Nhập khẩu và phân phối rượu vang tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thực phẩm Tocontap Hà Nội

MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài: Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, quan hệ mậu dịch tự do được thực sự mở rộng, thương mại, trao đổi buôn bán giữa các nước ngày càng đa dạng trên mọi lĩnh vực, ngành nghề. Việt Nam cũng đã và đang tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc mở rộng các quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới. Kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng thu nhập quốc dân của Việt Nam. Trong giai đoạn n

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nhập khẩu và phân phối rượu vang tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thực phẩm Tocontap Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ày, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế đáng khâm phục: năm 2006, tỷ lệ tăng trưởng đạt 8,17% , đứng thứ hai tại châu Á; 3 tháng đầu năm 2007 kim ngạch xuất khẩu đạt 10,48 tỉ USD, cả nước nhập khẩu gần 12 tỉ USD, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, trong 10 năm qua Việt Nam đã giảm tỷ lệ người nghèo từ 60% dân số xuống còn 19%. Bên cạnh đó, Việt Nam vừa chính thức trở thành thành viên trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đạt kết quả phát triển con người đầy ấn tượng, có mức GDP không ngừng tăng và đặt mục tiêu trở thành nước thu nhập trung bình vào năm 2010. Một bộ phận người dân Việt Nam thuộc tầng lớp trung lưu có thu nhập cao tăng lên. Ở các nước đang phát triển, thu nhập tăng và đô thị hoá nhanh là những nguyên nhân chính làm thay đổi nhu cầu ăn uống của người dân. Đó là yêu cầu cao hơn cho bữa ăn, đặc biệt là nhu cầu về nhập khẩu thịt, các loại đồ uống có cồn như rượu vang và các loại thực phẩm chế biến. Thực ra, văn hóa rượu ở Việt Nam đã có từ lâu đời trong tổng thể văn hóa ẩm thực của dân tộc nhưng về rượu vang vẫn còn ít người biết cảm thụ, thưởng thức. Trong quá trình hội nhập quốc tế và bùng nổ du lịch, dòng khách nước ngoài vào đầu tư, làm ăn và đi du lịch ở Việt Nam ngày càng tăng. Do đó, nhu cầu về rượu vang trong tương lai gần sẽ ngày càng tăng, đây sẽ là cơ hội kinh doanh cho các nhà nhập khẩu rượu vang trong nước đặc biệt là TOCONTAP- một trong số những doanh nghiệp tiến hành hoạt động nhập khẩu rượu vang sớm ở Việt Nam. Do đó với cơ hội thực tập tại công ty TOCONTAP em đã chọn đề tài: “ Nhập khẩu và phân phối rượu vang của công ty CP XNK TP TOCONTAP HANOI ” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. 2. Mục đích của đề tài: Nghiên cứu đề tài này nhằm cung cấp những hiểu biết cơ bản về nhập khẩu và phân phối sản phẩm nhập khẩu. Đánh giá khái quát thực trạng hoạt động nhập khẩu và phân phối rượu của công ty XNK TP TOCONTAP và cơ hội kinh doanh nhập khẩu rượu vang trên thị trường Việt Nam. 3. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: hoạt động kinh doanh nhập khẩu và phân phối rượu vang của công ty. Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài, em đã sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu như: tham khảo những tài liệu có liên quan đến quá trình kinh doanh nhập khẩu, phân phối sản phẩm rượu vang, thu thập thông tin trên báo chí, số liệu của công ty những năm gần đây. Trên cơ sở đó tiến hành các phân tích đánh giá ban đầu sơ bộ về hoạt động nhập khẩu rượu vang của công ty XNK TP TOCONTAP. 4. Kết cấu cấu của chuyên đề thực tập tốt nghiệp: Chuyên đề thực tập tốt nghiệp được chia thành 3 phần chính: Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động kinh doanh nhập khẩu và phân phối sản phẩm nhập khẩu. Chương 2: Thực trạng hoạt động nhập khẩu rượu vang của công ty CP XNK TP TOCONTAP HANOI. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị tăng cường hoạt động kinh doanh nhập khẩu rượu vang. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU VÀ PHÂN PHỐI SẢN PHẨM NHẬP KHẨU 1. Khái niệm và vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu: 1.1. Khái niệm: Hoạt động Nhập khẩu là một bộ phận của thương mại quốc tế, xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng cũng như chiều sâu. Trước đây hoạt động Nhập khẩu chủ yếu là quá trình trao đổi hàng hóa hữu hình giữa các quốc gia, hoặc các công ty các thể nhân của các quốc gia trong đó hàng hóa được di chuyển từ lãnh thổ quốc gia này tới lãnh thổ quốc gia khác. Đến nay nhập khẩu đã phát triển với rất nhiều hình thức, diễn ra với phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, cả trong hàng hóa hữu hình và vô hình. Như vậy có thể hiểu Nhập khẩu là quá trình đưa hàng hóa dịch vụ được sản xuất ở nước ngoài vào trong nước để phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước hoặc tái xuất khẩu nhằm thu lợi nhuận, nối liền sản xuất với tiêu dùng giữa các quốc gia. Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán diễn ra giữa các nước, các chủ thể kinh tế khác nhau trên phạm vi toàn cầu vì vậy, hoạt động nhập khẩu thường xuyên bị chi phối bởi các chính sách luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi quốc gia quản lý hoạt động nhập khẩu thông qua các công cụ như: công cụ thuế quan, hạn ngạch, giấy phép, công cụ hàng rào kỹ thuật, cấm nhập khẩu... Các quốc gia tiến hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu nhằm mục đích là có được hiệu quả cao từ việc nhập khẩu các loại hàng hóa phục vụ cho tái sản xuất mở rộng và nâng cao đời sống nhân dân trong nước, người dân mỗi nước có cơ hội lựa chọn lớn hơn đối với các hàng hóa dịch vụ, đảm bảo sự phát triển liên tục, nâng cao năng suất lao động, bảo vệ ngành sản xuất trong nước, giải quyết vấn đề thiếu hụt trên thị trường trong nước. Ngoài ra, hoạt động nhập khẩu còn đảm bảo nguồn nguyên liệu cho những ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi nước phát triển ổn định khi mà khả năng sản xuất trong nước chưa đáp ứng được, tạo những năng lực mới cho sản xuất, khai thác lợi thế so sánh của quốc gia, kết hợp hài hòa có hiệu quả giữa nhập khẩu với cải thiện cán cân thanh toán. 1.2. Lợi ích thu được từ hoạt động kinh doanh Nhập khẩu: Trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra sôi nổi, các quốc gia không ngừng mở rộng quan hệ buôn bán, trao đổi với nhau, thương mại quốc tế ngày càng phát triển. Nhập khẩu với vai trò là một bộ phận của thương mại quốc tế cũng đóng góp một phần không nhỏ trong sự lớn mạnh này. Nó tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế mỗi quốc gia về sức lao động, vốn, tài nguyên, khoa học kỹ thuật... Nhập khẩu thể hiện mối quan hệ kinh tế mức độ phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới do đó nhập khẩu có một vai trò rất quan trọng đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Thứ nhất, Nhập khẩu làm đa dạng hoá hàng hoá như chủng loại, chất lượng, giá cả..., tăng khả năng lựa chọn hàng hóa và dịch vụ. Sự đa dạng hóa sản phẩm một mặt cho phép người tiêu dùng được tiêu dùng những mặt hàng sản xuất ở nước ngoài phù hợp với nhu cầu sản xuất ở trong nước. Đây là cơ sở để bổ sung hàng hoá trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Mặt khác sự cạnh tranh giữa nhiều nhà sản xuất như vậy dẫn đến những nỗ lực giảm giá thành sản xuất xuống mức thấp nhất có thể của nhà sản xuất. Vì vậy người tiêu dùng được hưởng lợi từ mức giá cạnh tranh quốc tế đó. Thứ hai, Nhập khẩu có tác động trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh thương mại vì qua hoạt động nhập khẩu cung cấp cho nền kinh tế một lượng lớn hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu cần thiết bổ sung kịp thời những thiếu hụt, mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định. Thứ ba, Nhập khẩu tạo ra sự liên kết giữa các nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho phân công lao động và hợp tác quốc tế phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, giúp khai thác được lợi thế so sánh trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất. Một sản phẩm có thể được hợp tác bởi nhiều quốc gia, một quốc gia có thể xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ với các quốc gia khác. Họ có thể tập trung nguồn lực vào việc sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng mà họ có lợi thế, nhập khẩu những mặt hàng mà họ không có lợi thế. Như vậy, nhập khẩu tạo ra sự phát triển vượt bậc trong sản xuất xã hội, tiết kiệm được chi phí và thời gian, tạo ra sự phát triển đồng đều về trình độ xã hội, phá bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh trong nước, phát huy nhân tố mới trong sản xuất nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế có cơ hội tham gia và cạnh tranh trên thị trường. Thứ tư, Nhập khẩu là kênh chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý. Nhà đầu tư quốc tế mang theo vốn công nghệ và kỹ năng quản lý đến một nước với mong đợi thu được tỷ lệ lợi nhuận cao nhất thông qua khả năng nhập khẩu bán thành phẩm và xuất khẩu bán thành phẩm đó ra thị trường thế giới một cách tự do. Như vậy nhập khẩu còn có vai trò tích cực trong việc thúc đẩy xuất khẩu bởi vì nó cung cấp đầu vào cho sản xuất hàng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Thứ năm, Nhập khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Nhập khẩu tạo ra năng lực sản xuất mới, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho sản xuất, sản xuất ổn định đảm bảo đời sống người lao động, nhiều ngành nghề mới phát triển tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, đời sống được cải thiện, hạn chế các tệ nạn xã hội, tạo thu nhập và ổn định phát triển kinh tế xã hội. 1.3. Sự cần thiết khách quan tiến hành hoạt động kinh doanh Nhập khẩu: 1.3.1. Nguồn lực sản xuất khan hiếm không đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước: Theo quy luật khan hiếm, nguồn lực xã hội là một phạm trù hữu hạn, ngày càng khan hiếm và cạn kiệt do con người ngày càng sử dụng nhiều các nguồn lực sản xuất phục vụ các nhu cầu khác nhau của họ. Trong khi các nguồn lực sản xuất ngày càng giảm thì nhu cầu của con người ngày càng tăng và không có giới hạn. Do đó bắt buộc mọi doanh nghiệp phải lựa chọn chính xác ba câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Thị trường chỉ chấp nhận doanh nghiệp nào quyết định đúng loại sản phẩm với số lượng và chất lượng phù hợp. Mọi doanh nghiệp trả lời không đúng ba vấn đề trên sẽ sử dụng các nguồn lực sản xuất lãng phí, không hiệu quả nguồn lực sản xuất xã hội và không có khả năng tồn tại. 1.3.2. Khoa học công nghệ phát triển là tiền đề đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Sự phát triển của kỹ thuật sản xuất đã tạo ra nhiều sản phẩm mới, nhiều phương pháp chế tạo sản phẩm được tìm ra. Kỹ thuật sản xuất phát triển cho phép với cùng một nguồn lực đầu vào nhất định người ta có thể tạo ra nhiều những chủng loại sản phẩm khác nhau. Điều này cho phép các doanh nghiệp có khả năng lựa chọn kinh tế, lựa chọn sản xuất kinh doanh sản phẩm tối ưu. Sự lựa chọn đúng đắn sẽ mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh cao nhất , thu được nhiều lợi ích nhất. Sự tăng trưởng kết quả kinh doanh của sản xuất chủ yếu nhờ vào việc cải tiến các yếu tố sản xuất về mặt chất lượng, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ mới hoàn thiện công tác quản trị và cơ cấu kinh tế... nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế. Tóm lại, nhờ vào sự phát triển của khoa học công nghệ hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp sẽ được đẩy mạnh. 1.3.3 Thị trường nhập khẩu cạnh tranh ngày càng gay gắt: Trong điều kiện còn có sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh tế và năng suất lao động, tự do thương mại đã làm cho nhập khẩu của các nước chậm phát triển tăng lên và nhiều hàng hóa nước ngoài