn viên của đồn văn cơng cơng an, chưa một lần đĩng phim nhưng với vai diễn này, Thuý Nga đã đạt giải diễn viên phụ xuất sắc nhất tại liên hoan phim Việt Nam lần thứ XIV. Thúy Nga đã học và tập hát ca trù rất kỹ và đặc biệt lời ca do chính đạo diễn Văn Lê sọan lời rất cơng phu, theo yêu cầu của đạo diễn Việt Linh. Diễn viên Đơn Dương vào vai Trương Tam, người quản gia của ơng chủ ấp Mê Thảo khá tốt. Ngay từ khi cĩ kịch bản phân cảnh, Đơn Dương đã được đạo diễn nhắc nhở giữ thân hình thon thả và học đánh đàn đáy sao cho thật ngọt ngào, và anh cũng đã hịan thành tốt vai diễn của mình. Khi được hỏi về các vai diễn của các bạn đồng nghiệp trên phim, Họa sĩ Trịnh Cung – người đĩng vai cụ Thường trong phim, nhận xét : “mọi diễn viên đều hay hơn cái họ vẫn thường cĩ. Cịn riêng tơi thì khơng thể tưởng tượng nổi là mình đã vào vai cụ Thường rất ư là cĩ nghề. Thế nhưng , bạn đừng vội cho tơi là tự sướng. Bởi tất cả điều đĩ là do đạo diễn mà cĩ.” 3 Phim Người đàn bà mộng du, cĩ những câu chuyện khá thú vị về những diễn viên nghiệp dư, mà phần lớn họ là những người bệnh tâm thần thật sự. Trong số diễn viên đặc biệt ấy cĩ một anh chàng rất “mê” Hồng Ánh. Một lần giữa chốn đơng người, anh ta thản nhiên bày tỏ với cơ: “Anh yêu em ! Em cĩ yêu anh khơng?”, Hồng Ánh vừa ngượng vừa phải lựa lời: “Anh ơi ! Anh đã cĩ vợ quê rồi, anh yêu em sao được!” Nghe lời ngọt ngào của cơ diễn viên xinh đẹp tưởng anh ta sẽ chịu thua, nhưng anh ta buơng một câu rất thơng minh và tỉnh táo: “Nhưng nhìn em anh rất muốn yêu em!”. Trong phim cần phải quay vài cảnh ở khoa tâm thần trong một bệnh viện hậu phương , chọn diễn viên vào vai khơng khĩ nhưng đạo diễn muốn cĩ được vẻ “ngây ngây ”của những người tâm thần thật và anh đã mạo hiểm chọn những bệnh binh tâm thần đĩng phim. Thật bất ngờ, hiệu quả diễn xuất ngịai sự mong đợi, họ đã diễn rất hồn nhiên chân thực khiến đạo diễn rất hài lịng. Ở họ, khơng cĩ vẻ dữ tợn của người điên mà chỉ múa hát một cách hiền lành. Họ say mê đĩng phim và nhất nhất tuân theo chỉ đạo của đạo diễn. Nhưng để cĩ được khỏanh khắc chân thực trên màn ảnh, những diễn viên nghiệp dư ấy đã phải chịu một sự hy sinh khá lớn, hai trong số họ đã phải chuyển tới một bệnh viện xa hơn, dành để điều trị cho những bệnh nhân nặng hơn, sau những giây phút bị khích động hưng phấn khi được một lần được lên màn bạc. Về nhân vật chính Quỳ, nữ y tá do Hồng Ánh thể hiện, cĩ thể khẳng định là thành ------------------------ 3. Báo Thể thao ngày 22/7/2004. cơng. Khơng phải vì vai diễn này đã đem lại giải diễn viên nữ xuất sắc nhất cho cơ tại liên hoan phim Việt Nam lần thứ XIV, mà thật sự một trong những yếu tố thành cơng của Người đàn bà mộng du, phải kể đến đĩng gĩp khơng nhỏ của Hồng Ánh cho vai diễn này. Nhưng bản thân Hồng Ánh lại chưa hài lịng với vai diễn của mình, cơ thấy tiếc ba phân đọan mà Quỳ sống trong thế giới mộng du, giá mà được