Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2010

Mục Lục Trang Lời nói đầu 3 Phần I: Cơ sở lý luận về khả năng cạnh tranh nói chung và của xi măng nói riêng..................................................................... ...5 I. Khái niệm và các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh.....................5 1. Khái niệm về khả năng cạnh tranh................................................................5 2. Các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh nói chung và của xi măng nói riêng...................................

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1251 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
..........................................................6 II. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành xi măng....................................11 1. Công nghiệp sản xuất xi măng là ngành sản xuất nguyên vật liệu..............11 2. Sản xuất xi măng là ngành đòi hỏi công nghệ cao, hiện đại.........................11 3. Sản xuất xi măng là ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn.......................................12 4. Sản xuất xi măng là ngành đòi hỏi khối lượng nguyên liệu thô lớn.............12 5. Sản phẩm xi măng có nhiều loại và được tiêu thụ chủ yếu vào mùa xây dựng ...........................................................................................13 III. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam....................................................................................16 1. Nhằm phân bổ hiệu quả nguồn lực khan hiếm............................................16 2. Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường........................................17 3. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra yêu cầu cấp bách....................18 4. Thị trường xi măng trong khu vực ASEAN trong những năm tới sẽ dư thừa một khối lượng lớn..........................................................................19 Phần II: Đánh giá thực trạng về ngành xi măng và khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam........................................................22 I. Tình hình thị trường xi măng....................................................................22 1. Thị trường trong nước..................................................................................22 2. Thị trường ngoài nước..................................................................................25 II. Chính sách và các quy định áp dụng cho ngành công nghiệp xi măng Việt Nam..............................................................................................26 1. Chính sách thương mại.................................................................................27 2. Chính sách giá..............................................................................................29 3. Chính sách thuế............................................................................................31 III. Đáng giá khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam........................31 1. Đánh giá các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh của ngành xi măng Việt Nam.................................................................................31 2. Xác định tính cạnh tranh của xi măng Việt Nam.........................................40 IV.Nguyên nhân dẫn đến khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam thấp hơn một số nước trong khu vực ..................................................55 Phần III: những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010..................56 I. Những cơ hội và thách thức đối với sản xuất xi măng trong thời gian tới............................................................................... ...........56 1. Cơ hội đối với sản suất xi măng trong thời gian tới......................................56 2. Thách thức đối với sản suất xi măng trong thời gian tới...............................57 II. Quan điểm và định hướng phát triển của ngành công nghiệp xi măng giai đoạn 2001 - 2010........................................................................58 1. Quan điểm phát triển của ngành công nghiệp xi măng Việt nam giai đoạn 2001- 2010....................................................................... ............58 2. Định hướng phát triển của ngành công nghiệp xi măng Việt nam giai đoạn 2001- 2010.....................................................................................61 III. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng canh tranh của xi măng Việt nam giai đoạn 2001- 2010...........................................62 1. Giải pháp về tài nguyên................................................................................62 2. Giải pháp về huy động vốn...........................................................................63 3. Giải pháp về đổi mới công nghệ sản xuất xi măng.......................................65 4. Giải pháp về đào tạo cán bộ công nhân........................................................68 5. Giải pháp về đầu tư đồng bộ phương tiện vận tải nội địa và hàng hải.....................................................................................................70 6. Giải pháp về phát triển năng lực chế tạo vật tư, thiết bị, phụ tùng................72 7. Giải pháp về hoạt động và chiến lược của doanh nghiệp..............................73 8. Giải pháp về chính sách của Nhà nước.........................................................75 Kết luận......................................................................................... ..............79 Tài liệu tham khảo....................................................................................80 Lời nói đầu Trong điều kiện hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của ngành công nghiệp Việt Nam và sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Yêu cầu này đặt ra không chỉ đối với khu vực công nghiệp tham gia vào thị trường thế giới, mà ngay cả khu vực chỉ sản xuất hàng hoá cho thị trường nội địa, vì tính chất giao lưu hàng hoá không còn giới hạn ở phạm vi ngoài biên giới. Đối với ngành công nghiệp xi măng, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn vì nước ta có đủ điều kiện về nguyên, nhiên liệu, điện năng, lao động... để phát triển. Xi măng là vật liệu cơ bản được sử dụng rộng rãi với khối lượng lớn trong xây dựng để phát triển kinh tế, văn hoá xã hội của đất nước và cải thiện đời sống của nhân dân. Đây là ngành công nghiệp có hiệu quả đầu tư cao, đóng góp vào ngân sách nhà nước hàng năm khoảng 8-10 triệu USD của mỗi triệu tấn xi măng. Mặt hàng xi măng là một trong những mặt hàng thuộc "Danh mục loại trừ tạm thời" theo lịch trình giảm thuế đối với các mặt hàng thuộc chương trình AFTA. Theo lịch trình giảm thuế thì thuế nhập khẩu xi măng sẽ bắt đầu giảm từ năm 2003 đến 2006 từ thuế suất 15% xuống còn 5%. Trong tương lai, lịch trình này sẽ thực hiện sớm hơn. Thực hiện lịch trình AFTA tuy xi măng Việt Nam có thế mạnh về tâm lý người tiêu dùng trong nước, về đường vận tải ngắn, về chi phí nhân công thấp, nhưng chất lượng lại không ổn định, giá thành cao, kinh nghiệm tiếp thị ít, hệ thống tổ chức và tiêu thụ mỏng manh. Bởi vậy, để chuẩn bị các điều kiện thực hiện lịch trình AFTA được thuận lợi, đòi hỏi phải nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam. Trong thời gian thực tập tại Vụ Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trên cơ sở tìm hiểu chung về ngành công nghiệp xi măng hiện tại, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài : " Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam trong giai đoạn 2001- 2010 " làm luận văn tốt nghiệp. Được sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của các cán bộ trong Vụ Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của thầy Vũ Cương. Nội dung đề tài gồm 3 phần chính sau: Phần I : Cơ sở lý luận về cạnh tranh nói chung và của xi măng nói riêng. Phần II : Đánh giá thực trạng về ngành xi măng và khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam. Phần III : Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2010. Do thời gian thực tập có hạn và bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, chắc chắn bài viết này sẽ còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp phê bình của các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế phát triển - Trường đại học Kinh tế quốc dân, các cán bộ trong Vụ Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Qua đây cho tôi được gửi lời cám ơn chân thành nhất đến Th.S Vũ Cương, chuyên viên Nguyễn Hoàng Thông cùng tất cả các cán bộ trong Vụ Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nhiệt tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn! Phần I Cơ sở lý luận về khả năng cạnh tranh nói chung và của xi măng nói riêng I. Khái niệm và các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh 1. Khái niệm về khả năng cạnh tranh Khái niệm cạnh tranh cần được định nghĩa như thế nào? Một trong những khó khăn là không có một sự nhất trí rộng rãi về khái niệm này. Lý do là thuật ngữ này được sử dụng để đánh giá cho tất cả các doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia và các khu vực liên quốc gia. Nhưng những mục tiêu cơ bản lại được đặt ra khác nhau, phụ thuộc vào góc độ xem xét là doanh nghiệp hay quốc gia. Trong khi đối với một doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh quốc gia hay quốc tế, thì đối với một quốc gia mục tiêu chủ yếu là nâng cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã chọn định nghĩa về cạnh tranh, cố gắng kết hợp các giá trị của cả doanh nghiệp, ngành, quốc gia như sau:"Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ". Định nghĩa này phù hợp vì nó phản ánh khái niệm cạnh tranh quốc gia trong mối liên hệ trực tiếp với hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp và lợi thế cạnh tranh trở thành một nhân tố quan trọng trong hoạt động kinh tế, xác định cả mức thu nhập, việc làm và mức sống. Tuy nhiên để hiểu rõ hơn về khả năng cạnh, bài viết xin giới thiệu một vài quan niệm khác rất hữu ích để xem xét về khả năng cạnh tranh. + Fafchamps cho rằng khả năng cạnh tranh cuả một doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó có thể sản xuất ra sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường. Theo cách hiểu này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản phẩm của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao hơn. + Randall lại cho rằng, khả năng cạnh tranh là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với mức lợi nhuận nhất định. + Dunning lập luận rằng khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của các doanh nghiệp. Có thể thấy rằng, các quan niệm nêu trên xuất phát từ các góc độ khác nhau, nhưng đều có liên quan đến hai khía cạnh : chiếm lĩnh thị trường và có lợi nhuận. Theo tôi, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp (ngành) là khả năng bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được do bằng thị phần của sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường. 2. Các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh của công nghiệp nói chung và của ngành xi măng nói riêng Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của công nghiệp có thể được phân loại theo nhiều cách. Theo Hội nghị Liên Hợp quốc về Thương mại và phát triển (UNCTAD) thì các yếu tố đó có thể là : Công nghệ, nguồn nhân lực, vốn, chính sách thương mại, đối thủ cạnh tranh mới. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) lại đưa ra các yếu tố sau đây có tác động tới khả năng cạnh tranh: Sự mở cửa nền kinh tế, vai trò của nhà nước, khả năng tài chính, cơ sở hạ tầng, công nghệ, quản lý, lao động, thể chế. Porter M đề xuất một cách khác để nói đến các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh, đó là: Các điều kiện về yếu tố đầu vào, các điều kiện về cầu, các ngành liên quan và các ngành hỗ trợ, chiến lược cấu trúc và mức độ cạnh tranh. Ngoài các yếu tố nói trên, thời cơ và đặc biệt, vai trò của Nhà nước được xem như những điều kiện tổng hợp thúc đẩy hoặc hạn chế tác động của các yếu tố nói trên. Qua việc nghiên cứu các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp nói chung, theo tôi các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh của công nghiệp xi măng bao gồm: 2.1. Lợi thế so sánh. Những lý giải phổ biến nhất của lợi thế so sánh là sự khác nhau giữa các quốc gia trong sự thiên phú tự nhiên về các yếu tố sản xuất như lao động, đất đai, tài nguyên quốc gia và vốn. Quốc gia nào giành được ưu thế hơn, quốc gia đó sẽ xuất khẩu hàng hoá này và nhập khẩu những hàng hoá mà không có lợi thế so sánh. Lý thuyết lợi thế so sánh có sự hấp dẫn trực quan và sự khác biệt của các quốc gia về yếu tố chi phí và có vai trò quan trọng trong việc xác định bạn hàng buôn bán cho các ngành. Vấn đề cần lưu ý đối với lý thuyết này là ở chỗ, những giả định làm cơ sở cho lý thuyết này về thương mại không mang tính thực tiễn cho hầu hết các ngành, vì lý thuyết đã giả định không tồn tại nền kinh tế có quy mô lớn, công nghệ ở mọi nơi là đồng nhất, nguồn yếu tố quốc gia là cố định, các yếu tố như lao động và vốn không chuyển dịch giữa các nước. Do đó, lợi thế so sánh chỉ mang tính tương đối, quyết định đến tính cạnh tranh của sản phẩm. Còn các yếu tố trực tiếp tác động tới khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nói chung và nó càng đúng hơn đối với sản phẩm xi măng là: Vốn, trang thiết bị và công nghệ, hình thức tổ chức và đội ngũ cán bộ, hoạt động và chiến lược của doanh nghiệp, chính sách của Nhà nước, các đối thủ cạnh tranh mới, cơ sở hạ tầng. 2.2. Vốn Thiếu vốn là một trở ngại lớn nhất đối với việc phát triển của hơn 80% các doanh nghiệp Việt Nam và ngành xi măng cũng không phải là một ngoại lệ. Sản xuất xi măng cần phải đầu tư một nguồn vốn lớn nên nhân tố về tài chính tác động rất lớn và là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất. Nếu thiếu vốn thì quá trình sản xuất không tiếp diễn được, không thể đáp ứng được nhu cầu của con người. Nhìn chung nguồn vốn đầu tư vào ngành công nghiệp xi măng rất đa dạng cụ thể như: Huy động từ nguồn trong nước, lợi nhuận sản xuất sau thuế và khấu hao tài sản cố định của các xí nhgiệp; đầu tư trực tiếp nước ngoài; trợ giúp phát triển từ các tổ chức cho vay vốn song phương và đa phương nước ngoài. Nguồn vốn vay bao gồm các ngân hàng thương mại và đầu tư; các tổ chức tín dụng cũng như các cơ quan thương mại. Vốn vay từ các nguồn nói trên thường ở dưới dạng ngắn, trung, dài hạn. Ngoài ra, việc phát hành cổ phiếu cũng là một hướng để tạo nguồn vốn. Ngày nay, nhiều doanh nghiệp dựa vào ưu thế vốn để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình. Tuy nhiên, muốn nâng cao khả năng cạnh tranh thì phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn. 2.3. Trang thiết bị và công nghệ Công cụ lao động là phương tiện mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động. Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với quá trình phát triển của công cụ lao động. Sự phát triển của công cụ lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, tăng chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Như thế, trang thiết bị là nhân tố hết sức quan trọng tạo ra tiềm năng tăng năng suất, chất lượng, tăng hiệu quả kinh doanh, từ đó nâng cao khả năng cạng tranh của sản phẩm. Chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp chịu tác động mạnh mẽ của trình độ kỹ thuật, cơ cấu, tính đồng bộ của máy móc thiết bị, chất lượng, công tác bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị... Thế kỷ 21 là thế kỷ của nền kinh tế tri thức. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức là hàm lượng khoa học công nghệ kết tinh trong sản phẩm cao. Công nghệ phản ánh hàm lượng chất xám - một nguồn lực quan trong quyết định sự thắng thế trong kinh doanh. Sự phát triển của kinh tế tri thức có thể sáng tạo ra công nghệ mới tiên tiến và hiện đại hơn, cũng như việc đánh giá, phân tích tất cả các quá trình sản xuất và các thống số công nghệ đều do máy tính hiện đại đảm nhiệm. Do đó, để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm thì chúng ta phải nghiên cứu đón đầu sử dụng công nghệ mới. Ngày nay, công nghệ phát triển nhanh chóng, chu kỳ công nghệ ngày càng ngắn hơn và ngày càng hiện đại hơn, đóng vai trò ngày càng to lớn, mang tính quyết định đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp (ngành) phải tìm được giải pháp đầu tư đúng đắn, chuyển giao công nghệ phù hợp với trình độ tiên tiến của thế giới, bồi dưỡng và đào tạo được lực lượng lao động làm chủ được công nghệ kỹ thuật hiện đại để tiến tới chỗ ứng dụng kỹ thuật ngày càng tiến, sáng tạo công nghệ kỹ thuật mới... làm cơ sở nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 2.4. Hình thức tổ chức và đội ngũ cán bộ Có nhiều hình thức thành lập các doanh nghiệp theo các hướng khác nhau: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn... mỗi hình thức tổ chức có ưu điểm riêng, cùng với cách thức tổ chức bộ máy hoạt động của các doanh nghiệp có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành, từ đó ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Xu hướng ngày càng đa dạng hoá hình thức tổ chức. Trong sản xuất kinh doanh, đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp có thể sáng tạo ra công nghệ, kỹ thuật mới và đưa chúng vào sử dụng, tạo nên tiềm năng lớn cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Cũng chính lực lượng lao động sáng tạo ra sản phẩm mới với kiểu dáng phù hợp với cầu của người tiêu dùng, làm cho sản phẩm của doanh nghiệp có thể bán được, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đội ngũ cán bộ tác động trực tiếp đến năng suất lao động, đến trình độ sử dụng các nguồn lực khác (máy móc thiết bị, nguyên vật liệu.. ) nên tác động trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngày nay, sự phát triển của khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức là hàm lượng khoa học kết tinh trong sản phẩm rất cao. Điều này càng khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của lực lượng lao động đối với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 2.5. Hoạt động và chiến lược của doanh nghiệp Cạnh tranh của doanh nghiệp thường được xem xét trên hai phương diện. Đầu tiên và cơ bản nhất là hiệu quả hoạt động. Ưu tiên hàng đầu đối với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ là tăng hiệu quả hoạt động để cố gắng tiếp cận với thực tiễn tốt nhất của quốc tế trong các lĩnh vực như quy trình sản xuất, công nghệ và khả năng quản lý. Khía cạnh thứ hai của việc cải tiến công nghệ liên quan đến các loại hình chiến lược mà các doanh nghiệp đang sử dụng. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang tồn tại xu hướng cạnh tranh dựa trên mức lương thấp và nguồn tài nguyên phong phú. Các doanh nghiệp dựa nhiều vào khách hàng và đối tác nước ngoài nhằm cung cấp thiết kế, linh kiện, công nghệ, phân phối và thị trường. Kết quả cuối cùng của chiến lược này là năng suất thấp do sử dụng nhiều lao động. Do đó các doanh nghiệp muốn có khả năng cạnh tranh cao hơn và mức sống cao hơn thì phải thay đổi chiến lược này. Lợi thế phải chuyển từ lợi thế so sánh (bằng lao động rẻ, và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú... ) sang lợi thế cạnh tranh dựa trên năng lực đổi mới của các doanh nghiệp và khả năng của chúng trong việc nâng cấp hoặc thay đổi các sản phẩm và quy trình. 2.6. Chính sách của nhà nước Sự ổn định về chính trị, sự nhất quán về quan điểm, chính sách của chính phủ có thể tạo ra lợi thế cho sản xuất. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng quốc gia và của từng thời kỳ mà Nhà nước có các chủ trương chính sách, biện pháp can thiệp khác nhau. Những định hướng chiến lược và vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước cũng có vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất nói chung và phát triển xi măng nói riêng, qua đó tác động tới khả năng cạnh tranh. Nếu có biện pháp thực hiện chiến lược cụ thể thì phát triển sản xuất theo đúng hướng và nhanh chóng thu được kết quả mong muốn. Ngược lại, những định hướng thiếu cơ sở khách quan hoặc sự can thiệp quá sâu của Nhà nước trong quá trình thực hiện đều dẫn tới quá trình sản xuất kém hiệu quả. Việc can thiệp thông qua những chính sách hợp lý (chính sách hợp lý là chính sách phải khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp) và đúng lúc có ảnh hưởng lớn tới việc phát triển ngành công nghiệp xi măng Việt Nam. Các chính sách của Nhà nước đóng một vai trò tích cực trong việc quyết định số phận của ngành công nghiệp chủ chốt này. 2.7. Cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng của quốc gia ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam nói chung và của các doanh nghiệp trong ngành xi măng nói riêng. Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, điện, nước... Các nhà máy xi măng được bố trí ở những nơi có đường bộ, đường sắt, đường sông và đường biển thuận lợi là điều kiện rất quan trọng để các doanh nghiệp có thể giảm chi phí lưu thông, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Do đó, muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam thì những yêu cầu cụ thể của các nhà máy xi măng về đường bộ, đường sắt, đường sông và đường biển phải được xác định cả ở hiện tại và tương lai. Ngoài các yếu tố nói trên còn có các yếu tố như: Các đối thủ cạnh tranh mới, các điều kiện về cầu... cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của ngành xi măng Việt Nam. Trên đây là những yếu tố cơ bản tác động tới khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp xi măng. Nhưng suy cho cùng khả năng cạnh tranh của sản phẩm thể hiện ở giá thành. Vì vậy, dù các yếu tố tác động mạnh yếu khác nhau đến tính cạnh tranh của sản phẩm nhưng chúng đều được phản ánh ở việc giá thành có cạnh tranh hay không. II. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành công nghiệp xi măng. Bất kỳ loại sản phẩm nào cũng có đặc điểm riêng của, đặc điểm đó tạo nên sự khác biệt giữa các loại sản phẩm với nhau, giúp chúng ta dễ dàng phân biệt được nó với sản phẩm khác. Sản xuất xi măng có những đặc điểm cơ bản sau: 1. Công nghiệp sản xuất xi măng là ngành sản xuất nguyên vật liệu Khác với các sản phẩm khác, xi măng chưa phải là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất mà nó lại chính là sản phẩm trung gian như xi măng làm đầu vào cho ngành xây dựng. Như chúng ta đã biết, quá trình đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, không đồng bộ và bị chiến tranh tàn phá nặng nề, ngành xây dựng có vai trò quan trọng trong việc khôi phục và cải tạo chúng. Vai trò nặng nề này đòi hỏi lượng vật liệu xây dựng rất lớn, xi măng là đầu vào không thể thiếu được. ở nước ta, mạng lưới giao thông đang xuống cấp nghiêm trọng, nhiều đoạn đuờng chính bị sạt lở vừa dễ gây tai nạn vừa gây tắc nghẽn giao thông, xi măng cũng là nguyên vật liệu có thể thay thế được nhựa đường để làm mặt đuờng bê tông vừa rẻ hơn vừa bền hơn. Ngoài ra, xi măng còn làm nguyên liệu đầu vào cho một số ngành khác liên quan đến xây dựng. Sản xuất xi măng phải gắn liền với khu nguyên liệu như vôi đá, than, điện...