trở nên cạnh tranh với hàng hóa trong nước, các doanh nghiệp nước ngoài cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước. Do đó những doanh nghiệp trong nước để tồn tại và phát triển phải luôn đổi mới để theo kịp sự thay đổi của môi trường, nâng cao chất lượng hàng hóa, giảm chi phí sản xuất, nâng cao uy tín...Trong điều kiện nguồn lực sản xuất khan hiếm, để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài một trong những biện pháp để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước là nhập khẩu. 1.4 Các hình thức nhập khẩu chủ yếu: Trên thị trường thế giới, những giao dịch ngoại thương đều được tiến hành theo những cách thức nhất định, hoạt động nhập khẩu cũng được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau, mỗi hình thức đều có đặc điểm riêng, tùy từng trường hợp, chủng loại hàng hóa, các nhân tố tác động khác mà doanh nghiệp có thể chon lựa hình thức nhập khẩu phù hợp. 1.4.1 Nhập khẩu trực tiếp: 1.4.1.1 Khái niệm: Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp thực hiện hoạt động nhập khẩu trực tiếp các hàng hóa và dịch vụ mà không qua một tổ chức trung gian nào. 1.4.1.2 Đặc điểm: Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu nhiều hơn so với các hình thức khác. Tuy nhiên đây là hình thức nhập khẩu mà tự doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu nên doanh nghiệp phải chịu mọi chi phí, rủi ro, tổn thất cũng như lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu của mình. Doanh nghiệp sẽ phải chịu mọi nghĩa vụ thuế liên quan đến lĩnh vực nhập khẩu như thuế nhập khẩu, thuế mặt hàng.... Do đó cần phải xem xét kỹ lưỡng từng bước, từ nghiên cứu thị trường, đầu vào, đầu ra, cho đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng, bán hàng, thu tiền về.... để tránh gây tổn thất. Trong hợp đồng này doanh nghiệp phải tự bỏ vốn để thanh toán và phải cân nhắc các khoản thu chi để đảm bảo kinh doanh có lãi. 1.4.2 Nhập khẩu liên doanh: 1.4.2.1 Khái niệm: Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hóa trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp ( trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho hai bên theo nguyên tắc lãi cùng chia, lỗ cùng chịu. 1.4.2.2 Đặc điểm: Ở hình thức này, các doanh nghiệp chịu ít rủi ro hơn so với hình thức nhập khẩu trực tiếp bởi mỗi doanh nghiệp tham gia nhập khẩu liên doanh chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng phân bổ theo số vốn góp. Việc phân chia chi phí, các loại thuế theo tỷ lệ góp vốn, lãi lỗ tùy theo hai bên thỏa thuận phân chia. Trong hình thức nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu hàng sẽ được tính kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế doanh thu trên doanh số đó. Doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu trực tiếp phải lập hai hợp đồng: một hợp đồng mua hàng với nước ngoài và một hợp đồng liên doanh với các doanh nghiệp khác. 1.4.3 Nhập khẩu ủy thác: 1.4.3.1 Khái niệm: Nhập khẩu ủy thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một loại hàng hóa nhưng lại không có quyền tham gia nhập khẩu trực tiếp đã ủy thác cho một doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên ủy thác sẽ tiến hành đàm phán với nước ngoài để nhập khẩu hàng hóa theo yêu cầu của bên ủy thác và được nhận một khoản thù lao gọi là phí ủy thác. Hay nói cách khác, nhập khẩu ủy thác là doanh nghiệp nhập khẩu đóng vai trò trung gian nhập khẩu, làm thay cho đơn vị cần nhập khẩu những thủ tục cần thiết để nhập hàng và hưởng phần trăm chi phí ủy thác theo giá trị hàng nhập khẩu. 1.4.3.2 Đặc điểm: Ở hình thức nhập khẩu này, doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu (bên nhận ủy thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường hàng nhập khẩu mà chỉ đóng vai trò là đại diện cho bên ủy thác giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay mặt cho bên ủy thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất. Bên nhận ủy thác phải tự nghiên cứu thị trường, lựa chọn mặt hàng, đối tượng giao dịch và chịu mọi chi phí có liên quan. Khi nhập khẩu ủy thác thì các doanh nghiệp nhận ủy thác phải lập hai hợp đồng: một hợp đồng ngoại giữa doanh nghiệp nhập khẩu với đối tác nước ngoài và một hợp đồng nội giữa doanh nghiệp nhận ủy thác với doanh nghiệp ủy thác. Khi tiến hành nhập khẩu ủy thác thì doanh nghiệp chỉ được tính phí ủy thác chứ không được tính doanh thu và không phải tính thuế doanh thu. Hình thức nhập khẩu ủy thác có ưu điểm là mức độ rủi ro thấp, trách nhiệm ít, người đứng ra nhập khẩu không phải là người chịu mọi trách nhiệm cuối cùng, đặc biệt là không cần vốn để mua hàng, phí ủy thác tuy ít nhưng nhận tiền nhanh, ít thủ tục và rủi ro. 1.4.4 Hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng: 1.4.4.1 Khái niệm: Hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng là một trong những loại hình của buôn bán đối lưu. Đây là phương thức trao đổi hàng hóa, trong đó nhập khẩu kết hợp chặt chẽ với xuất khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đi có giá trị tương ứng bằng lượng hàng nhập về, thanh toán trong trường hợp này không phải bằng tiền mà sử dụng bằng hàng hóa. Mục đích nhập khẩu ở đây không phải chỉ để thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm xuất khẩu được hàng, thu cả lãi từ hoạt động xuất khẩu. 1.4.4.2 Đặc điểm: Hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu có sự cân bằng về mặt hàng, giá cả, tổng giá trị hàng giao nhau và cân bằng về điều kiện giao hàng. Bạn hàng trong hoạt động xuất khẩu cũng là bạn hàng trong hoạt động nhập khẩu. Doanh nghiệp nhập khẩu đổi hàng được tính cả kim ngạch nhập khẩu và kim ngạch xuất khẩu, doanh số trên cả hàng nhập và xuất khẩu. Hình thức của hợp đồng nhập khẩu đổi hàng là có thể chỉ lập bằng một hợp đồng với hai danh mục hàng hóa hoặc hai hợp đồng mà mỗi hợp đồng một danh mục hàng hóa hay một văn bản nguyên tắc ( có thể là một hợp đồng khung, một thỏa thuận chung hoặc bản ghi nhớ) trên cơ sở văn bản nguyên tắc, người ta ký kết các hợp đồng mua bán cụ thể để thực hiện. Hoạt động nhập khẩu này mang lại lợi ích hơn cho các bên liên quan bởi cùng một hợp đồng mà có thể tiến hành cùng một lúc cả hoạt động xuất và nhập, do đó mà có thể thu lãi từ cả hai hoạt động này. Trong hợp đồng nhập khẩu đổi hàng thường có điều kiện đảm bảo đối lưu. Sự đảm bảo này có thể được thực hiện bởi một trong những phương pháp sau: + Dùng thư tín dụng đối ứng ( Reciprocal Letter of Credit): đây là một loại thư tín dụng mà trong nội dung của nó có các điều khoản quy định chung. Thư tín dụng đối ứng chỉ có hiệu lực khi người hưởng mở một thư tín dụng khác có kim ngạch tương đương. + Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hóa. Người này sẽ chỉ giao chứng từ đó cho người nhận hàng khi người này đổi lại một chứng từ sở hữu hàng hóa có giá trị tương đương. + Phạt về việc giao thiếu hay giao chậm hàng, 1.4.5 Nhập khẩu theo đơn đặt hàng: 1.4.5.1 Khái niệm: Nhập khẩu theo đơn đặt hàng là hình thức đơn vị ngoại thương chịu mọi chi phí và mọi rủi ro để nhập khẩu hàng hoá cho đơn vị đặt hàng trên cơ sở đơn đặt hàng của đơn vị đặt hàng còn đơn vị đặt hàng có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền. 1.4.5.2 Đặc điểm: Đơn vị ngoại thương phải kí kết hợp đồng với đối tác nước ngoài theo đúng đơn đặt hàng về các mặt hàng, tên hàng, số lượng hàng, quy cách, chất lượng sản phẩm, điều kiện kỹ thuật và thời hạn giao hàng. Đối với hình thức này phương thức thanh toán thường áp dụng là: phương pháp nhờ thu có chấp nhận. 1.4.6 Nhập khẩu tái xuất: 1.4.6.1 Khái niệm: Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhậpkhẩu hàng hoá vào trong nước nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước khác nhằm thu lợi nhuận, những hàng nhập khẩu này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Trong hoạt động nhập khẩu tái xuất luôn luôn có sự tham gia của ba nước là: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất. 1.4.6.2 Đặc điểm: Doanh nghiệp tái xuất phải thực hiện hai hợp đồng: hợp đồng nhập khẩu và hợp đồng xuất khẩu và không phải chịu thuế xuất nhập khẩu về các hình thức kinh doanh. Doanh nghiệp nhập khẩu ở nước tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mối bạn hàng xuất và bạn hàng nhập, đảm bảo sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động này. Doanh nghiệp xuất nhập tái xuất trực tiếp được tính kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu, doanh số bán tính trên giá trị hàng xuất khẩu, do đó vẫn phải chịu thuế doanh thu. Hàng hoá nhập khẩu không nhất thiết phải qua nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng sang nước thứ ba, nhưng trả tiền phải luôn do nước tái xuất thu từ người nhập khẩu và trả cho nước xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được lợi thế về tiền hàng do thu nhanh trả chậm. Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường dùng thư tín dụng giáp lưng (back to back L/C). 1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp: 1.5.1. Chế độ chính sách chính trị, luật pháp trong nước và quốc tế: Môi trường chính trị luật pháp bao gồm các văn bản dưới luật, các quy định pháp luật về kinh doanh trong nước và quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Các yếu tố chính trị bao gồm sự ổn định của chính phủ, mức độ tham nhũng trong hệ thống chính trị, tiến trình chính trị có ảnh hưởng đến chính sách kinh tế. Môi trường pháp lý lành mạnh là tiền đề quan trọng cho các hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra thuận lợi, vừa điều chỉnh các hoạt động kinh tế vi mô theo hướng không chỉ chú ý đến kết quả riêng mà còn chú ý đến lợi ích của các thành viên khác trong xã hội. Môi trường pháp luật đảm bảo tính bình đẳng của mọi loại hình doanh nghiệp sẽ điều chỉnh các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh. Khi tiến hành các hoạt động kinh doanh mọi doanh nghiệp có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của pháp luật, đặc biệt là kinh doanh trên thị trường quốc tế. Bởi vì hoạt động nhập khẩu được tiến hành bởi các chủ thể ở các quốc gia khác nhau do đó nó chịu sự tác động của chính sách, chế độ ở quốc gia đó, đồng thời nó cũng phải tuân thủ những quy định luật pháp quốc tế chung. Trong quá trình hoạt động nhập khẩu doanh nghiệp phải nắm chắc luật pháp của nước sở tại và tiến hành kinh doanh trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nước đó. 1.5.2. Những yếu tố cạnh tranh: Bao gồm các biến số như số lượng các đối thủ cạnh tranh của công ty và chiến lược kinh doanh của chúng, cơ cấu giá thành, chất lượng sản phẩm. Đây là nhân tố có tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu của từng doanh nghiệp. Ngoài ra còn tính đến việc cạnh tranh có ảnh hưởng như thế nào tới giá thành và mức độ sẵn có của các nguồn lực như lao động, vốn tài chính, nguyên liệu thô. Nếu có sự tồn đọng hàng hóa hay biến động về giá cả hay có sự suy giảm về nhu cầu của một mặt hàng nào đó ở thị trường trong nước sẽ làm giảm ngay lập tức lượng hàng đó ở thị trường nhập khẩu và ngược lại. Cuối cùng các yếu tố cạnh tranh còn liên quan tới tính cách, hành vi cư xử và sở thích của người tiêu dùng đối với các sản phẩm của công ty và các đối thủ cạnh tranh của nó. 1.5.3 Những biến động trong tỷ giá hối đoái: Hoạt động nhập khẩu không phải là hoạt động trao đổi hàng hóa thông thường bởi vì nó có sự tham gia trao đổi giữa các quốc gia, các chủ thể có quốc tịch khác nhau và đặc biệt là sự góp mặt của các đồng tiền có giá trị khác nhau. Tỷ giá hối đoái là phương tiện so sánh về mặt giá trị tương đối giữa các ngoại tệ. Khi tỷ giá hối đoái tăng lên, đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và ngược lại. Bởi vì, khi tỷ giá tăng lên với cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu có thể đổi được nhiều hơn đồng nội tệ, hàng xuất khẩu rẻ hơn tuy nhiên hàng nhập khẩu đắt hơn, nên các nhà nhập khẩu hạn chế kinh doanh hàng nhập khẩu. