Những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo tỉnh Bắc Giang

Mục lục lời nói đầu Thế giới bước sang thế kỷ XXI với một nền văn minh rực rỡ nhưng cũng ngổn ngang những vấn đề gay gắt mang tính chất toàn cầu. Nó chứa đựng trong mình cả niềm vui nỗi bất hạnh, cả nụ cười và nước mắt, nỗi đau nhân loại là nghèo đói vẫn còn trầm trọng trên một phạm vi vô cùng rộng lớn. Nghèo, đói luôn là nỗi bất hạnh của loài người, là một nghịch lý trên con đường phát triển. Trong khi thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn về tiến bộ khoa học kỹ thuật, làm tăng đáng kể

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1219 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của cải vật chất xã hội, tăng vượt bậc sự giàu có của con người, thì thảm cảnh đeo đẳng mãi trên lưng con người lại chính là sự nghèo đói. Thực tế hiện nay trong 6 tỷ người của thế giới, thường xuyên có 2,8 tỷ người sống dưới mức sống 2UDS/ngày, đặc biệt có 1,2 tỷ người sống dưới mức 1 USD/ngày. Cứ 100 đứa trẻ ra đời thì có 8 trẻ không sống được đến 5 tuổi, 9 trong số 100 bé trai và 14 trong 100 bé gái ở độ tuổi đến trường không được đi học. Ngày nay khái niệm phát triển đã được nhận thức rằng, không phải chỉ có sự về sản lượng ccủa nền kinh tế mà còn bao hàm cả sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội cho nhân dân chính vì vậy công bằng xã hội và xoá đói giảm nghèo là điều kiện cần thiết cho sự phát triển bền vững. ở nước ta, sau 15 đổi mới, nền kinh tế đang từng bước khởi sắc và đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh khối dân cư giàu có và trung lưu ngày một gia tăng, vẫn còn một bộ phận lớn dân cư nghèo đói. Tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam còn rất cao ( 11% năm 2000 ) đang là một thách thức lớn đối với sự phát triển và trở thành mối quan tâm chung, vấn đề cấp bách phải giải quyết của toàn xã hội. Do đó phát triển kinh tế, cái nhìn tổng quát, chính là giải quyết vấn đề giảm nghèo, chuyển nước ta từ một nước nghèo trở thành một nước giàu có, văn minh. Quán triệt qua điểm của Đảng tỉnh Bắc Giang đã luôn quan tâm đến công tác xoá đói giảm nghèo trong suốt quá trình phát triển. Tuy đã đạt được những thành tựu tốc đọ tăng trưởng khá trong nhiều năm nhưng do xuất phát điểm thấp đến nay Bắc Giang mới chỉ đạt mức thu nhập bình quân là 208 USD/người (năm 2000 ) và giữa người giàu và người nghèo vẫn có một khoảng cách về thu nhập khá lớn. Mục tiêu của Bắc Giang là tiến tới xoá hẳn tình trạng đói nghèo vào năm 2010. Đây là một hết sức khó khăn đòi hỏi phải có sự phối hợp lỗ lực của toàn thể cộng đồng cũng như ý trí vươn lên của chính người nghèo. Qua quá trình học tập tại trường và qua một thời gian nghiên cứu thực tế em đã nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của Bắc Giang nói riêng và của Việt Nam nói chung. Chính vì vậy em đã chọn và nghiên cứu đề tài này: “Những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo tỉnh Bắc Giang”. Nhằm mở rộng phần nhận thức của mình hơn về vấn đề nan giải đó và cũng hy vọng đóng góp một ý kiến nhỏ bé của mình vào sự phát triển của tỉnh nhà trên con đường phát triển chung của đất nước. Kết cấu của đề tài bao gồm 3 phần chính sau: Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về xoá đói giảm nghèo. Chương II: Thực trạng và nguyên nhân đói nghèo ở Bắc Giang. Chương III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu xoá đói giảm nghèo ở Bắc Giang trong thời gian tới. Trong chuyên đề này em đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp duy vật lịch sử; phương phương pháp so sánh; phương pháp quy nạp; phương pháp diễn dịch; phương pháp phân tích...để hoàn thành chuyên đề. Do nhận thức còn hạn chế, thời gian nghiên cứu có hạn nên chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô, của ban lãnh đạo viện, của các bạn để bài viết này hoàn chỉnh hơn. Qua đây, em cũng xin chân thành cảm ơn thầy giáo cùng các cô chú Ban Nguồn Nhân Lực và các vấn đề Xã Hội - Viện chiến lược phát triển - Bộ kế hoạch và đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn ! chương I Một số vấn đề lý luận chung về xoá đói giảm nghèo I. Các quan niệm về đói, nghèo. 1. Quan niệm về đói, nghèo. Xã hội loài người đã phát triển qua nhiều nấc thang lịch sử do trình độ lực lưọng sản xuất quyết định. Bằng lao động sản xuất, con người nkhai thác thiên nhiên để tạo ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở và những nu cầu khác. Năng xuất lao động ngày càng cao thì của cải ngày càng nhiều, các nhu cầu sống được đáp ứng đầy đủ hơn, trái lại năng xuất lao động thấp, của cải vật chất thu được ít, con người rơi vào cảnh nghèo đói. Tuy nhiên, ở trong các thời đại khác nhau, cũng có nhiều cách lý giải khác nhau về quan niệm, nguyên nhân và cách giải quyết đối với hiện tượng nghèo đói. Trong thời kỳ tiền sử mông muội, loài người trong khi bức ra, tách khỏi thế giới động vật trong giới tự nhiên để trở thành người và tổ chức thành đời sống xã hội thì cùng với bước ngoặc vĩ đại ấy, con người đã phải thường xuyên đối mặt với đói nghèo. ở đây, nghèo đói là hệ quả trực tiếp của lạc hậu, mông muội là điển hình của sự thống trị của tự nhiên đối với con người. Khi xuất hiện con người vvới thân phận nô lệ, một thứ hàng hoá có thể mua bán, một công cụ biết nói ( chế độ chiếm hữu nô lệ ) hoặc là những kể đi làm thuê kiếm miếng cơm manh áo qua ngày ( chế đọ phong kiến) thì nghèo đói mới diễn ra như hệ quả của áp bức xã hội, của chế độ người bóc lột người. Trong các chế độ xã hội này sự giàu có ở cực này dựa trên sự bóc lột, sự bần cùng hoá ở cực khác. Cực này càng giàu thì cực kia càng nghèo. Sự ra đời và phát triển cuả Chủ nghĩa Tư bản vẫn chủ yếu dựa trên phương thức cướp đoạt, bóc lột, bần cùng hoá đối với người lao động. Và nguồn gốc sâu xa của nghèo đói trên đây là ở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, ở chế độ áp bức, bóc lột và tình trạng nô dịch của con người. Do đó, chỉ xoá bỏ chế độ tư hữu, bóc lột đó thì mới có thể giải phóng giai cấp vô sản và quần chúng lao động khỏi cảnh nghèo đói lầm than, làm cho họ trở thành người lao động tự do và làm chủ tiến tới một xã hội công bằng văn minh, đạt được sự hài hoà giữa ôựi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Chính vì vậy sau Cách Mạng Tháng Mười năm 1917, trong bước chuyển từ “Chính sách cộng sản thời chiến” sang “Chính sách kinh tế mới” (NEP) Lênin là người chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá, dùng lợi ích vật chất, coi đó như là một nhân tố kích thích, một đòn bẩy kinh tế khuyến khích người lao động, giải phóng sức sản xuất, làm cho nền kinh tế khởi sắc, từng bước thoát khỏi sự trì trệ, trên cơ sở đó đã xoá được căn bản tình trạng nghèo đói đang hoành hành khắp nước Nga. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghiã Mác-Lênin, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc nước ta, Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những tư tưởng quý báu về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là quan niệm của Người về chủ nghĩa xã hội là xa lạ với nghèo đói, bần cùng và lạc hậu. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất hơn nữa, thực hành tiết kiệm. “Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”. Đây là con đường lâu dài và chắc chắn đối với công tác xoá đói giảm nghèo nói riêng và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân nói chung. Đặc biệt là tư tưởng của Người: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”. Theo Người, xoá đói phải tiến tới giảm nghèo và tăng giàu. Đói, nghèo là một cửa ải phải vượt qua, phải tiến tới giàu có, giàu có nữa giàu có mãi, “dân có giàu thì nước mới mạnh”. Cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội như một xã hội giàu có, phồn thịnh về kinh tế ,lành mạnh về xã hội,văn minh và văn hoá. Quan niệm trên đây chứa đựng ý nghĩa giải phóng to lớn sức sản xuất, giải phóng tư tưởng và tiềm năng xã hội, hướng tới một sự phát triển năng động của toàn xã hội vì hạnh phúc của con người. Nếu điểm xuất phát tới chủ nghĩa xã hội lại quá thấp và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội còn là mới mẻ, đang từng bước phải tìm tòi về con đường, cách đi, mô hình, cách làm ... như ở nước ta thì vấn đề đói nghèo đói vẫn còn tồn tại là vấn đề khó tránh khỏi. Đối với Việt Nam để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn so với các nước, con đường phát đi của chúng ta là phát triển rút ngắn đồng thời gắn liền với việc giảm tối đa cái giá phải trả - trong đó có việc giải xoá đói giảm nghèo. ở Việt Nam,đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Các khái niện về đói nghèo. 2.1.Các khái niệm về nghèo. Khái niệm về nghèo khổ của UNDP – 1998. Năm 1998, UNDP công báo một bản báo cáo nhan đề “Khắc phục sự nghèo khổ của con người” đã đưa ra những định nghĩa về nghèo như sau: Sự nghèo khổ của con người : Thiếu những quyền cơ bản của con người như biết đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ. Sự nghèo khổ về tiền tệ : Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi tiêu tối thiểu. Sự nghèo khổ cực độ: Nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản tối thiểu. Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định như sự không có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phi lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở những nước khác nhau. Sự nghèo khổ tương đối: Sự nghèo khổ được xác định theo những chuẩn mực có thể thay đổi với thời gian ở nước này hay nước khác. Ngưỡng này có thể tăng lên đồng thơì với thu nhập. Sự nghèo khổ tuyệt đối: Sự nghèo khổ được xác định bằng một chuẩn mực nhất định. Chẳng hạn như ngưỡng quốc tế của sự nghèo khổ là 1USD/người/ngày. Khái niệm về nghèo đói của Ngân hàng thế giới (WB). Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một rổ hàng hoá lương thực hàng ngày trong năm 1993 và được gọi là “ngưỡng nghèo về lương thực, thực phẩm”. Ngưỡng nghèo này thưòng thấp bởi vì nó không tính đến số tiền chi tiêu cho những sản phẩm phi lương thực khác. Ngưỡng nghèo thứ hai là “ ngưỡng nghèo chung” bao gồm cả chi tiêu cho lương thực thực phẩm và chi tiêu cho sản phẩm phi lương thực. Xuất phát từ nhu cầu calo tối thiểu cần thiết cho mỗi cơ thể theo thể trạng con người: WB đã đưa ra con số phổ biến được sử dụng là 2100 kilo calo cho một người mỗi ngày. Mỗi gia đình Việt Nam phải mất bao nhiêu tiền để mua được một rổ hàng hoá lương thực đủ để cung cấp 2100 calo cho mỗi người một ngày. Vì vậy, nghèo đói theo đĩnh nghĩa của WB là những hộ không có khả năng chi trả cho số hàng hoá lương thực của mình để đủ cung cấp 2100 calo cho mỗi ngưòi một ngày. Khái niệm về nghèo đói trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương do ESCAP tháng 9/1993. Nghèo tuyệt đối: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con ngưòi, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa phương. Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng. 2.2. Các khái niệm về đói. Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Hay có thể nói đói là một nấc thấp nhất của nghèo. Tài liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phân loại đói làm hai dạng (theo mốc đánh giá năm 1993): Thiếu đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cư có thu nhập dưới mức thu nhập là 12 kg gạo/người/tháng. Hay là tình trạng của một bộ phận dân cư ở nông thôn có thu nhập dưói mức 20.400 đồng/ngưòi/tháng và ở thành thị là 24.500 đồng/người/tháng. Đói gay gắt: Là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức thu nhập dưới mức 8 kg gạo/người/tháng và ở thành thị là 16.300 đồng/ngưòi/tháng. Ngoài ra còn có khái niệm khác nhằm làm rõ hơn tình trạng nghèo đói ở Việt Nam. Nghèo đói kinh niên: ( tương ứng với nghèo truyền từ đời này qua đời khác) là bộ phận dân cư nghèo đói nhiều năm liền cho tới thời đang xét. Nghèo đói cấp tính:( hay còn gọi là nghèo mới ) là bộ phậ dân cư rơi vào tình trạng nghèo đói đột xuất vì nhiều nguyên nhân như phá sản và các rủi ro khác, tại thời điểm đang xét. II .Các quan niệm về xoá đói, giảm nghèo. 1. Khái niệm về xoá đói, giảm nghèo. 1.1 Khái niệm về xoá đói. Xoá đói là làm cho bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống, từng bước nâng cao mức sống đến mức tối thiểu và có thu nhập đủ để đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. 1.2 Khái niệm giảm nghèo. Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm xuống. Nói một cách khác giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn. ở khía cạnh khác giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người. ở góc độ nước nghèo: Giảm nghèo ở nước ta chính là từng bước thực hiện quá trình chuyển đổi các trình đọ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong xã hội sang trình độ sản xuất mới, cao hơn. Mục tiêu hướng tới là trình độ sản xuất tiến tiến của thời đại. ở góc độ người nghèo: Giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó có nhiều lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng. 2. Các cách xác định mức nghèo đói và bất bình đẳng . 2.1 Cách cách tính xác định mức độ nghèo đói. Sau khi xác định được ngưỡng nghèo (sẽ được nêu ở phần sau), có thể tính toán được một số chỉ tiêu thống kê tóm tắt để mô tả quy mô, mức độ và tính nghiêm trọng của đói nghèo. Những thống kê này bao gồm chỉ số đếm đầu người (xác định tỉ lệ đói nghèo), khoảng cách đói nghèo (xác định mức độ sâu của đói nghèo) và bình phương khoảng cách đói nghèo (xác định tính nghiêm trọng của đói nghèo). Foster, Green và Thodbecke (1984) đã chỉ ra rằng 3 thước đo xác định mức độ đói nghèo có thể được tính bằng công thức sau: Trong đó yi là đại lượng xác định phúc lợi( ở đây chi tiêu tính trên đầu người) cho người thứ i, z là ngưỡng nghèo, N là số người có trong mẫu dân cư, M là số người nghèo và có thể được diễn giải như là đại lượng đo mức độ quan tâm đến sự bất bình đẳng giữa những người nghèo. Khi =0, đẳng thức trên tương đương với M/N, tức là bằng số người nghèo chia cho tổng số người ở trong mẫu. Thước đo xác định quy mô đói nghèo và được sử dụng rất phổ biến này được gọi là tỷ số đếm đầu người hay chỉ số đếm đầu khi chuyển sang tính dưới dạng %. Mặc dù chỉ số đếm đầu dễ được diễn giải song nó không nhạy cảm với khoảng cách của những người nghèo so với ngưỡng nghèo. Khi =1, ta có chỉ số khoảng cách nghèo đói. Chỉ số này cho biết sự thiếu hụt trong chi tiêu của các hộ nghèo so với ngưỡng nghèo và nó được biểu hiện như mức trung bình của tất cả mọi người trong quần thể . Khoảng cách nghèo đói được tính đơn giản như là tổng tất cả các khoảng cách nghèo đói ở trong quần thể, có thể được sử dụng để xác định chi phí tối thiểu để xoá bỏ nghèo đói trong điều kiện mọi khoản chuyển nhượng được chuyển đến đúng đối tượng. Tuy nhiên, việc chuyển giao các khoản chuyển nhượng theo định hướng mục tiêu thường đi kèm với hao hụt và chi phí hành chính và bởi vậy chi phí thực tế để xoá bỏ nghèo đói thường là bội số của khoảng cách nghèo đói . Khi =2, ta có chỉ số khoảng cách nghèo đói bình phương. Chỉ số này thể hiện mức độ nghiêm trọng (hay cường độ ) của nghèo đói và tăng thêm trọng số cho nhóm người nghèo nhất trong số những người nghèo. Không giống như một số thước đo mức độ nghèo đói khác, 3 đại lượng này có tính chất rất hữu ích là nó có thể tính như là tổng số các số hạng được phân nhỏ (chẳng hạn, mức đói nghèo chỉ số đếm đầu người trên toàn quốc sẽ bằng bình quân gia quyền của nghèo đói ở khu vực nông thôn và thành thị , hay bằng bình quân gia quyền của chỉ số đếm tỉ lệ nghèo đói ở các vùng khác nhau). 2.2 .Các cách tính xác định sự bất bình đẳng. Ba thước đo xác định mức độ bất bình đẳng được sử dụng trong báo cáo gồm: Tỷ số giữa chi tiêu của nhóm người có mức chi tiêu cao nhất với chi tiêu của nhóm người có mức chi tiêu thấp nhất, hệ số Gini , và chỉ số Theil L. Cũng giống như thước đo nghèo đói đã đề cập ở trên, các đại lượng này đều được tính dựa vào mức chi tiêu trên đầu người như là thước đo của phúc lợi, nếu được sử dụng khác đi sẽ được giải thích rõ. Tỉ số chi tiêu của nhóm giàu nhất chia cho chi tiêu của nhóm người nghèo nhất là một đại lượng được sử dụng rất phổ biến ở cả các nước phát triển và đang phát triển, (một nhóm bao gồm 20% dân số) .Hạn chế chính của thước đo xác định sự bất bình đẳng này là bỏ qua chi tiêu của 60% dân số là những người có mức chi tiêu trung bình và nó cũng không tính đến sự phân bố chi tiêu trong các nhóm người nghèo nhất và người giàu nhất. Hệ số Gini là thước đo xác định sự bất bình đẳng nhận giá trị trong khoảng từ 0 (khi tất cả mọi người có mức chi tiêu hoặc thu nhập như nhau) đến 1 (khi một người nắm giữ mọi thứ của xã hội !). Hệ số Gini càng tiến tới gần 1 thì sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập càng lớn. Đối với hầu hết các nước đang phát triển, hệ số Gini chi tiêu hoặc thu nhập nằm trong khoảng từ 0,3-0,6 . Hệ số Gini minh hoạ trên đồ thị được biểu thị bằng phần diện tích nằm dưới đường cong Lorenz chia cho phần diện tích nằm phía dưới đường chéo công bằng. Do vậy đường cong Lorenz càng cách xa đường công bằng bao nhiêu thì hệ số Gini càng lớn bấy nhiêu. Tuy là một thước đo xác định sự bất bình đẳng được sử dụng rất phổ biến song hệ số Gini còn có một số hạn chế. Những hạn chế đó là : (a) hệ số Gini không phải lúc nào cũng tăng lên khi lấy tiền của một người và chuyển sang cho một ngươì khác giàu hơn; và (b) không thể phân tách hệ số Gini theo các nhóm con (chẳng hạn như các khu nông thôn và đô thị hoặc cho 7 khu vực hành chính ở Việt Nam) và sau đó “tổng hợp lại” để rút ra hệ số Gini của quốc gia. Chỉ số Theil L là đại lượng xác định sự bất bình đẳng dựa trên lý thuyết thông tin/ xác suất. Chỉ số Theil L biến thiên từ 0 (công bằng tuyệt đối ) đến (bất bình đẳng tuyệt đối ) song chỉ số này ít khi lớn hơn 1. Cũng giống như hệ số Gini, chỉ số Theil L càng lớn thì sự bất bình đẳng trong phân phối chi tiêu (hoặc thu nhập) càng cao. Chỉ số Theil L được tính như sau: Trong đó, giống như trên, yi là đại lượng xác định phúc lợi cho người thứ i, N là số lượng người có trong quần thể và Y là tổng của các đại lượng xác định phúc lợi của tất cả các cá nhân (tức là tổng chi tiêu hoặc tổng thu nhập ). Thước đo chỉ số Theil L có 2 ưu điểm chính : (a) làm tăng trọng số của những người có thu nhập thấp ; (b) không giống như hệ số Gini, nó có thể được phân ra theo các nhóm con (nói một cách chính xác, chỉ số Theil L quốc gia là bình quân gia quyền của các chỉ số của các nhóm con trong đó trọng số là các tỷ trọng trong quần thể dân cư). Ưu điểm thứ hai này rất quan trọng vì nó cho phép xem xét các yếu tố dẫn đến thay đổi trong sự bất bình đẳng ở cấp độ quốc gia. Một thước đo xác định sự bất bình đẳng có liên quan khác là chỉ số Theil T về sự bất bình đẳng. Chỉ số này nhận giá trị biến thiên từ 0 đến log(N). Bản báo cáo này sử dụng chỉ số Theil L vì chỉ số này nhạy cảm hơn chỉ số Theil T đối với sự bất bình đẳng ở phần thấp trong đồ thị phân phối thu nhập. 3.Các tiêu thức và chuẩn mức đánh giá nghèo đói. 3.1 Các tiêu thức đánh giá nghèo đói. Để xác định ngưỡng nghèo có nhiều chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá khác nhau. a) Tiêu thức về chỉ tiêu chất lượng cuộc sống (PQLI) chỉ số PQLI bao gồm ba mục tiêu cơ bản là tuổi thọ, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và tỷ lệ mù chữ. b) Tiêu thức về chỉ tiêu phát triển con người (HDI) do UNDP đưa ra của bao hệ thống ba tiêu: tuổi thọ, tình trạng biết chữ người lớn, thu nhập bình quân trên đầu người trong năm. c) Tiêu thức về chỉ tiêu nhu cầu dinh dưỡng: Tính mức tiêu dùng qui ra kilocalo cho một người trong một ngày. d) Tiêu thức về thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người: Đây là chỉ tiêu chính mà hiện nay nhiều nước và tổ chức quốc tế đang dùng để xác định giàu nghèo. Tại đại hội lần thứ II của uỷ ban giảm nghèo khổ khu vực (ESAP) họp tại BangKoc tháng 9/1995, Ngân hàng thế giới đưa ra chuẩn mực nghèo khổ chung ccủa toàn cầu là thu nhập bình quân đầu ngươì dưới 370 USD/ người/năm. Tóm lại, sự kết hợp chỉ tiêu GDP, HDI, và PQLI cho phép nhìn nhận các nước giàu, nghèo chính xác và khách quan hơn. Bởi nó cho phép đánh giá khách qua, toàn diện của con người trên các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội. 3.2 Mức chuẩn đánh giá nghèo đói. a) Mức chuẩn nghèo đói đối với quốc tế (đánh giá nước giàu, nước nghèo). ở một khía cạnh khác nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực, một vùng, một miền. Các chỉ số xác định thế nào là nghèo cho biết trình độ phát triển kinh tế - xã hội nói chung và trình độ lực lượng sản xuất nói riêng ở vùng, miền,quốc gia ấy ở tại một thời điểm nhất định Ví dụ: với chỉ số nghèo là 400 USD/người/ năm cho biết