để tận dụng tối đa và khai thác nguồn nguyên liệu sẵn có, nếu xa nguồn nguyên liệu thì khi sản xuất phải vận chuyển cồng kềnh phức tạp, hao phí nhiều và tốn kém. 2. Sản xuất xi măng là ngành sản xuất đòi hỏi công nghệ cao, hiện đại. Công nghệ sản xuất xi măng đã xuất hiện cách đây gần một thế kỷ. Mặc dù vậy công nghệ sản xuất xi măng không phải là công nghệ nội sinh mà đã du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam. Do nhập từ nước ngoài nên công nghiệp sản xuất xi măng Việt Nam vẫn mang tính tiên tiến, hiện đại, ngang tầm với công nghệ sản xuất xi măng trên thế giới. Sản xuất xi măng có hai công nghệ chính là công nghệ lò đứng và lò quay. Mỗi loại công nghệ có ưu nhược điểm riêng. Công nghệ lò đứng có ưu điểm là: cho phép khai thác và tận dụng nguồn nguyên liệu của địa phương; vốn đầu tư ít và thời gian thu hồi vốn nhanh... do công suất của mỗi nhà máy thường nhỏ. Nhưng nó cũng có những nhược điểm là: sản phẩm sản xuất ra kém chất lượng, sản xuất gây ô nhiễm môi trường.... Còn sản xuất xi măng bằng công nghệ lò quay có ưu điểm là: chất lượng xi măng được đảm bảo cạnh tranh quốc tế, giảm bớt ô nhiễm môi trường, mức độ tự động hoá cao có thể giảm thiểu độc hại cho con người.Tuy nhiên, công nghệ lò quay đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vồn dài, bố trí nhà máy phải ở gần nguồn nguyên liệu (đá vôi, đất sét) có trữ lượng lớn do công suất của mỗi nhà máy thường lớn (trên 1 triệu tấn/năm). Các khâu của quá trình sản xuất xi măng đều rất phức tạp và nặng nhọc đòi hỏi kỹ thuật cao, môi trường làm việc rất căng thẳng. Dây chuyền sản xuất chủ yếu là máy móc tự động, càng tự động bao nhiêu thì càng bớt độc hại cho con nguời và nâng cao năng suất lao động bấy nhiêu. Sản xuất xi măng đòi hỏi đội ngũ công nhân lớn có trình độ tay nghề cao, trình độ sử dụng máy móc và điều khiển máy tự động lớn. 3. Sản xuất xi măng là ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn Chính vì sản xuất xi măng là một ngành công nghiệp nặng, kỹ thuật sản xuất phức tạp, do đó đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn, mỗi dự án khoảng 150 - 300 triệu USD, suất đầu tư cho một tấn xi măng khoảng 150 USD. Mặt khác để có sản lượng thực tế ở một thời điểm khai thác xi măng thì mức đầu tư công suất phải nhiều hơn 25 - 30%. Vốn đầu tư vào sản xuất xi măng có thời gian thu hồi vốn lâu, để xây dựng một nhà máy xi măng phải mất 4 - 5 năm, muốn thu hồi được vốn phải mất 8 - 10 năm. Hiện nay ngành xi măng đang thiếu vốn để đầu tư phát triển, đây cũng là khó khăn lớn nhất mà ngành xi măng đang vấp phải, vậy cần phải huy động đủ vốn đầu tư và tăng nhanh vòng quay của vốn.Việc huy động vốn cho đầu tư phải huy động từ nhiều nguồn, kể cả trong nước và ngoài nước. 4. Sản xuất xi măng là ngành đòi hỏi khối lượng nguyên liệu thô lớn Nguyên liệu cho sản xuất xi măng bao gồm:đá vôi, đất sét và một ít (2-5%) các phụ gia điều chỉnh như: quăng sắt, laterit, cát... và một ít phụ gia puzơlan và thạch cao để pha trộn điều chỉnh trong với quá trình nghiền với clinke là sản phẩm nung hỗn hợp các nguyên liệu để thành xi măng theo mác hoặc theo chủng loại của khách hàng theo yêu cầu. Tỷ lệ % phụ gia phuzơlan sẽ tuỳ theo chủng loại xi măng. Năng lượng sử dụng có thể là than, dầu và ga. Những vật tư mau mòn chóng hỏng chính là phụ tùng thay thế, bi đạn nghiền, vật liệu chịu lửa và bao giấy. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu đối với các nhà máy xi măng là phải được bố trí gần nguồn nguyên liệu chủ yếu (đá vôi, đất sét) vì nếu phải vận chuyển xa nguồn nguyên liệu này thì rất cồng kềnh và tốn kém. 5. Sản phẩm xi măng có nhiều loại và được tiêu thụ chủ yếu vào mùa xây dựng 5.1. Về sản phẩm Xi măng là loại vật tư chiến lược quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nó là nhu cầu không thể thiếu được của sản xuất và tiêu dùng xã hội, xã hội càng phát triển thì nhu cầu tiêu dùng xi măng càng lớn, nhất là trong điều kiện nước ta hiện nay đang ở trong giai đoạn xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền sản xuất. Để sản phẩm xi măng có thể cạnh tranh về chất lượng ngoài việc giữ vững chất lượng xi măng còn phải dần dần nâng cao chất lượng nhằm thoả mãn tốt nhu cầu tiêu thụ của người tiêu dùng. Đối với xi măng lò quay việc bảo đảm các chỉ tiêu kỹ thuật sẽ đảm bảo sản xuất xi măng ra với chất lượng tốt. Sản phẩm xi măng còn có rất nhiều loại, mỗi công trình ở các điều kiện khí hậu, môi truờng và vị trí khác nhau đòi hỏi có các loại xi măng chất lượng và hoạt tính khác nhau. Trong quá trình sử dụng xi măng các nhà xây dựng đã phát hiện ra rằng: nếu thêm các loại gia phụ khác nhau và tỷ lệ khác nhau thì có đuợc các loại xi măng có hoạt tính khác nhau. Sau đây là một số loại xi măng: + Xi măng puzơlan: xi măng có pha thêm 20 - 40 % phụ gia đất puzơli gọi là xi măng puzơlan. Xi măng này đựơc dùng cho ngành thủy lợi, thích hợp cho việc xây dựng các công trình dưới nuớc. + Xi măng dẻo: là loại xi măng có pha thêm phụ gia hoá dẻo làm cho xi măng có tính chống thấm cao, dùng cho xây dựng đường sá, sân bay, công trình thủy lợi.... + Xi măng kị nước: là loại có pha thêm phụ gia kị nước, hoạt động bề mặt xi măng này có thể để trong kho lâu ngày trong điều kiện không khí ẩm. + Xi măng đóng rắn nhanh: là loại xi măng có pha thêm 10% phụ gia khoáng hoạt tính và khoảng 15% phụ gia xỉ hạt của lò luyện gang. Loại xi măng này thường được sử dụng vào các bộ phận công trình hoặc kết cấu chịu lực đòi hỏi bê tông phải đạt nhanh cường độ ban đầu theo ứng xuất cho phép để đảm bảo thực hiện tiến độ thi công công trình. + Xi măng trắng: là loại xi măng có màu trắng, được sản xuất từ các nguyên liệu đặc biệt có chứa rất ít các oxit màu, xi măng này thường được dùng cho trang trí. Hiện nay ở nước ta chỉ mới có nhà máy xi măng Hải Phòng sản xuất loại xi măng này. + Xi măng nở: đuợc sản xuất trên cơ sở xi măng thường với phụ gia nở. Loại này thường được dùng cho các công trình ngấm chịu nước hoặc để toàn khối hoá các đầu mối của cấu kiện bê tông cốt thép. Nói tóm lại chất lượng sản phẩm được đánh giá theo từng loại sản phẩm của nó nhưng tất cả các đặc điểm chung về chất lượng nêu trên cũng đủ làm cho sản phẩm xi măng khác hoàn toàn với các loại sản phẩm khác trên thị trường xây dựng. Vì vậy sản phẩm xi măng trên thị trường vẫn mang tính chất độc quyền. Với nước ta thuộc vùng khí hậu nóng ẩm xi măng bảo quản lâu dễ ảnh hưởng đến chất lượng. Trong điều kiện vận tải của ta còn nhiều khó khăn, thời gian từ khi sản xuất đến khi sử dụng có khi kéo dài hàng tháng, cho nên nguời tiêu dùng cần có giấy chất lượng để biết ngày sản xuất từ đó suy ra chất lượng xi măng. Sản phẩm xi măng sản xuất theo tiêu chuẩn của Nhà nước, tuy nhiên do đặc tính nguyên liệu của các nhà máy khác nhau nên tính chất của sản phẩm có khác nhau chút ít nhưng không ngoài tiêu chuẩn quy định và không ảnh hưởng tới chất lượng của sản phẩm. 5.2. Về thị trường tiêu thụ Xi măng là loại sản phẩm được tiêu thụ theo mùa xây dựng, hiện nay thị trường tiêu thụ của xi măng rộng khắp trên cả nước, tốc độ tiêu thụ ở miền Bắc đang chậm dần, tích cực đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ xi măng ở miền Trung và miền Nam, vì vậy ngành xi măng đang cố gắng vận chuyển xi măng vào các vùng sâu, xa trong cả nước nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của nhân dân. Thị trường tiêu thụ xi măng cũng được phát triển theo sự phát triển của nền kinh tế ở từng khu vực. Ngoài thị trường xi măng trong nước xi măng còn vươn tới xuất khẩu sang các nước Lào, Campuchia dưới hình thức " nghị định thư" có nghĩa là việc mua bán xi măng Việt Nam có tr._.ách nhiệm chuyên trở xi măng sang nước bạn còn việc thanh toán thì giữa hai chính phủ đàm phán với nhau, có thể là viện trợ hoặc thanh toán nợ (giai đoạn này là từ 1992 về trước). Còn từ năm 1992 đến năm 1998 cùng với quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước cần thiết phải xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình lớn phục vụ sản xuất và đời sống như YALY,thủy điện sông Đà... khả năng cung ứng các nhà máy xi măng trên toàn quốc mặc dù phát huy hết công suất của mình vẫn không đáp ứng nhu cầu đó. Hàng năm chúng ta phải nhập một số lượng tương đối lớn xi măng từ các nước trong khu vực. Do đó sản phẩm xi măng ở giai đoạn này chủ yếu có mặt ở thị trường trong nước. Từ năm 1999 Tổng công ty xi măng Việt nam đã bắt đầu thâm nhập thị trường các nước như Lào,Campuchia. Triển vọng sau năm 2000 cùng với việc mở rộng các nhà máy xi măng lớn hiện có như Hoàng Thạch, Hải Phòng, Bỉm Sơn, Hà Tiên...xây dựng một số nhà máy xi măng địa phương. Tổng công ty xi măng Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Nhà nước cụ thể là Bộ Xây dựng đã liên doanh liên kết với nhiều công ty có tiếng của nước ngoài xây dựng mới các nhà máy xi măng như: Chinfon liên doanh với Đài Loan, Sao Mai liên doanh với Thụy Sỹ, Nghi Sơn liên doanh với Nhật Bản.... thì sản lượng xi măng sẽ được tăng lên một cách đáng kể, ngoài việc đáp ứng nhu cầu trong nước chúng ta còn có khả năng xuất khẩu sang các nước trong khu vực. Ngoài các đặc điểm sản xuất xi măng nói trên, còn có các đặc điểm là: sản xuất gây ô nhiễm môi trường rất lớn lượng khí thải độc hại nhiều, tiếng ồn xung quanh nhà máy và bụi trong môi trường sống lớn. Hiện nay, với quá trình đổi mới công nghệ sản xuất, ngành xi măng đang cố gắng giảm mức độ ô nhiễm môi trưòng xuống mức tối thiểu có thể cho phép được; xi măng là ngành công nghiệp nặng có hiệu quả kinh tế cao, tỷ trọng đóng góp ngân sách Nhà nước lớn (khoảng 8 đến 10 triệuUSD cho mỗi tấn xi măng). Nhưng đồng thời nó cũng là ngành công nghiệp có khối lượng thiết bị lớn, diện tích xây dựng rộng, lượng vận tải đầu vào và đầu ra lớn; sự phát triển ngành công nghiệp xi măng đòi hỏi sự phát triển cân đối liên ngành: giao thông, cơ khí thiết bị, điện, than, dầu khí, bao bì, giáo dục đào tạo, ngân hàng tài chính vv... Trên đây là tất cả các đặc điểm của công nghiệp sản xuất xi măng, những đặc điểm này đã làm cho chúng ta dễ dàng thấy ngành sản xuất xi măng khác hoàn toàn với ngành khác và nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá và lựa chọn những dự án đầu tư phát triển ngành xi măng mới. III. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam Trong những năm gần đây môi trường cạnh tranh của các doanh nghiệp rất gay gắt. Dự báo trong những năm tới khi Việt Nam hội nhập, cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt và quyết liệt hơn. Các doanh nghiệp trong ngành xi măng cũng phải đối mặt với thực tế đó. Do đó, việc nghiên cứu tính cạnh tranh của sản phẩm trong quá trình hội nhập là rất quan trọng và cần thiết. 