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm xuống có tác động hạn chế xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu sẽ đổi được ít hơn đồng nội tệ, đồng thời đây lại là cơ hội tốt cho hoạt động nhập khẩu. 1.5.4 Hệ thống giao thông vận tải phát triển: Hệ thống giao thông vận tải đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu diễn ra giữa các doanh nghiệp quốc gia khác nhau, xa cách nhau về không gian. Do đó hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc có vai trò to lớn đối với hoạt động nhập khẩu. Vấn đề cung cấp hàng hóa đầy đủ, chính xác, kịp thời đã trở thành nhu cầu số một, là yếu tố đầu tiên tạo niềm tin, uy tín đối với khách hàng. Sự phát triển của hệ thống vận tải, thông tin liên lạc đã nói lên tầm quan trọng của việc vận tải hàng hóa. Việc hiện đại hóa phương thức vận chuyển, bốc xếp, bảo quản góp phần làm an toàn, nhanh chóng trong quá trình nhập khẩu. 1.5.5 Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp: Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố như: văn hóa, chính trị xã hội, công nghệ....Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp đều ảnh hưởng tới các quyết định kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp với điều kiện cơ bản của mình và căn cứ vào những biến động của các yếu tố đó mà cân nhắc lựa chọn phương án kinh doanh phù hợp. Đây là những nhân tố khách quan mà doanh nghiệp chỉ có thể nhận thức được chứ không thể tự mình tác động để làm nó biến đổi. 2. Phân phối và xúc tiến bán sản phẩm: Hoạt động nhập khẩu được thực hiện với nhiều khâu và nghiệp vụ khác nhau như: nghiên cứu tiếp cận thị trường, lựa chọn hàng hóa nhập khẩu, tiến hành các giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng, và tổ chức bán sản phẩm nhập khẩu. Tổ chức bán hàng nhập khẩu của doanh nghiệp ở trong nước là khâu cuối cùng trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu nhưng lại là khâu quyết định cho thành công của thương vụ nhập khẩu. Tổ chức thực hiện tốt hoạt động bán hàng là một cách gián tiếp giảm chi phí lưu thông, tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 2.1 Phân phối sản phẩm: 2.1.1 Bản chất và tầm quan trọng của kênh phân phối: 2.1.1.1 Khái niệm kênh phân phối: Theo quan điểm tổng quát của Marketing, kênh phân phối là một tập hợp các doanh nghiệp và cá nhân độc lập và phụ thuộc lẫn nhau, tham gia vào quá trình đưa hàng hóa từ người sản xuất tới người tiêu dùng. Nói cách khác, đây là một nhóm các tổ chức cá nhân thực hiện các hoạt động làm cho sản phẩm hoặc dịch vụ sẵn sàng để người tiêu dùng hoặc người sử dụng công nghiệp có thể mua và sử dụng. Tất cả những người tham gia vào kênh phân phối được gọi là các thành viên của kênh. Các trung gian thương mại nằm giữa người sản xuất và người tiêu dùng cuối cùng là thành viên quan trọng trong nhiều kênh phân phối. Có nhiều loại trung gian thương mại tham gia vào kênh phân phối và thực hiện các chức năng khác nhau. Chủ yếu bao gồm: nhà bán buôn, nhà bán lẻ, đại lý và môi giới, nhà phân phối. 2.1.1.2 Vai trò của kênh phân phối: Vai trò quan trọng của kênh phân phối là làm cho cung và cầu phù hợp một cách trật tự và hiệu quả. Nhờ quan hệ tiếp xúc, kinh nghiệm, việc chuyên môn hóa và quy mô hoạt động mà những người trung gian sẽ đem lại cho nhà sản xuất nhiều lợi ích hơn so với khi họ tự làm lấy. Việc sử dụng các trung gian thương mại trong kênh phân phối sẽ có hiệu quả hơn do tối thiểu hóa số lần tiếp xúc. Nhờ có mạng lưới kênh phân phối mà khắc phục được những khác biệt về thời gian, địa điểm và quyền sở hữu giữa người sản xuất với những người tiêu dùng các hàng hóa và dịch vụ 2.1.1.3 Chức năng của các thành viên trong kênh phân phối: Mỗi thành viên trong kênh phân phối thực hiện các chức năng khác nhau với những mức độ khác nhau. Chức năng chủ yếu mà tất cả các thành viên trong kênh phải thực hiện đó là: nghiên cứu thị trường: nhằm thu thập thông tin cần thiết để lập chiến lược phân phối. Xúc tiến khuyếch trương cho những sản phẩm họ bán: soạn thảo và truyền bá những thông tin về hàng hóa. Thương lượng: để thỏa thuận phân chia trách nhiệm và quyền lợi trong kênh. Thỏa thuận về giá cả và những điều kiện phân phối khác. Phân phối vật chất: vận chuyển, bảo quản, dự trữ hàng hóa. Hoàn thiện hàng hóa: làm cho hàng hóa đáp ứng được những yêu cầu của người mua. Tài trợ: cơ chế tài chính trợ giúp cho các thành viên trong kênh thanh toán San sẻ rủi ro: chia sẻ những rủi ro liên quan đến quá trình phân phối. Doanh nghiệp cần phải xác định phân chia chức năng của các thành viên trong kênh hợp lý như vậy sẽ giảm được chi phí, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh. 2.1.2 Cấu trúc và tổ chức kênh phân phối: Cấu trúc kênh phân phối + chiều dài kênh phân phối: được đặc trưng bởi số cấp độ trung gian tham gia vào kênh phân phối, mỗi một loại hình trung gian tham gia vào kênh phân phối được gọi là một cấp của kênh. Kênh phân phối theo chiều dài bao gồm: kênh A: kênh trực tiếp, kênh không cấp: nhà sản xuất bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng, như: bán hàng qua truyền hình, thương mại điện tử, trực tiếp tại các cửa hàng của nhà sản xuất.... Áp dụng trong trường hợp phân phối hay bán những sản phẩm mau hỏng đòi hỏi thời gian lưu thông ngắn, những sản phẩm cồng kềnh, nặng nề đòi hỏi phải phân phối ngắn để giảm tối đa quãng đường vận chuyển và số lần bốc dỡ.. Kênh B (kênh cấp 1): nhà sản xuất bán hàng qua nhà bán lẻ đến người tiêu dùng. Áp dụng trong trường hợp: khi nhà bán lẻ có quy mô lớn và có khả năng kinh doanh để có thể mua được khối lượng lớn từ nhà sản xuất; khi chi phí lưu kho là quá đắt nếu phải sử dụng nhà bán buôn. Kênh C (kênh 2 cấp): xuất hiện thêm nhà trung gian thứ hai: nhà bán buôn. Có sự chuyên môn hóa và thỏa thuận trong kênh, khả năng kiểm soát của nhà sản xuất với giá sản phẩm dịch vụ đến tay người tiêu dùng giảm. Áp dụng phổ biến cho các sản phẩm tiêu dùng, dịch vụ thông thường. Kênh D (kênh 3 cấp): là kênh dài nhất cho nên khả năng kiểm soát của nhà sản xuất rất hạn chế. Áp dụng trong trường hợp khi có nhiều nhà sản xuất nhỏ và nhiều nhà bán lẻ nhỏ, một đại lý được sử dụng để giúp phối hợp cung cấp sản phẩm với khối lượng lớn, lúc này trách nhiệm của đại lý là triển khai chính sách phân phối của doanh nghiệp ở khu vực mà họ phụ trách. + Chiều rộng của kênh phân phối: đặc trưng bởi số lượng trung gian ở mỗi cấp độ phân phối. Có ba phương thức phân phối là: phân phối rộng rãi: Doanh nghiệp cố gắng bán sản phẩm qua càng nhiều trung gian càng tốt, thường áp dụng đối với các sản phẩm và dịch vụ thông dụng. Phân phối chọn lọc: Nhà sản xuất chọn lọc một số trung gian đạt tiêu chuẩn nhất định, thường áp dụng đối với hàng mua có suy nghĩ, hàng có giá trị cao, không mua hàng thường xuyên. Phân phối duy nhất: Doanh nghiệp chỉ chọn một trung gian thương mại duy nhất và yêu cầu đại lý bán một mặt hàng độc quyền. Mục đích của nhà sản xuất muốn đại lý gắn bó chặt chẽ với một sản phẩm của họ, đại lý sẽ bán tích cực hơn, đồng thời dễ dàng kiểm soát chính sách của người trung gian về việc định giá bán, tín dụng, quảng cáo và các dịch vụ khác. Nếu doanh nghiệp kết hợp cả hai kiểu cấu trúc này thì có thể bao phủ thị trường một cách nhanh chóng nhưng dễ gây xung đột trong kênh dẫn tới hậu quả làm phá vỡ kênh. 2.1.3 Các căn cứ lựa chọn kênh phân phối: Vấn đề quan trọng đặt ra đối với mỗi người quản lý kênh phân phối là lựa chọn được kênh phân phối thích hợp ch._.o sản phẩm của mình. Trong một số ngành, kênh phân phối đã phát triển qua nhiều năm và trở thành kênh truyền thống. Tuy nhiên, không phải kênh truyền thống là luôn có hiệu quả, trong nhiều trường hợp vẫn cần phải lựa chọn những kênh phân phối mới có hiệu quả cao hơn. Còn đối với trường hợp kênh phân phối sản phẩm chưa có sẵn thì tất yếu phải thực hiện việc lựa chọn kênh. Những căn cứ chung để lựa chọn kênh phân phối tối ưu cho sản phẩm là: Những mục tiêu của kênh: mục tiêu của kênh phân phối sẽ định rõ kênh sẽ vươn tới thị trường nào? với mục tiêu nào? Những mục tiêu khác nhau đòi hỏi kênh phân phối khác nhau cả về cấu trúc lẫn cách quản lý. Những mục tiêu có thể là mức dịch vụ khách hàng, yêu cầu mức độ hoạt động của các trung gian, phạm vi bao phủ thị trường. Các mục tiêu được xác định phụ thuộc mục tiêu của Marrketing-mix và mục tiêu chiến lược tổng thể của công ty. Đặc điểm của khách hàng mục tiêu: đây cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới việc lựa chọn kênh. Những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới việc lựa chọn kênh. Những yếu tố quan trọng cần xem xét về đặc điểm của khách hàng là quy mô, cơ cấu, mật độ và hành vi khách hàng. Khách hàng càng ở phân tán về địa lý thì kênh càng dài. Nếu khách hàng mua thường xuyên từng lượng nhỏ, cũng cần kênh dài. Mật độ khách hàng trên một khu vực địa lý càng cao càng nên sử dụng kênh phân phối trực tiếp. Một yếu tố khác chi phối đến việc lựa chọn kênh đó là đặc điểm của sản phẩm. Những sản phẩm dễ hư hỏng, thời gian từ sản xuất đến tiêu dùng ngắn, cần kênh trực tiếp. Những sản phẩm cồng kềnh, nặng nề đòi hỏi kênh phân phối ngắn để giảm tối đa quãng đường vận chuyển và số lần bốc dỡ. Những hàng hóa không tiêu chuẩn hóa cần bán trực tiếp, sản phẩm có giá trị đơn vị cao thường do lực lượng bán của công ty bán chứ không qua trung gian. Các trung gian thương mại tham gia vào kênh có vai trò quan trọng trong lựa chọn kênh phân phối. Người quản lý kênh phải xem xét có những loại trung gian thương mại nào trên thị trường, khả năng, mặt mạnh, mặt yếu của các trung gian trong việc thực hiện nhiệm vụ của họ. Các trung gian thương mại có khả năng khác nhau trong việc thực hiện quảng cáo, lưu kho, khai thác khách hàng và cung cấp tín dụng... Vì vậy, doanh nghiệp cần phải phân tích để lựa chọn loại trung gian thích hợp cho kênh phân phối sản phẩm của mình. Việc lựa chọn kênh phân phối cũng chịu ảnh hưởng bởi các kênh của các đối thủ cạnh tranh. Nhà sản xuất có thể lựa chọn những kênh phân phối có cùng đầu ra bán lẻ với các nhà cạnh tranh hay những kênh hoàn toàn khác với kênh của họ. Doanh nghiệp phải lựa chọn kênh phân phối có thể mang lại lợi thế cạnh tranh so với kênh của đối thủ cạnh tranh. Nhìn chung, cạnh tranh càng mạnh thì nhà sản xuất càng gần những kênh có sự liên kết chặt chẽ. Đặc điểm của doanh nghiệp cũng là căn cứ quan trọng khi lựa chọn kênh phân phối. Quy mô của doanh nghiệp sẽ quyết định quy mô thị trường và khả năng của doanh nghiệp tìm được các trung gian thương mại thích hợp. Nguồn lực của doanh nghiệp sẽ quyết định nó có thể thực hiện các chức năng phân phối nào và phải nhường cho các thành viên kênh khác những chức năng nào. Dòng sản phẩm của doanh nghiệp có ảnh hưởng tới kiểu kênh, dòng sản phẩm càng đồng nhất thì kênh càng thuần nhất. Chiến lược Marketing của doanh nghiệp khác nhau thì kiểu kênh sử dụng cũng khác nhau. Các đặc điểm môi trường Marketing: Những thay đổi của môi trường marrketing ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ tới các quyết định lựa chọn kênh. Khi nền kinh tế suy thoái, nhà sản xuất thường sử dụng các kênh ngắn và bỏ bớt những dịch vụ không cần thiết để giảm giá bán sản phẩm. Những quy định và ràng buộc pháp lý cũng ảnh hưởng đến kiểu kênh. Luật pháp ngăn cản việc tổ chức các kênh có xu hướng triệt tiêu cạnh tranh và độc quyền. Do đặc tính của sản phẩm, môi trường marketing ảnh hưởng đến bán hàng, nhu cầu và kỳ vọng của khách hàng tiềm năng mà yêu cầu về mức độ bao phủ thị trường trong phân phối sản phẩm sẽ thay đổi. Do đó mức