đây là nước nghèo đang phát triển. Với chỉ số nghèo là 13.000 USD/người/năm cho biết đây là nước phát triển. Như vậy trên thế giới tương đương với ba nhóm nước có ba dạnh nghèo khác nhau: Nghèo ở các nước có trình độ kinh tế phát triển cao; nghèo ở các nước có trình độ phát triển kinh tế chậm và nghèo ở các nước có trình độ phát triển kinh tế trung bình . Việc phân định ba dạng nghèo như vậy có ý nghĩa rất lớn trong việc xem xét đánh giá nghèo ở mỗi nước thuộc dạng nào, tương ứng với trình độ phát triển kinh tế – xã hội nào để có cách nhìn tổng quát trong quá trình giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo. Với cách đánh giá nghèo như trên, nghèo ở Việt Nam mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản này những nổi bật ở hai đặc trưng: - Nghèo dai dẳng kéo dài, nghèo từ đời nay sang đời khác. - Nghèo có cấp độ rất lớn, khoảng cách giữa thu nhập quan sát được vơí ngưỡng nghèo được quy định ở Việt Nam và trên thế giới là rất lớn. Biểu hiện là, Việt Nam vẫn còn một bộ phận dân cư bị đói. Đây là hai đặc trưng phản ánh thực trạng ở Việt Nam là nước còn rất nghèo, nằm trong nhóm nước đang phát triển với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém. Đồng thời hai đặc trưng này chi phói rất nhiều đến trình đọ giảm nghèo ở nước ta hiện nay. Nếu căn cứ vào GDP trên đầ người / năm ở vào thời điểm năm 1990 để phân tích cho thấy: Trên 25.000 USD : nước cực giàu Trên 20.000 – 25000 USD : nước giàu Trên 10000 – 20000 USD : nước khá giàu Trên 2500 – 10000 USD : nước trung lưu Trên 500 – 2500 USD : nước nghèo Dưới 500 USD : nước cực nghèo Việt Nam mới đạt được 386 USD/người/năm (Năm2000) được xếp thứ 110/171 trên thế giới, nằm trong nhóm cực nghèo. b) Mức chuẩn nghèo đói đối với Việt Nam Nghèo đói theo đánh giá của Bộ Lao động Thưong binh -Xã hội và Tổng cục Thống kê. Bộ lao động TB-XH và Tổng cục Thống kê căn cứ vào nhu cầu tối thiểu về lương, thực phẩm vầ quy định ra thu nhập đã đưa ra cách phân loại giàu nghèo như sau: Thu nhập/ người/ tháng. Tiêu chuẩn nghèo đói năm 1993 là : Hộ đói: Là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 8 kg/tháng ở nông thôn, dưới 13kg/tháng ở thành thị . Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 13 kg/tháng ở nông thôn , dưới 20kg/tháng ở thành thị . Tiêu chuẩn nghèo đói năm 1996 là : Hộ đói : Là hộ có thu nhập bình quân đầu người quy đổi ra gạo là 13 kg/tháng. Hộ nghèo : Là hộ có thu nhập bình quân đầu người quy đổi ra gạo là 25 kg/tháng ở thành thị; dưới 20 kg/tháng ở nông thôn đồng bằng và trung du; dưới 15 kg/tháng ở nông thôn miền núi. Hay tổng cục Thống kê đã đưa ra hộ nghèo là hộ có TNBQ đầu người như trong bảng sau: Bảng1: Phân loại hộ đói nghèo theo tiêu chuẩn của Bộ LĐTB - XH và TCTK ( nghìn đồng/người/ tháng ). Nông thôn Thành thị % dân số - Hộ rất nghèo < 30 <50 4,20 - Hộ nghèo 30 - 50 50-70 16,10 - Hộ dưới trung bình 50 - 70 70-100 22,27 - Hộ trung bình 70-125 100-175 36,14 - Hộ trên trung bình 125- 250 175-300 17,19 - Hộ giàu 250-350 300-400 4,10 - Hộ rất giàu >350 >400 Như vậy theo cách nhìn nhận của Việt Nam: - Hộ nghèo : + ở thành thị : thu nhập dưới 70.000đ/người/tháng. + ở nông thôn : thu nhập dưới 50.000đ/người/tháng. - Hộ đói : + ở thành thị : thu nhập dưói 50.000d/người/tháng. + ở nông thôn : thu nhập dưới 30.000đ/ngưòi/tháng. Tiêu c huẩn giàu nghèo trên đây được sử dụng cho toàn quốc và 7 vùng khác. Các tỉnh, thành phố đã dựa vào tiêu chuẩn này để xác định tiêu chuẩn cho phù hợp với mỗi địa phương. Trên cơ sở tổng hợp số liệu điều tra cuối năm 1993 cho thấy cả nước có khoảng 3 triệu hộ nghèo, chiếm khoảng 20,3% tổng số hộ. Trong đó riêng hộ rất nghèo ( thường gọi hộ đói) có khoảng 60 nghìn hộ và chiếm khoảng 4,2% tổng số hộ Nghèo đói theo đánh giá của ngân hàng thế giới ( WB). Ngân hàng thế giới dựa theo mức nhu cầu calo tiêu thụ hàng ngày là 2.100 calo/ người/ ngày và đồng thời cũng tính đến việc thay đổi giá cả theo từng vùng của một số nhóm hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu đã đưa ra một tiêu chuẩn để đáng giá nghèo đói tại Việt Nam là 1.090.000 đồng/ người/ năm, nnếu tính riêng cho đô thị là 1.203.000 đồng/ người/ năm và ở nông thôn là 1.040.000 đồng/ người/ năm. Ta thấy mức tiêu chuẩn này cao hơn mức tiêu chuẩn của Tổng cục Thống kê nhiều, dẫn đén một tình trạng có sự khác biệt lớn trong cách đánh giá tình trạng nghèo đói. Theo tiêu chuẩn này thì Việt Nam có đến một nửa dân số (51%) được cccoi là nghèo đói, trong một nửa số nghèo này tức là khoảng 25% tổng số dân thuộc diện nghèo đói về lương thực, nghĩa là dù họ có dùng toàn bộ thu nhập của mình để tiêu dùng cho nhu cầu lương thực, thực phẩm cơ bản thì vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ calo cơ bản hàng ngày. Về mặt cơ cấu, mức đọ nghèo khó ở nông thôn cao hơn nhiều so với thành thị, cũng theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới, số dân nghèo khổ ở nông thôn chiếm tới 54%, cao gấp đôi so với các vùng đô thị. Như vậy, có khoảng 90% tổng số người nghèo tập trung ở nông thô. Mức độ nghèo khổ cũng không đồng đều giữa các khu vực. Đối với các vùng xa xôi hẻo lánh tại Bắc Trung Bộ, số người nghèo chiếm tới 71% dân số. Tại các vùng Trung du, miền núi phía Bắc, tỷ lệ này là 59% dân số. Đây là các vùng có tỷ lệ nghèo khổ cao hơn mức trung bình của cả nước. Hai vùng này chiếm khoảng 40% số người nghèo tại Việt Nam, tuy chúng chỉ chiếm 29% dân số cả nước. Tỷ lệ nghèo thấp nhất là 33% tại vùng Đông Nam Bộ, nơi có trung tâm kinh tế mạnh nhất của cả nước là thành phố Hồ Chí Minh. Bốn vùng khác nhau là cao nguyên Trung bộ, đồng bằng Sông Hồng, đồng bằng Sông Cửu Long và Duyên hải miền Trung đều có tỷ lệ nghèo đói thấp hơn một chút so với mức trung bình chung của cả nước, chiếm khoảng từ 48-50%. c) Mức chuẩn nghèo đói đối với Bắc Giang. Căn cứ vào chuẩn mực hộ đói nghèo đã được thống nhất áp dụng trong phạm vi toàn quốc do bộ Lao động TB - XH quy định. Tỉnh Bắc Giang xác định chuẩn mực hộ đói nghèo dựa voà mức thu nhập đầu người trong hộ/ tháng quy ra gạo và tiền tương ứng, cụ thể như sau: - Hộ đói: là nhứng hộ gia đình không có khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống( cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái thất học, ốm đau không có tiền chữa trị, nhà ở bằng tranh tre, vách đất). Xác định cụ thể theo thu nhập bình quân đầu người quy đổi ra gạo dưới 13kg/ tháng. - Hộ nghèo: là những hộ có mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng ( thiếu ăn nhưng không đứt bữa, mặc không lành, không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất). Tính theo thu nhập bình quân đầu người như sau: + ở thành thị: Dưới 25kg gạo / tháng tương ứng là 90.000 đồng + ở nông thôn trung du: Dưới 20kg gạo/ tháng tương ứng là 70.000 đồng . + ở nông thôn miền núi: Dưới 15kg gạo/ tháng tương ứng là 55.000 đồng - Xã nghèo: là xã có tỷ lệ nghèo đói trên 40% số hộ, còn thiếu các hạng mục cơ sở hạ tầng (trạm y tế, trường tiểu học, điện sinh hoạt, đường ô tô tới trung tâm xã, chợ xã hoặc liên xã, nước sạch sinh hoạt ). Theo chuẩn mực trên đây, dựa vào kết quả thống kê tình trạng đói nghèo của tỉnh Bắc Giang năm 2000, toàn tỉnh còn khoảng 45.844 hộ đói nghèo, chiếm tỷ lệ 13,81% số hộ toàn tỉnh, trong đó hộ đói 14.401 hộ,chiếm tỷ lệ 4,34 %, hộ nghèo 31,443 hộ, chiếm tỷ lệ 9,47%. Về cơ cấu xã nghèo, tính đến năm 2000 trong tổng số 227 xã, phường thị trấn hiện nay của tỉnh còn khoảng 13 xã nghèo ( tỷ lệ hộ đói nghèo trên 40%) chiếm tỷ lệ 5,73% tổng số xã của toàn tỉnh. Trong số 13 xã nghèo của tỉnh tập trung vào 3 huyện miền núi và vùng cao của tỉnh đó là Sơn Động ( còn 9 xã ); Yên Dũng (3xã) và Lục Ngạn (1xã). Như vậy, có thể thấy tỷ lệ nghèo đói ở Bắc Giang còn khá cao và tập trung chủ yếu vào các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa của tỉnh. 4. ý nghĩa của xoá đói giảm nghèo đối với các vấn đề trong đời sống xã hội. Đói nghèo là vấn đề mang tính chất toàn cầu, tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm đến vấn đề xoá đói giảm nghèo trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy xoá đói giảm nghèo là một bộ phận trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tất cả các nước, đó cũng là một trong những mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Chính vì lẽ đó xoá đói giảm nghèo và các vấn đề trong đoì sống xã hội có quan hệ mật thiết với nhau . Cụ thể trong quá trình phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo có mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề văn hoá củng cố an ninh chính trị xã hội và một số chính sách khác có liên quan. 4.1. Xoá đói giảm nghèo đối với sự phát triển kinh tế. Nghèo đó đi liền với lạc hậu, chậm phát triển là trở ngại lớn đói với phát triển. Nói cách khác, xoá đói giảm nghèo là tiền đề của phát triển. Ngược lại sự phát triển kinh tế - xã hội vững chắc gắn với tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là nhân tố đảm bảo thành công trong công tác xoá đói giảm nghèo. Nét chung, phổ biến là ở chỗ qua hiện trạng nghèo, đói người ta thường nhận thấy sự phát triển chậm của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu của kỹ thuật, trình độ thấp kém của phân công lao động xã hội. Nó dẫn tới năng xuất lao động xã hội mức tăng trưởng kinh tế luôn ở những chỉ số thấp. Thất nghiệp gia tăng, thu nhập không đủ cho chi dùng vật phẩm tối thiểu,do đó càng không thể có điều kiện chi đùng cho những nhu cầu văn hoá tinh thần để vượt qua ngưỡng tồn tại sinh học, vươn tới việc thoả mãn nhu cầu phát triển chất lượng con người. Đó là hiện trạng nghèo đói về kinh tế của dân cư. Nhìn từ góc độ xã hội, nghèo đói củ dân cư biểu hiện qua tỷ lệ lao động thất nghiệp ( tuyệt đối và tương đối ), chỉ số về tổng số sản phẩm quốc nội, thu nhập bình quân theo đầu người, mức đọ thấp kém của đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, kể cả phát triển giáo dục._., khoa học - kỹ thuật, văn hoá và các lĩnh vực khác y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và phúc lợi xã hội. Nghèo đói càng gay gắt thì phát triển kinh tế càng bị kìm hãm. Trình độ phát triển càng chậm chạp thì càng thiếu điều kiện và khả năng từ bên trong để khắc phục đói nghèo. Tính tất yếu và bức xúc giải quyết vấn đề giảm nghèo ( xoá đói ) còn ở chỗ trong thời đại mở cửa vấn đề hoà nhập và sự bất lợi của nước nghèo, nước chậm phát triển trong