làm lại cơ sẽ diễn hay hơn. Qua vai Quỳ, Hồng Ánh đã bộc lộ khả năng diễn xuất đa dạng của mình, một nhân vật cĩ diễn biến nội tâm phức tạp với vơ vàn biến cố xảy ra trong cuộc đời. Hồng Ánh tự nhận xét về vai diễn của mình: “Tơi chưa ưng ý với diễn xuất của mình ở vai Quỳ trong phim , khi đọc kịch bản, cảm xúc của tơi được liền mạch nên những rung động và tưởng tượng về nhân vật rất khác, nhưng khi diễn thì cảm xúc bị ngắt đọan , đến khi thành phim cảm xúc ấy lại bị xé vụn thêm một lần nữa trong quá trình dựng, khiến tơi cảm giác diễn chưa đến độ, hơi cương, đơi chỗ nhân vật cĩ phản ứng hơi thái quá…. Những đọan cao trào, tơi đạt gần được cảm xúc thì phim lại chuyển sang mạch khác, khơng cĩ thời gian để tạo mối quan hệ sâu sắc hơn, thuyết phục hơn giữa các tuyến nhân vật. ” (25) Ngịai đĩng phim, Hồng Ánh cịn tham gia diễn kịch, cơ cĩ rất nhiều dự định được ấp ủ, nhưng tất cả chỉ với mong muốn ngày càng hịan thiện mình để trở thành một diễn viên chuyên nghiệp thực thụ. Tiểu kết chương 3: Qua những phần đã trình bày ở trên, ta thấy quá trình làm ra một bộ phim thật vất vả. Để cĩ những hình ảnh đẹp, âm thanh hài lịng, cả tập thể làm phim đã phải làm việc cẩn thận chu đáo đến từng chi tiết nhỏ trong phim. Chẳng khác nào muốn cĩ một mĩn ăn ngon đặc sắc, người bếp trưởng - đạo diễn phải quán xuyến tất cả, để tổng hợp nên một mĩn ăn tinh thần đẹp đẽ nhất, hịan chỉnh nhất, hấp dẫn khán giả bằng vẻ đẹp đa sắc màu của nĩ. Một bộ phim thành cơng thật khơng dễ dàng, cả tập thể địan làm phim phải làm việc hết sức mình, chắt lọc từ cuộc sống những gì đẹp nhất, tinh túy nhất để đưa lên màn ảnh; bỏ lại đằng sau, tất cả những khĩ khăn mà họ đã phải trải qua để sáng tạo nên nĩ. Sáng tạo ra một bộ phim truyện là như vậy, nghề nghiệp của các nghệ sĩ điện ảnh vơ cùng qu í giá nhưng cũng thật nghiệt ngã. Họ cĩ sức mạnh đặc biệt mà các ngành nghệ thuật khác khơng cĩ được. Cái đẹp trong lịng họ, qua hình ảnh cĩ thể giác ngộ, thúc đẩy, thuyết phục, cảm hĩa hàng triệu người trong cùng một lúc. Và, ngược lại, tai họa là vơ bờ, là cơng dã tràng, nếu sản phẩm của họ khơng đem đến cho người xem một cái gì khơng đáng cĩ. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu và khảo sát ba tác phẩm văn học nổi tiếng Chùa Đàn, Thời xa vắng và Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành được chuyển thể sang điện ảnh, chúng tơi nhận thấy : văn học và điện ảnh là hai ngành nghệ thuật gần gũi nhưng độc lập, mỗi ngành đều cĩ những đặc trưng riêng biệt để sáng tạo nên tác phẩm. Mỗi tác phẩm nghệ thuật để đời, cả văn học và điện ảnh đều khắc ghi dấu ấn của những người nghệ sĩ tâm huyết và tài năng,”Khi tình yêu và kỹ năng kết hợp thì mới mong cĩ những tuyệt phẩm .” (J. Ruskin) Tác phẩm nghệ thuật là một mảng đời của nghệ sĩ, trong đĩ người nghệ sĩ nĩi lên những gì sâu xa, máu thịt nhất. Cĩ lẽ vì vậy, mà nữ văn sĩ Pháp Elsa Triolét