độ bao phủ thị trường cũng là căn cứ lựa chọn kênh phân phối. Sự bao phủ thị trường của hệ thống kênh phân phối được xem như một bảng biến thiên từ phân phối rộng rãi tới phân phối đặc quyền. Khi lựa chọn kênh phân phối, doanh nghiệp phải căn cứ vào yêu cầu về mức độ điều khiển kênh. Mức độ điều khiển kênh tỷ lệ thuận với tính trực tiếp của kênh. Khi sử dụng các kênh gián tiếp, doanh nghiệp phải từ bỏ một số yêu cầu điều khiển việc tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường. Ngoài ra, cũng cần phải căn cứ vào tổng chi phí phân phối của cả hệ thống kênh khi lựa chọn một kênh. Mục tiêu của doanh nghiệp là tối ưu hóa hoạt động của cả hệ thống. Doanh nghiệp phải lựa chọn được kênh phân phối có tổng chi phí phân phối thấp nhất. 2.2. Xúc tiến bán hàng: Để hỗ trợ cho hoạt động bán hàng doanh nghiệp cần thực hiện các hoạt động như xúc tiến bán hàng hay các dịch vụ sau bán hàng. Nó là một trong những công cụ thúc đẩy bán hàng và đặc biệt là các hàng hóa nhập khẩu có giá trị cao. 2.2.1 Bản chất của xúc tiến hỗn hợp: Xúc tiến hỗn hợp (promotion) là một trong bốn nhóm công cụ chủ yếu của Marketing-mix mà doanh nghiệp có thể sử dụng để tác động vào thị trường mục tiêu nhằm đạt mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Bản chất của các hoạt động xúc tiến chính là truyền tin về sự tồn tại của sản phẩm và doanh nghiệp, những đặc điểm có thể mua của sản phẩm tới khách hàng để thuyết phục họ mua. Vì vậy có thể gọi đây là các hoạt động truyền thông Marketing. Xúc tiến hỗn hợp cung cấp thông tin cho khách hàng thông qua 5 công cụ chủ yếu sau: Quảng cáo, xúc tiến bán, tuyên truyền, bán hàng cá nhân, Marketing trực tiếp. Như vậy, để thực hiện được hoạt động xúc tiến khuyếch trương một cách hiệu quả, doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ bản chất của truyền thông Marketing và những phương thức thực hiện hoạt động truyền thông như thế nào. 2.2.2 Các công cụ của xúc tiến bán: Xúc tiến bán bao gồm 5 công cụ chủ yếu. Trong mỗi loại bao gồm một tập hợp các công cụ chuyên biệt để thực hiện truyền thông Marketing thích hợp trong những thị trường cụ thể đối với những hàng hóa cụ thể. 2.2.2.1 Quảng cáo: Quảng cáo bao gồm các hình thức giới thiệu một cách gián tiếp và đề cao về những ý tưởng, hàng hóa hoặc dịch vụ được thực hiện theo yêu cầu của chủ thể quảng cáo và chủ thể phải thanh toán các chi phí. Đây là kiểu truyền thông có tính đại chúng, mang tính xã hội cao. Quảng cáo là một phương tiện có khả năng thuyết phục, tạo cơ hội cho người nhận tin so sánh thông tin với các đối thủ cạnh tranh làm tăng thêm sức thuyết phục đối với khách hàng mục tiêu. Quảng cáo không phải là sự giao tiếp đối thoại giữa doanh nghiệp và khách hàng. Nó chỉ là hình thức thông tin một chiều: truyền tin về doanh nghiệp, hàng hóa và sản phẩm của doanh nghiệp tới khách hàng mà thôi. Quảng cáo có thể tạo ra hình ảnh cho hàng hóa, định vị nó trong người tiêu dùng, sử dụng quảng cáo để kích thích tiêu thụ nhanh, đồng thời thu hút khách hàng phân tán về không gian với chi phí hiệu quả cho mỗi lần tiếp xúc quảng cáo. 2.2.2.2 Xúc tiến bán: Xúc tiến bán qua các hình thức khuyến mại là những biện pháp tác động tức thời ngắn hạn để khuyến khích việc mua sản phẩm hay dịch vụ. Bao gồm các hoạt động như thông qua các cuộc thi, trò chơi, phần thưởng....Chúng thu hút sự chú ý và thường xuyên cung cấp thông tin để dẫn khách hàng tới sử dụng thử sản phẩm. Khuyến khích việc mua hàng hóa nhờ đưa ra những lợi ích phụ thêm do mua hàng hóa của doanh nghiệp. Xúc tiến bán đem lại nguồn thông tin phản ứng đáp lại của người mua sớm hơn. Tuy nhiên, tác dụng của xúc tiến bán chỉ trong thời kỳ ngắn hạn, không phát huy tác dụng trong thời kỳ dài hạn. 2.2.2.3 Quan hệ công chúng: Quan hệ công chúng: là việc kích thích một cách gián tiếp nhằm tăng nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ hay tăng uy tín của một đơn vị kinh doanh bằng cách đưa ra những tin tức có ý nghĩa thương mại về chúng trên các ấn phẩm, các phương tiện thông tin đại chúng và miễn phí. Hoạt động này có nhiệm vụ đảm bảo cho doanh nghiệp có danh tiếng tốt, hình ảnh tốt, xử lý các tin đồn, các hình ảnh bất lợi đã lan tràn ra ngoài. Nó có tác động sâu sắc đến mức độ hiểu biết của xã hội, có khả năng thuyết phục người mua lớn và ít tốn kém hơn nhiều so với hoạt động quảng cáo. 2.2.2.4 Bán hàng cá nhân: Bán hàng cá nhân bao gồm những mối quan hệ trực tiếp giữa người bán với các khách hàng hiện tại và tiềm năng. Hay nói cách khác bán hàng cá nhân là sự giới thiệu bằng miệng về hàng hóa và dịch vụ của người bán hàng qua cuộc đối thoại với một hoặc nhiều khách hàng tiềm năng nhằm mục đích bán hàng. Tầm quan trọng của hoạt động bán hàng cá nhân phụ thuộc vào bản chất sản phẩm, nhu cầu của người tiêu dùng, giai đoạn trong quá trình mua. Tham gia vào hoạt động bán hàng cá nhân bao gồm rất nhiều người trong doanh nghiệp như người nhận đơn hàng, người bán trực tiếp... 2.2.2.5 Marketing trực tiếp: Marrketing trực tiếp là việc sử dụng một hoặc nhiều công cụ truyền thông marketing để ảnh hưởng đến quyết định mua trực tiếp của khách hàng và tạo nên các giao dịch kinh doanh ở mọi địa điểm. Marketing trực tiếp cố gắng kết hợp cả 3 yếu tố quảng cáo, xúc tiến bán, bán hàng cá nhân để có thể bán được hàng trực tiếp mà không qua trung gian. Marketing trực tiếp sử dụng các phương tiện quảng cáo trả lời trực tiếp để bán hàng và tìm hiểu về một khách hàng cụ thể nhằm thiết lập mối quan hệ thường xuyên và đầy đủ với khách hàng. 2.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn phối hợp xúc tiến: 2.2.3.1 Kiểu loại hàng hóa, thị trường: Đối với loại hàng hóa, thị trường tiêu dùng cá nhân, quảng cáo mang lại hiệu quả cao nhất, tiếp theo là xúc tiến bán, bán hàng cá nhân và cuối cùng là tuyên truyền. Bởi vì thông qua các phương tiện quảng cáo: báo, tạp chí, tivi, đài, pano, áp phích... doanh nghiệp có thể cung cấp một lượng thông tin tới nhiều khách hàng, hình thức truyền tải sinh động, ấn tượng dễ gây sự chú ý lôi cuốn được khối lượng lớn khách hàng trung thành. Đối với loại hàng hóa tư liệu sản xuất công cụ bán hàng cá nhân phát huy hiệu quả cao nhất, tiếp theo là xúc tiến bán, quảng cáo và cuối cùng là tuyên truyền. Đặc điểm của loại hàng hóa tư liệu sản xuất là sự phức tạp trong cách sử dụng, nhu cầu không phát sinh thường xuyên... do đó việc trực tiếp tiếp xúc với khách hàng sẽ làm tăng khả năng bán sản phẩm. 2.2.3.2 Chiến lược kéo hay đẩy: Việc xác định thành phần của hệ thống truyền thông cũng như định vị từng công cụ trong hệ thống phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược marketing thuộc loại đẩy hay kéo của doanh nghiệp. Chiến lược đẩy là: hoạt động marketing tác động vào các các trung gian thương mại. Chiến lược này yêu cầu phải sử dụng nhân viên bán hàng và khuyến khích hoạt động mua bán ở các trung gian trong kênh phân phối để đẩy hàng hóa trong kênh ra thị trường. Người sản xuất quảng cáo và xúc tiến bán đối với người bán buôn, người bán buôn quảng cáo và xúc tiến bán tới người bán lẻ, người bán lẻ quảng cáo và xúc tiến bán tới người tiêu dùng. Chiến lược kéo: là hoạt động marketing của nhà sản xuất tác động trực tiếp vào người tiêu dùng sau cùng bằng việc tăng cường quảng cáo và xúc tiến bán nhằm hình thành nhu cầu tập trung trên thị trường, tạo nên áp lực cần thỏa mãn nhu cầu và hình thành sức kéo hàng hóa từ thị trường dọc theo kênh phân phối qua các thành viên trung gian. Ở những cấp độ khác nhau của kênh phân phối phải sử dụng những công cụ truyền thông nhất định. Hai chiến lược này sẽ có hiệu quả hơn khi có sự định vị cấu trúc truyền thông thích hợp. 2.2.3.3 Các giai đoạn chu kỳ sống của sản phẩm: Các giai đoạn khác nhau của chu kỳ sống thích ứng với những phương tiện truyền thông khác nhau. Chu kỳ sống của sản phẩm bao gồm: giai đoạn sản phẩm mới, giai đoạn tăng trưởng, giai đoạn bão hòa, giai đoạn suy thoái. Trong giai đoạn sản phẩm mới, hoạt động quảng cáo và tuyên truyền càng thích hợp nhằm tạo ra sự nhận biết, tiếp theo là các hoạt động xúc tiến bán và bán hàng cá nhân. Trong giai đoạn tăng trưởng, quảng cáo và tuyên truyền càng thích hợp nhằm đẩy nhanh doanh số bán ra, các hoạt động khác có thể giảm tùy theo điều kiện Trong giai đoạn bão hòa, hoạt động xúc tiến bán có tác dụng nhất. Các hoạt động khác có thể duy trì ở mức vừa đủ. Trong giai đoạn suy thoái, các hoạt động truyền thông đều giảm và một số bị loại trừ, xúc tiến bán trở nên quan trọng vì còn phát huy tác dụng tích cực. Ngoài ra, bản chất của các phương tiện truyền thông cũng có ảnh hưởng tới việc lựa chọn xúc tiến hỗn hợp. Doanh nghiệp có thể sử dụng các công cụ xúc tiến một cách độc lập khi đã xác định được chính xác đối tượng, thị trường thích hợp và ít đối thủ cạnh tranh. Như vậy sẽ đạt được hiệu quả cao, ít tốn kém chi phí... Đối với những doanh nghiệp đưa ra nhiều mục tiêu cho hoạt động truyền thông đối với công chúng hoặc doanh nghiệp hoạt động trong khu vực thị trường rộng có nhiều đối thủ cạnh tranh thì có thể tiến hành hoạt động truyền thông phối hợp. Doanh nghiệp có thể kết hợp nhiều công cụ xúc tiến, nhiều kiểu thông điệp một cách đồng thời hoặc xen kẽ nhằm tạo ra khả năng tiếp cận và truyền tin tới thị trường mục tiêu. Kết Luận: Hoạt động kinh doanh nhập khẩu ngày càng diễn ra một cách sôi nổi dưới nhiều hình thức và quy mô khác nhau. Tùy thuộc vào từng doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động mà chọn ra một phương án phù hợp và có hiệu quả nhất. Để hoạt động kinh doanh nhập khẩu thực sự thành công và hiệu quả thì công việc không kém phần quan trọng đó là tổ chức bán hàng nhập khẩu ở thị trường trong nước. Phải tổ chức bán hàng sao để thu hồi vốn nhanh, an toàn, và giảm đến mức tối đa chi phí bán hàng. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU RƯỢU VANG CỦA CÔNG TY TOCONTAP HANOI 1. Tổng quan về công ty CP XNK TP TOCONTAP HANOI: 1.1- Quá trình hình thành và phát triển của công ty CPXNK TP TOCONTAP: 1.1.1 Quá trình hình thành của công ty CPXNK TP Tocontap: Công ty cổ phần xuất nhập khẩu tạp phẩm (VIET NAM NATIONAL SUNDRIES IMPORT AND EXPORT JOINT STOCK COMPANY ) được cấp giấy phép và con dấu hoạt động chính thức ngày 27 tháng 6 năm 2006. Tiền thân là Tổng công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm, một công ty xuất nhập khẩu hàng đầu của Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 333/TM/TCCB ngày 31/3/1993 của Bộ Thương mại. Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Tạp phẩm kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ của Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm, cùng có tên gọi tắt là TOCONTAP HANOI. Trụ sở chính của công ty đặt tại 36 phố Bà Triệu, Hà Nội, Việt Nam. Tổng công ty XNK TP TOCONTAP HANOI chính thức đi vào hoạt động ngày 5 tháng 3 năm 1956 thuộc sự quản lý của Bộ thương mại Việt Nam, với số vốn ban đầu do Nhà nước cấp là 200 triệu. Trong nửa thế kỷ xây dựng và hoạt động của mình, từ những đòi hỏi thực tế khách quan mà cơ cấu tổ chức của công ty đã nhiều lần thay đổi. Cụ thể: Năm 1964, toàn bộ các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty được tách ra để thành lập công ty ARTEXPORT. Năm 1972, tách các cơ sở sản xuất của công ty giao cho bộ Công nghiệp nhẹ quản lý. Năm 1977, bộ phận XNH hàng dệt may được tách ra thành lập công ty TEXTIMEX ( hiện nay là Vinatex ). Năm 1985, tách mặt hàng dụng cụ kim khí và cầm tay thành lập công ty MECANIMEX. Năm 1987, bộ phận da, giả da và giầy dép được tách ra thành lập công ty XNK da giầy LEAPRODEXIM. Từ năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, nhiều cán bộ chủ chốt của công ty đã đi vào miền Nam để thành lập chi nhánh Tocontap tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1990, chi nhánh Tocontap tại thành phố Hồ Chí Minh đã tách hẳn ra thành lập công ty độc lập và trực thuộc Bộ thương mại lấy tên là Tocontap Saigon. Các kho tàng bến bãi của công ty trong quá trình hoạt động cũng được chuyển giao cho công ty giao nhận kho vận ngoại thương. Ngày 23/3/1993, Bộ Thương mại đã ra quyết định đổi tên Tổng công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm thành Công ty XNK tạp phẩm. Mặc dù liên tục có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức nhưng sự phát triển kinh doanh của TOCONTAP HANOI luôn có những thay đổi thích ứng, kịp thời để vừa đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của nền kinh tế và quốc phòng đất nước trong từng thời kỳ, vừa tự gây dựng nền móng để ngày càng phát triển thành một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động xuất nhập khẩu thực sự có tiềm lực. Công ty TOCONTAP HANOI có tài khoản tiền mặt Việt Nam và tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng : Ngoại Thương Việt Nam, Ngoại thương Hải Phòng, Ngoại thương Thành Phố Hồ Chí Minh, Đầu tư và phát triển Hà Nội, Đầu tư và phát triển Hải Phòng, Xuất nhập khẩu Hà Nội, Nông Nghiệp& Phát triển nông thôn- chi nhánh Láng Hạ, Kỹ Thương Việt Nam. Toàn bộ hoạt động kinh doanh của Công ty đều tuân thủ theo luật thương mại và các luật khác của Việt Nam. 1.1.2. Quá Trình phát triển công ty: Trong suốt 50 năm phát triển, trải qua nhiều giai đoạn khó khăn thử thách nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh của TOCONTAP đều để lại những dấu ấn đậm nét. Thương hiệu TOCONTAP đã trở nên thân quen với nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước, đặc biệt với các đơn vị sản xuất và XNK. Từ nguồn vốn Nhà nước giao ban đầu là 200 triệu VND, qua nhiều thế hệ xây dựng và chắt chiu đóng góp, đến nay nguồn vốn Nhà nước tại công ty đã lên đến gần 50 tỷ đồng . Trong thời kì từ năm 1958 đến 1975 kim ngạch xuất khẩu của công ty luôn chiếm khoảng 1/3 kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong thời kì đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, hoạt động SXKD ban đầu còn gặp nhiều khó khăn vì chưa quen với cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt, nhưng công ty đã kịp thời tìm ra hướng đi riêng cho mình và liên tục từ năm 2000 đến nay luôn hoàn thành và vượt các chỉ tiêu được giao, bảo tồn vốn, kinh doanh có lãi, đời sống cán bộ công nhân viên được chăm lo và cải thiện. Các chỉ tiêu về kim ngạch XNK, doanh thu, nộp lãi, nộp ngân sách của những năm đầu thế kỷ 21 này đều tăng trên dưới 200% so với các năm của cuối thế kỷ 20. Cụ thể như sau: Thời kỳ 1956-1960: thời kỳ đất nước vừa ra khỏi cuộc kháng trường kỳ chống thực dân Pháp, nền kinh tế còn yếu kém, chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, nền công nghiệp đang trong giai đoạn xây dựng, kinh doanh XNK còn nhiều bỡ ngỡ nen kim ngạch XNK của công ty chưa cao. Kim ngạch XNK bình quân mỗi năm đạt được 28,7 triệu Rúp, trong đó XK là 10,7 triệu Rúp, nhập khẩu là 18 triệu Rúp. Kim ngạch XK của Tổng công ty thời kỳ này bình quân chiếm 20,8% tổng kim ngạch XK của toàn miền Bắc. Thời kỳ 1961-1965: Kim ngạch XNK bình quân mỗi năm đạt 57,9 triệu Rúp, trong đó XK bằng 29,5 triệu Rúp, NK bằng 28,4 triệu Rúp. Kim ngạch XK bình quân chiếm 28,8% tổng kim ngạch XK của toàn miền Bắc. Thời kỳ 1966-1970: Thời kỳ giặc Mỹ đã bắt đầu đánh phá miền Bắc, hoạt động xuất nhập khẩu cũng chịu ảnh hưởng nặng nề nhưng công ty đã quyết tâm giữ vững và đẩy mạnh kim ngạch XNK. Kim ngạch XNK giai đoạn này bình quân mỗi năm đạt được 84,9 triệu Rúp, trong đó XK bằng 16,5 triệu Rúp, NK bằng 68,4 triệu Rúp. Kim ngạch XK của công ty bình quân chiếm 33,5% tổng kim ngạch XK của cả miền Bắc. Thời kỳ 1971-1975: Những năm đầu giặc Mỹ tăng cường ném bom miền Bắc, phong toả cảng biển Hải Phòng nhưng kim ngạch XNK của Công ty vẫn tăng nhanh, bình quân mỗi năm đạt 114,8 triệu Rúp, trong đó XK 32,3 triệu Rúp, NK bằng 82,5 triệu Rúp. Kim ngạch XK của công ty bình quân chiếm 39,4% tổng kim ngạch XK của cả miền Bắc. Thời kỳ 1976-1980: Là thời kỳ đất nước vươn dậy sau chiến tranh, khắc phục hậu quả của bom đạn và từng bước đi lên. Kim ngạch XNK bình quân mỗi năm đạt 217 triệu Rúp. Trong đó XK đạt 75,7 triệu Rúp và NK đạt 141,3 triệu Rúp. Kim ngạch XK của công ty bình quân chiếm 27,8% tổng kim ngạch XK của cả nước. Đây là thời điểm đỉnh cao về kim ngạch của TOCONTAP, từ năm 1978, kim ngạch của công ty không còn đạt như trước do toàn bộ bộ phận dệt may tách ra thành lập công ty TEXTIMEX. Thời kỳ 1981-1985: Kim ngạch XNK bình quân mỗi năm đạt 64,3 triệu Rúp. Trong đó XK bằng 27 triệu Rúp, NK bằng 37,3 triệu Rúp. Thời kỳ 1986-1990: Kim ngạch XNK bình quân mỗi năm đạt 69,1 triệu Rúp. Trong đó XK bằng 33,1 triệu Rúp, NK bằng 36 triệu Rúp. Thời kỳ 1991-1995: Bắt đầu thời kỳ đổi mới, nền kinh tế chuyển hướng sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN dưới sự chỉ đạo của Nhà Nước. Công ty tiếp tục chia tách và cùng với sự chia tách đó là những mặt hàng và những thị trường chủ yếu được bàn giao, hàng loạt cán bộ lãnh đạo và kinh doanh có khả năng và kinh nghiệm ra đi để xây dựng lực lượng nòng cốt của Công ty mới. Kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt với nhiều công ty thuộc nhiều thành phần kinh tế được thành lập cùng kinh doanh trong cùng lĩnh vực, ngành nghề nên kim ngạch của TOCONTAP bị thu hẹp lại. Kim ngạch XNK bình quân mỗi năm đạt 16,7 triệu USD, trong đó XK bằng 11,1 triệu USD, NK bằng 5,6 triệu USD. Thời kỳ 2001-2005: Thời kỳ thực hiện nhiệm vụ kế hoạch hoá 5 năm, thời kỳ của xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động kinh doanh của công ty trong cơ chế thị trường đã được định hình, cơ chế khoán kinh doanh bắt đầu áp dụng từ năm 1998 đã phát huy tác dụng tốt, tình trạng làm ăn theo cơ chế bao cấp đã dần chấm dứt. Trong giai đoạn này kim ngạch XNK liên tục tăng trưởng. Trong lịch sử nửa thế kỷ xây dựng, tổng kim ngạch của công ty đạt 2.956,75 triệu Rúp và USD trong đó XK: 1.013,8 triệu rúp và USD, NK:1.942,5 triệu rúp và USD. TOCONTAP HANOI là một trong những công ty xuất nhập khẩu hàng đầu có quan hệ rộng rãi với các quốc gia khác trên thế giới. Cho đến nay TOCONTAP HANOI đã thiết lập quan hệ kinh tế và kinh doanh quốc tế với trên 70 nước và vùng lãnh thổ, là một trong những công ty có chiều dài lịch sử phong phú và kinh nghiệm dồi dào trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế ở Việt Nam. Hoạt động của TOCONTAP HANOI hiện nay không chỉ giới hạn trong lĩnh vực xuất nhập khẩu mà còn bao gồm cả các lĩnh vực khác như đầu tư, hợp tác, liên doanh, sản xuất, đại lý, vận tải… Công ty TOCONTAP HANOI có chi nhánh tại thành phố Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh, có xí nghiệp TOCAN liên doanh với Canada, có công ty TNHH Tocontap Handelsgesllschaft GmbH tại Bremen CHLB Đức và các đại diện thương mại tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Philipin, Thái Lan, CHLB Nga, CHLB Đức, Pháp, Anh, Hungary, Tiệp Khắc, Slovakia, Achentina, Cuba. Mặc dù từ năm 2005, TOCONTAP phải khẩn trương tiến hành chuyển đổi từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần- một công việc tốn nhiều thời gian, công sức, phải giải quyết rất nhiều vấn đề tồn tại và các vấn đề phát sinh, nhưng hoạt động SXKD vẫn luôn hiệu quả. Hiện công ty có quan hệ với các khách hàng tại trên 30 nước, là một cầu nối tin cậy giữa các nhà sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Hai chi nhánh của công ty tại Hải Phòng và TP. Hồ Chí Minh trước đây chỉ làm công tác giao nhận nhưng mấy năm gần đây đã tập trung vào công tác kinh doanh, mọi hoạt động cũng theo cơ chế khoán và đã thực hiện được kim ngạch XNK đáng kể. Ngoài xí nghiệp TOCAN chuyên sản xuất chổi quét sơn XK đi Canada, Mỹ, Úc, năm vừa qua công ty đã thành lập thêm xí nghiệp liên doanh sản xuất giấy trang trí hoạt động ngay từ những ngày đầu của năm 2006. Bên cạnh công tác kinh doanh XNK, các hoạt động khác của TOCONTAP cũng đạt kết quả cao: Đảng bộ công ty được tặng danh hiệu “ trong sạch vững mạnh” nhiều năm liền. Công ty đã nhiều lần nhận được bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, cờ thi đua và bằng khen của Bộ Thương mại và Huân chương Lao động bạng ba, hạng nhì. Đặc biệt, năm 2005 với những nỗ lực và thành tích đã đạt được, công ty được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất. Năm 2006 là năm mở đầu của thời kỳ mới, là thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử khi TOCONTAP HANOI đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một DNNN để hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. Mặc dù hoạt động theo mô hình mới không kém phần bỡ ngỡ nhưng trong 10 tháng đầu năm 2006, TOCONTAP HANOI vẫn duy trì được phong độ cao, tổng kim ngạch XNK vẫn đạt 21 triệu USD. Nguồn hàng XK của đơn vị vẫn tiếp tục hiện diện trên những thị trường truyền thống khai phá thêm thị trường mới khắp nơi trên thế giới như XK chổi quét sơn đi Canada, hàng may mặc đi Hungary, thảm cói đi Nhật, gạo đi Philipin và Indonesia… bằng thương hiệu TOCONTAP HANOI. Có thể thấy rằng trong bất kỳ giai đoạn nào và trong bất kỳ hoàn cảnh nào, chiến tranh hay hoà bình, bao cấp hay mở cửa, hoạt động sản xuất kinh doanh của TOCONTAP HANOI đều để lại những dấu ấn khó phai mờ, 1.2. Cơ cấu bộ máy quản trị của TOCONTAP HANOI: TOCONTAP HANOI là đơn vị thuộc bộ Thương mại, có tư cách pháp nhân, có quyền tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh. Hoạt động và tuân thủ theo Luật Thương mại và các luật khác của Việt Nam. 1.2.1. Chức năng nhiệm vụ của công ty: 1.2.1.1 Chức năng hoạt động của công ty: TOCONTAP HANOI là một trong những công ty hàng đầu với chức năng chủ yếu là tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu, bao gồm: - Tổ chức xuất khẩu trực tiếp các loại hàng hoá không thuộc danh mục hàng cấm. - Tổ chức tiêu thụ các mặt hàng nhập khẩu. - Nhận xuất khẩu uỷ thác, làm đại lý cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. -Tổ chức thu mua gom hàng từ các nguồn hàng ngoài công ty để phục vụ cho xuất khẩu. Ngoài ra công ty còn có thể tiến hành các hoạt động sản xuất, gia công hàng hoá phục vụ cho việc xuất khẩu hoặc kinh doanh trong nước. 1.2.1.2. Nhiệm vụ của công ty: - Là một doanh nghiệp Cổ phần với số vốn Nhà nước chiếm 30%, công ty có nhiệm vụ bảo toàn và phát triển tổng số vốn Nhà nước giao cho cũng như số vốn của các cổ đông của công ty, thực hiện chế độ hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính. - Công ty có nhiệm vụ hoàn thành các chỉ tiêu do nhà nước giao cho, có nhiệm vụ nộp ngân sách cho nhà nước. - Công ty phải tiến hành kinh doanh theo đúng luật pháp, chịu trách nhiệm về kinh tế và dân sự đối với các hoạt động kinh doanh và tài sản của mình. - Phát huy ưu thế, uy tín của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế, củng cố, mở rộng các quan hệ kinh tế, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng sản xuất trong và ngoài nước. 1.2.2 Cơ cấu tổ chức: SƠ ĐỒ 1: MÔ HÌNH BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY TOCONTAP Tổng giám đốc Phó tổng giám đốc Phó tổng giám đốc Phòng Tổng hợp PhòngTài chính kế toán Phòng Tổ chức lao động Phòng Hành chính quản trị - Chi nhánh Hải Phòng - Chi nhánh TP Hồ Chí Minh - Xí nghiệp TOCAN Các phòng kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp 1,2,3,4,5,6,7 1.2.2.1 Ban Giám đốc: Đứng đầu là Tổng Giám đốc, do Bộ Thương Mại bổ nhiệm và miễn nhiệm. Tổng Giám đốc là người điều hành trực tiếp mọi hoạt động hàng ngày của công ty đến tất cả các phòng, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong công ty và chịu trách nhiệm trước Bộ Thương Mại. Tổng Giám đốc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ được quy định trong điều lệ tổ chức và hoạt động Công ty và các Quyết định của Hội đồng quản trị. Hiện nay tổng giám đốc công ty là ông Cao Văn Thuỷ. Giúp việc cho tổng giám đốc là hai phó tổng giám đốc, thực hiện các nhiệm vụ và công việc do Tổng giám đốc giao. Một phó tổng giám đốc chịu trách nhiệm điều hành các phòng ban quản lý. Một phó tổng giám đốc được uỷ nhiệm duyệt các phương án kinh doanh của công ty, các chi nhánh và các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu.Tổng Giám đốc và/hoặc Phó Tổng giám đốc phê duyệt các phương án kinh doanh của các bộ phận kinh doanh và chịu trách nhiệm về tính hợp lý, chính xác của các quyết định phê duyệt này. Phương án kinh doanh và dự thảo hợp đồng phải được trình qua Phòng tổng hợp và phòng tài chính kế toán trước khi trình lên Tổng giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc phê duyệt. 