quan hệ kinh tế với nước khác là rất lớn. Đối với nước nghèo, tăng trưởng kinh tế với tốc độ kinh tế chậm sẽ không có vị thế khi đàm phán kí kết với các nhà đầu tư nước ngoài và sẽ không đủ khả năng tiến hành những hoạt động mang lại phần lợi nhuận cao như buôn bán và dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh những thành tựu về tăng trưởng kinh tế nhanh đồng thời đòi hỏi cần có chiến lược phát triển con người. Nếu có được một lực lượng lao động có văn hoá, có chuyên môn và giàu kinh nghiệm sẽ là kho báu quý giá để ngăn chặn sự phụ thuộc quá mức vào khả năng chuyên môn của nước ngoài. Hơn thế nữa, nước nghèo thường chịu sự áp đặt của nước giàu, nước phát triển trong quan hệ hợp tác kinh tế. Từ sự thua thiệt về kinh tế đã ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của nước trên chính trường quốc tế. Tiếng nói và vai trò của nước nghèo trên các diễn đàn quốc tế ít được chú ý. Một nước càng giàu và càng mạnh thì càng có khả nắm được những lợi thế về kỹ thuật. Nền văn hoá được khẳng định mf không bị đe doạ. Luôn giữ được độc lập và có chủ quyền trong những lựa chọn của mình. Sự ảnh hưởng và khả năng làm bá chủ của nước đó càng rộng. Đối với nước càng nghèo thì càng thiếu ( trong tất cả các lĩnh vực ) những đảm bảo cho phép một nhà nước, một quốc gia được tồn tại. 4.2 Đối với vấn đề chính trị - xã hội. Nghèo đói về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các mặt xã hội chính trị. Các tệ nạn xã hội phát sinh như chộm cắp, cướp giật, ma tuý, mại dâm... đạo đức bị suy đồi, an ninh xã hội không được đảm bảo đến một mức nhất định có thể dẫn đến rối loạn xã hội. Nếu nghèo đói không được chú ý giải quyết, tỷ lệ và cấp độ của nghèo đói vượt quá giới hạn an toàn sẽ dẫn đến hậu quả về mặt chính trị, ở mức cao hơn là khủng hoảng chính trị, đặc biệt nhuy cơ “diễn biến hoà bình” và “chiến tranh biên giới mềm”. Nếu giải quyết không thành công vấn đề giảm nghèo (trước hết là xoá đói ), sẽ không thể thực hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói chung. Như thế mục tiêu phát triển và phát triển bền vững của xã hội Xã hội chủ nghĩa cũng không thực hiện được. Đối với nước ta trong giai đoạn bước ngoặc của sự phát triển hiện nay và trong những thập kỷ đâù của của thế kỷ XXI, nếu không tập trung mọi nỗ lực, khả năng và điều kiện xoá đói, giảm nghèo sẽ không thể tạo được tiền đề khai thác phát triển nguồn lực con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm đưa nước ta tới trình độ phát triển tương xứng với khu vực và quốc tế để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu. Nghèo đói về kinh tế luôn dẫn tới những sức ép căng thẳng về xã hội chính trị. Trong quá trình hội nhập sự lệ thuộc của nước nghèo đối với nước giàu là điều khó tránh khỏi, bắt đầu từ kinh tế rồi xâm nhập vào văn hoá, hệ tư tưởng và chính trị. Thực tế đã cho thấy, tỏng điều kiện nền kinh tế thế giới đã quốc tế hoá như ngày nay, mỗi quốc gia , dân tộc chỉ có thể giữ vững chế độ chính trị độc lập tự do chủ quyền của mình với một tiềm lực kinh tế khá mạnh. Ngày nay, không một quốc gia, dân tộc nào có thể giải quyết được các vấn đề phát triển trong một mô hình đóng kín, biệt lập như một ốc đảo. Muốn phát triển được phải mở cửa, hội nhập hợp tác song phương và đa phương nhưng phải trên cơ sở giữ vững chủ quyền và không đánh mất bản sắc dân tộc. Do đó, chỉ khi nào làm chủ chiến lược và sách lược phát triển, định hình những điều kiện và bước đi trong chiến lược phát triển và có thể khai thác mọi nhân tố tiềm lực từ bên trong nhằm vào nhân tố tiềm lực từ bên trong nhawmf vào mục tiêu phát triển thì quá trình tham gia hợp tác cạnh tranh với bên ngoài thì mới có tác dụng tích cực, hiệu quả và đạt tới sự phát triển bền vững. Nghèo đói của dân cư (nhất là các tầng lớp cơ bản của xã hội ) đang là lực cản kinh tế - xã hội lớn nhất đối với các nước nghèo hiện nay trong quá trình phát triển. Và không có khuôn mẫu duy nhất nào có thể sao chép, áp dụng hệt như nhau cho việc giải quyết bài toán kinh tế - xã hội này. Như vậy, nghèo đói và lạc hậu sóng đôi với nhau, là xiềng xích trói buộc các nước nghèo, là một trong những vấn dề bức xúc nhất hiện nay mà mỗi quốc gia dân tộc và cộng đồng quốc tế phải cùng hợp tác giải quyết. 4.3 Đối với các vấn đề về văn hoá. Từ nghèo đói về kinh tế dẫn tới nghèo đói văn hoá. Nguy cơ này rất tiềm tàng và thực sự là một chướng ngại vật đối với sự phát triển không chỉ ở từng người, từng hộ gia đình mà còn cả cộng đồng, kìm hãm sự phát triển xã hội. ở một trình độ phát triển thấp, nghèo đói về kinh tế là sự nổi trội gay gắt nhất. Do đó mục tiêu phấn đấu là đạt được sự giàu có. Nhưng sự giàu có chỉ thuần về vật chất, kinh tế mà vắng bóng sự phát triển văn hoá, tinh thần, sự định hưóng giá trị sẽ chỉ kích thích tính thiển cận, chủ nghĩa thực dụng, sự thiếu hụt hoạc lệch chuẩn về mặt nhân văn, nhân cách con người ... Đi vào lối sống, sự sùng bái giàu có vật chất có nguy cơ phát triển cái xấu, cái ác, làm nghèo nàn biến dạng cái thiện, cái chân, cái mỹ. Nếu ttình trạng đó sảy ra ở lớp trẻ sẽ càng nguy hại,đẩy tới sự nghèo nàn, cắn cỗi, về văn hoá nhân cách. Nó kìm hãm sự phát triển không kém gì lực cản đói nghèo về kinh tế, thậm chí còn tệ hại hơn vì nó thẩm lậu vào những yếu tố phản phát triển, chứa chấp các mầm mống ccủa bệnh hoạn, suy thoái. “Nghèo đói về kinh tế dễ nhận thấy và ít ai dám coi thường nó. Cũng do đó, giàu về kinh tế dễ trở thành một khát vọng đam mê thậm chí cực đoan, lqàm giàu bằng mọi giá, bất chấp mọi thủ. Nghèo đói về văn hoá khó nhận thấy hơn và rễ rơi vào sự nhận htức muộn màng, có khi phải trả giá”. Do đó trong khi tập trung mọi lỗ lực chống đói nghèo về kinh tế, cần sớm cảnh báo xã hội những nguy cơ tác hại ccủa đói nghèo văn hoá. Không sớm dự phòng nó một cách chủ động, xã hội khó tránh khỏi sự thua thiệt bởi phải trả giá đắt cho sự thiếu hụt văn hoá. 4.4 Xoá đói giảm nghèo với một số vấn đề khác có liên quan. Xoá đói giảm nghèo là một bộ trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do đó, nó có mối quan hệ với rất nhiều các chính sách phát triển kinh tế xã hội vùng sâu, vùng xa, chính sách đào tạo nghề cho người lao động, chính sách đầu tư ... và nhiều chính sách khác. Tất cả chính sách đó đều có mối quan hệ tác động qua lại với chương trình xoá đói giảm nghèo. Chẳng hạn với chính sách giải quyết việc làm cho người lao động, xoá đối giảm nghèo là làm sao cho người lao đặc biệt là lao động ở các hộ nghèo có công ăn việc làm, có thu nhập đảm bảo cuộc sống vầ như vậy là việc xoá đói giảm nghèo đã gián tiếp tác động đến việc giải quyết công ăn việc cho người lao động, hơn thế nữa còn giải quyết việc làm cho một bộ phận lớn lao động, bởi vì ở nước ta hiện nay đa số thất nghiệp là người nghèo. Hay như vấn đề du canh du cư, xoá đói giảm nghèo giúp cho đồng bào dân tộc thiểu số kỹ thuật làm ăn, vốn, tạo điều kiện cho hộ định canh, định cư để làm ăn, giẩm bớt tình tình trạng du canh du cư, phá rừng làm nương rẫy, ngược lại việc định canh định cư sẽ tạo điều kiện xoá đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc. Như vậy, xoá đói giảm nghèo và các chính sách kinh tế xã hội khác có liên quanchặt chẽ với nhau tác động qua lại lẫn nhau. Thực hiện mục tiêu này là góp phần quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Vì vậy đò hỏi phải được sự quan tâm sâu sắc của toàn Đảng toàn dân và phải tiến hành được thường xuyên, liên tục góp phần phát triển kinh tế xã hội của toàn đất nước. III. Tổng quan kinh nghiệm xoá đói, giảm nghèo ở một số nước trên thế giới, bài học kinh nghiệm được rút ra đối với Việt Nam nói chung và Bắc Giang nói riêng. 1. Bức tranh chung về nghèo đói trên thế giới. Thế kỷ XX đã chứng kiến một sự tiến bộ vượt bậc trong công cuộc giảm nghèo và cải thiện phúc lợi. Trong bốn thập niên vừa qua, tuổi thọ trung bình ở các nước đang phát triển đã tăng trung bình 20 năm, tỷ lệ chết của tre sơ sinh và tỷ lẹ sinh giảm hơn một nửa. Từ năm 1965 đến năm 1968, thu nhập bình quân tăng hơn hai lần ở các nước đang phát triển và riêng trong giai đoạn 1990 – 1998, số người trong cảnh nghèo cùng cực đax giảm được 78 triệu người. Tuy vậy, bước sang thế kỷ XXI, nghèo đói vẫn còn là một vấn đề rất lớn của toàn cầu. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, thu nhập trung bình của 20 nước giàu nhất gấp 37 lần mức trung bình của 20 nước nghèo nhất (khoảng cách này tăng đã tăng gấp đôi trong vòng 40 năm qua). Nhưng vấn đề nghèo đói vẫn còn rất nan giải ở trên khắp các hành tinh của chúng ta : * Thực trạng ở Mỹ - Latinh. Tại Mỹ - La tinh và vùng Caribê, 150 triệu người nghèo, 56% nông dân không có nước sạch để uống Tại các nước công nghiệp phát triển GDP thực tế tăng hơn 3%/năm, tuy nhiên vẫn có hơn 100 triệu người nghèo, hơn 5 triệu người không có nhà ở và hơn 30 triệu người không có việc làm. * Thực trạng ở Sahara - Châu phi. Tại miền Nam châu Phi - Sahara, trong 30 năm qua chi phí quân sự chiếm từ 27% lên tới 43% trong các khoản chi tiêu xã hội. Có 215 triệu người nghèo, 120 triệu người mù chữ và 170 triệu người không đủ ăn, hơn 80 triệu trẻ em đến tuổi đến trường không được đi học. Hàng năm có 1,3 triệu ha đất nông nghiệp bị bỏ hoang. * Thực trạng ở Đông á. Đông á là một khu vực có GDP tính trên đầu người tăng trung bình 5%, mức cao nhất thế giới. Tuy nhiên, khu vvực này vẫn có 170 triệu người nghèo khổ. Báo cáo của Liên hợp quốc cho rằng tình trạng đói, nghèo trên thế giới nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của sự huỷ diệttài nguyên thien nhiên, xung đột chủng tộc, phát triển dân số không kiểm soát nổi, phân phối không công bằng trong xã hội, do các nhu cầu cấp thiết yếu bị bỏ qua ( bảo hiểm xã hội, nguồn nước, vệ sinh ...) do thiên lệch các khoản chi phí khác khoản chí phí khác như quá tập trung đầu tư vào khu vực quân sự, giảm ngân sách xã hội, trật tự kinh tế bất hợp lý và trở ngại lớn trên con đường đi lên của các nước đang phát triển, đồng thời cũng là một trong những thách thức nghiêm trọng nhất đối với Liên hợp quốc. Đói, nghèo còn là nguyên nhân chủ yếu gây nên tội phạm, bạo lực, mất an ninh xã hội. Nó không những mang lại hậu quả kinh tế – xã hội nghiêm trọngcho các nước đang phát triển mà còn là nguyên nhân quan trọng của của xung đột, mất ổn định và tàn phá môi trường sinh thái trên thế giới. Vì vậy, giảm bớt và đi đến xoá bỏ nghèo đói trở thành mục tiêu điỉem chú ý của toàn nhân loại, trở thành mục tiêu nhiệm vụ nặng nề của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và các tổ cức chính phủ trên thế giới. Tất cả đã đang áp dụng mọi biện pháp nhằm ngăn chặn sự gia tăng nghèo đói trên thế giới chúng ta. 2. Một số mô hình giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo trên thế giới. * Giải quyết vấn đề nghèo đói ở Mỹ (nước phát triển). Mỹ được coi là nước giàu nhất trên thế giới nhưng tỷ lệ nghèo khổ luôn dao động ở con số 13% từ 20 năm trở lại đây. Năm 1997 tỷ lệ nghèo lên tới 16,5%. Theo trung tâm nghiên cứu đói nghèo và chính sách dinh dưỡng của của trường đại học Tuyts (Mỹ) tháng 10/1997 có 12 % hộ gia đình Mỹ rơi vào “tình thế lương thực bấp bênh” (có nhà mất bữa thì không biết xoay đâu ra bữa mới ). Còn theo báo cáo ccủa Bộ Nông nghiệp Mỹ 9/1997 nhấn mạnh, có 11 triệu người Mỹ trong đó có 4 triệu trẻ em sống trong các căn hộ được coi là đói nặng hay đói tương đối. Như vây, nạn nghèo khổ vẫn còn trầm trọng ở một số nước được coi là giàu nhất trên hành tinh này. ở Mỹ người ta cho rằng sống nhờ vào mức cứu trọ của nhà nước là “phi đạo đức” và bảo hiểm xã hội chỉ dành riêng cho người thất bại trong cuộc đời. Trong khi đó ở Châu Âu, bảo hiểm xã hội quốc gia là vấn đề có tính phổ biến. Còn sống nghèo ở Mỹ trong một chừng mực nào đấy là mang dấu vết của tội lỗi. Người nghèo phải tự vươn lên. Như vậy ở Mỹ, vai trò của Nhà nước và cộng đồng xã hội trong việc giúp đỡ người nghèo vươn lên chưa tương xứng với trình độ phát triển về kinh tế. * Giải quyết vấn đề nghèo đói ở Mali (nước đang phát triển, nước cực nghèo ). Theo UNDP Mali là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới ở miền nam sa mạc Sahara. Sự tăng trưởng kinh tế lại đi kềm với sự gia tăng nghèo khổ . Trên thực tế GDP ccủa Mali tăng trung bình 5% một năm (từ 1994-1996), còn sự nghèo khổ tăng 2% một năm. Hiện nay trong số 72% trong số 42 triệu người Mali sống dưới mức nghèo (1/2 USD mỗi ngày). Mọi chỉ số đêu ở mức báo động, 1/3 dân số Mali có nguy cơ chết trước tuổi 40, 4/5 còn mù chữ, hơn một nửa dân số không có nước sạch và 2/3 dân số không được tiếp cận dịch vụ y tế. Tuy nhiên, hiện nay sự tiến triển của nghèo đói đã chậm lại. Từ năm 1994, số người sống dưới mức nghèo khổ đã tăng 2% so với 11% thời gian trước đó. ở Mali các biện pháp áp đặt ccủa các chủ nợ (nước phát triển) chủ yếu là đánh vào tầng lớp nghèo khổ trong xã hội. Vì vậy, để thoát ra khỏi tình trạng này thì yêu cầu các nhà nước (nợ) rút ra khỏi các khu vực như giáo dục, y tế, cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường. Phúc lợi xã hội phải được tư nhân hoá. ở đây, vấn đề nghèo đói không những thuộc về trách nhiệm của của các nhà nước Châu Phi trong sự suy sụp nền kinh tế, nhưng nhấn mạnh vai trò của các nước chủ nợ ( thông qua các tổ chức quốc tế ) đã khuyên bảo, hướng dẫn đôi khi gò ép trong việc đưa ra phần lớn những quyết định phát triển kinh tế. * Giải quyết vấn đề nghèo đói ở Chilê (nước đang phát triển). Chilê là nước duy nhất ở Châu - Mỹ latinh có tốc độ giảm nghèo tương đối nhanh. Năm 1987 ở Chilê có 39% người sống dưới mức nghèo khổ, đến năm 1996 chỉ còn 20%. Từ năm 1990 đến năm 1998 có 2 triệu người ( tổng số dân 14,5 triệu) đã thoát ra khỏi tình trạng nghèo khổ. Theo các nhầ phân tích của Chilê đạt được kết quả trên là dựa vào ba nhân tố sau: sự tăng trưỏng kinh tế được giữ vững; sự gia tăng những chi tiêu xã hội và việc xây dựng nhiều chương trình xúc tiến việc làm. Chilê là nước đầu tiên ở Mỹ - Latinh tiến hành tư nhân hoá, mở cửa các thị trường và giảm thuế ( mô hình siêu tự do). Lạm phát được kiềm chế, kinh tế bắt đầu lại tưng trưởng. Chilê được coi là “con báo phương nam” vào những năm 1980. Mặc dù kinh tế có sự tăng trưởng nhanh, nhưng số người nghèo được thu hẹp lại rất chậm chạp. Năm 1994, tổng thống Eduardo Frei đã thi hành những chính sách (được đánh giá là duy ý chí ) giảm nghèo và ngăn chặn những hậu quả của mô hình siêu tự do. Năm 1996, 71% chi tiêu của chính phủ là dành cho khu vực xã hội và lương tối thiểu thực tế tăng 55% từ năm 1989 đến năm 1996, nhanh hơn mức tăng năng suất lao động. Tuy nhiên theo báo cáo của Ngân hàng phát triển Liên Mỹ (BID), Chilê là nước có sự bất bình đẳng rất cao, 10% những người giàu nhất ccó thu nhập gấp 30 lần so với 10% những người nghèo nhất. Chênh lệch quá lớn này là một thách thức lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở Chilê mặc dù những tiến bộ quan trọng trong cuộc đấu tranh chống nghèo khổ. * Giải quyết vấn đề nghèo đói ở Đông Nam á. Trong các thập kỷ qua, các nước Đông á nói chung và Đông Nam á nói riêng đã giải quyết khá tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội, các nước vừa đạt được tốc độ tăng trưởng cao vừa giảm được tỷ lệ đói nghèo đáng kể. ở đây, chúng ta cần quan tâm tới các định chế của những nền kinh tế đó đã được xây dựng như thế nào và tại sao nó vừa có thể thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh vừa cho phép nhân dân được chia sẻ rộng rãi thành công kinh tế và giúp họ thích nghi với những điều kiện kinh tế thay đổi vì đó chính là chìa khoá đưa họ đến sự thành công trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Về tổng quát, các nước này đã xây dựng được một nền kinh tế nội tổng thể vững mạnh với những nền tảng định chế giúp đạt được sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào tiến trình tăng trưởng. Hầu hết cá nước đều dành phần đầu tư quan trọng để đạt được trình độ giáo dục và tỷ lệ người biết chữ cao. Các nước đã đề ra các chương trình cải cách ruộng đất tổng hợp và triệt để mà kết quả là sự ra đời của những khu vực nông nghiệp bao gồm chủ yếu hay toàn bộ các nông trại nhỏ. Sau đó là dựa vào xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến dùng nhiều lao động và đến khi có mức tích luỹ tương đối thì dựa chủ yếu vào xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao, sử dụng lao động lành nghề. Các nước này cũng nổi bật với chính quyền địa phương vững mạnh và các tổ chức địa phương nhiều tầng lớp do chính người dân quản lý bao gồm các hợp tác xã, các tổ chức thuỷ lợi, các hiệp hội nông dân và các tổ chức của thanh niên phụ nữ. Như vậy, cùng với tăng trưởng kinh tế, các nước này dần giảm tỷ lệ đói nghèo. Ví dụ như Indonesia đã giảm tỷ lệ nghèo đói từ 60% năm 1970 xuống còn 11% năm 1996. Cùng với giảm tỷ lệ nghèo đói, chất lượng cuộc sống của người dân Indolesia được cải thiệnđáng kể, tuổi thọ bình quân tăng lên, giáo dục phổ thông hoá ngày càng được nâng cao. +> Phát triẻn nông nghiệp nông thôn làm cơ sở. Theo kinh nghiệm của các nước như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc đã khẳng định rằng khu vực nông thôn có khả năng biến đổi hết sức phi thường . Nông thôn tại các nước này trước đây đều hết sức lạc hậu và đói nghèo nhưng với chính sách đúng đắn thì có thể giải quyết một cách cơ bản tình trạng đói nghèo và hỗ trợ rất tích cực cho tiến trình phát triển nông nghiệp nông thôn đều tập trung vào nâng cao năng suất lao động và đa dạng hoá các ngành nghề, cơ hội thu nhập. Từ những kết quả này mà cuộc sống của đại bộ phận người nghèo sẽ được nâng lên và có cơ hội đạt được sự công bằng xã hội hơn trước. Chiến lược trong việc phát triển nông nghiệp nông thôn ở đây là; thứ nhất chủ yếu đặt trọng tâm vào việc tăng năng suất và thu nhập của hộ nông dân nhỏ, đồng thời nhấn mạnh công nghệ tận dụng lao động, tiết kiệm vốn, tạo điều kiện mở rộng thị trường nội địa cho hàng công nghiệp và dịch vụ. Các thị trường này trở thành cơ sở ban đầu cho việc theo đòi hỏi của các ngành của nghiệp nhỏ ở nông thôn, kể cả cung cấp đầu vào cho công nghiệp và chế biến nông sản; hai là tài trợ nhiều cho việc phát triển các dịch vụ kinh tế ở nông thôn, trong đó đặc biệt là kết cấu hạ tầng, điều này quan trọng để mở rộng thị truờng kết nói với các thành viên trong đó lại, làm cho năng suất lao động tăng lên cơ hội phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng và giảm bớt đói nghèo. Ngoài ra, Nhà nước còn cung cấp các dịch vụ xã hội ở nông thôn, đặc biệt là y tế giáo dục. Ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng chủ yếu đối với việc cung cấp các dịch vụ nói trên. Đương nhiên các gia đình cá nhân có đóng góp một phần. Nhờ vậy khu vực nông thôn từng bước biến đổi và phát triển, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực hiện tốt hơn vấn đề công bằng xã hội. +> Đầu tư xứng đáng cho giáo dục. Nhìn chung các nước Đông Nam á đầu tư cho giáo dục với tỷ lệ khá cao. Chẳng hạn, ngân sách đầu tư cho giáo dục năm 1992 ở Singapore là 22,9%; Hàn Quốc là 20,1%; ở Malaysia là 19%; ở Thái Lan là 21,1%; ở Philippin là 15%. Đây là một tỷ lệ khá cao và có xu hướng tăng lên. Mục tiêu của đầu tư cho giáo dục là hình thành một đội ngũ lao động lành nghề, có trình độ, do có phần chi tiêu cho giáo dục tiểu học và trung học cơ sở ở các quốc gia này cao hơn bất kỳ một nơi nào khác trên thế giới. Người ta tổng kết rằng tỷ lệ trẻ em di học tiểu học cao và trung học cơ sở tăng 10% thì htu nhập bình quân đầu người tăng 0,3%. Như vậy, giáo dục đào tạo ccó vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các khu vực này. Nhờ vậy các nước này có tốc đọ tăng trưởng kinh tế cao. Mắt khác giáo dục đào tạo phát triển tác động rất lớn đến công bằng xã hội. Do tình hình của người lao động được nâng cao, năng suất tăng nhanh, do đó thu nhập của họ tăng lên nhanh, điều này góp phần giảm bớt sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Người ta tính được rằng nếu một lao động nông thôn qua trường học, đào tạo từ 5-7 năm thì năng suất lao động của họ tăng lên 10-20%. Năng suất lao động là cơ sở giảm bớt chênh lệch thu nhập. Nếu việc so sánh khu vực Đông Nam á và Mỹ - Latinh ta thấy các nước ở hai khu vực này đều đang phát triển ở thập kỷ 50 của thế kỷ này. Nhưng sau 4 thập kỷ, các nước Đông Nam á theo đuổi chính sách đầu tư phát triển nguồn nhân lực, dẫn đến tỷ lệ người nghèo giảm đi, trong khi ở Châu Mỹ - Latinh nghèo khó lại tăng lên. Như vậy, có thể nói việc tăng trưỏng, công bằng xã hội và giảm tỷ lệ nghèo đói đạt được ở Đông Nam á trong ba thập kỷ vừa qua được quyết định bởi nhân tố đào tạo nguồn nhân lực (chủ yếu là lao động có trình độ giáo dục trung bình). Tuy nhiên, trong thời gian tới trước áp lực của khoa học và công nghệ mới, các nước Đông Nam á đang chuyển sang chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ở trình độ cao hơn. 3. Những bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam nói chung và Bắc Giang nói riêng trong công cuộc xoá đói giảm nghèo hiện nay. 3.1 Bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam. Qua chiến lược, các chính sách và một số mô hình giải quyết vấn đề nghèo đói trên thế giới cho chúng ta những bài học sau: Thứ nhất: Chính phủ cần có chiến lược tăng trưởng kinh tế nhanh, lâu bền và phân phối thu nhập đảm bảo công bằng tương đối. Đối với nước nghèo, nước đang phát triển, điều kiện quan trọng và quyết định để giải quyết thành công vấn đề giảm nghèo đó là Chính phủ phải đảm bảo tưng trưởng kinh tế với tốc độ cao, lâu bền trong thời gian dài, từ vài thập kỷ trở lên. Một số nước Đông Nam á bứt phá khỏi vùng nghèo đói voí tốc đọ tăng trưởng kinh tế trung bình trên 8%/năm suốt ba chục năm. Cùng với tốc độ tăng trưởng cao, bền vững phải đảm bảo phân phối công bằng trong dân cư. Sự chênh lệch thái quá về thu nhập làm cho người nghèo trở lên nghèo hơn, nghèo khổ tương đối càng bộc lộ rõ hơn. Bởi sự bất bình đẳng quá lớn lại là lực cản đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Và nền kinh tế có sự trục trặc trong quá trình vận hành thì sự bất bình đẳng này sẽ là ngòi nổ cho những biến động rói ren về chính trị va xã hội (kinh nghiệm rút ra từ Chilê và một số nước Đông Nam á...) Mặt khác đảm bảo sự phân phối công bằng song không đồng nhất với bình quân, vì sự bình quân sẽ triệt tiêu động lực phát triển, do đó sẽ làm cho xã hội nghèo đi. Thứ hai: Dựa vào nguồn tích luỹ trong nước là chính, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay nước ngoài trong quá trình phát triển. Kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới đã thành công trong việc chuyển tù nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế phát triển, giảm được tỷ lệ nghèo đói là đã duy trì tỷ lệ tích luỹ trên 30%GNP. Trong quá trình phát triển Nhật, Đài Loan, Hôngkông,Singapore sử dụng các nguồn tích luỹ trong nước là chính, tránh lệ thuộc quá nhiều vào vay nợ nước ngoài nên phần nào ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua. Trong khi đó, Indonesia, Thailan, Hàn Quốc, Philippin lại bứoc vào sai lầm lệ thuộc quá nhiều vào tư bản nước ngoài trong quá trình phát triển, để lại những món nợ lớn. Tính đến cuối năm 1997 Indonesia nợ lên tới 67% GNP, Thái Lan 62% GNP, Philippin là 63%, càn ở Hàn Quốc là 31%. Đây là những nước chiụu hậu quả nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính ở mức độ khác nhau. Chính vì vậy, để nhận được các khoản cho vay của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) nhằm khắc phục hậu quả vừa qua,Indonesia buộc phải chấp nhận mọi điều kiện do IMF đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nước mình. Bài học ở Mali, sự tăng trưởng kinh tế lại đi kèm với sự gia tăng nghèo đói càng cho thấy sự lệ thuộc vào nước tuư bản, vào chính sách phát triển kinh tế của các nước chủ nợ thông qua các tổ chức tài chính quốc tế là một sai lầm nghiêm trọng. Nó không đưa đến sự phát triển, phồn vinh cho nước đi vay nợ mà mục đích làm tăng sự lệ thuộc của nước nghèo (nợ) đối với nước giàu (chủ nợ), nhằm làm lợi cho kẻ giàu đôngf thời chút bất hạnh lên những người nghèo. Đây là bài học quý báu rút ra đối với các nước nghèo, nước đang phát triển (Trong đó có Việt Nam) trong quá trình phát triển, vươn lên hội nhập với nền kinh tế thế giới nhất là trong bối cảnh hiện nay. Thứ ba : Nhà nước phải xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội tương xứng với trình độ phát triển về kinh tế. Bên cạnh sự vươn lên của chính người nghèo đòi hổi nhà nước phải có trách nhiệm giúp đỡ cộng đồng dân cư nhất là người nghèo vươn lên, vượt qua ngưỡng nghèo. Sống nghèo không phải mang dâud vết của tội nỗi như quan niệm ở Mỹ. Thực tế cho thấy, ở Mỹ vai trò của nhà nước và cộng đồng xã hội giúp đỡ người nghèo vươn lên chưa tương xứng với trình độ phát triển kinh tế đã lý giả vì sao nước giàu nhất thế giới, nhưng tỷ lệ nghèo đói luôn ở mức cao là 13%. ở một số nước Đông Nam á, do sự thiếu hụt chế độ bảo hiểm xã hội có phần nào quá chú trọng phát triển kinh tế, khi nền kinh tế bị chao đảo, lâm vào khủng hoảng tài chính, hàng loạt người đã lâm vào cảnh nghèo đói. Để khắc phục hậu quả cuộc khủng hoảng tài chính khu vực ngăn chặn tình trạng nghèo đang có xu hướng gia tăng, Thái Lan đang ra sức cải tiến chế độ bảo hiểm xã hội. Từ 1998, những người lao động bị mất việc làm đều nhận được tiền trợ cấp trong 10 tháng so với 6 tháng trước kia. Chính phủ đã có chương trình bảo đảm chăm sóc y tế miễn phí cho những người thất nghiệp và gia đình họ, xây dựng một chương trình đào tạo cho những người không có việc làm. Indonesia dành khoảng 2,4 tỷ đôla để thiết lập một cơ chế bảo hiểm xã hội trong năm 1998 – 1999 bao gồm: trợ giúp lương thực, trọ cấp y tế, tài trợ cho các trường học, quỹ xúc tiến việc làm... Thứ tư: Chính phủ phải thực sự quan tâm coi xoá đói, giảm nghèo là mục tiêu cơ bản, thường xuyên, lâu dài trong suốt quá trình phát triển. Quan tâm, coi trọng xoá đói giảm nghèo phải mang tính chương trình, chiến lược. Trung Quốc là một nước lớn được đánh giá có thành công lớn trong XĐGN nhờ các chương trình quốc gia. Quan tâm tới nghèo đói một cách thường xuyên, song chưa đủ. Nó đòi hỏi ohải phải có chương trình phù hợp, thiết thực có căn cứ. Bài học kinh nghiệm quan trọng thứ nhất là: Thận trọng trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm xử lý đồng thời hai vấn đề kinh tế trì trệ và nghèo đói, phải giải quyết từng bước vững chắc, đồng thời cả hai mục tiêu về tang trưởng kinh tế và chông nghèo đói bằng các chương trình đồng bộ thiết, thực. Đối với người nghèo Nhà nước phải lựa chọn phương thức tác động thích hợp đúng đối tượng. Việc lựa chọn phương thức, lựa chọn đúng đối tượng để giảm nghèo trong quá trình phát triển có ý nghĩa thiết thực. Nhờ sự lựa chọn đó mà người nghèo giảm bớt được sự nghèo đói, xã hội giảm bớt được sự chênh lệch thái quá giàu nghèo. Đây là bài học rút ra ở Trung Quốc và ở các nước Đông Nam á. Trước hết Nhà nước phải tạo môi trường phát triển thuận lợi cho người đoòng thời giúp họ có cơ hội, khả năng, điều kiện tiếp cận được các nguồn lực phát triển trên cơ sở tự phấn đấu vươn lên của người nghèo. Ví dụ như giảm thuế cho người nghèo, trợ cấp giá cả nông sản, phát triển cơ sở hạ tâng nông thôn, miền núi, lập quỹ tín dụng cho người nghèo... 3.2 Sự vận dụng ở tỉnh Bắc Giang. Trong quá trình xoá đói, giảm nghèo , tỉnh Bắc Giang đã quan tâm đến việc học hỏi kinh nghiệm xoá đói, giảm nghèo của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước Đông Nam á. Trên cơ sở kinh nghiệm của các nước đi trước, tỉnh đã vận dụng có chọn lọc các biện pháp phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh, cụ thể như sau: - Xoá đói, giảm nghèo dựa trên sự phát triển kinh tế của tỉnh: Tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, kinh tế hộ gia đình, đặc biệt là kinh tế trang trại. Đây là một trong những biện pháp chủ yếu để xoá đói, giảm nghèo ở Bắc Giang trong những năm qua. Phát triển hinh tế trang trại là một trong những đặc điểm nổi bật của tỉnh Bắc Giang , nhờ có chủ trương đúng đắn này mà công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Bắc Giang đã thu được kết quả khá. Kinh tế trang trại đã và đang góp phần tích cực vào công tác xoá đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang. - Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cho các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa của tỉnh. Trong những năm qua, mặc dù ngan sách của tỉnh còn eo hẹp, tỉnh đã tranh thủ nguồn vốn Trung ương, nguồn hợp tác quốc tế, vốn do dân đóng góp để xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thông giao thông nông thôn và thuỷ lợi phục vụ cho giao lưu buôn bán, phát triển sản xuất. - Tập trung phát triển hệ thống giáo dục: Bắc Giang là một tỉnh nghèo, nhưng do nhận thức được vai trò quan trọng của giáo dục voí phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh luôn quan tâm dành một tỷ lệ đầu tư ưu tien cho phát triển giáo dục. Trong nhiều năm liền, Bắc Giang đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong phổ cẩp giáo dục, đã thành lập được mạng lưới cơ sở giáo dục toàn diện trong toàn tỉnh. Nhờ sự phát triển đúng đắn các biện pháp nêu trên cùng với sự tiếp thu kinh nghiệm của các nước đi trước nên công tác xoá đói, giảm nghèo ở Bắc Giang trong những năm qua đã thu được những thành tựu đáng kể. Trong thời gian tới, những biện pháp trên sẽ vẫn là những biện pháp chủ yếu để tiến hành xoá đói, giảm nghèo ở Bắc Giang cũng như để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, để Bắc Giang có thể vững bước tiến vào thế kỷ mới cùng với sự phát triển chung của đất nước. chương II thực trạng và nguyên nhân đói, nghèo ở Bắc Giang. I. Đặc điểm tự nhiên, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và những ảnh hưởng tới đời sống người dân trong tỉnh. 1. Đặc điểm tự nhiên - xã hội của tỉnh. Bắc Giang là một tỉnh miền núi, phía Bắc giáp Lạng Sơn và Thái Nguyên, phía Nam giáp Bắc Ninh và Hải Dương, phía Đông giáp Quảng Ninh, phía Tây giáp Hà Nội. có tổng diện tích tự nhiên 3.882,6 km2, bao gồm 10 huyện, thị trong đó có 6 huyện miền núi, 1 huyện vùng cao, 2 huyện khác có các xã miền núi và một thị xã với 227 xã, phường, thị trấn (trong đó có 4 xã vùng cao). Bắc Giang có đường quốc lộ 1A đi qua. Thị xã Bắc Giang cách Hà Nội 51km về phía Nam và cách thị xã Lạng Sơn 100 km về phía Bắc. Bắc Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, nhiệt độ trung bình 230C, lượng mưa bình quân 1.500mm/năm, độ ẩm trung bình hàng năm 80%. Trong diện tích._.sản phẩm chủ yếu của tỉnh hiện nay là tiêu thụ hoa quả tươi, chế biến quả tươi và sấy khô. Tiêu thụ hoa quả tưới đòi hỏi hoa quả sau khi thu hoạch phải được vận chuyển, tiêu thụ nhanh trong tỉnh và các thị trường khu trung tâm lớn trong toàn quốc, tuy nhiên do khối lượng hoa quả vào thu hoạch rất lớn trong toàn quốc, tuy nhiên do khối lượng hoa quả vào thu hoạch rất lớn nên hình thức tiêu thụ này này chỉ chiếm khoảng 40% sản lượng hoa quả trong các năm tới khi sản lượng hoa quả tăng lên nhiều thì hình thức này kém phát huy tác dụng. Đối với chế biến quả tươi thì hiện nay tỉnh có 2 xí nghiệp quốc