gọi nhà văn là “người cho máu”. Tác phẩm nghệ thuật thành cơng bao giờ cũng được viết ra với tất cả sự từng trải, sự nung nấu và rung động của tâm hồn của người nghệ sĩ. Một khi sự rung động càng mãnh liệt, cảm xúc càng dạt dào thì sáng tạo mới trở thành niềm vui và tác phẩm mới thực sự đi vào lịng người và cĩ tác động mạnh mẽ. Ngơn ngữ biểu đạt trong văn học là sự biểu hiện của ngơn từ nghệ thuật. Thơng qua ngơn từ nghệ thuật, nhà văn dẫn dắt người đọc vào thế giới hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. Với cách viết tượng trưng, hoang đường, li kỳ và kinh dị, nhân vật Lãnh Út của Nguyễn Tuân hiện ra phức tạp, đa dạng và cĩ sức ám ảnh lớn đối với người đọc. Hình tượng nhân vật Quỳ của Nguyễn Minh Châu lại cuốn hút người đọc ở “phép biện chứng tâm hồn ”của những con người nhân hậu đã trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt. Sự chân thật, ngây thơ đến tội nghiệp của một con người chỉ biết răm rắp“vâng lời” một cách máy mĩc, và cam chịu sống theo những gì đã được sắp đặt sẵn, như nhân vật Sài trong Thời xa vắng. Bằng tài năng, phong cách và sở trường riêng của mình, mỗi nhà văn đã sử dụng ngơn từ rất tài tình để khắc họa nên những hình tượng nhân vật chân thực, sâu sắc và cĩ sức sống trường tồn trong văn học Việt Nam hiện đại. Khác hẳn với văn học, tác phẩm điện ảnh là sản phẩm của nghệ thuật tổng hợp, được thể hiện qua ngơn ngữ hình ảnh và âm thanh. Người nghệ sĩ đã chủ động trong việc diễn tả xúc cảm của mình gắn với cảnh sắc và khơng khí của tự nhiên. Từ thiên nhiên, phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống được xây dựng trên cơ sở sự thay đổi tự nhiên theo mùa và thời tiết, triết lí về cuộc sống cũng đi từ quy luật của tự nhiên. Vì thế, trong ba bộ phim khảo sát, các nhà làm phim đã rất thành cơng khi diễn tả tâm trạng và hành động của nhân vật với những cảnh quay ngọai: sơng nước, núi non, cây cối, đồng ruộng, trăng sao…điều này thể hiện rất rõ trong Thời xa vắng và Mê Thảo –thời vang bĩng. Sự thành cơng của các hình tượng nhân vật trong phim là nội dung văn học và hình thức biểu hiện bằng ngơn ngữ điện ảnh được gắn bĩ một cách chặt chẽ, hữu cơ. Chẳng hạn hình tượng Sài là nhân vật trung tâm trong phim Thời xa vắng, đã cĩ sức lơi cuốn và chinh phục người xem trước hết ở giá trị chân thực của nĩ. Người xem bị lơi cuốn khơng phải như một nhân vật trong phim mà như một con người, một cảnh ngộ, một số phận cĩ thật của cuộc đời. Tính cách được vận động theo hướng tiếp nối và phát triển. Những tiếp nối và phát triển này phù hợp với lơgic đời sống và tâm lí, vì thế nên nhất quán và cĩ giá trị hiện thực sinh động. Như vậy, văn học và điện ảnh là hai ngành nghệ thuật độc lập, cĩ ngơn ngữ và đặc trưng riêng để làm nên vẻ đẹp của tác phẩm. Khảo sát ba bộ phim chuyển thể, chúng tơi thấy các tác giả đã cố gắng vận dụng những thế mạnh của điện ảnh, chứ khơng lệ thuộc vào tác phẩm văn học, để khắc họa tính cách nhân vật và thơng qua đĩ gửi gắm những ý tưởng và quan điểm của mình. Từ đặc trưng của điện ảnh, khi chuyển thể một tác phẩm văn học, các tác giả điện ảnh hịan tịan chủ động trong việc lựa chọn những tác phẩm phù hợp, những chi tiết, tình huống cĩ thể diễn đạt bằng ngơn ngữ của hình ảnh và âm thanh. Làm sao để tính “chân thật” trong văn học phải dẫn đến tính “giống thật” trong điện ảnh, đảm bảo được bản chất của nghệ thuật chân chính là “sự dẫn truyền cảm xúc ”( L.Tơxtơi). Trong phim Mê Thảo – thời vang bĩng, biên kịch Phạm Thùy Nhân và đạo diễn Việt Linh đã rất khơn khéo lựa chọn cách mơ phỏng theo Chùa Đàn của Nguyễn Tuân. Trong Chùa Đàn, nhà văn miêu tả tâm trạng chuyển biến phức tạp của người nghệ sĩ trước biến động của thời đại, nhưng sang phim, đạo diễn đã diễn tả tâm trạng phức tạp đau đớn của con người trước việc phải từ bỏ cái cũ để chấp nhận cái mới. Cùng là cách diễn tả quá trình “lột xác” của con người, hai chủ đề ở văn học ở phim khác nhau, nhưng vẫn đảm bảo tính truyền cảm và hấp dẫn của bộ phim. Nghệ thuật nĩi chung, văn học và điện ảnh nĩi riêng, thực sự địi hỏi ở người nghệ sĩ cả tài năng và tâm hồn, cả sự thơng minh và lịng trắc ẩn, cả cảm xúc và sự chiêm nghiệm vượt lên trên thời gian – lịch sử. Tất cả đã thấm đậm trong từng nét tính cách, hình ảnh của những nhân vật trung tâm: từ nhân vật Lãnh Út trong Chùa Đàn của Nguyễn Tuân đến Nguyễn trong Mê Thảo- thời vang bĩng của đạo diễn Việt Linh, từ anh nơng dân Sài trong trang sách Thời xa vắng của Lê Lựu đến Sài của đạo diễn Hồ Quang Minh, và nữ y tá Quỳ của Nguyễn Minh Châu đến Quỳ trên màn ảnh…Mỗi nhân vật một vẻ nhưng “trong tâm hồn của mỗi người đều cĩ tấm chân dung nhỏ bé của dân tộc mình” (113-358.), đĩ là những nét tính cách tiêu biểu trong tính cách con người Việt Nam, những nguyện vọng và tâm tư tình cảm của họ…vì thế các nhân vật trở nên hấp dẫn và cĩ sức lan tỏa dài lâu. Một tác phẩm văn học được viết ra bởi sự rung động của con tim, bởi những suy nghĩ, tâm tư, niềm vui và nỗi buồn của người sáng tác. Sáng tạo là sự thơi thúc ở bên trong là rung động của tâm hồn, một khi sự rung động càng mãnh liệt, cảm xúc càng đạt dào thì sáng tạo càng trở thành niềm vui và tác phẩm mới cĩ sức thu hút mãnh mẽ. Nhà văn là người chủ động tìm cảm xúc, chủ động trước những gì mình nghĩ ra và viết lại. Trong quá trình sáng tác, nhà văn hịan tịan làm chủ về mặt thời gian và cĩ thể dồn tất cả tâm huyết cho đứa con tinh thần của mình, khơng bị chi phối bởi khách quan và phương tiện sáng tác duy nhất của nhà văn là ngơn ngữ viết. Quá trình để một bộ phim ra đời lại hịan tịan khác. Một tác phẩm điện ảnh là kết quả liên kết của nhiều ngành: kinh tế, kỹ thuật và nghệ thuật. Quá trình thực hiện một bộ phim trải qua một trình tự khá phức tạp phụ thuộc vào nhiều khâu, nhiều cơng đọan, mà cĩ khi người nghệ sĩ rơi vào tình trạng “lực bất tịng tâm ”. Những vấn đề về kinh tế: duyệt kịch bản, lựa chọn địa điểm quay, tổ chức quay, nhân sự phục vụ cho địan quay, máy mĩc để quay, dựng phim, hịa âm…Những vấn đề về nghệ thuật : kịch bản, đạo diễn, quay phim, diễn viên, thiết kế mỹ thuật, âm nhạc, hĩa trang… chỉ cần một khâu khơng được chuẩn bị tốt là ảnh hưởng đến tịan bộ tác phẩm. Về mặt lí thuyết, khi đã đầy đủ điều kiện :“ thiên thời, địa lợi, nhân hịa ” thì bộ phim mới được khởi động. Nhưng trên thực tế khơng phải lúc nào và địan phim nào cũng hội đủ mọi yếu tố thuận lợi như chúng tơi đã khảo sát qua ba bộ phim chuyển thể … Vì vậy, để cĩ được một bộ phim thành cơng là một sự nỗ lực rất lớn của tập thể các nhà làm phim. Một tác phẩm điện ảnh giàu chất văn học bao giờ cũng là những tác phẩm mang bản sắc dân tộc, giàu tính nhân đạo và được thể hiện hấp dẫn. Văn học gần gũi với điện ảnh, được thể hiện qua “linh hồn” của bộ phim sau khi đã hịan thành. Trong quá trình sáng tác điện ảnh, tính văn học được thể hiện cụ thể qua kịch bản văn học. Kịch bản là khâu đầu tiên hết sức quan trọng, bởi nếu kịch bản làm tốt thì sẽ giảm được chi phí phát sinh và đảm bảo tính văn học, tính tư tưởng cho tác phẩm khi hịan thành. Đĩ là lí do mà các nhà điện ảnh rất muốn được chuyển thể tác phẩm văn học nổi tiếng lên phim. Đây cũng là khâu mà nhà biên kịch làm việc như một nhà văn, cũng độc lập và khơng bị chi phối bởi khách quan. Chính vì vậy, mà ngay từ năm 1935, M.Gorki đã nhận định: “Các nhà văn cần phải tham gia sinh động hơn nữa vào cơng tác điện ảnh. Chúng ta, các nhà văn cần phải viết truyện phim – đĩ là việc của chúng ta”. (21) Hiện nay, khi mà vấn đề kịch bản đang lâm vào tình trạng yếu, kém và khan hiếm thì vai trị của các nhà văn tham gia viết kịch bản là hết sức cần thiết. Bởi cơng việc của nhà văn và nhà biên kịch rất “giống nhau”, nhà văn chỉ cần để ý nghiên cứu thêm về cách viết kịch bản thì cĩ thể cung cấp cho điện ảnh những kịch bản cĩ chất lượng. Điều này đã đem lại thành cơng cho bộ phim Thời xa vắng của đạo diễn Hồ Quang Minh, anh đã ấp ủ nĩ trong 15 năm trời, và đặc biệt anh đã được nhà văn Lê Lựu giúp đỡ rất nhiều trong vai trị cố vấn văn học. Phim Người đàn bà mộng du của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân, do nhà văn Nguyễn Quang Thiều viết kịch bản và nhà văn Nguyễn Quang Lập biên tập, đạt được giải thưởng Bơng sen vàng trong liên hoan phim Việt Nam lần thứ XIV năm 2004. Điện ảnh là nghệ thuật tổng hợp nên thành cơng của tác phẩm điện ảnh là thành cơng của sự kết hợp giao thoa nhuần nhuyễn giữa các ngành nghệ thuật. Qua khảo sát, chúng tơi thấy rằng nền tảng của một bộ phim nằm ở kịch bản, nhưng để tất cả những điều đĩ được hiện lên một cách hịan chỉnh nhất phải qua rất nhịều cơng đọan, mà người chỉ huy các cơng đọan đĩ là đạo diễn. Chính đạo diễn sẽ là người biến những con chữ thành hình