1.2.2.2 Phòng quản lý : Trước kia, các phòng quản lý của công ty có 10 phòng ban quản lý, năm 1992 có 7 phòng và hiện nay được sắp xếp thu gọn lại còn 4 phòng Phòng tổ chức lao động Phòng kế toán tài chính Phòng tổng hợp Phòng hành chính quản trị. + Phòng tổng hợp: Phòng có chức năng tổng hợp các vấn đề đối nội đối ngoại, sản xuất kinh doanh của công ty. Luôn luôn nắm bắt kịp thời và phân tích số liệu, chính sách thông tin mới nhất ở trong và ngoài nước liên quan đến hoạt động của công ty, cung cấp cho Tổng Giám đốc và các Phòng quản lý, kinh doanh để kịp thời điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. lập các báo cáo tổng hợp trình Bộ chủ quản và các ngành liên quan, thẩm định các phương án kinh doanh nhập khẩu trước khi trình cứu đồng thời hướng dẫn các đơn vị xây dựng kế hoạch kinh doanh và báo cáo tổng hợp theo tháng, quý... Đồng thời phòng tổng hợp còn có nhiệm vụ biên dịch, phiên dịch các tài liệu phục vụ cho kinh doanh, tìm kiếm và tìm hiểu các đối tác hợp tác kinh doanh cho Công ty. Xây dựng kế hoạch kinh doanh của cả Công ty và kế hoạch giao cho từng bộ phận trong Công ty. Thống kê tình hình thực hiện kế hoạch của từng bộ phận kinh doanh, từng cá nhân để phục vụ cho việc trả lương theo quy chế khoán. Thu thập thông tin về tình hình giá cả hàng hoá, tình hình biến động thị trường và các thông tin về luật pháp, tập quán thương mại, vận chuyển ở các quốc gia, giúp ban giám đốc và các phòng kinh doanh nắm rõ tình hình và có các chính sách thích ứng. Theo dõi, đôn đốc các bộ phận kinh doanh nộp thuế tại các cửa khẩu đúng hạn. Thống kê các thiệt hại của các bộ phận kinh doanh và của công ty do một bộ phận kinh doanh khác trong Công ty gây ra việc cưỡng chế thuế do nguyên nhân chủ quan, bất cẩn để có biện pháp xử lý bộ phận kinh doanh gây ra cưỡng chế. Kiểm tra các phương án kinh doanh và dự thảo hợp đồng do các bộ phận kinh doanh trình trước khi chuyển cho phòng Tài chính kế toán kiểm tra trực tiếp. Phòng Tổng hợp phải kiểm tra số liệu tính toán trên phương án, kiểm tra các điều khoản hợp đồng xem có phù hợp với quy định của công ty, luật pháp Việt Nam và thông lệ quốc tế không. Nếu có sai sót, không phù hợp thì yêu cầu bộ phận kinh doanh sửa đổi. Khi phương án được phê duyệt và hợp đồng được uỷ quyền ký thì Phòng Tổng hợp vào sổ theo dõi của công ty. + Phòng tổ chức lao động: Phòng tổ chức lao động có chức năng tổ chức lao động trong công ty theo yêu cầu của Tổng giám đốc nhằm phục vụ mục tiêu sản xuất kinh doanh của Công ty. Lập kế hoạch đào tạo, tuyển dụng lao động, bổ nhiệm, bãi nhiệm các chức danh quản lý trong công ty, đề xuất việc chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động trong công ty theo quy chế tuyển dụng đề xuất của các phòng ban và yêu cầu của Tổng giám đốc. Ngoài ra, Phòng tổ c._.với tiến trình hội nhập của Việt Nam. Trong thời gian tới, công ty vẫn duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh với kế hoạch đặt ra ngày càng cao. Với sự ban hành và có hiệu lực của luật thương mại, luật doanh nghiệp, luật đầu tư nước ngoài của nước cộng hoà XHCN Việt Nam và hệ thống các văn bản chính sách dưới luật về đổi mới công tác xuất nhập khẩu trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên chính thức WTO, có vị trí vai trò ngày càng cao trong khối ASEAN, quan hệ ngoại giao và buôn bán với Hoa Kỳ được mở rộng khi Hiệp định thương mại Việt– Mỹ được ký kết vào tháng 7 năm 2000 cùng với yêu cầu, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển công tác xuất nhập khẩu, công ty có phương hướng nhiệm vụ hoạt động kinh doanh cụ thể như sau: 1.1 Về thị trường: - Tiếp tục duy trì và tăng cường quan hệ buôn bán với các thị trường truyền thống của công ty. - Tìm hiểu và tiến tới ký kết hợp đồng với chủ hàng mới. Ngoài việc kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, công ty còn đẩy mạnh các hình thức xuất nhập khẩu khác như: uỷ thác, tạm nhập, tái xuất, gia công… nhằm mở rộng thị trường hàng hoá xuất nhập khẩu tạo ưu thế cạnh tranh, tăng nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá và nâng cao thu nhập. - Đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng chổi sơn và các mặt hàng khác theo sự khuyến khích của nhà nước. Xem xét mở rộng thêm hoạt động của xí nghiệp TOCAN và khả năng đầu tư sản xuất tại Lào. - Gắn sản xuất với xuất nhập khẩu, chủ động tham gia quản lý chất lượng, giá cả hàng hoá xuất khẩu sang các nước với sức cạnh tranh mới. - Tận dụng các chỉ tiêu tham gia trả nợ của nhà nước, tiếp tục tìm cách mở rộng thị trường, củng cố thị trường đã có, phát triển một số khu vực thị trường mới như: Bắc Mỹ, Trung Cận Đông… - Đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng truyền thống, sản phẩm nông sản như: gạo, hồ tiêu, các sản phẩm làm từ mây tre đan sang các nước như: Philippin, Nhật Bản, các nước Châu Mĩ - Tập trung kinh doanh nhập khẩu các mặt hàng, dịch vụ phục vụ cho ngành y tế như: nhập gói thầu cung cấp vật tư trang thiết bị y tế, xây dựng, hàng tiêu dùng… 1.2. Về quản lý: - Công ty sàng lọc và tinh giảm bộ máy, tăng cường phát huy tính chủ động, sáng tạo của cá nhân và tập thể trong công ty. Nâng cao trình độ, chuyên môn cho cán bộ công nhân viên. - Tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, tài chính, hạch toán nhằm mang lại kết quả cao trong hoạt động kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh của công ty. Quản lý, sử dụng tài sản và phương tiện cho tích cực và có hiệu quả. - Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, phấn đấu giảm chi phí kinh doanh để tăng lợi nhuận cho Công ty. - Tiếp tục đào tạo cán bộ cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn trình độ ngoại ngữ. - Tiếp tục thực hiện cơ chế khoán, giao chỉ tiêu kim ngạch đến từng phòng, từng cá nhân. - Phấn đấu đạt kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2007 là 48.400.000 USD Trong đó: Xuất khẩu: 17.400.000 USD Nhập khẩu: 31.000.000 USD Doanh thu dự kiến năm 2007 là 670 tỷ đồng. Lợi nhuận dự kiến: 4,10 tỷ đồng. 2. Đánh giá về thị trường tiềm năng cung cấp rượu vang của công ty: Sau khi bộ tài chính giảm thuế nhập khẩu từ 80% xuống 65% cho các sản phẩm rượu xuất xứ từ EU và một số nước khác, thị trường rượu vang đang có những thay đổi mạnh mẽ. Rượu vang Pháp và Italia đã phải nhường bớt thị phần cho hàng của Chilê, Úc, 2.1 Thị trường ChiLê: Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam luôn luôn mong muốn tạo lập các mối quan hệ kinh tế- thương mại với các nước nam Mỹ, đặc biệt là ChiLê. Những năm gần đây, quan hệ kinh tế trao đổi giữa hai nước không ngừng phát triển: kim ngạch trao đổi giữa Việt Nam và Chilê năm 2006 đạt hơn 163 triệu USD. Các doanh nghiệp Chilê đã thâm nhập vào thị trường Việt Nam với nhiều mặt hàng: dầu cá, cá hồi, bột cá, gỗ thông, trái cây tươi và khô... Đặc biệt là rượu vang Chilê đã chiếm được lòng tin và sự yêu thích của người tiêu dùng Việt Nam. Hiện nay trên thị trường Việt Nam có hơn 25 thương hiệu rượu vang Chilê. Chilê nước có lịch sử sản xuất rượu vang lâu đời, từ thời Tây Ban Nha xâm chiếm châu Mỹ. Từ những năm 1980, ngành xuất khẩu rượu vang đã lớn mạnh rất nhanh, số lượng lớn rượu vang chất lượng cao đã được sản xuất. Số hãng sản xuất cũng tăng lên từ con số 12 hãng vào năm 1995 lên tới hơn 70 hãng vào năm 2005. Chilê ngày càng trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu rượu vang lớn nhất thế giới. 2.2 Thị trường Úc: Úc là một trong những quốc gia sản xuất vang thuộc nhóm “new wine”, họ áp dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại, nhanh hơn nên sản phẩm có tính cạnh tranh trong kinh doanh cao hơn. Họ sẵn sàng thay giống nho có năng xuất cao và tốt hơn, dễ dàng chấp nhận cái mới, trong khi các nhà sản xuất vang Pháp bị buộc chặt vào các quy định sản xuất vốn thuộc về truyền thống. Đặc điểm của vang Úc là thường có độ cồn cao hơn mức bình thường, vang nặng là từ 17-21%, vang nhẹ từ 13-14%. Ngoài ra với vị tươi và thơm mùi trái cây của vang Úc rất thích hợp với các món ăn có nhiều gia vị. Với ẩm thực Việt Nam thì các món gỏi, chả giò... làm từ thực phẩm tươi sẽ rất hợp với vang Úc. Với sản lượng dồi dào trong những năm gần đây, Úc sẽ là nguồn cung cấp rượu vang ổn định, giá cả hợp lý. 3. Triển vọng thị trường rượu vang Việt Nam: Kinh tế phát triển, vang đã trở thành một trong những chỉ số đo lường mức độ sành điệu của người tiêu dùng và vị trí của họ trong xã hội. Ngoài nhu cầu giao tiếp với đối tác nước ngoài người ta còn chọn rượu vang vì tác dụng tốt của nó đối với sức khoẻ. Khách hàng Việt Nam mua rượu vang đang tăng dần với mức tăng trung bình khoảng 15%. Điều này còn chưa tính đến lượng khách mua là các công ty với số lượng lớn để làm quà tặng, biếu nhân viên và đối tác trong những dịp lễ tết. Theo số liệu của Phòng nông nghiệp Mỹ (USDA), kim ngạch vang Mỹ nhập vào Việt Nam tăng từ mức chỉ có 60.000 USD năm 2001 lên gần nửa triệu USD năm 2005. Hiện vang Mỹ chiếm từ 5-6% thị phần, trong khi vang Pháp và Úc dẫn đầu với 54 và 10%. Trong lộ trình cam kết giảm thuế quan của Việt Nam sau khi gia nhập WTO, các sản phẩm có cồn dưới 15 độ sẽ giảm từ 65% như hiện nay (năm 2001 là 100%) xuống còn 50% trong 5 năm nữa. Vì vậy, không khó để dự đoán rằng dòng vang ngoại sẽ tiếp tục chảy mạnh vào thị trường Việt Nam, nhất là khi một số quốc gia sản xuất đang tăng cường tìm đầu ra cho năng lực dư thừa. Vang Chilê đang nổi lên trong dòng vang mới (sau Úc) nhờ được tiếp thị mạnh. Chẳng hạn tuần lễ cấp cao APEC Hà Nội vừa qua là dịp để nhiều người biết đến vang Chilê. Người tiêu dùng Việt Nam hiện nay đang có xu hướng mua vang có giá trị cao, để làm quà biếu tặng do tâm lý cho rằng vang càng đắt thì chất lượng mới cao mới xứng để làm quà tặng. Rượu vang ngày càng có giá rất phải chăng và chủng loại đa dạng hơn, trong khi người tiêu dùng Việt Nam ngày càng quen với văn hoá Phương Tây. Do đó rượu vang được đánh giá là mặt hàng hứa hẹn đầy những cơ hội kinh doanh cho các nhà nhập khẩu Việt Nam. 4. Một số giải pháp: Từ những phân tích tình hình thực tế của công ty, những khó khăn tồn tại và tương lai phát triển rượu vang ở thị trường Việt Nam, em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm khác phục những khó khăn trên, đưa rượu vang trở thành mặt hàng nhập khẩu chủ lực của công ty trong tương lai 4.1.Tăng cường nghiên cứu, xây dựng chiến lược thị trường toàn diện: Hoạt động kinh doanh bao giờ cũng bắt đầu từ nhu cầu thị trường và cuối cùng cũng quay trở lại phục vụ thị trường. Nếu không có thị trường thì sản phẩm kinh doanh không thể tiêu thụ được, công ty không thể tồn tại và phát triển được. Nghiên cứu thị trường để thích ứng với thị trường luôn luôn biến động là biện pháp quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của bất kỳ doanh nghiệp nào. Đặc biệt là đối với mặt hàng rượu vang, một mặt hàng khá mới mẻ đối với thị trường Việt Nam, việc nghiên cứu và mở rộng thị trường của công ty là rất cần thiết. Công ty cần phải đặt nghiên cứu thị trường thành một nội dung quan trọng trog chiến lược kinh doanh của mình, từ đó có kế hoạch và biện pháp đầu tư thích đáng cho nó. Chi phí cho công tác nghiên cứu và tiếp cận thị trường phải được xem là một bộ phận không thể thiếu trong kế hoạch tài chính của doanh nghiệp. Làm tốt công tác này giúp cho công ty TOCONTAP có khả năng thực hiện được những hợp đồng kinh doanh tốt, đạt hiệu quả cao trong kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nghiên cứu thị trường ở công ty TOCONTAP từ trước đến nay vẫn do phòng tổng hợp đảm nhiệm. Việc nghiên cứu này được thực hiện theo hai phương pháp chủ yếu là nghiên cứu tài liệu và nghiên cứu thực tế thị trường. Đối với thị trường trong nước: thiết lập mạng lưới phân phối tập trung tại các đô thị lớn như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng... để có thể bắt kịp được nhu cầu trong nước. Kết hợp với các siêu thị lớn, các cơ sở bán buôn, bán lẻ rượu vang để tạo thành mạng lưới phân phối rộng khắp. Đồng thời đây cũng sẽ là khách hàng lớn tham gia ký kết hợp đồng nội mua rượu nhập khẩu của công ty. Đối với thị trường nước ngoài: Tăng cường mở rộng quan hệ với nhiều thị trường xuất khẩu rượu vang mới như: Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, Châu Úc... Với điều kiện kinh tế còn hạn hẹp, các hoạt động trực tiếp khảo sát thị trường còn hạn chế, để giới thiệu được công ty, doanh nghiệp mình tới khách hàng và thu hút họ đến với mình, một yếu tố quan trọng là phải làm tôt công tác thông tin quảng cáo. Phải coi đó là một nghiệp vụ quan trọng trong chiến lược Marketing của công ty. Bên cạnh các hình thức như thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, ấn phẩm, panô, áp phích...công ty cũng cần phải lựa chọn để tham gia các hội trợ, triển lãm trong và ngoài nước. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, công ty cần phải: + Tổ chức tốt kênh thông tin để thu thập được lượng thông tin một cách nhanh nhất và chính xác nhất trên cơ sở đó đưa ra những quyết định đúng đắn về thị trường. Thông qua các tổ chức, hiệp hội ngành nghề, các doanh nghiệp khác để có được những thông tin về thị trường tốt hơn. + Mở các cửa hàng bán lẻ trong nước để tiếp cận với nhu cầu thị trường, liên kết với các siêu thị, đại lý bán buôn, lẻ trong nước để có thể phát triển kinh doanh từ đó thúc đẩy hoạt động nhập khẩu rượu vang. + Phối hợp với ban lãnh đạo công ty cũng như phối hợp với từng phòng ban để đề ra chiến lược hành động đối với từng thị trường cụ thể. + Tăng cường mối quan hệ với Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam, thông qua đó tìm kiếm thêm được bạn hàng nước ngoài. + Tích cực tham gia hội chợ triển lãm quốc tế để tìm kiếm thị trường, giới thiệu sản phẩm, chào hàng với các đối tác có nhiều triển vọng. + Cử cán bộ trực tiếp sang khảo sát thị trường, đàm phán trực tiếp với các đối tác kinh doanh để nắm bắt được cơ hội thị trường mới. Thực hiện tốt công tác nghiên cứu thị trường sẽ giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc lập kế hoạch nhập khẩu rượu vang hàng năm, tránh tình trạng nhập cầm chừng, thăm dò thị trường như hiện nay. Đồng thời có thêm nhiều nhà cung cấp sẽ tăng thêm cơ hội lựa chọn cho công ty, đa dạng thêm nhiều chủng loại với giá cả cạnh tranh hơn. 4.2 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy, tăng cường công tác quản lý, đào tạo cán bộ nhân viên: Một bộ máy tổ chức cồng kềnh, phản xạ chậm chạp sẽ không đáp ứng được yêu cầu quản lý theo mục tiêu chiến lược của toàn hệ thống. Do đó công tác quản lý là rất quan trọng và cần phải tăng cường hơn nữa để mọi hoạt động diễn ra nhịp nhàng, không ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của toàn công ty. Để thực hiện tốt công tác quản lý, phải tổ chức kiểm tra theo dõi sát sao việc thực hiện hợp đồng, đánh giá đúng kết quả kinh doanh. Thường xuyên nghiên cứu để nắm bắt được những thay đổi của môi trường kinh doanh, tránh lúng túng bị động dẫn đến tình trạng trở tay không kịp. Bộ máy tổ chức phải đảm bảo yêu cầu: các phòng ban quản lý biên chế gọn nhẹ, trình độ chuyên môn cao, các bộ phận kinh doanh thì phải tự chủ, năng động gắn chặt với thị trường, đạt được hiệu quả kinh doanh cao. Hiện nay, Công ty đã tiến hành sắp xếp bộ máy gọn nhẹ, tăng cả số lượng và chất lượng cho khối kinh doanh trực tiếp. Mô hình giám đốc trực tiếp chỉ đạo các phòng ban quản lý và đơn vị sản xuất- kinh doanh. Các phòng quản lý có chức năng tham mưu, giúp việc cho giám đốc, tham gia quản lý, giám sát, hướng dẫn các đơn vị kinh doanh có hiệu quả. Các đơn vị được hạch toán độc lập, chủ động giao dịch, thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Mô hình bộ máy tổ chức như vậy sẽ phát huy được tính năng động sáng tạo và tạo điều kiện thích ứng nhanh với thị trường. Một bộ máy quản lý gọn nhẹ sẽ đảm bảo được yêu cầu thống nhất, phản xạ linh hoạt, hoạt động nhịp nhàng giữa các bộ phận phòng ban, phù hợp với quy mô thị trường. Khi tiến hành tổ chức cần phải đặt bộ phận Marketing ở vị trí độc lập, quan trọng, có khả năng kết nối các bộ phận khác, giúp lãnh đạo ra những quyết định quản lý chính xác và kịp thời. Bộ phận Marketing cần phải tiến hành các công việc: nghiên cứu thị trường, lập và theo dõi kênh phân phối mặt hàng, xúc tiến bán hàng, quảng cáo... sao cho vừa có hiệu quả vừa tiết kiệm được chi phí. Trong môi trường cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì vấn đề con người là vô cùng quan trọng, nó quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh của công ty. Hơn nữa, hoạt động nhập khẩu là hoạt động mang tính quốc tế, nhiều rủi ro, đòi hỏi cán bộ nhân viên hoạt động trong lĩnh vực này phải có bản lĩnh và một lượng kiến thức chuyên môn cao đáp ứng được những đòi hỏi của thương mại quốc tế. Xây dựng kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ về mặt chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ. Để đào tạo được đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ và cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi, có năng lực, trong điều kiện hạn chế của đào tạo trong nước, công ty cần có chính sách đào tạo cán bộ ở nước ngoài kết hợp với hoạt động khảo sát thị trường về lâu dài. Cần phải trẻ hoá đội ngũ cán bộ làm kinh doanh nhập khẩu: thực tế cho thấy sử dụng cán bộ đã qua hoạt động thời kinh tế bao cấp đã gây nên sự kìm hãm lớn cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Bởi vậy, cần có quy hoạch tổng thể cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận, mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ có đủ năng lực đảm nhận các vị trí chủ chốt của doanh nghiệp. Bên cạnh công việc đào tạo công nhân viên trong công ty thì việc tuyển thêm nhân viên mới cũng là điều rất cần thiết. Nguồn nhân lực trẻ, năng động, có cái nhìn mới về cơ chế thị trường giúp công ty phát triển và tăng khả năng cạnh tranh của mình trên thương trường. 4.3 Yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật: Việc phát triển mở rộng thị trường là vấn đề quan trọng nhưng để tiếp tục phát triển thì cần phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Việc đầu tư cơ sở hạ tầng tốt thì mới đảm bảo được chất lượng dịch vụ và đây là một trong những tiêu chí quan trọng để khách hàng lựa chọn nhà cung cấp. Hiện tại, công ty vẫn chưa có kho mát bảo quản riêng dành cho từng loại mặt hàng. Với đặc tính của rượu vang dễ hỏng trong điều kiện nóng và ánh sáng nhiều thì việc bảo quản là rất quan trọng. Nhưng việc thiếu cơ sở vật chất kho tàng đã ảnh hưởng tới kế hoạch nhập khẩu của công ty rất nhiều. Công ty chỉ dám nhập với số lượng rượu vừa đủ thậm chí ít hơn nhu cầu thị trường vào những dịp lễ tết, nhiều khi cầu trong nước tăng lên đột biến mà công ty không có hàng để bán. Cũng có khi, gặp được lô rượu xuất từ nước ngoài với giá thấp tương đối so với thị trường mà chất lượng cũng đảm bảo nhưng do không có kho bảo quan nên đã để tuột khỏi tay cơ hội kinh doanh đầy lợi nhuận này. Do đó công ty cần trang bị máy móc phục vụ cho quá trình hoạt động kinh doanh đầy đủ hơn nữa, hoàn thiện việc xây dựng nâng cấp cơ sở làm việc. Ngoài ra cũng cần cải tạo và nâng cấp các kho chứa hàng hóa, bảo quản hàng tồn kho, góp phần nâng cao chất lượng hàng hóa phục vụ khách hàng. Với đặc điểm không phải là sản phẩm tiêu dùng một cách thường xuyên, hàng ngày, nên trong quá trình kinh doanh rượu vang để đẩy mạnh tiêu thụ nhiều khi công ty cần phải thực hiện các biện pháp như kích cầu, khơi dậy nhu cầu trong người tiêu dùng. Doanh nghiệp cần xây dựng một hệ thống cửa hàng, thử và giới thiệu các sản phẩm, chủng loại rượu vang nhằm tạo ra một làn sóng ưa chuộng tiêu thụ rượu vang trong mọi bữa ăn hàng ngày, các dịp lễ tết...Việc xây dựng được hệ thống cửa hàng như vậy sẽ góp phần đưa sản phẩm tới gần người tiêu dùng hơn đồng thời quảng bá, giới thiệu hình ảnh công ty. 4.4 Tăng cường các hoạt động hỗ trợ tiêu thụ: Trong nền kinh tế thị trường vai trò của hoạt động đẩy mạnh hỗ trợ tiêu thụ đóng vai trò vô cùng quan trọng khi ở đó sự cạnh tranh bán hàng diễn ra ngày một gay gắt và quyết liệt hơn. Thị trường tiêu thụ luôn là vấn đề trọng yếu mà các doanh nghiệp quan tâm trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy việc tạo lập một hệ thống các biện pháp xúc tiến tiêu thụ trở thành công cụ quan trọng nhất để chiếm lĩnh thị trường. Mục đích của biện pháp này là nhằm mở rộng tiêu thụ sản phẩm nhập khẩu với chi phí thấp nhất, tạo điều kiện cho người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn trên thị trường. Để tạo thế cạnh tranh mới công ty cần thực hiện các biện pháp sau: -Tăng cường các hoạt động quảng cáo, marketing, xúc tiến bán hàng ở trong nước để xây dựng hình ảnh tốt đẹp của công ty trong mắt người dân Việt Nam nói chung và trong mắt các đơn vị nguồn hàng, các khách hàng tiềm năng của công ty nói riêng. Đây cũng là phương tiện kích thích bán hàng có hiệu quả. Do thị trường rượu vang ở Việt Nam chủ yếu nhắm tới người tiêu dùng thuộc tầng lớp trung lưu, khách hàng chủ yếu là những người đã có thói quen tiêu dùng rượu vang từ trước, một số người mới khá giả và đang học đòi theo cách sống Phương Tây. Nên biện pháp quảng cáo, xúc tiến bán sẽ tạo ra thói quen tiêu dùng mới trong đại đa số người dân Việt Nam, lôi kéo họ tiêu dùng sản phẩm. - Tăng cường các hoạt động giao dịch, tiếp xúc với khách hàng. Đây là biện pháp công ty có thể tiến hành nhằm gặp gỡ khách hàng nước ngoài một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, thông qua trao đổi, bàn bạc có thể tìm được khách hàng phù hợp, có khả năng ký kết hợp đồng hiện tại và trong tương lai. Công ty cần phải tỏ ra quan tâm thực sự tới việc thiết lập quan hệ giữa hai bên ngay từ đầu thì hiệu quả của công tác này sẽ tăng lên nhiều. Làm tốt công tác này sẽ giúp doanh thu của công ty tăng lên một cách đáng kể, tạo niềm tin trong lòng người tiêu dùng. Đồng thời công ty cũng có nhiều cơ hội tiếp cận với các khách hàng mới, nhiều hợp đồng mới. 4.5 Giải quyết các vấn đề về vốn: Trước đây công ty còn có thể trông chờ vào vốn do Nhà nước cấp và bổ sung, nhưng hiện nay sau khi tiến hành cổ phần hóa vốn nhà nước chỉ chiếm 31% tổng vốn của công ty. Việc cổ phần hóa đã góp phần tăng thêm nguồn vốn cho công ty từ việc huy động vốn của cán bộ công nhân viên trong công ty. Việc huy động vốn từ chính nội bộ công ty đã giúp doanh nghiệp có thêm nguồn vốn đưa vào kinh doanh, đồng thời nó cũng là cán cân chia đều quyền lợi và nghĩa vụ cho mỗi thành viên trong doanh nghiệp. Ngoài ra để có vốn tiến hành hoạt động kinh doanh công ty có thể sử dụng một số biện pháp sau: Đẩy mạnh