doanh chế biến hoa quả và một số cơ sở nhỏ như HTX Kim Biên, Công ty bia chế biến nước hoa quả. Tuy nhiên, các cơ sở này quy mô nhỏ, công nghệ chế biến cũ kỹ nên chất lượng sản phẩm này không tiêu thụ được trên thị trường quốc tế được dẫn đến giá trị sản phẩm thấp. Với việc sấy khô như vải thiều, thì đến nay đây là vẫn là hình thức chế biến, bảo quản khối lượng sản phẩm lớn, tuy nhiên công nghệ sấy chủ yếu là thủ công, chất lượng sản phẩm kém còn nhiều khí CO và CO2 rất khó tiêu thụ ở thị trường quốc tế nên giá trị thấp, dẫn đến làm thất thu lớn cho các hộ nông dân và cho tỉnh. Từ những vấn đề thực tế đặc ra về vấn đề bảo quản, tiêu thụ sản phẩm hao quả nông sản, đặt cho tỉnh Bắc Giang cần có giải pháp để chế biến, bảo quản nông sản hàng hoá nhằm tăng gia trị nông sản phẩm hàng hoá. Để làm được điều đó Bắc Giang cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau: - Tỉnh mạnh dạn đầu tư vốn xây dựng nhà máy chế biến hao quả công suất lớn, công nghệ hiện đại để có thể tạo ra sản phẩm đủ tiêu chuẩn cươn ra thị trường quốc tế. Nếu thiếu vốn tỉnh có thể mạnh dạn vay vốn chứ không nên trông chờ vào sựu hỗ trợ từ TW. Nhà máy này cần đặt ở giưã các trung tâm hoa quả lớn, đồng thời phải thuận tiện chi đi lại để cung cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra, có thể đặt tại thị xã Bắc Giang. - Tỉnh nên nghiên cứu, giúp đỡ các chủ trang trại thiết bị đề sấy khô, bảo quản hoa quả đặc biệt là vải thiều, trang thiết bị này phải đảm bảo đủ điều kiện, tiêu chuẩn chất lượng để sản phẩm làm ra nó có đủ tiêu chuẩn chất lượng xuất ra thị trường quốc tế. - Tỉnh nên khuyến khích tạo điều kiện cho các chủ trang trại có quy mô lớn, có vốn để họ hợp tác, liên doanh cùng nhau xây dựng các xưởng chế biến hoa quả tại chỗ, giảm chi phí vận chuyển hao quả tươi, các xưởng này có thể chế biến bảo quản hoa quả của các hộ lân cận. Tuy nhiên, cần lưu ý chọn công nghệ tiến tiến để cho ra dời những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. 2. Hoàn thiện hơn nữa hệ thống phúc lợi xã hội và hệ thống bảo trợ xã hội cho người nghèo. 2.1 Chính sách giải quyết việc làm: Đội ngũ lực lượng lao động ở nông nghiệp, nông thôn qua lớn, tốc độ tăng nhanh, khả năng thu hút lại bị hạn chế nên lực lưọng lao động bị dư thừa là rất lớn. Theo kết quả điều tra của tỉnh thì trong năm 2000, trong tổng số 73,9 vạn lao động toàn tỉnh, lao động nông nghiệp chiếm 77,2%, lao động chưa có việc làm trong nông nghiệp còn nhiều, dự tính trong những năm tới, bình quân số lao động trong ngành nông nghiệp nông thôn tăng thêm 1,5 vạn người và tốc độ tăng hàng năm khoảng 2,5%. Đây là vấn đề lớn cần được tiếp tục quan tâm giải quyết. Trong điều kiện đất đai bình quân trên một người lao động là rất thấp chỉ đạt 0,05 ha/1lao động, trong khi đó chủ yếu là thuần nông cho nên dư thừa lao động là rất lớn. Do lượng lao động bị dư thừa là qua lớn nên hệ số sử dụng thời gian cuãng trở nên rất thấp, năm 2000 là khoảng 70%. Đặc biệt đối với ngưòi nghèo thì vì nhiều lý do này khác mà hệ số sử dụng thời gian của anh ta càng thấp hơn so với mức bình quân. Trong những năm qua do tác động tích cực của dịch cơ cấu, cải cách kinh tế, cũng như các biện pháp tích cực trong việc giải quyết việc làm nên hệ số sử dụng thời gian lao động có tăng lên, nhưng hiện đại con số này vẫn cần tăng lên nhiều. Hệ số sử dụng thời gian thấp dẫn đến năng suất lao động bình quân thấp cũng là do chất lượng lao động thấp (sức khẻo và trình độ), đất đai ít, không có vốn ... Với năng suất như vậy thu nhập của người dân cũng trở lên rất thấp phần lớn trong số họ là không có khả năng tích luỹ. Đó là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đói nghèo trở nên rất phổ biến của khu vực nông thôn. * Biện pháp giải quyết việc làm: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm dần lao động thuần nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động phi nông nghiệp trong các đơn vị sản xuất quy mô nhỏ. Thứ nhất, tiến hành đa dạng hoá ngành nghề, thực hiện nguyên tắc khuyến khích ai giỏi việc gì thì làm việc ấy, trên cơ sở giao đất ổn điịnh cho các hộ gia đình đồng thời thông qua các cơ chế chính sách và các biện pháp cụ thể để từng bước tập trung ruộng đất vào các hộ gia điình có khả năng sản xuất kinh doanh nông sản với điều kiện họ phải thu hút thêm người nghèo vào làm việc. Tiến hành khai hoang, cải tạo đất xấu, cố gắng khắc phục tình trạng diện tích đất nông nghiệp thấp như hiện nay. Đa dạng hoá việc làm và thu nhập càng trở thành một hình thức phổ biến ở nông thôn. Thứ hai, cần phát triển mạnh mẽ các ngành nghề phi nông nghiệp. Đây là xu hướng cơ bản để phát triển nông nghiệp nông thôn trong tưong lai, trong đó chú trọng đến các ngành nghề sử dụng nhiều lao động nhưng cần lượng vốn ít, hướng đến làm hàng xuất khẩu. Phát triển mạng lưới dịch vụ kèm theo để hỗ trợ các cơ sở sản xuất đó, hệ thống dịch vụ này ở nông thôn hiện nay đang ở trong tình trạng rất yếu kém, nếu phát triển được nó tiềm năng thu hút lao động khá lớn. Khôi phục các nghề truyền thống có giá trị cao, các làng nghề và các xí nghiệp hương thôn sẽ gắn bó với quá trình đô thị hoá ở nông thôn. Để thực hiện mục tiêu phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp thì Nhà nước và tỉnh cần có những chính sách và chế khuyến khích các hoạt động này như về ưu đãi tín dụng, giảm các loại thuế, giải quyết những vướng mắc về thị trường. Khuyến khích phát triển các hình thức hợp tác xã kiểu mới trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện và cùng có lợi ở quy mô thích hợp như hợp tác xã liên gia đình, hợp tác xã nhóm hệ ... những mô hình hợp tác xã này sẽ tạo điều kiện cho những người nông thôn tập hợp sức mạnh lại và tận dụng hiệu quả hơn những thế mạnh của mỗi gia đình như nhiều vốn vay hay nhiều lao động... Đồng thời có chính sách và cơ chế khuyên khích những người có vốn và kỹ thuật mở mang các hình thức sản xuất kinh doanh theo kiểu trang trại như ở một số huyện Yên Thế, Lục Ngạn. Đây là hình thức tổ chức lao động, giải quyết việc làm có hiệu quả trong cơ chế thị trường vì nó có nhiều ưu điểm như lợi thế nhờ quy mô sản xuất lớn dễ áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật, người chủ có khả năng làm ăn gắn bó với kết quả sản xuất kinh doanh. Hướng sự quan tâm vào các vùng có khả năng thu hút nhiều lao động trong thời gian tới như các huyện Yên Thế, Lục Ngạn, Sơn Động đây là các vùng cồn nhiều diện tích đất trống, đồi núi trọc và có khả năng phát triển cây ăn quả như vải, na, dứa, hồng... Việc thực hiện phương án này cần kết hợp với các dự án di dân đến những vùng mà mật độ dân cư còn thưa thưa thớt để tận dụng, khai hoá đất hoang hoá, bên cạnh đó cần kết hợp định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số. 2.2 Phát triển cơ cấu và cung cấp tín dụng cho người nghèo: Vốn là một trong những là một trong những điều kiện sản xuất cơ bản, theo số liệu thống kê điều tra năm 1999 có tới 75% số hộ nghèo thiếu vốn hoặc không có vốn để sản xuất. Đây là một lý do quan trọng làm cho các hộ nghèo không vượt lên khỏi cảnh đói nghèo được. Trong những năm qua, Nhà nước đã cố gắng cải thiện sự phục vụ tín dụng này lên Ngân hàng người nghèo, các quỹ tín dụng nhân dân, tận dụng vốn vay cho người nghèo từ các dự án nước ngoài, tỉnh cũng đã thực hiện lồng ghép các chương trình để tạo thêm nguồn vốn cho xoá đói giảm nghèo, sử dụng với mức lãi suất ưu đãi cũng như các điều kiện thuận lợi cho người nghèo vay vốn. Nhưng thực tế cho thấy, nông dân nghèo vẫn kém tiếp cận với tín dụng chính quy và chỉ có được phần lớn các tín dụng phi chính quy với lãi suất cao hơn nhiều với lãi suất của khu vực chính quy mà họ không tiếp cận được. Sự tiếp cận yếu kém này rõ ràng là một trở ngại lớn cho công tác xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Vì vậy, để tưng khả năng tiếp cận của các hộ gia đình nghèo với tín dụng cũng như tăng hiệu quả của các khoản vay, cần có những đổi mới thiết thực trong các lĩnh vực như huy động vốn, phương thức vay vốn, cơ cấu lãi suất... Tín dụng cho người nghèo phải thể hiện rõ nét tính ưu đãi của nó dành cho người nghèo như vay không cần thế chấp, vay với lãi suất thấp nhưng đồng thời cũng phải nhận thức đây hoàn toàn không phải là tiền cứu trợ nhân đạo. Trong cơ chế thị trường hiện nay, cần phải xây dựng một cơ chế tín dụng thế nào để vừa đảm bảo hỗ trợ của xã hội vừa kích thích ngươì nghèo tổ chức sản xuất làm ăn phù hợp với những yêu cầu của thị trường. - Lãi suất khác nhau đối với những vùng khác nhau: Hiện nay lãi suất của Ngân hàng người nghèo đang được áp dụng một mức thấp nhất trên phạm vi cả nước. Nhưng đây là một điều bất hợp lý: Chi phí phòng ngừa rủi ro của hoạt động tín dụng. Chi phí quản lý giao dịch Lãi suất huy động vốn (tiền gửi) Mức lãi suất tiền vay + + = Qua cách lãi suất tiền vay trên, có thể nhận thấy nó đã xa rời với thực tế làm ăn sản xuất kinh doanh của ngưòi dân vì mức độ sinh lợi nhuận trên một đồng tiền vốn ở đó ắt sẽ có cơ hội để thoát khỏi cảnh nghèo đói do điều kiện ưu đãi về kinh tế- xã hội hơn so với ngưòi dân ở các vùng nghèo ta cần nghiên cứu đặt ra các mức lãi suất hay xấp xỉ mức lãi suất thị trường còn các khu vực khó khăn có thể vẫn giữ mức ưu đãi. - Miễn giảm lãi suất cho các hộ : Những gia đình thuộc diện đói có nghĩa thuộc diện khó khăn nhất trong xã hội, khả năng sản xuất kinh doanh rất thấp, rất dễ bị tổn thương trước những rủi ro bất ngờ trong cuộc sống. Đói với những hộ nghèo như thế thì cần có sự quan tâm giáup đỡ nhiều hơn nữa. Trong vấn đề cung cấp tín dụng, sự hỗ trợ đặc biệt này có thể được áp dụng nhiều miễn toàn bộ lãi suất các khoản tiền vay của họ. Việc xoá bỏ lãi suất tiền vay cho các gia đình thuộc diện đói nghèo là hết sức có ý nghĩa, nó sẽ khuyến khích các hộ này mạnh dạn vay vốn hơn, khoản tiền lãi không phải trả tuy không lớn nhưng cũng rất cần thiết để họ có thể mở rộng sản xuất kinh doanh hay đối phó với những rủi ro bất ngờ. - Cho vay bằng hiện vật đối với các người nghèo ở vùng sâu, vùng xa. Một khó khăn lớn trong việc phát hy hiệu quả của các khoản tiền vay là do các đói tưọng vay đã không biết cách làm ăn mà nói cụ thể hơn là họ không biết dùng khoản tiền vay vào việc gì. Tình trạng này diễn ra khá nhiều ở các vùng núi, vùng cao của tỉnh... nơi có tỷ lệ nghèo đói hết sức cao. Để tiếp một số công cụ, tư liệu sản xuất cần thiết