1. Nhằm phân bổ hiệu quả nguồn lực khan hiếm Các nguồn lực xã hội là khan hiếm: càng ngày người ta càng sử nhiều các nguồn lực sản xuất vào các hoạt động sản xuất phục vụ các nhu cầu khác nhau của con người. Trong khi các nguồn lực sản xuất xã hội chỉ có hạn thì nhu cầu của con người ngày càng đa dạng và tăng không có giới hạn. Điều này phản ánh quy luật khan hiếm. Quy luật khan hiếm bắt buộc các doanh nghiệp phải lựa chọn và trả lời chính xác ba câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào ? và sản xuất cho ai? vì thị trường chỉ chấp nhận các doanh nghiệp nào quyết định sản xuất đúng loại sản phẩm (dịch vụ) với số lượng và chất lượng phù hợp. Mọi doanh nghiệp trả lời không đúng ba vấn đề trên sẽ sử dụng các nguồn lực sản xuất xã hội để sản xuất sản phẩm không tiêu thụ được trên thị trường - tức kinh doanh không có hiệu quả, lãng phí nguồn lực sản xuất xã hội - sẽ không có khả năng tồn tại. Mặt khác, sự khan hiếm về nguồn lực đặt ra một yêu cầu là không thể phát triển tất cả các ngành cùng một lúc được. Nếu tập trung phát triển các ngành không có lợi thế thì dẫn đến dàn trải nguồn lực, không đảm bảo phát triển bền vững. Do đó, chỉ tập trung vào sản phẩm có tính cạnh tranh mới đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của sản phẩm. Công nghiệp sản xuất sản phẩm xi măng ở Việt Nam có lợi thế so sánh (nguồn nguyên, nhiên liệu phong phú và giá lao động rẻ) nhưng làm sao phải biến lợi thế này thành lợi thế cạnh tranh, để duy trì sự tồn tại và phát triển lâu dài của sản phẩm mới là câu hỏi mà từng doanh nghiệp, từng ngành phải đi tìm câu trả lời. 2. Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường Các học thuyết về kinh tế thị trường hiện đại dù thuộc trường phái nào đi nữa cũng đều khẳng định: với tính cách là một động lực quan trọng nhất đối với sự phát triển nội tại của nền kinh tế, cạnh tranh chỉ tồn tại và xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện của kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực, là mục tiêu và là phương tiện tồn tại của chủ thể kinh doanh. Mục đích tối đa hoá lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh đã gây sức ép buộc họ phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của chính mình như: vốn, lao động, trình độ kỹ thuật... Chính mục đích này đã khuyến khích, thúc đẩy họ nghiên cứu và áp dụng công nghệ mới để có thể giảm được chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. Mặt khác, để đáp ứng ngày càng tốt hơn thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng để họ hướng tới tối đa hoá lợi ích người tiêu dùng của mình. Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là tất yếu và doanh nghiệp ( ngành) muốn tồn tại và phát triển thì sản phẩm sản xuất ra phải có khả năng cạnh tranh cao. Đối với nước ta hiện nay, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó tất cả các doanh nghiệp, ngành thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đều phải chấp nhận cạnh tranh nhưng cạnh tranh trong môi trường lành mạnh chứ không phải bất chấp mọi thủ đoạn để tiêu diệt lẫn nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi ngoài biên giới thì cạnh tranh không chỉ mang bản chất kinh tế và xã hội, mà cạnh tranh còn mang bản chất chính trị, tuỳ thuộc vào việc hoạch định và thực thi chính sách kinh tế và chính sách xã hội của nước đó. Như hiện nay chính sách thương mại đối với ngành xi măng Việt Nam là cấm nhập khẩu xi măng nước ngoài (chỉ nhập khẩu một số lượng ít clinke) để bảo hộ ngành xi măng trong nước. Nếu thực thi chính sách này được mãi thì việc nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam hiện nay chưa phải là yêu cầu cấp bách. Nhưng để thấy được tính cấp bách của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam hiện nay thì phải nghiên cứu các lý do tiếp theo. 3. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra yêu cầu cấp bách đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trong ngành xi măng nói riêng là phải nâng cao khả năng cạnh tranh. * Trong quá trình tiến hành CNH - HĐH ở Việt Nam, nhất là trong giai đoạn thực hiện chiến lược 10 năm (1991 - 2000), hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên vẫn còn nhiều sản phẩm công nghiệp và dịch vụ có chất lượng chưa cao, giá thành đắt. Một số sản phẩm còn đắt hơn nhiều so với giá cả trên thị trường khu vực và thế giới. Điều này gây thiệt hại cho người tiêu dùng, nhất là ngươi tiêu dùng trong nước có thu nhập thấp. Trong thời gian tới, thách thức càng lớn đối với doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ vì phải tăng nhanh hiệu quả và sức cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu hội nhập. Theo các cam kết trong phạm vi AFTA, mức thuế nhập khẩu sẽ phải giảm dần và tới năm 2006 chỉ còn 0 - 5%. Như vậy, sức ép về nâng cao chất lượng và hạ giá thành sẽ ngày càng trở nên gay gắt. Nếu tính tới quá trình mở của và hội nhập trong phạm vi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, trong khuôn khổ APEC,...thì sức ép này còn nặng nề hơn. Do đó, con đường duy nhất là phải nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. * Ngành xi măng Việt Nam muốn tồn tại và phát triển thì phải nâng cao khả năng cạnh tranh. + Đối với các doanh nghiệp trong ngành xi măng nước ta vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập là: làm thế nào để tồn tại và phát triển? làm thế nào để bảo vệ thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu, trong khi phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh nước ngoài có tiềm lực về mọi mặt mạnh hơn ta như Thái lan, Indonesia, Trung quốc... Do đó, nâng cao khả năng cạnh tranh là vấn đề sống còn các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trong ngành xi măng nói riêng. + Ngành xi măng Việt Nam hiện nay cạnh tranh dựa trên lợi thế nguồn tài nguyên phong phú và lao động rẻ. Những lợi thế này khi hội nhập sẽ bị hạn chế lý do là phải sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vào. Do đó, cạnh tranh theo hướng này có phần thụ động và chỉ có tác dụng trong ngắn hạn. Để đứng vững trong cạnh tranh thì đối với tất cả các doanh nghiệp (ngành) nói chung và ngành xi măng nói riêng thì cạnh tranh phải dựa trên lợi thế có được nhờ nâng cao năng lực trong việc cắt giảm chi phí bình quân và hợp lý hoá quy trình sản xuất theo hướng thứ hai này chủ động hơn và có tác dụng lâu dài. Hiện nay theo tôi, ngành xi măng Việt Nam khả năng cạnh tranh yếu (do chỉ dựa vào lợi thế so sánh là nguồn tài nguyên phong phú và giá lao động rẻ) trong khi phải đối mặt với các nhà cung cấp nước ngoài, họ có ưu thế hơn về nhiều mặt như kinh nghiệm cạnh tranh, năng lực tài chính, giá cả vv... Xi măng là một trong những mặt hàng thuộc “danh mục loại trừ tạm thời” theo lịch trình giảm thuế nhập khẩu đối với mặt hàng thuộc chương trình AFTA. Từ năm 2003 đến năm 2006, xi măng phải giảm thuế suất từ 15% xuống còn 5%. Với các nhà máy xi măng Việt Nam đây là một thách thức rất lớn để cạnh tranh, giành thị phần khi có mặt các nhà cung cấp nước ngoài. Vậy ngay từ bây giờ các nhà sản xuất xi măng trong nước cần tăng sức cạnh tranh, chủ động hội nhập thành công. + Từ trước tới nay, ngành xi măng nước ta được Nhà nước bảo hộ mạnh mẽ qua các công cụ: thuế nhập khẩu 40%, hạn chế chi phí thuế quan như cấp giấy phép nhập khẩu hàng năm cũng như quy định về giá nên bán, quản lý bán ra, dự trữ xi măng để ổn định giá... và hiện nay Nhà nước có chính sách cấm nhập khẩu xi măng lý do là khả năng sản xuất trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu. Với chính sách bảo hộ thường xuyên lâu dài của Nhà nước đối với ngành xi măng, đã tạo điều kiện để ngành có thể tồn tại và phát triển. Tuy nhiên chính sách đó cũng dẫn đến tâm lý chủ quan, trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước, các doanh nghiệp trong ngành không chủ động dùng các biện pháp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả, giảm giá thành của sản phẩm, do đó khi chính thức "hội nhập" thì sản phẩm không đủ cạnh tranh trên thị trường để bán được hàng của các doanh nghiệp, ngành đòi hỏi Nhà nước phải giảm giá các yếu tố đầu vào, giảm thuế... như vậy sản xuất đã khan hiếm nguồn lực của quốc gia, lại phải hướng vào trợ cấp cho những ngành không hiệu quả và sẽ không được chấp nhận. 4. Thị trường xi măng trong khu vực Asean trong những năm tới sẽ dư thừa khối lượng lớn Để thấy được sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 cần thiết phải xem xét sự phát triển công nghiệp xi măng của các nước trong khu vực ASEAN. Bảng1: Tổng công suất, nhu cầu nội địa và tổng sản lượng xi măng của các nước ASEAN Đơn vị: triệu tấn Nước Xi măng Thực hiện Dự báo 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Brunei Tổng sản lượng 0,26 0,36 0,36 0,36 0,36 0,36 Tổng nhu cầu nội địa 0,33 0,36 0,40 0,41 0,43 0,44 Indonesia Tổng sản lượng 24,59 30,28 32,96 35,35 37,98 40,88 Tổng nhu cầu nội địa 19,01 19,80 21,00 22,90 25,20 27,70 Malaysia Tổng sản lượng 11,19 13,98 16,63 16,63 16,63 18,63 Tổng nhu cầu nội địa 12,79 10,30 11,33 12,46 13,71 15,08 Philipin Tổng sản lượng 12,58 15,21 15,27 16,70 18,27 19,99 Tổng nhu cầu nội địa 1,20 13,21 14,27 15,70 17,28 18,99 Sigapo Tổng sản lượng 5,00 1,20 1,20 1,20 1,20 1,20 Tổng nhu cầu nội địa 23,90 4,50 4,50 5,00 5,00 5,00 Thái lan Tổng sản lượng 17,90 24,50 26,30 28,00 29,30 32,27 Tổng nhu cầu nội địa 15,50 18,50 20,30 22,00 23,30 24,26 Việt Nam Tổng sản lượng 11,00 12,20 13,60 15,20 17,00 19,55 Tổng nhu cầu nội địa 11,00 12,10 13,30 14,70 16,60 18,45 Tổng Tổng sản lượng 84,93 97.73 106,1 113,1 120,4 128,7 Tổng nhu cầu nội địa 75,31 78,7 85,1 78,6 101,5 110,8 (Nguồn: Vụ Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu Tư) Qua bảng số liệu trên ta thấy, trong một vài năm nữa nhu cầu xi măng sẽ không tăng mạnh nữa nên cung sẽ vượt cầu rất nhiều trong khu vực. Theo kết quả dự báo, mỗi năm thừa khoảng trên 10 triệu tẩn trong khu vực. Có thể nhận thấy khu vực đang chuyển một cách rõ ràng từ tình trạng thiếu hụt sang hiện trạnh dư thừa năng lực sản xuất, do hầu hết các nước ASEAN đang đua nhau xây dựng các nhà máy xi măng mình trên quy mô lớn. Có người băn khoăn tại sao các nhà sản xuất xi măng lại muốn mở rộng sản xuất trong khi toàn khu vực phải gánh chịu và không thể tránh được sự dư thừa. Nguyên nhân chính là các quốc gia đều muốn duy trì tham ổn định thị trường. Trong thời gian tới họ tin rằng sự dư thừa sẽ tạm thời được giải quyết thông qua xuất khẩu. Việc các nhà cung cấp nội địa tiếp tục mở rộng, tiến tới cùng chia sẻ thị trường, các cuộc cạnh tranh về giá sẽ được thực hiện theo nguyên tắc chung của khu vực, báo hiệu thị trường xuất khẩu sẽ cạnh tranh ngày một gay gắt và khốc liệt hơn. Kết quả của cuộc cạnh tranh là giá cả trong khu vực sẽ thấp đi. Ngành xi măng Việt nam muốn tồn tại và phát triển trong quá trình hội nhập thì sản phẩm sản xuất ra phải có khả năng bán được ở mức giá hạ, chất lượng cao, mạng lưới tiêu thụ tốt. Tóm lại, những lý do trên đây đã khẳng định: nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam là yêu cầu rất cần thiết và cấp bách hiện nay, sao cho ngành xi măng Việt Nam có thể vững vàng tham gia hội nhập thành công”. Phần II Đánh giá thực trạng về ngành xi măng và tính cạnh tranh của sản phẩm xi măng Việt Nam I. Đánh giá chung về Tình hình thị trường xi măng Trong những năm qua cùng với sự gia tăng sản lưọng sản xuất của ngành xi măng Việt Nam thì nhu cầu về xi măng của nước ta cũng tăng. Tuy nhiên mức biến động của thị trường xi măng trong và ngoài nước là rất lớn. Điều này thể hiện ở những điểm sau: 1. Thị trường trong nước Thị trường xi măng trong nước phụ thuộc vào tốc độ phát triển kinh tế của từng vùng, từng khu vực. Trong đó sự phát triển đô thị, các công trình cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp các công trình thủy lợi và thủy điện chiếm một vai trò quyết định trong cơ cấu thị trường tiêu thụ xi măng. Trong cơ chế cũ, vấn đề tiêu thụ xi măng do Nhà nước phân phối cho từng ngành, từmg lĩnh vực. Tiêu thụ xi măng không phải là vấn đề đặt ra gay gắt vì khi đó ngành xi măng sản xuất và phân phối theo các địa chỉ được Nhà nước quy định trước. Từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, ngành công nghiệp xi măng được sự ưu tiên