kinh doanh các mặt hàng hiện đang là thế mạnh để tạo nguồn tích trữ cho công ty. Đây là một biện pháp nhằm sắp xếp lại hoạt động kinh doanh, đổi mới trang thiết bị phát triển kinh doanh theo cả chiều rộng và chiều sâu. Triệt để khai thác nguồn vốn đang bị ứ đọng hay tạm thời nhàn rỗi trong các tổ chức khác. Vay vốn từ ngân hàng là giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề về vốn đặc biệt là trong ngắn hạn và trong điều kiện Nhà nước đang có nhiều chính sách ưu đãi về tỷ lệ lãi suất như hiện nay. Mặc dù, để thực hiện vay vốn từ ngân hàng công ty phải tiến hành nhiều thủ tục phức tạp. Mặt khác, công ty cũng có thể sử dụng hình thức thanh toán chậm- đây cũng là một phương thức vay vốn nước ngoài. Tuy nhiên sử dụng phương thức này cần phải tính toán một cách hết sức cẩn thận vấn đề biến động tỷ giá. Nếu tỷ giá biến động lên thì biện pháp này sẽ không có hiệu quả. 5. Một số kiến nghị: 5.1 Thông thoáng hơn trong chính sách nhập khẩu và kinh doanh rượu vang: Những quy định về nhập khẩu và các hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty TOCONTAP nói riêng và các doanh nghiệp nhập khẩu nói chung của nước ta. Do đó hệ thống chính sách quy định nhập khẩu cần phải thay đổi theo hướng thông thoáng, đơn giản phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước cũng phải thường xuyên thông báo đường lối chính sách đến các doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp rất thiếu các thông tin về các quy định của Nhà nước có liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình hoặc chậm nhận được các văn bản pháp quy của Nhà nước, có khi nhận được thì hết hiệu lực do chính sách thường xuyên thay đổi. Các chính sách nhập khẩu cần tuân thủ quy luật khách quan của thị trường nhằm mục đích tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, đưa hoạt động thương mại vào nề nếp, hết sức tránh chủ quan duy ý chí, xa rời thực tế. Bên cạnh đó cũng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng khi dùng các chính sách nhập khẩu để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Bảo hộ là việc làm cần thiết đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển và đang chuyển đổi như nước ta, nhưng việc vận dụng không khéo léo biện pháp này sẽ gây ra phản tác dụng, đem lại sự trì trệ, kém cạnh tranh của sản xuất trong nước, có khi còn tạo điều kiện cho những kể đầu cơ trục lợi, có hại cho nền kinh tế. Việc giảm bớt những điều kiện, thủ tục rườm rà khi doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu mặt hàng rượu vang, cải tiến chế độ cấp giấy phép, hạn chế một số công đoạn thực hiện và thời gian chờ đợi...sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể chớp lấy cơ hội kinh doanh để thu lợi nhuận cao. 5.2 Cải tiến chính sách thuế: Hệ thống thuế của nước ta còn qua phức tạp, với nhiều mức thuế khác nhau, thuế suất thì dàn trải. Thuế nhập khẩu quá cao đánh vào một số mặt hàng tiêu dùng làm cho nạn buôn lậu tăng cao. Mặt khác, giá tối thiểu tính thuế nhập khẩu thường chậm thay đổi so với thực tế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài tăng giá, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chính sách thuế hợp lý sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu nói chung và TOCONTAP nói riêng. Sau khi ra nhập WTO, ASEAN,... Việt Nam đang tiến hành giảm thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng theo lộ trình đã cam kết khi gia nhập các tổ chức này, hành động này đã góp phần thúc đẩy hoạt động nhập khẩu diễn ra mạnh hơn. Hiện nay, đối với mặt hàng rượu vang nhập khẩu từ các nước EU và một số nước khác cũng đã được nhà nước giảm thuế nhập khẩu đáng kể. Điều này sẽ làm giá rượu vang mà doanh nghiệp cung cấp tới người tiêu dùng giảm nâng cao khả năng cạnh tranh với những loại rượu vang được sản xuất trong nước hoặc một số loại rượu vang cao cấp khác trên thị trường, ngăn ngừa được nạn buôn lậu. 5.3 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại: Nhà nước cần phải tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin về thị trường thế giới cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Điều này sẽ tạo môi trường kinh doanh quốc tế thuận lợi với những mối quan hệ buôn bán trao đổi giữa doanh nghiệp với các đối tác nước ngoài. Kiện toàn Phòng thương mại Công nghiệp Hà nội để nó trở thành một tổ chức phi chính phủ có chức năng hỗ trợ các hoạt động thương mại, nhằm tạo mọi điều kiện để mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nâng đỡ các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Cùng với việc mở rộng các quan hệ song phương, nước ta từng bước phải tham gia vào các quan hệ đa bên của khu vực và thế giới theo phương thức đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ thương mại. Cho đến nay Việt Nam đã là thành viên của ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA, diễn đàn Châu Á-Thái Bình Dương APEC, và mới đây nhất là thành viên chính thức của WTO.. Đây là một điều kiện thuận lợi cho TOCONTAP và các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu khác. Vì vậy nhà nước cần phát triển hơn nữa trong các chính sách phát triển kinh tế, chính sách đối ngoại tạo những cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp. 5.4 Xây dựng hệ thống tài chính ngân hàng: Hiện nay, thiếu vốn cho hoạt động kinh doanh là thực trạng chung của các doanh nghiệp nhập khẩu. Nhiều năm nay, Nhà nước không đầu tư đầy đủ mức vốn tối thiểu cho các doanh nghiệp hoạt động. Nguồn vốn chủ yếu là đi vay Ngân hàng nhưng gặp nhiều khó khăn trong thế chấp tài sản, lãi suất cao, không ổn định. Do đó Ngân hàng cần phải có những biện pháp hữu hiệu để khai thông nguồn vốn như: cho phép các doanh nghiệp vay vốn không cần thế chấp, không bị giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ của doanh nghiệp...mà chỉ cần có điều kiện là có phương án kinh doanh có hiệu quả hoặc là ngân hàng tham gia quản lý...Phát triển và hoàn thiện hệ thống tài chính Nhà nước đặc biệt là hệ thống ngân hàng thương mại, thúc đẩy thị trường vốn phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp. Chính phủ có thể đưa ra mức lãi suất tiền vay thấp, với thời hạn dài, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm chi phí, hạ giá thành sản xuất thu lợi nhuận cao. Đồng thời Chính phủ cũng nên quy định thủ tục vay vốn phải đơn giản nhanh chóng và thuận lợi cho các doanh nghiệp. Mặt khác Nhà nước cũng cần có những biện pháp để phát triển các hình thức tín dụng để huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi, tiết kiệm trong nhân dân. Việc sớm hình thành thị trường chứng khoán đã là một biện pháp huy động vốn cho nền kinh tế quốc dân. Kết Luận: Từ những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình kinh doanh, phương hướng trong tương lai của công ty, em đã mạnh dạn đề xuất một số biện pháp và kiến nghị nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả hoạt động nhập khẩu rượu vang của công ty. Đây có thể chỉ là những góp ý mang tính lý thuyết của cá nhân, nhiều giải pháp sẽ khó thực hiện trong điều kiện hiện tại của công ty nhưng sẽ là giải pháp hiệu quả trong tương lai. KẾT LUẬN Rượu vang đang trở thành một ngành kinh doanh lớn ở Châu Á khi nhu cầu về các loại vang ngày càng đa dạng trong khi giá lại được các nhà sản xuất hạ dần theo thời gian. Trong khu vực Đông Nam Á, hiện nay Thái Lan, Malaysia và Việt Nam là các nước nhập khẩu rượu vang nhiều nhất trong đó Việt Nam là mạnh hơn cả. Việt Nam sẽ là một thị trường đầy hứa hẹn cho các sản phẩm rượu vang chất lượng cao do sự nổi lên của tầng lớp trung lưu có thu nhập khá và nhu cầu tiêu dùng của khách nước ngoài làm việc hoặc du lịch tại Việt Nam. Là một doanh nghiệp kinh doanh XNK đa dạng các mặt hàng, không có mặt hàng chủ lực TOCONTAP sẽ khó có thể tồn tại song song với các doanh nghiệp chuyên doanh khác. Đối thủ cạnh tranh ngày càng nhiều, thị trường thu hẹp, cạnh tranh khốc liệt hơn nếu vẫn kinh doanh theo hình thức nhỏ lẻ hiện nay thì công ty khó có thể giữ được phong độ như đã từng có. Do đó với lợi thế kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu và phân phối rượu vang của mình, TOCONTAP có thể chọn rượu vang làm mặt hàng nhập khẩu chủ lực của mình trong thời gian tới.. Trong thời gian thực tập tại công ty Xuất Nhập Khẩu Tạp Phẩm TOCONTAP HANOI em đã tìm hiểu và phân tích những kết quả kinh doanh nhập khẩu rượu vang mà công ty Cổ phần XNK TOCONTAP HANOI đã đạt được trong vài năm gần đây, cũng như những khó khăn thách thức trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, em xin phép đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động kinh doanh nhập khẩu rượu vang của công ty. Đây cũng chỉ là những giải pháp mang tính tạm thời, trước mắt, có thể áp dụng trong ngắn hạn, còn xét về lâu dài thì Công ty cần phải đổi mới hơn nữa mới có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng phức tạp. Em xin trân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của TS. Đàm Quang Vinh cũng như sự chỉ bảo của các cô chú trong công ty XNK TP TOCONTAP đã giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phan Anh, Việt Phong (2005), Thị trường rượu vang chuyển động, [2] PGS, TS. Đỗ Đức Bình, TS. Nguyễn Thường Lạng (2004), Giáo trình kinh tế quốc tế, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội. [3] Báo cáo, tài liệu hàng năm của công ty CP XNK TP TOCONTAP HANOI [4] Bộ Thương Mại (1999), thông tư số 12/1999/TT-BTM hướng dẫn kinh doanh mặt hàng rượu, [5] Ngô Cường (2007), Văn hoá rượu vang, [6] GS, TS. Đặng Đình Đào(2004), Giáo trình kinh tế và quản lý ngành thương mại dịch vụ, NXB Thống Kê, Hà Nội. [7] PGS.TS. Trần Minh Đạo (2002), Giáo trình Marketing căn bản, NXB Giáo Dục, Hà Nội. [8] TS. Nguyễn Thị Hường (2001), Giáo trình kinh doanh quốc tế - tập 1, NXB Thống Kê, Hà Nội. [9] Ngọc Quang (2005), Giảm thuế nhập khẩu rượu và xe máy EU, [10] Quang Thái (2007), dòng vang ngoại chảy mạnh, [11] Quang Thái (2006), thử đến với vang Úc, [12] Vũ Hữu Tửu (2002), Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, NXB Giáo Dục, Hà Nội. [13] Thùy Trang (2007), Chilê thị trường hấp dẫn cần khai thác, [14] Nhật Vy (2006), bùng nổ rượu vang ở Châu Á, MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ trang Bảng 1: Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty 42 Bảng 2: Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của công ty 43 Bảng 3. Kết quả kinh doanh của công ty năm 2001-2005. 46 Bảng 4: Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty 46 Bảng 5: Doanh thu của công ty từ 2001-2005. 48 Bảng 6: Lợi nhuận của công ty từ năm 2001-2005 49 Bảng 7. nguồn vốn kinh doanh và thu nhập bình quân 2001-2005 50 Bảng 8: Kim ngạch xuất khẩu vào một số thị trường chính của công ty 51 Biểu đồ 1: Doanh thu của Công ty giai đoạn 2001 - 2005 45 Biểu đồ 2: Kim ngạch nhập khẩu rượu vang từ năm 2001-2006 62 Biểu đồ 3: thị trường nhập khẩu rượu vang chủ yếu của công ty 64 SƠ ĐỒ 1: MÔ HÌNH BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY TOCONTAP 34 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CP XNK TP: Cổ phần xuất nhập khẩu tạp phẩm. XK: Xuất khẩu NK: Nhập khẩu XNK: Xuất nhập khẩu. WTO: Tổ chức thương mại quốc tế. ASEAN: Khu vực Đông Nam Á. L/C: Letter of credit ( thư tín dụng ). CHLB: Cộng Hoà Liên Bang. LỜI CAM ĐOAN Tên em là: Nguyễn Thu Hoà, lớp KDQT 45. Em xin cam đoan bản báo cáo thực tập chuyên ngành này là sản phẩm của bản thân từ quá trình nghiên cứu học tập trong suốt những năm học tại trường KTQD và thời gian thực tập tại công ty CP XNK TOCONTAP. Nếu có phát hiện sao chép, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước thầy cô và nhà trường. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5267.doc
Tài liệu liên quan