ảnh, biến ước mơ thành hiện thực. Vì thế mối quan hệ giữa biên kịch và đạo diễn là rất quan trọng, một kịch bản hay mà đạo diễn khơng nắm bắt tường tận từng chi tiết, khơng thấm những ý tưởng của kịch bản thì khơng thể cĩ bộ phim hay. Một khuơn hình chứa đựng trong đĩ âm thanh, ánh sáng, hình ảnh con người đang di chuyển… nhưng nĩ sẽ tẻ nhạt biết bao nếu đằng sau vẻ đẹp hình ảnh, nĩ khơng để lại một dấu ấn nào trong lịng người xem. Nhưng nếu đạo diễn cùng đồng cảm với nhà biên kịch từng cảnh, từng hành động của nhân vật thì bộ phim sẽ trở nên hấp dẫn bởi câu chuyện mạch lạc, khúc triết và cĩ sức sống bền lâu. Khi nĩi về cơng tác biên kịch và đạo diễn, M.Gorki đã viết:” Ở điện ảnh cần cĩ sự hợp nhất cân đối hai lực lượng (nhà văn và đạo diễn). Hai lực lượng này khơng thể riêng biệt mà bổ sung, hỗ trợ cho nhau”(21) Trong phim Mê Thảo – Thời vang bĩng, đạo diễn Việt Linh và biên kịch Phạm Thùy Nhân đã cĩ sự phối hợp rất ăn ý ngay từ trong kịch bản. Quá trình hình thành kịch bản đến khi được quay phim là 13 năm, kịch bản đã được sửa chữa rất nhiều lần, nhưng “cĩ cơng mài sắt cĩ ngày nên kim”, bộ phim đã thành cơng tốt đẹp. Cĩ thể nĩi Chùa Đàn của Nguyễn Tuân là một tác phẩm văn học hay, nổi tiếng nhưng khơng phải dễ đọc đối với tất cả mọi người trong xã hội. Nhưng sang phim lại hịan tồn khác, các tác giả điện ảnh đã lồng vào những câu chuyện tình mang tính chất dã sử và lơi cuốn người xem bởi những nét văn hĩa huyền hoặc cổ xưa, mà vẫn giữ được âm hưởng văn phong của nhà văn Nguyễn Tuân. Phim Người đàn bà mộng du của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân là một phim tốt nhưng khơng mang lại cảm xúc đáng lẽ phải cĩ như trong văn học, người xem cĩ cảm giác giữa tác giả kịch bản và đạo diễn chưa cĩ sự thống nhất về ý tưởng nên hình tượng nhân vật Quỳ mờ nhạt, thiếu chiều sâu và khơng thuyết phục. Rõ ràng cĩ một kịch bản hay chưa đủ, cần phải cĩ những đạo diễn, những chuyên gia cĩ tay nghề và tâm huyết thì bộ phim mới cĩ thể thành cơng. Nhà văn M.Gorki đúc kết : “ Tơi nghĩ rằng thành cơng nảy ra từ tác phẩm hoặc từ phong cách kỳ diệu kết hợp với phương pháp đúng đắn của các đạo diễn với tác phẩm đĩ, hoặc hiểu biết quy luật của nghệ thuật và tỏ ra biết áp dụng một cách khéo léo các quy luật này…”(21) Tĩm lại, thành cơng của một bộ phim chuyển thể từ văn học : yếu tố đầu tiên là kịch bản. Yếu tố thứ hai là sự thống nhất, đồng cảm của tác giả kịch bản và đạo diễn trong việc chuyển tải ý tưởng từ văn học lên phim. Cuối cùng là bằng phương tiện khoa học kỹ thuật kết hợp với nghệ thuật của điện ảnh để thực hiện và hịan chỉnh tác phẩm. Qua khảo sát ba tác phẩm văn học được chuyển thể sang điện ảnh, một điều cĩ thể khẳng định ngay rằng đĩ là những tác phẩm nghệ thuật thành cơng ở cả văn học và điện ảnh, đó cũng là những tác phẩm khá hiếm hoi trong văn học nghệ thuật Việt Nam. Khơng biết bao giờ mới lại cĩ những tác phẩm văn học đáng nhớ như Chùa Đàn, Thời xa vắng và Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành để người đọc say mê và lại mong chờ đĩn xem trên màn ảnh ? Và cũng bao giờ mới lại cĩ những bộ phim như: Thời xa vắng, Mê Thảo -Thời vang bĩng đã tạo được những ấn tượng cảm xúc lâu bền trong lịng người xem. Trong mỗi bộ phim, người xem được chiêm ngưỡng những phong cảnh thiên nhiên được thể hiện rất sinh động, gần gũi với thực tại. Những hình ảnh được vẽ lên bằng khơng gian phong phú, chuyển động theo nhịp điệu thời gian sinh động trong tiếng nhạc, lời thọai, tiếng động, âm thanh của thiên nhiên gợi cảm, làm nên hiệu quả tổng hợp, tác động mạnh mẽ đến tâm lí, tình cảm của người thưởng thức. Các nghệ sĩ điện ảnh đã sử dụng ống kính rất chuyên nghiệp thuần thục mang lại cho phong cảnh đất nước, thiên nhiên, con người một sức truyền cảm kỳ lạ. Cĩ thể nĩi Thời xa vắng, Mê Thảo -thời vang bĩng thành công trước hết là ở sự nỗ lực hết mình và tài năng của các tác giả làm phim, nhưng một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong hiệu quả của các tác phẩm này, là được làm hậu kỳ ở nước ngịai, vì hiện nay trang thiết bị máy mĩc của ta hầu như đều đã cũ, cĩ mới thì chắp vá, khơng đảm bảo chất lượng. Những tác phẩm văn học thành cơng là những cơng trình nghệ thuật hịan chỉnh, là những “khuơn vàng thước ngọc” trong nghệ thuật, là tinh hoa của văn học nghệ thuật nước nhà. Muốn tận dụng, phát huy, và kế thừa hiệu quả những tinh hoa của văn học trong việc chuyển thể tác phẩm lên phim, cần phải cĩ những tác giả điện ảnh tài năng, chuyên nghiệp và tâm huyết. Điện ảnh là một bộ mơn nghệ thuật tổng hợp và gắn liền với sự phát triển của kinh tế và khoa học kỹ thuật, nên sự yếu kém của các ngành cĩ liên quan đều ảnh hưởng khơng nhỏ tới điện ảnh. Vì vậy, ngoài trách nhiệm và năng lực của các tác giả điện ảnh, nghệ thuật điện ảnh rất cần được đầu tư đồng bộ trang thiết bị máy mĩc, đào tạo chuyên gia kỹ thuật lành nghề và đặc biệt nên xây dựng một phim trường hiện đại. Cĩ phim trường những bộ phim được sản xuất sẽ khơng phải lệ thuộc vào ngọai cảnh, thời tiết, vừa giảm chi phí đi lại chọn cảnh và đưa địan đi quay, vừa đảm bảo tính nghệ thuật của phim. Khơng thể phủ nhận sự đĩng gĩp của mỗi ngành nghệ thuật cho sự phát triển của điện ảnh, sẽ khơng cĩ một nền điện ảnh phát triển nếu thiếu đi sự phát triển đồng bộ của các ngành nghệ thuật khác. Một tác phẩm điện ảnh chuyển thể từ văn học muốn thành công, ngịai đội ngũ biên kịch, đạo diễn và chuyên gia kỹ thuật lành nghề, cần phải cĩ một nền công nghiệp điện ảnh hiện đại. Từ nềnđmóng nghệ thuật và cơ sở vật chất đồng bộ đĩ, những tác phẩm điện ảnh mới đảm bảo đầy đủ những yếu tố mang lại hiệu quả cao, đáp ứng được mong đợi của đông đảo những người yêu mến môn nghệ thuật này. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5629.pdf
Tài liệu liên quan