đầu tư phát triển và được xác định là một trong những ngành trọng điểm. Cùng với quá trình CNH - HĐH đất nước , xi măng được dùng trong xây dựng rất nhiều, quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ, vấn đề tiêu thụ xi măng đã được Nhà nước quan tâm thích đáng. Đặc điểm của thị trường tiêu thụ xi măng nước ta là biến động theo mùa “mùa thời tiết, mùa của từng khu vực”. Do về mùa có mưa lũ nên tốc độ xây dựng bị chậm lại và mùa hanh khô ráo tốc độ xây dựng lại lớn hơn. Với sự đổi mới của nền kinh tế thực hiện phương hướng của người sản xuất gắn với người tiêu dùng, bước sang năm 1991 nhu cầu xi măng tại Việt Nam có sự tăng trưởng đột biến, tốc độ tăng trung bình 21,61%/năm trong khi đó sản xuất cũng đã có những thay đổi tương đối lớn, mức tăng trưởng bình quân 15,5%/ năm song vẫn chưa đáp ứng được mức yêu cầu. Tuy nhiên, xi măng là loại sản phẩm sản xuất ra phải tiêu thụ trong một thời gian nhất định (nếu không sẽ vón cục hoặc đông cứng, chế biến lại thì tốn kém) các cơ sở sản xuất xi măng ở nước ta lại phân bố không đều, tập trung phần lớn miền Bắc do có nguồn nguyên liệu, nhu cầu sử dụng xi măng giữa các khu vực lại khác nhau theo mùa vụ, do đó bảo đảm nhu cầu bình ổn giá cả là công việc rất khó khăn phức tạp, tình hình thừa thiếu cục bộ là điều không tránh khỏi. Kết quả sản xuất và tiêu thụ xi măng thời kỳ 1990 - 2000 được mô tả như sau: Bảng 2: Kết quả sản xuất và tiêu thụ xi măng giai đoạn 1990 - 2000 Đơn vị: triệu tấn Năm Sản xuất Tiêu thụ Nhập khẩu 1990 2,55 2,55 0 1991 2,99 3,01 0,02 1992 3,86 3,88 0,02 1993 4,22 4,45 0,53 1994 4,62 4,16 1,54 1995 5,24 7,2 1,28 1996 6,0 8,2 1,3 1997 8,35 9,2 0,85 1998 9,35 10,1 0,47 1999 11,06 11,1 - 2000 12,7 13,5 - (Nguồn: Vụ Công nghiệp - Bộ kế hoạch và Đầu tư) Từ năm 1990 - 1995, nhu cầu xây dựng trong nước phát triển mạnh mẽ đầu tư cơ sở hạ tầng tương đối lớn, do đó nhu cầu tiêu thụ xi măng tăng vọt, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ trong nước. Từ chỗ không phải nhập khẩu xi măng nước ngoài ở năm 1990 đến chỗ phải nhập khẩu rất nhiều ở năm 1995. Hai năm 1996, 1997 nhu cầu tiêu thụ xi măng vẫn tăng nhanh nhưng quá trình sản xuất xi măng cũng tăng không kém nên nhu cầu nhập khẩu có chiều hướng giảm dần. Hàng năm, vẫn thiếu xi măng theo mùa xây dựng mà mọi người gọi là “sốt” xi măng. Vào tháng 4 và tháng 5 năm 1995 đột biến giá xi măng lên quá cao, cung cầu mất cân đối. Để đối phó với tình trạng này, Nhà nước đã phải hạ mức giá thầu xuống để giảm giá bán xi măng trên thị trường (giá có lúc lên đến 130.000đ/ tấn) Cơ cấu thị trường nước ta có sự chênh lệch lớn giữa 3 miền Bắc, Trung, Nam. Tỷ lệ tiêu thụ tính tương đối theo số liệu thống kê 3 năm 1994 -1996 là : miền Bắc: 46,84%, miền Trung:14,06%, miền Nam: 40,1 %. Cơ cấu thị trường xi măng trong giai đoạn từ nay đến 2010 chắc chắn có sự biến đổi và hàng năm Tổng Công ty xi măng Việt Nam đều có điều tra để hiệu chỉnh lại cơ cấu thị trường tiêu thụ xi măng trong nước để làm kế hoạch sản xuất cho năm sau. Từ việc rút kinh nghiệm nghiêm túc đợt biến động giá tháng 4 và tháng 5 năm 1995 ngành công nghiệp xi măng đã phát huy hết sức mạnh vai trò điều hành, liên tục cải tiến lưu thông để phù hợp với tình hình thị trường cả nước, từng bước tạo lập môi trường thuận lợi cho cạnh tranh, tăng cường dự trữ cần thiết ở phía Nam theo quy định của Chính phủ, tổ chức cải tiến, tổ chức phân phối, mở rộng hình thức tiêu thụ thông qua các hình thức đại lý và tổng đại lý. Đồng thời chủ động trong công tác bình ổn thị trường xi măng, phấn đấu để thực hiện vai trò cân đối toàn cục, đưa xi măng, Clinker từ miền Bắc vào miền Trung, Nam, vùng sâu, vùng xa. Do vậy, giá cả trên thị trường tương đối ổn định trong giai đoạn từ năm 1996 -1999. điều đó được thể hiện ở bảng sau: Bảng 3: Giá xi măng trung bình trong nước giai đoạn 1996 -1999 Đơn vị :Đồng / tấn (giá hiện hành) Năm 1996 1997 1998 1999 Giá bán trung bình trong nước (XI MăNG Bao PC 30) 930.000 900.000 883.000 843.000 (Nguồn :Vụ công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Mặc dù giá cả trên thị trường thời gian qua đã tương đối ổn định nhưng bắt đầu từ năm 1997 trở đi khả năng sản xuất đã vượt nhu cầu người tiêu dùng. Bình quân mỗi năm tổng Công ty xi măng lại phải dự trữ trên dưới 1 triệu tấn. Nếu tạm tính giá thành sản xuất bình quân 50.000 đồng/tấn thì ngành xi măng tồn đọng số vốn tới khoảng 500 tỉ đồng mỗi năm. Nguyên nhân là lượng xi măng sản xuất ra vượt nhu cầu người tiêu dùng. Nhưng không loại trừ chất lượng xi măng quá kém, nhất là sản phẩm lò đứng, trong khi giá bán lại cao. Chính vì thế, xi măng vẫn được lén lút nhập lậu các tỉnh biên giới. Tuy nhiên, nguyên nhân quan trọng là từ khâu quy hoạch đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất xi măng. Vào những năm 1989 - 1993 nhu cầu tiêu thụ xi măng trong nước lên cao do cơn sốt xây dựng. Từ thực tế này, các nhà làm quy hoạch dự báo mức tăng nhu cầu sử dụng xi măng giai đoạn 1993 -2000 là 22%/năm. Như vậy, theo tính toán đến năm 2000, sản lượng xi măng cả nước phải đạt 20 triệu tấn/năm, đến năm 2010 tăng lên 40 triệu tấn/năm. Ngay từ thời kỳ ấy nổi lên cơn sốt xây dựng nhà máy xi măng, lắp đặt các dây chuyền sản xuất xi măng mà phần lớn là các loại lò đứng mua từ Trung Quốc về. Lúc này, giá Clinker trên thế giới lại hạ, để sớm có sản phẩm người ta nhập khẩu đại trà Clinker của các nước lân cận, trong khi nguyên liệu để nung Clinker là đá vôi và than đá ở ta rất sẵn và rẻ. Đây là yếu tố làm giá xi măng tăng lên. Mặt khác lò đứng không cho phép sản xuất xi măng tốt như lò quay. Bất chấp tất cả các loại xi măng đủ nhãn mác cứ được sản xuất đầy ắp trên thị trường. Thêm vào đó các loại xi măng giả, kém chất lượng lẫn lộn không quản lý nổi. Cơn sốt xây dựng ngày càng lắng xuống, nhu cầu xây dựng giảm thấp so với dự kiến. Theo thống kê năm 1994 nhu cầu xi măng cầu xã hội tăng 19,26% là đỉnh điểm. Đến năm 1997 nhu cầu chỉ tăng 13,4 %, sang năm 1999 thì xi măng đã ế quá nhiều, làm bất lợi cho nền kinh tế đất nước Tuy nhiên, kể từ quý III năm 1999 thị trường xi măng đã đi vào ổn định nhờ 3 nguyên nhân: Thứ nhất: Tốc độ phát triển kinh tế đã tăng trở lại, kéo theo đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước ta. Thứ hai: Chính phủ hạn chế tối đa việc nhập khẩu xi măng Clinker. Thứ ba: Chính phủ chủ trương kích cầu nên các nhà sản xuất xi măng thuộc 3 khối: Tổng Công ty xi măng Việt Nam, khối liên doanh và khối lò đứng dịa phương đã có cơ hội tiêu thụ sản phẩm. Có thể nói năm 1999, thị trường xi măng đã có chuyển biến tích cực nhờ sự điều tiết, quản lý hiệu quả của Nhà nước và sự cố gắng của các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. 2. Thị trường ngoài nước Trong các năm từ 1991 - 1995, Việt Nam đã phải nhập khẩu thêm xi măng Clinker để thoả mãn nhu cầu tăng lên, tổng lượng nhập khẩu giai đoạn này là 4,74 triệu tấn. Năm 1996 còn tiếp tục nhập thêm 1,9 triệu tấn Clinker và xi măng. Từ năm 1997, tình hình tiêu thụ xi măng trong nứơc có những thay đổi quan trọng do: + Các Nhà máy xi măng mới đầu tư đã phát huy hết công suất, tham gia thị trường để giải quyết nhu cầu, + Tốc độ tăng trưởng nhu cầu đã chậm lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực. + Tình hình dư thừa xi măng của các nước trong khu vực cũng đã tạo nên sức ép đối với nền sản xuất xi măng trong nước, về giá cả và chất lượng sản phẩm. Đứng trước tình hình khả năng sản xuất đã vượt quá nhu cầu tiêu thụ trong nước, nhằm mở rộng thị trường và phục vụ mục tiêu chiến lược lâu dài, Tổng Công ty xi măng Việt Nam có kế hoạch xuất khẩu xi măng sang các nước láng giềng, đặc biệt là Lào và Campuchia. Năm 1999, Tổng Công ty xi măng Việt Nam bước đầu thâm nhập thị trường này và đã xuất khẩu được trên 20.000 tấn. Do các Nhà máy của Tổng Công ty xi măng Việt Nam nằm sâu trong nội địa, không có cảng nước sâu nên khả năng cạnh tranh trong việc xuất khẩu tới các thị trường khác gặp rất nhiều khó khăn do chi phí cao vì phải trung chuyển và bốc dỡ nhiều lần. Vì vậy, trong kế hoạch chiến lược của mình, Tổng Công ty sẽ cố gắng duy trì khả năng xuất khẩu sang Lào và Campuchia. Tuy nhiên cần có các biện pháp hữu hiệu khác như giảm giá thành, đầu tư các Nhà máy mới tại các vị trí thuận lợi về giao thông thủy nhằm duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu quen thuộc và có khả năng cạnh tranh tại thị trường khác. II. Chính sách và những quy định của Nhà nước đối với ngành xi măng Tình hình phát triển thị trường xi măng trong thời gian qua, đã khẳng định sự đúng đắn việc thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời cũng làm nổi bật vai trò quản lý điều tiết thị trường của Nhà nước, thông qua việc ban hành và hướng dẫn các cơ chế chính sách kinh tế đối với sản xuất, lưu thông, cung ứng và tiêu thụ xi măng. Các chính sách và quy định áp dụng cho ngành công nghiệp xi măng là: + Hệ thống pháp luật cơ bản. + Các chính sách đầu vào và đầu ra - Cấp giấy phép đầu tư cho các dự án đầu tư trong nước - Cấp giấy phép đầu tư nước ngoài. - Chính sách đầu ra + Quyền sử dụng đất + Chính sách lao động + Chính sách thuế + Chính sách ngoại thương +Chính sách giá Trong bài viết này, tôi chỉ đi sâu nghiên cứu, phân tích một số chính sách ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam. Đó là: chính sách ngoại thương, chính sách thuế, chính sách giá. 1. Chính sách ngoại thương Nói chung, các cải cách chính sách thương mại do Chính phủ ban hành được nhận thức và thực hiện tốt. Tổng mức bảo hộ nhập khẩu khi tham gia ASEAN dần dần được thực hiện. a) Các quy định về nhập khẩu Tiến bộ đáng kể là những cải tiến trong việc giảm hạn chế số lượng nhập khẩu. Mấy năm gần đây yêu cầu về quota nhập khẩu và giấy phép chỉ đối với một số ít sản phẩm. Xi măng là một trong số đó. Theo lý thuyết, giấy phép được quản lý để cân đối sản lượng trong nước và nhu cầu trong nước. Mỗi năm, Chính phủ quyết định chính sách nhập khẩu mà nền kinh tế chắc chắn cần và cấp giấy phép tương ứng. Nếu tình hình thị trường thay đổi trong năm thì số lượng nhập khẩu cho phép sẽ được điều chỉnh. Hệ thống thuế nhập khẩu cho phép thay đổi hàng quý các mức thuế và thường xuyên điều chỉnh. Từ năm 1990 - 1999, Nhà nước cho phép nhập khẩu xi măng với mức thuế suất nhập khẩu khoảng 40% và quota nhập khẩu giảm dần, do khả năng sản xuất đã dần dần đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Nhưng từ đầu năm 2000 đến nay, Nhà nước cấm nhập khẩu xi măng lý do khả năng sản xuất trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ và có thể xuất khẩu. Hàng năm Nhà nước chỉ cho phép nhập khẩu một số lượng ít Clinker để làm xi măng. Như vậy, trong giai đoạn từ 1990 - 2000 thì các quy định về nhập khẩu của Nhà nước có xu hướng tăng dần bảo hộ đối với ngành xi măng. Song, đến ngày 1 tháng 5 năm 2001, Chính phủ cho phép nhập khẩu Clinker theo nhu cầu sản xuất. Điều đó, đã thể hiện xu hướng giảm dần bảo hộ của Nhà nước đối với ngành xi măng Việt nam và trong giai đoạn tiếp theo xu hướng bảo hộ của Nhà nước chắc chắn sẽ phải giảm dần do phải thực hiện các cam kết trong phạm vi AFTA. Chính sách bảo hộ này là điều kiện quan trọng giúp cho ngành xi măng Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhưng chính sách này cũng không thực hiện được mãi vì đến năm 2003 chúng ta bắt đầu chính thức thực hiện giảm thuế đối với ngành xi măng và khi đó Nhà nước không thể áp dụng chính sách cấm nhập khẩu xi măng vào thị trường nước ta được. Do đó, theo tôi chính sách can thiệp quá sâu của Nhà nước vào các ngành nói chung và ngành xi măng nước ta nói riêng có thể giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong quá trình hội nhập, lý do là: + Ngành xi măng Việt Nam từ trước tới bây giờ hầu như không có sức ép cạnh tranh rất ít từ phía nhà cung cấp nước ngoài, do đó các doanh nghiệp trong ngành xi măng thiếu động lực để quan tâm tới việc nâng cao hiệu quả hoạt động để từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. + Với chính sách bảo hộ mạnh mẽ của Nhà nước như đã thực hiện có thể gây ra tâm lý chủ quan, trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước, không chủ động nâng cao chất lượng của sản phẩm, giảm giá thành để chủ động tham gia hội nhập thành công. Ngành xi măng Việt Nam từ trước tới nay luôn được bao bọc bởi bàn tay của Nhà nước và khi chính thức hội nhập thì sự bao bọc đó không còn nữa. Ngành xi măng Việt Nam phải trực tiếp đối mặt với môi trường cạnh tranh mới - gay gắt và quyết liệt, với những đối thủ cạnh tranh nước ngoài có tiềm lực mạnh hơn ta về nhiều mặt như: khả năng về tài chính, kinh nghiêm cạnh tranh, giá cả và khi đó sợ rằng các doanh nghiệp trong ngành xi măng Việt Nam khó có thể đứng vững trên thương trường. b) Quy định về xuất khẩu Nhà nước ban hành các quy định xung quanh việc xuất khẩu và trong những năm gần đây các quy định đó được nới lỏng đáng kể với mục tiêu là đẩy mạnh xuất khẩu. Đối với ngành xi măng được Nhà nước ưu đãi rất nhiều về xuất khẩu như Nhà nước trợ giá một phần đối với sản phẩm xuất khẩu lý do là khả năng cạnh tranh của sản phẩm xi măng trên thị trường nước ngoài thấp, chi phí vận chuyển cao. Chính sách này của Nhà nước tạo cơ hội tốt để sản phẩm xi măng của Việt Nam có cơ hội tiếp cận với thị trường của các nước trong khu vực, từ đó rút ra kinh nghiệm cạnh tranh và có những biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam. Tuy nhiên, chính sách này chỉ có tác dụng trong ngắn hạn và nếu kéo dài sẽ làm hao phí nguồn lực của xã hội. Hơn nữa, khi hội nhập, chính sách trợ cấp xuất khẩu sẽ bị coi là một chính sách thương mại không bình đẳng và không được cộng đồng quốc tế chấp nhận. 2. Chính sách giá Hiện nay, xi măng vẫn là mặt hàng do Nhà nước định giá. Theo thông tư liên Bộ, Ban vật giá Chính phủ - Bộ Xây dựng năm 1996 thì cơ chế quản lý giá hiện nay của Nhà nước như sau: * Giá bán lẻ chuẩn của thị trường xi măng tại thị trường chính: Giá bán lẻ xi măng bao PC 30 tại thị trường chính do Ban Vật giá Chính phủ quy định, căn cứ vào phương án do Tổng Công ty đề nghị và ý kiến thống nhất của Bộ Xây dựng. Hiện nay thị trường chính là Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng. Xi măng bao PC 30 (kể cả nhập khẩu) của tất cả các tổ chức sản xuất xi măng thuộc mọi thành phần kinh tế của Trung ương và địa phương, của các liên doanh tiêu thụ tại thị trường chính của Việt Nam đều do sự khống chế của giá bán lẻ chuẩn xi măng tại các thị trường chính. Khi các yếu tố hình thành giá bán lẻ chuẩn xi măng tăng hoặc do giá tiêu thụ xi măng trên thị trường có biến động lớn, khả năng cung không đáp ứng đủ cầu dẫn đến giá bán lẻ xi măng cần được điều chỉnh vượt giá bán lẻ chuẩn đã được ban hành trên 10% thì Tổng Công ty xây dựng phương án giá bán lẻ chuẩn mới, trình Ban Vật giá Chính phủ và Bộ Xây dựng xem xét quyết định. Sau 10 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ phương án giá bán lẻ chuẩn mới của Tổng Công ty xi măng Việt Nam được quyền thực hiện mức giá theo phương án đề nghị. * Giá bán lẻ và giá bán buôn các loại xi măng của các tổ chức kinh doanh xi măng - Giá bán lẻ các loại xi măng + Giá bán lẻ xi măng bao PC 30 ở thị trường chính do Tổng Công ty xi măng Việt Nam hoặc các Công ty xi măng (ngoài tổng Công ty kể cả liên doanh._.i và hoàn toàn tránh việc sử dụng công nghệ trung gian có trình độ chưa cao của các nước đang phát triển như Trung Quốc, Thái Lan ngay cả khi nguồn công nghệ này được cung cấp với giá rẻ. - Nguồn công nghệ nội sinh: Từ việc khai thác công nghệ hiện đại của ngành trong thời gian hơn 15 năm qua, đến nay ngành công nghiệp xi măng Việt Nam ít nhiều đã có sự hấp thụ chuyển hoá có hiệu quả một phần công nghệ mới ngoại sinh trước đây thành nội lực. Để phát huy và sử dụng nội lực này cần sớm tổ chức nhận định giá toàn diện mức độ phát triển của công nghệ nội sinh, từ đó xác định được khả năng cung cấp công nghệ nội sinh kết hợp cùng với công nghiệp mới. Đây là nguồn công nghệ hoàn toàn có điều kiện để phát triển và sẽ nhanh chóng đem lại hiệu quả kinh tế thiết thực khi được khai thác kịp thời. Từ hai nguồn công nghiệp trên, công nghiệp xi măng phải lựa chọn nguồn công nghiệp mới cho các nhà máy xi măng mới. Đối với các công trình Việt Nam tự đầu tư : trong tương lai hàng chục nhà máy xi măng hiện đại sẽ được xây dựng trên đất nước, việc quyết định sử dụng công nghiệp nào, với trình độ đến đâu, phương thức chuyển giao công nghiệp luôn cần được làm rõ vì nói chung cứ theo chu kỳ khoảng 10 năm trình độ công nghiệp thế giới lại có những bước tiến rõ nét. Trong các công trình do Việt Nam tự đầu tư này nói chung phải kể đến các công trình xi măng do các địa phương tự đầu tư. Đối với các địa phương nói chung hiện nay có tình trạng phổ biến là lực lượng cán bộ kỹ thuật thường ít về số lượng, hạn chế về trình độ, cán bộ kinh tế và thương mại cũng trong trình độ tương tự, Ngân sách nhà nước hạn hẹp cho đầu tư phát triển nên nếu tự làm một mình thì khó có đủ trình độ đánh giá tiếp nhận công nghệ mới nên có thể xảy ra tình trạng chịu nhiều thua thiệt trong quá trình mua sắm thiết bị, dịch vụ và sẽ dẫn đến những thiệt hại về mặt kinh tế lâu dài. Để hỗ trợ các địa phương tăng cường việc đảm bảo lựa chọn được công nghệ mới thực sự thích hợp so với điều kiện Việt Nam thì một mặt Tổng công ty xi măng Việt Nam nên chủ động tích cực cử đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên ngành tham gia ngay trong quá trình hình thành các dự án xi măng lớn của địa phương. Mặt khác đối với các địa phương cần thiết lập quan hệ liên kết kinh tế chặt chẽ với Tổng công ty xi măng Việt Nam để nhận được sự hỗ trợ giải quyết những vấn đề then chốt về công nghệ cho các dự án xi măng của công nghiệp quốc gia và càng cần được quan tâm hết sức kỹ lưỡng, thận trọng để đạt được công nghệ có hiệu quả và đóng góp lâu dài hiệu quả đó cho nền kinh tế quốc dân. Đối với các công trình liên doanh với nước ngoài: Các đối tác với liên doanh thường sẵn sàng cung cấp các phần cứng công nghệ có chất lượng thấp, giá đắt, các phần mềm công nghệ thường được phía đối tác không muốn chuyển giao và chuyển giao hạn chế. Vì vậy, cần chọn lựa những cán bộ Việt Nam có năng lực trình độ tiếp thu công nghệ, trung thành với lợi ích của phía Việt Nam, đặc biệt chú trọng loại trừ việc đưa công nghệ lạc hậu vào liên doanh ngay từ quá trình chuẩn bị đầu tư của các dự án liên doanh để hạn chế và loại trừ sự thua thiệt kinh tế lâu dài. Mặt khác những cán bộ này nhanh chóng tiếp thu khai thác các kiến thức công nghệ tiên tiến trong quá trình sản xuất và hướng dẫn các cán bộ khác của phía Việt Nam rút ngắn thời gian tìm hiểu, tiếp thu và khai thác công nghệ trong quá trình sản xuất kinh doanh. Những cơ sở này đòi hỏi phải được trang bị những trang thiết bị hiện đại (phần cứng của công nghệ) để đảm bảo hạ giá thành sản phẩm sản xuất và an toàn môi trường sinh hoạt. Đối với các công trình sản xuất xi măng xây dựng mới có công suất lớn, công nghệ hiện đại thì đặc biệt là các thành phần thuộc phần mềm công nghệ phải được hết sức quan tâm khai thác ứng dụng vì muốn khai thác có hiệu quả công nghệ mới trong thời gian ngắn nhất (từ khi có công nghệ mới) thì phần mềm công nghệ cần phải được chủ động và tranh thủ đưa ra tìm hiểu trước càng sớm càng tốt. 3.2. Tạo sự quan tâm thích đáng đối nới công tác nghiên cứu ứng dụng phát triển công nghệ sản xuất xi măng Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sản xuất xi măng sẽ là một động lực cơ bản ứng dụng công nghệ mới vào phát triển sản xuất nhằm đưa các lý thuyết công nghệ mới vào thực tiễn, tạo thêm khả năng phát triển ổn định, bền vững cho ngành. Cần lập một viện nghiên cứu chuyên ngành đáp ứng nhu cầu nghiên cứu ứng dụng nhằm tiếp thu và ứng dụng công nghệ mới, thành lập các trung tâm thiết kế theo từng chuyên ngành, thúc đẩy công tác thiết kế ứng dụng. Muốn đổi mới công nghệ ngày càng hiện đại thì không thể không nói đến công tác nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ mới. Việc tổ chức nghiên cứu khoa học sẽ là động lực cốt lõi trong phát triển kinh tế, điều hành sản xuất kinh doanh. Nếu tổ chức thực hiện tốt thì đây sẽ là cầu nối đưa lý thuyết vào ứng dụng trong thực tiễn nhằm tạo động lực phát triển sản xuất mang lại hiệu quả cao. Một số nhiệm vụ cần thực hiện: - Nghiên cứu sản xuất một số chủng loại vật liệu chịu lửa xây xát lò, phối hợp đặc điểm nguyên nhiên liệu của Việt Nam nhằm kéo dài thời gian làm việc của lò nung, tận dụng được nguyên liệu sản xuất vật liệu chịu lửa trong nước tiến tới hoàn toàn không nhập gạch chịu lửa từ nước ngoài để tiết kiệm chi phí sản xuất. - Nghiên cứu xác định các tỷ lệ pha chế hỗn hợp nguyên liệu tối ưu cho quá trình nung luyện để giảm tiêu hao nhiên liệu. - Nghiên cứu các khả năng kỹ thuật khai thác để tăng khả năng đồng nhất nguyên liệu sơ bộ ngay từ mỏ khai thác. - Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật chống hiện tượng vón cục, đóng tảng của bột liệu và xi măng bột trong các thể loại silô chứa. Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và hạ giá thành của sản phẩm. Tuy nhiên, hiện nay khả năng làm chủ công nghệ mới của ngành xi măng chưa vươn tới mức làm chủ hoàn toàn. Cần phải có con người được trang bị đầy đủ tri thức cả về chiều sâu và chiều rộng trong các lĩnh vực chuyên môn, quản lý để có năng lực tiếp thu một cách sáng tạo và có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ của thế giới và áp dụng phù hợp vào điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam 4. Giải pháp đào tạo cán bộ, công nhân Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ rằng: "tri thức con người là động lực chủ yếu, là nhân tố quyết định thắng lợi đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế của nước nhà “. Nếu không có đầu tư tri thức về chiều sâu và chiều rộng thì không thể tiếp thu được một cách chắc chắn và sáng tạo những thành tựu khoa học công nghệ của thế giới thích hợp với hoàn cảnh và điều kiện theo từng thời kỳ phát triển của nước ta. Khả năng cung cấp nguồn lao động của nước ta khá lớn, tuy nhiên trong đội ngũ lao động hiện có của ngành công nghiệp xi măng chưa đồng bộ về ngành nghề, khấp khểnh về trình độ chuyên môn, năng lực quản lý và số lao động giản đơn chưa có tay nghề đang chiếm tỷ lệ khá lớn. Với một đội ngũ lao động như vậy thì ngành công nghiệp xi măng Việt Nam chưa thể có năng suất lao động cao và giá thành hạ tương đương với giá xi măng của một số nước trong khu vực. Hiện nay, không những ở các nhà máy xi măng địa phương mà ngay cả các nhà máy xi măng công suất lớn của TW cũng còn thiếu kỹ sư tự động hoá và máy móc điều khiển các quá trình sản xuất. kỹ sư và công nhân cơ khí thiết bị tay nghề cao, thậm chí thiếu cả kỹ sư mỏ địa chất có trình độ và kinh nghiệm nắm bắt kỹ thuật công nghệ hiện đại khai thác mỏ nguyên liệu, kỹ sư lập trình điều khiển vận hành thiết bị, xử lý nguyên liệu. Vì vậy ngoài việc lập kế hoạch đào tạo và tuyển nhân sự từ các trường đại học trong nước, ngành công nghiệp xi măng cần có kế hoạch đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ tại các nước có công nghệ xi măng tiên tiến. Mặt khác phải có các biện pháp đào tạo lại và bổ túc chuyên môn tại chỗ cho đội ngũ cán bộ công nhân đã có. Biện pháp là cần thành lập trường hoặc trung tâm đào tạo chuyên ngành. Lực lượng cán bộ giảng dạy có thể khai thác đội ngũ giảng viên còn dư thừa của các trường đại học kỹ thuật, kinh tế...nhưng cũng cần có một số cán bộ giảng dạy từ số người trưởng thành từ thực tế trong ngành làm nòng cốt để phụ trách các môn thực hành và thực nghiệm những vấn đề cụ thể về công nghệ sản xuất, vận hành máy móc thiết bị hiện đại, điều hành sản xuất kinh doanh. Số học viên phải qua thi cử tuyển chọn, chương trình và thời gian của mỗi khoá học phải được ấn định thích hợp với từng loại đối tượng học viên. Nội dung của chương trình đào tạo cần có soạn thảo những vấn đề cơ bản cần thiết và phải được bổ sung, thay thế để đáp ứng được nhu cầu thực tế của ngành nhưng vẫn phải phù hợp với quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo Bảng 15 : thống kê nhu cầu kỹ sư và công nhân kỹ thuật Ngành, nghề, kỹ sư, cán bộ Đơn vị tính Nhu cầu các năm 2001 2005 2010 Kỹ sư các loại 1650 2270 3200 Kỹ sư công nghệ và mỏ Người 500 700 1000 Kỹ sư cơ khí thiết bị - 500 700 1000 Kỹ sư điện - Tự động hoá - 200 300 400 Kỹ sư tin học - 150 200 300 Kỹ sư kinh tế - 250 300 400 Luật sư - 50 70 100 Công nhân kỹ thuật - 15000 17000 20000 Công nhân kỹ thuật bậc cao - 7500 8500 10000 Công nhân kỹ thuật khác - 7500 8500 10000 (Nguồn : Vụ Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật có tay nghề cao trong ngành xi măng là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao năng suất lao động, từ đó giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm. 5. Giải pháp về đầu tư đồng bộ phương tiện vận tải nội địa và hàng hải Miền Bắc có lợi thế về nguồn nguyên liệu nên trong quy hoạch đầu tư phát triển sẽ chiếm 75% năng lực sản xuất xi măng của cả nước. Trong khi đó, sức tiêu thụ chỉ chiếm khoảng 45% tổng nhu cầu tiêu thụ cả nước. Luồng vận tải chính sẽ là luồng từ miền Bắc vào miền Trung, miền Nam và một phần xuất khẩu ra nước ngoài. Nhu cầu vận tải xi măng rất lớn, để đáp ứng nhanh chóng cần thiết phải đầu tư đồng bộ các loại hình vận tải và hạ tầng cơ sở liên quan theo hướng tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao năng lực bốc dỡ và vận chuyển đạt hiệu quả kinh tế cao. Với mục tiêu đó cần phấn đấu phát triển khả năng bốc dỡ và vận chuyển xi măng dời lên 50 -70% và từng bước phát triển đến 80% như ở các nước tiên tiến. Các công việc cụ thể cần được phối hợp với các Bộ ngành thực hiện là: - Phát triển hệ thống cảng xuất hàng đường biển - Phát triển hệ thống phân phối tiếp nhận - Phát triển phương tiện vận tải đường sắt, đường thủy, đường bộ 5.1. Phát triển hệ thống cảng xuất hàng đường biển Không kể các cảng biển của các dự án đang triển khai như Chifon (Hải Phòng), Nghi Sơn (Thanh Hoá), Sao Mai (Bình Trị), Hà Tiên (Cát lái - TP Hồ Chí Minh) cần thiết phải đầu tư đồng bộ bao gồm các silo chứa và các trang thiết bị bốc dỡ và vận tải cho các cảng sau: - Tại cảng Cái Lân cần có một bến chuyên dùng để phục vụ xuất xi măng Hoàng Thạch và xây dựng một số cảng riêng đối diện với cảng Cái Lân để phục vụ chung cho các nhà máy xi măng nằm trong khu vực Hoành Bồ (Hoàn Cầu, Hải Long, Làng Bang B) nhằm giảm chi phí duy tu nạo vét luồng tàu hàng năm. Cảng sẽ được trang bị các thiết bị vận tải xi măng rời và các trang thiết bị của kho trung chuyển, công suất 1,5-2 triệu tấn vào năm 2001 và lên 4-9 triệu tấn vào năm 2010. Trong đó phải kể đến việc xây dựng 7 km đường sắt nối với cảng Cái Lân hiện có. - Cảng đầu mối trung chuyển tại Hải Phòng hoặc Đình Vũ để thực hiện việc xuất xi măng cho Hoàng Thạch và Phúc Sơn. - Cảng mới với công suất 1-2 triệu tấn / năm xây dựng ở bờ biển tỉnh Nam Định hoặc Ninh Bình phục vụ cho các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Bút Sơn và các nhà máy khác trong khu vực vào năm 2005. - Cảng Gianh tại Quảng Bình sẽ có trang thiết bị bốc dỡ và vận tải Clinker với công suất 1,2 triệu tấn vào năm 2003 và 2,5 triệu tấn đến năm 2010. Cảng này đòi hỏi phải được nạo vét và đầu tư các điều kiện phụ trợ mới. Việc vận tải đến cảng có thể bằng xà lan qua sông này. - Cảng Nghi Sơn sẽ được mở rộng xây dựng thêm khu vực thương mại, các trang thiết bị bốc dỡ công suất 1 triệu tấn vào năm 2005 Nếu dự án Quang Hanh được quyết định đầu tư trong kế hoạch 2001-2005 thì việc mở rộng cảng Cửa Ông cũng phải được đầu tư đồng bộ. 5.2. Phát triển hệ thống tiếp nhận - phân phối Chuyển đổi chức năng của một số trạm nghiền Clinker ở gần nguồn phụ gia đã được xây dựng từ các năm trước thành các trạm nghiền phụ gia và tiếp nhận xi măng rời để tăng sản lượng xi măng bằng nguồn Clinker trong nước, giảm nhập khẩu Clinker nước ngoài - Tại khu vực phía Bắc xây dựng hai trạm đầu mối có kỹ thuật hiện đại ở phía Bắc và Nam của Hà Nội và một trạm ở Việt Trì có nhiệm vụ tiếp nhận xi măng rời từ các nhà máy xi măng bằng toa sitec và vận chuyển, phân phối xi măng rời, bao bằng xe tải chuyên dùng cho thị trường Hà Nội, các tỉnh lân cận và các tỉnh trung du mền núi phía Bắc. Mỗi trạm có công suất ban đầu khoảng 50.000 tấn/ năm. - Tại khu vực miền Trung thiết lập hệ thống tiếp nhận phân phối xi măng có kỹ thuật hiện đại và khép kín tại cảng Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Dung Quất cho các tỉnh Nam trung bộ và Tây Nguyên. - Tại miền Nam cần phát triển các đầu mối tiếp nhận cho tất cả các nguồn cung cấp xi măng tại các khu vực tập trung như Hiệp Phước, Vũng Tàu trong đó có: + Trạm nghiền - phân phối xi măng mới của Tổng Công ty xi măng Việt Nam tại Hiệp Phước gần TP Hồ Chí Minh với công suất 1,2 triệu tấn xi măng rời + Trạm nghiền phân phối mới của nhà máy xi măng Vũng Tàu có công suất 1,2 triệu tấn + Trạm nghiền - phân phối xi măng của các công ty xi măng liên doanh Nghi Sơn, Chinfon, Phúc Sơn, Hoàn Cầu, Làng Bang B... 5.3. Phương tiện vận tải sắt,thủy, bộ Chủ động với Bộ giao thông vận tải và các cơ quan chức năng tiến hành nghiên cứu đầu tư phát triển các phương tiện bốc dỡ và chuyên chở đồng bộ cho năng suất cao như toa xe đường sắt, tàu và xà lan đường thủy, ô tô chuyên dụng để chở xi măng rời...các dạng bốc dỡ và vận chuyển xi măng bao đóng kiện dạng pallet, bao lớn. Tóm lại, điều kiện vận tải vật tư đầu vào và sản phẩm đầu ra để phân phối cho các khu vực thị trường nội và xuất khẩu là rất quan trọng, quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh xi măng của các nhà máy đã và đang xây dựng cũng như các dự án xem xét chuẩn bị đầu tư. Vì vậy, đây là một giải pháp đảm bảo hiệu quả cho việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư của quy hoạch phát triển ngành xi măng giai đoạn 1996-2010. Sản xuất kinh doanh xi măng trong cơ chế thị trường cạnh tranh về giá cả và chất lượng bắt buộc các chủ đầu tư cần phải xem xét kỹ các điều kiện vận tải và tính toán chỉ số cước phí vận tải. 6. Giải pháp về phát triển năng lực chế tạo vật tư, thiết bị, phụ tùng Hiện trạng năng lực chế tạo cơ khí của nước ta là phần lớn các nhà máy cơ khí đã quá cũ và lạc hậu về công nghệ nên không đáp ứng yêu cầu về mức độ chính xác, quy mô, kích thước và chất lượng của sản phẩm thiết bị và phụ tùng, đặc biệt là cho các nhà máy xi măng lò quay phương pháp khô công nghệ hiện đại. Sự phát triển của lĩnh vực này là quan trọng để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và thường xuyên của công nghiệp xi măng cũng như giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu. Để phát triển từng bước và có hệ thống lĩnh vực này cần thiết phải thực hiện các công việc sau: - Nghiên cứu để đề nghị xây dựng lại và củng cố các doanh nghiệp chế tạo, sản xuất cơ khí, vật tư thuộc Bộ xây dựng và Bộ công nghiệp để có kế hoạch cụ thể cho chương trình phát triển - Để đảm bảo được khối lượng, chất lượng và quy mô, kích thước thiết bị và phụ tùng cho ngành công nghiệp xi măng và các vật liệu xây dựng khác, ngành công nghiệp xi măng cần phối hợp với ngành cơ khí Việt Nam chọn lựa một số cơ sở cơ khí đã có trang bị bổ sung để đầu tư nâng cấp và phân công chế tạo phụ tùng theo từng loại: phụ tùng kích thước lớn, phụ tùng bi đạn và tấm lót máy nghiền, phụ tùng máy điện, máy đo lường và tự động hoá...Đồng thời, ngành công nghiệp xi măng Việt Nam nên liên doanh với Tổng công ty cơ khí xây dựng và Tổng công ty máy và thiết bị Bộ công nghiệp và một số đợn vị cơ khí của nước ngoài để đầu tư xây dựng một nhà máy cơ khí thiết bị chuyên dụng cho ngành mình. - Tăng cường sự hợp tác với nước ngoài, xây dựng mới hoặc đầu tư cải tạo đổi mới công nghệ thiết bị để đảm bảo mục tiêu đến năm 2005 khoảng 30-40% các phụ tùng dự phòng, vật tư cho sản xuất xi măng như vật liệu chịu lửa, bi đạn...cần thiết phải được chế tạo trong nước và vào năm 2010 toàn bộ phần thiết bị phụ trợ phải được thực hiện trong nước. 7. Giải pháp về hoạt động và chiến lược của doanh nghiệp + Về hiệu quả hoạt động. Năng suất lao động của các doanh nghiệp trong ngành xi măng Việt Nam nói chung còn thấp. Các doanh nghiệp cần phải làm việc nỗ lực hơn và phải thương xuyên cải tiến hoạt động của mình bằng cách nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng để nhằm đạt tới trình độ tốt nhất. + Chiến lược của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp trong ngành xi măng Việt Nam cần phải cân nhắc lại các kinh doanh của mình và phát triển các quan điểm kinh doanh mới cả trong nước cũng như quốc tế. Họ phải xem xét mục tiêu chiến lược của mình và chuyển từ việc tập trung từ lợi thế so sánh dựa vào chi phí lao động thấp sang lợi thế cạnh tranh dựa vào cả yếu tố chi phí thấp và cả các sản phẩm và quy trình độc đáo của mình. Những vị thế cạnh tranh có tính khác biệt hơn cần được tạo ra, đó là việc tập trung đưa lại giá trị gia tăng cho khách hàng. Các doanh nghiệp trong ngành xi măng phải xây dựng được nhãn hiệu riêng của mình. tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và khiểm soát được các kênh phân phối. Tuy nhiên, những giải pháp trên đây không thể thực hiện một sớm một chiều, trong khi xu thế hội nhập đang đến gần, do đó, trước mắt hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp xi măng nước ta cần phải: Một là: có chiến lược về thị trường tiêu thụ xi măng một cách có hiệu quả. Muốn vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp xi măng phải điều tra, khảo sát nhu cầu về khả năng xi măng hiện có trong nước, trong khối ASEAN và trong khu vực cũng như toàn thế giới. Đồng thời phải dự báo được nhu cầu về xi măng đến 2010 và 2020. Trên cơ sở về chiến lược thị trường tiêu thụ xi măng để có những biện pháp về kinh tế, kỹ thuật nhằm tăng lượng xi măng tiêu thụ ở mỗi thị trường. Hầu hết các doanh nghiệp xi măng trong nước nhất là các doanh nghiệp xi măng lò đứng chưa có được một thị trường tiêu thụ xi măng ổn định và chiếm thị phần lớn. Thậm chí, có doanh nghiệp chỉ tiêu thụ loanh quang trong địa bàn một tỉnh, thành phố, thiếu sự phối hợp và liên kết thị trường để nâng thị phần xi măng tiêu thụ trên những thị trường rộng lớn hoặc hình thành phương thức tổng đại lý tiêu thụ. Mở rộng thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp trong ngành xi măng, từ đó tăng khả năng sản xuất là một trong những biện pháp quan trọng nhằm giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm. Hai là: tập trung các biện pháp quản lý và kinh tế để giảm chi phí vật chất đầu vào, rà soát và điều chỉnh các định mức, các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật như tiêu hao vật tư, chi phí bảo dưỡng duy trì và sửa chữa lớn các trang thiết bị cho phù hợp sát với yêu cầu thực tế sản xuất (phần này chiếm phần lớn trong giá thành sản phẩm). Thay thế dần các loại vật tư đắt tiền bằng các loại vật tư rẻ tiền hơn trên cơ sở đầu tư thêm các trang thiết bị công nghệ mới nhằm giảm và tiến tới không dùng dầu để nung luyện Clanker mà dùng 100% than, thay thế dần một số vật tư phụ tùng trong nước có chất lượng nhằm giảm chi phí ngoại tệ và hạn chế rủi ro do sự biến động của tỷ giá ngoại tệ. Trước mắt, tăng dùng bi đạn, phụ tùng thép đúc trong nước sản xuất, tăng tỷ lệ thiết bị phi tiêu chuẩn được chế tạo trong nước trong quá trình đầu tư xây dựng các dây chuyền mới. Coi trọng công tác nghiên cứu áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới nhằm nâng cao năng suất, kéo dài tuổi thọ của các thiết bị và giảm các chi phí vật chất tiêu hao trong quá trình vận hành. Tích cực cải tiến mẫu mã, bao bì và đầu tư công nghệ mới để sản xuất đa dạng các chủng loại sản phẩm, phù hợp với đặc tính xây dựng và thị hiếu người tiêu dùng. Ba là: mỗi doanh nghiệp xi măng cần phải đánh giá một cách nghiêm túc và toàn diện về công nghệ sản xuất và chất lượng xi măng, nhất là tính đồng bộ về công nghệ và việc bảo đảm các tiêu chuẩn nguyên vật liệu, đầu vào để có kế hoạch đầu tư đồng bộ công nghệ, thiết bị đảm bảo nguyên vật liệu đúng tiêu chuẩn và các cơ sở bảo đảm cho quá trình tiêu thụ sản phẩm. Có như vậy, mặt hàng xi măng nước ta mới bảo đảm tiêu chuẩn xi măng quốc tế, đủ sức cạnh tranh về chất lượng với xi măng trong khu vực và trên thế giới. Bốn là: nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn trong kinh doanh, đẩy nhanh vòng quay vốn lưu động, giảm chi phí sử dụng vốn, giảm mức tồn kho, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ bằng cách tiếp tục cải tiến mạng lưới tiêu thụ, hạ chi phí lưu thông, đẩy mạnh khả năng thanh toán để tránh tình trạng chiếm dụng vốn. Sử dụng linh hoạt các nguồn vốn hiện có tạm thời nhàn rỗi để sử dụng vào vốn lưu thông, tăng cường khả năng hỗ trợ vốn tạm thời giữa các công ty thành viên để giảm việc vay vốn ngắn hạn trong sản xuất kinh doanh 8. Giải pháp về chính sách của Nhà nước Để nâng cao khả năng cạnh tranh của công nghiệp xi măng nội địa, một số chính sách vĩ mô sau đây cần nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp: 8.1. Chính sách thương mại Chính sách thương mại đối với ngành xi măng hiện nay còn mang nặng tính bảo hộ mậu dịch (hiện nay nhà nước có chính sách cấm nhập khẩu xi măng). Chính sách này làm giảm áp lực cạnh tranh của xi măng nhập ngoại đối với xi măng nội địa, nó có tác dụng nâng đỡ nhất thời các doanh nghiệp trong nước nhưng nếu duy trì lâu dài sẽ làm giảm áp lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Do đó, chính sách thương mại cần điều chỉnh theo hướng từng bước dỡ bỏ hàng rào nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu, nghiên cứu giảm thuế suất nhập khẩu. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2006, chính sách của Nhà nước phải giảm dần bảo hộ đối với ngành xi măng, để các doanh nghiệp trong ngành xi măng Việt nam không bị sốc khi chính chức hội nhập, thích ứng nhanh với môi trường canh tranh mới. Đồng thời trong chính sách thương mại cũng cần có các biện pháp cấm cạnh tranh vô chính phủ, bán phá giá hoặc liên minh lũng đoạn thị trường. 8.2. Chính sách quản lý vốn Nên cho phép Tổng Công ty xi măng Việt Nam thực hiện cổ phần hoá một phần các doanh nghiệp trực thuộc để giải quyết bài toán về vốn, khắc phục tình trạng vốn vay quá nhiều, phải trả lãi suất lớn làm giảm khả năng cạnh tranh về giá. 8.3. Chính sách thuế Mức thuế suất nhập khẩu áp dụng cho ngành công nghiệp xi măng là 10% đối với thuế giá trị gia tăng, được đánh giá là mức cao hiện nay. Tại Thái Lan, mức thuế suất này là 7%. Do đó, trong quá trình hội nhập, để nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam, trước mắt nhà nước có thể giảm mức thuế suất xuống còn 7-8%. 8.4. Chính sách giá Nói một các tổng quát, mục tiêu của việc đổi mới cơ chế quản lý ngành công nghiệp xi măng là nâng cao hiệu quả kinh tế đích thực của ngành này, thông qua cạnh tranh lành mạnh. Để đạt được mục tiêu đó, phải chăng giải pháp quan trọng mang tính đột phá là xoá bỏ cơ chế định giá bán lẻ chuẩn xi măng hiện hành (mục tiêu của cơ chế định giá bán lẻ chuẩn là không làm cho giá trên trị trường xuống quá thấp để các doanh nghiệp trong ngành xi măng Việt nam không bị thua lỗ), để cho thị trường là yếu tố cơ bản quyết định giá xi măng. Nếu vậy, khi mà cung xi măng lớn hơn cầu, các nhà sản xuất xi măng sẽ được đặt trong trạng thái phải cạnh tranh với nhau bằng cách hạ giá bán, hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao trình độ phục vụ khách hàng, giữ vững tín nhiệm của người tiêu dùng... Khi đó, những hệ quả tất yếu sẽ nẩy sinh là: +Thứ nhất, giá cả xi măng trên thị trường nước ta tất yếu sẽ giảm mạnh so với hiện nay, và thông qua đó, người tiêu dùng xi măng được lợi, lợi ích của quốc gia cũng được bảo đảm. + Thứ hai, do giá cả xi măng giảm, tiến đần tới mức giá thực, ảo ảnh đầu tư sản xuất xi măng thu lợi lớn sẽ bị xóa nhoà, cơn sốt đầu tư xây dựng nhà máy xi măng sẽ chấm dứt. Trong trạng thái đó, mọi người có vốn sẽ buộc phải tính toán kỹ càng mình có những lợi thế nào trong cạnh tranh. Đây chính là tiền đề không thể thiếu để cho ngành công nghiệp xi măng phát triển lành mạnh, có hiệu quả trong những năm tới. Tuy nhiên, nếu xoá bỏ ngay cơ chế định giá bán lẻ chuẩn thì nó cũng dấn đến hệ quả tất yếu là: có những doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh sẽ bị thua lỗ và phá sản do giá giảm. Cũng chính điều này, có thể dẫn đến một số trường hợp độc quyền nhóm trong ngành xi măng. Do đó, trong thời gian từ nay đến năm 2006 nên giảm dần cơ chế định giá bán lẻ chuẩn và đi kèm với nó là mở cửa thị trường để các doanh nghiệp trong ngành xi măng Việt nam thích ứng dần với môi trường cạnh tranh mới và tiến tới xoá bỏ cơ chế định giá bán lẻ vào năm 2006 vì khi đó cơ chế định giá bán lẻ chuẩn không còn phát huy tác dụng đối với sản phẩm nước ngoài. 8.5. Chính sách sản phẩm Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, đối với doanh nghiệp sản xuất xi măng trong nước cạnh tranh sẽ gay gắt và quyết liệt. Một số doanh nghiệp có thể lâm vào cảnh thua lỗ để rồi phá sản, mà chủ yếu lá các cơ sở sản xuất xi măng bằng công nghệ lò đứng, không có lợi thế về địa lý. Nhưng các cơ sở này trước mắt, trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 chưa thể phá bỏ ngay được. Do đó, trong giai đoạn này Nhà nước phải có chính sách tiêu thụ sản phẩm xi măng của các cơ sở sản xuất xi măng lò đứng, bằng những công việc cụ thể sau: +Nhà nước phải có chính sách khuyến khích sử dụng sản phẩm xi măng lò đứng cho các công trình đơn giản, không cần kết cấu bền vững. +Bằng các đơn đặt hàng của Nhà nước để đảm bảo tiêu thụ xi măng cho các đơn vị có khó khăn nhất thời trong kinh doanh. Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất xi măng bằng công nghệ lò đứng, sản phẩm không chỉ kém chất lượng, mà sản xuất còn gây ô nhiễm môi trường lớn, không hiệu quả. Do đó, từ năm 2010 trở đi các cơ sở này lần lượt phải xoá bỏ. Trên đây là những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng trong giai đoạn 2001-2010. Thực hiện đồng bộ những giải pháp nêu trên là cơ hội tốt để các doanh nghiệp trong ngành xi măng có thể tồn tại và phát triển, chủ động hội nhập thành công. Ngoài ra, để tạo sức cạnh tranh của sản phẩm thì cần phải tập trung giải quyết ngày càng tốt hơn những vấn đề sau: Tăng cường tiếp thị, tìm hiểu kỹ các nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng để đáp ứng tốt những nhu cầu mà người tiêu dùng cần. Thường xuyên nghiên cứu rút kinh nghiệm để cải tiến cơ chế, phương thức và tổ chức kinh doanh, có chính sách tạo khả năng thu hút các lực lượng xã hội tham gia hệ thống đại lý của Tổng công ty và toàn ngành, tạo được mối quan hệ chặt chẽ với các khách hàng lớn, các nhà thầu xây dựng nhằm mở rộng thị trường ở các địa bàn. Có kế hoạch cụ thể và chủ động xử lý tốt các nhu cầu vận tải xi măng đến các địa bàn nhất là tổ chức vận tải xi măng từ miền Bắc đi miền Trung và miền Nam. Nắm chắc thông tin thị trường trong nước, mở rộng quan hệ và tìm hiểu thị trường bên ngoài nhất là các nước trong khu vực để trao đổi kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường, chủ động tạo sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các thành viên trong Hiệp hội xi măng Việt Nam, nhằm tạo được sự cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất và kinh doanh xi măng. Có các giải pháp xử lý môi trường tốt kết luận Sau nhiều năm tiến hành sản xuất kinh doanh, ngành công nghiệp xi măng Việt Nam rất vinh dự và tự hào trước kết quả đạt được. Gần 20 năm qua kể từ khi thành lập Liên hiệp đến nay, cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân, ngành công nghiệp sản xuất xi măng đã có những bước tiến đáng kể. Song song với việc duy trì, củng cố, mở rộng các nhà máy cũ, ngành xi măng đã sớm đưa các nhà máy mới có quy mô lớn, hiện đại vào sản xuất. Sản lượng xi măng năm sau liên tục cao hơn năm trước, chất lượng xi măng ngày càng tiến bộ rõ rệt. Các chủng loại xi măng ngày càng đa dạng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Yêu cầu của hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đòi hỏi sản phẩm sản xuất ra phải có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đối với sản phẩm xi măng của nước ta hiện nay được đánh giá là có khả năng cạnh tranh khi hội nhập nhưng khả năng cạnh tranh đó không cao và rất dễ bị các đối thủ nước ngoài tiêu diệt vì họ có lợi thế hơn ta về nhiều mặt. Do đó, trong giai đoạn từ nay đến 2010, để đáp ứng yêu cầu hội nhập thì vấn đề cấp bách là phải nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam. Nhận thức được điều đó, từ nay đến năm 2010, ngoài việc bản thân phải tự bươn trải, nỗ lực vươn lên, ngành công nghiệp sản xuất xi măng Việt Nam cũng rất cần và mong mỏi được sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ, đầu tư thích đáng của Nhà nước, sự quan tâm hỗ trợ, ủng hộ của các đơn vị trong và ngoài ngành để xi măng có điều kiện vươn lên thực hiện tốt vai trò sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, chủ động hội nhập thành công. Bài viết trên đây đã nghiên cứu qua thực tế và đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2010. Hy vọng rằng khi thực hiện đồng bộ những giải pháp nên trên có thể nâng cao được khả năng cạnh tranh của xi măng Việt Nam, giúp cho các doanh nghiệp trong ngành xi măng Việt nam có thể tồn taị và phát triển trong quá trình hội nhập. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế phát triển tập I. 2. Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam. 3. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng. 4. Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp xi măng giai đoạn từ 1997 - 2010 của bộ Xây dựng. 5. Định hướng - Chiến lược và Quy hoạch phát triển và hội nhập quốc tế của Tổng công ty xi măng Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005 - 2010. 6. Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh năm 1999 và kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2000. 7. AFCM DATE BANK năm 1997, 1998, 1999. 8. Tạp chí Kinh tế - kế hoạch. 9. Tạp chí Thông tin kinh tế - xã hội. 10. Tạp chí Phát triển kinh tế. 11. Tạp chí Công nghiệp. 12. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. 13. Tạp chí Thương mại. 14. Tạp chí Xây dựng. 15. Tạp chí Thị trường - giá cả. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0004.doc