tương ứng với số tiền mà họ đã cho vay cho họ, ví dụ như cây giống, con giống, đạm, lân... Điều kiện giao lưu mua bán ở các vùng này rất khó khăn, nguồn thông tin mà người dân tiếp cận được rất hạn hẹp mà ở đây chủ yếu là đồng bào các dân tộc không quen với việc mua bán, vì vậy nên để ngân hàng đứng ra kết hợp với các đoàn thể chính quyền địa phương giải quyết là hợp lý. * Huy động vốn: Theo kế hoạch, trong 4 năm (1998-2001) cần có 122 tỷ đồng để cho ngưòi nghèo vay vốn. Những nguồn đóng góp hiện nay cho yêu cầu tín dụng này là ngân sách Nhà nước, ngân sách của tỉnh, huyện, các ngân hàng thương mại (huy động từ cộng đồng) và nguồn hợp tác quốc tế. Để tăng hiệu quả của việc huy động vốn đầu tư cho các hoạt động tín dụng xoá đói giảm nghèo có thể áp dụng các biện pháp sau: - Nhà nước cần có cơ chế buộc các tỉnh giàu, các công ty giàu dành ra một khoản thu của mình để hỗ trợ các tỉnh nghèo như Bắc Giang, và khoản vay này được đưa vào các tổ chức tín dụng cho người ở địa phương đó. Các Ngân hàng thưong mại cũng có thể giảm một phần lãi suất của mình xuống để cho vay mức lãi suất ưu đãi cho người nghèo. - Hiện nay, các tổ chức quốc tế đang quan tâm nhiều đến các nước đang phát triển, chúng có thể có vai trò to lớn về cung cấp tín dụng trong tương lai. Vì họ muốn tự do hoá lãi suất mới cho vay nên ta có thể cố gắng đạt một thoả thuận về một mức lãi suất tự do hóa ở thành thị, ưu đãi ở nông thôn. Thực tế ở tỉnh Bắc Giang trong những năm qua cũng đã tận dụng được một nguồn vốn khá lớn từ nước ngoài thông qua hợp tác quốc tế như các dự án trồng rừng bằng nguồn vốn của Đức, Thái Lan... đạt gần 20 tỷ đồng. Mới đây nhất là Bắc Giang được Chính phủ cho tham gia vào dự án phát triển nông thôn tổng hợp giảm nghèo miền núi phía Bắc với thời gian thực hiện là trong 5 năm (2001-2005) và tổng vốn ước tính 15 triệu USD (tương đương 210 tỷ VNĐ). Đây có thể nói là một thuận lợi rất lớn đối với công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Bắc Giang trong những năm tới đây. * Quản lý hoạt động vốn tín dụng: - Tăng mức độ phục vụ. Hiện nay cơ sở nhỏ nhất của các Ngân hàng người nghèo là cấp huyện và nó tiếp xúc với dân chủ yếu qua chính quyền cơ sở như UBND xã, phường, thị trấn các hợp tác xã... Trong khi đó ở Bắc Giang hầu hết là các huyện miền núi, vùng cao, điều kiện đi lại rất khó khăn, nên sự tiếp xúc với người nghèo lại bị hạn chế. Để tăng cường mức đọ phục vụ ta có thể tổ chức dạng nhóm công tác ngân hàng lưu động đến tận thôn bản. - Thống nhất các nguồn tín dụng. Hiện nay, có rất nhiều nguồn cung cấp tín dụng cho người nghèo đang hoạt động theo các chương trình, dự án khác nhau, và có nhiều cơ quan cùng làm chức năng cung cấp tín dụng cho người nghèo như Ngân hàng người nghèo, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các quỹ tín dụng nhân dân... Để tăng cường hiệu qủa hoạt động tín dụng này cần sắp xếp tổ chức các nguồn vốn này về dưới quyên quản lý và phân phối của một cơ quan chuyên trách như Ngân hàng người nghèo. Các nguồn lực tài chính thống nhất trong tay, ta có thể tự biết chính xác nguồn lực có trong tay là bao nhiêu, phân phói chúng theo thứ tựu ưu tiên, tránh tình trạng chồng chéo, không thiết thực của việc vay vốn. - Tích cực phát huy tiết kiệm tại chỗ. Phát huy tiết kiệm của người đi vay (người nghèo) là hết sức quan trọng, một mặt nó nâng cao khả năng tài chính, trình độ làm ăn của người nghèo lên. Mắt khác, nó cũng đảm bảo hoàn trả vốn cho ngân hàng. Về lâu dài, tiết kiệm tại chỗ sẽ giúp cho người nghèo vượt qua cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Muốn thực hiện tiết kiệm tại chỗ được thì người dân phải làm ăn có hiệu quả. Để giúp cho họ có thể làm ăn tốt về phần mình ngân hàng có thể có những hướng dẫn cần thiết về cách hạch toán làm ăn. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này ngân hàng còn phải kết hợp với nhiều tổ chức khác như hợp tác xã khuyến nông, Hội phụ nữ... 3. Phát huy tinh thần tương thân tương ái của cộng đồng xã hội, trong công cuộc xoá đói giảm nghèo. Công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nước ta nói chung và Bắc Giang nói riêng đòi hỏ không hcỉ là trách nhiệm, sự quan tâm và giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, sự cố gắng của bản thân người nghèo hộ nghèo mà còn đòi hỏi sự giúp đỡ của cả cộng đồng xã hội về vật chất và tinh thần. Chúng ta cần phải thực hiện tốt tinh thần “tương thân, tương ái”, “lá lành đùm lá rách” trong công cuộc xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh những đóng góp về tiền của, vật chất trong những trường hợp xảy ra sự cố như thiên tai, những trường hợp cá nhân bị rơi vào hoàn cảnh đặc biệt (bệnh trọng, rủi ro...), chúng ta cần phát huy hơn nữa sự quan tâm giúp đỡ của các tổ chức đoàn thể, ban, ngành, nhóm, cá nhân một cách trực tiếp, có kế hoạch cụ thể vào đối tượng nhận giúp đỡ với phương châm giúp cho đối tượng có ý thức và có khả năng vươn lên vượt qua đói nghèo. Nếu làm được như vậy, hiệu qủa của sự giúp đỡ để giảm nghèo đói sẽ cao và bên vững hơn. Một số đợn vvị đã thành lập Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo như Hội phụ nữ tỉnh, Sở công nghiệp, Sở tư pháp, Sở lao động - thương binh xã hội, Hội nông dân, Đoàn thanh niên... Các đơn vị nhận giúp đỡ đã thống nhất với chính quyền địa phương về một số hình thức, nội dung hỗ trợ, giúp đỡ phù hợp như: Giúp quy hoạch sản xuất, phát triển vùng nguyên liệu, cử cán bộ kỹ thuật hướng dẫn cách thức sản xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đây là hình thức hỗ trợ thiết thực giúp đỡ hộ nghèo đói có kiên thức sản xuất, có việc làm và thu nhập, tự mình vươn lên xoá đói giảm nghèo và đã đạt được một số kết quả và giải pháp cần được duy trì như sau: - Chỉ tính riêng trong 2 năm 1999-2000, Sở Lao động- TBXH đã mua 4800 người đói nghèo theo quy định tại thông tư 05/TT-LB với số kinh phí 102 triệu đồng và cấp giấy chứng nhận khám, chữa bệnh miễn phí cho 90.908 lượt người với số tiền miễn giảm là 1.619,5 triệu đồng. Khám và chữa bệnh miễn phí cho 9.310 lượt người mắc bệnh sốt rét, 9084 lượt người bị bướu cổ, thực hiện tốt các chương trình tiêm chủng mở rộng, tiêm AT cho phụ nữ có thai, uống Vitamin A cho trẻ em từ 6-36 tháng tuổi. Ngành giáo dục -đào tạo đã miễn giảm học phí cho 71.702 học sinh là con em hộ đói nghèo và dân tộc vùng cao với số tiền trên 1 tỷ đồng; hỗ trợ sách giáo khoa, đồ dùng giảng dạy cho các xã đặc biệt khó khăn; đầu tư xây dựng 30 phòng học cho các xã khó khăn với tổng kinh phí là 1.400 triệu đồng. - Hội Phụ nữ đã vận động các chị em có kinh tế khá đóng góp tiền vào quỹ hội để giúp chị em hoàn cảnh khó khăn vay vốn. Năm 1999 các cấp hội đã vận động hơn 2 vạn chị em có kinh tế khá giúp hơn 25.000 chị em kinh tế khó khăn với số tiền vàng, thóc, cây, con giống giá trị gần 10 tỷ đồng. Đã giúp đỡ không hoàn lại cho hơn 1 vạn chị em có hoàn cảnh khó khăn số tiền gần 500 triệu đồng và hàng vạn ngày công lao động. Ngoài ra hội còn vận động được 267 tổ phụ nữ tiết kiệm, duy trì quỹ “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo” đến nay đã có vốn hàng tỷ đồng và giúp cho khoảng 4000 chị em nghèo vay vốn. Bên cạnh đó còn giúp tín chấp cho hội viên vay vốn ngân hàng. - Hội Nông dân đã vận động hơn 3200 hội viên giúp nhau khắc phục khó khăn về đời sống được gần 100 tấn lương thực, đứng ra tín chấp cho hội viên vay vốn đạt gần 40 tỷ đồng. Vận động đưa tổng số quỹ hỗ trợ nông dân nghèo hiện nay của toàn tỉnh lên hơn 1 tỷ đồng. Vận động đưa tổng số quỹ hoạt động của Hội Nông dân lên lên 2,5 tỷ đồng. Các nguồn quỹ này đang giải quyết cho hơn 2000 hội viên vay để phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. - Đoàn thanh niên các cấp đã vận động phong trào thanh niên giúp đỡ nhau về giống, vốn kỹ thuật để phát triển sản xuất được 3 vạn cây, con giống, hơn 700 triệu đồng và khoảng 2 vạn ngày công lao động. Đoàn đã đứng ra tín chấp vay hơn 4 tỷ đồng cho thanh niên lập nghiệp. Đoàn đã vận động thanh niên tham gia đóng góp được trên 10 vạn ngày công lao động để cải tạo kênh, mương, làm đường giao thông nông thôn, góp phần vào phát triển kinh tế-xã hội địa phương và xoá đói giảm nghèo. Có thể nói vay vai trò của các tổ chức đoàn thể với công tác xoá đói giảm nghèo là rất lớn. Các đoàn thể đã giúp các hội viên nghèo không chỉ vay vốn, lao động mà đặc biệt là kinh nghiệm làm ăn, nhờ có phong trào giúp đỡ nhau xoá đói giảm nghèo của các tổ chức đoàn thể đã giúp cho rất nhiều hội viên nghèo thoát cảnh đói nghèo. Trong thời gian tới cần tiếp tục phát huy vai của các tổ chức đoàn thể trong việc xoá đói giảm nghèo ở địa phương. Các giải pháp cụ thể là: - Các đoàn thể tiếp tục phát động cuộc vận động giúp đỡ nhau xoá đói giảm nghèo, các hội viên khá có thể đóng góp tiền, ngày công giúp hội viên nghèo phát triển sản xuất. - Các toàn thể cần tiếp tục tổ chức lớp tập huấn hướng dẫn cách làm ăn cho các hội viên để giúp đỡ hội viên có kinh nghiệm làm ăn. - Các đoàn thể đứng ra tín chấp cho hội viên vay vốn để giúp các hội viên có vốn làm ăn. - Cần mở các buổi nói chuyện trong hội để các hội viên nghèo có thể học hỏi kinh nghiệm làm ăn của các hội viên khá có thể truyền đạt kinh nghiệm của mình cho các hội viên nghèo. - Ngoài ra, ở từng thôn xóm nên thành lập các câu lạc bộ giúp nhau xoá đói giảm nghèo như câu lạc bộ làm vườn, câu lạc bộ chăn nuôi... 4. Một số giải pháp khác. Nghèo là một vấn đề kinh tế- xã hội. Do đó giải pháp để giảm nghèo không chỉ là những giải pháp kinh tế mà còn là đòi hỏi các giải pháp về xã hội. Nói một cách khác để giảm nghèo đòi hỏi các giải pháp kinh tế-Xã hội mang tính tổng hợp. Giúp người nghèo tham gia tích cực vào chương trình Dân số và kế hoạch hoá gia đình. Một quy luật đối với mọi quốc gia, một tỉnh thì hộ nghèo hầu như ở đâu tỷ lệ người nghèo cao thì ở đó tỷ lệ sinh đẻ cao. Và tỷ lệ sinh đẻ cao là một nguyên nhân dẫn đến nghèo đói. Để nâng cao chất lượng cuộc sống và chất lượng dân số, cần vận động và đầu tư hỗ trợ cho hộ nghèo các biện pháp y tế đảm bảo sức khoẻ sinh sản cho họ, làm cho người nghèo nhận thức được hậu quả cảu việc sinh đẻ nhiều, cam kết chỉ đẻ 2 con. Tuyên truyền giác ngộ cho người dân nhận thức được vấn đề dân số và kế hoạch hoá gia đình có liên quan trực tiếp cuộc sống của mỗi người nhất là đối với người nghèo, tránh vòng luẩn quẩn bế tắc “càng nghèo, càng đẻ; càng đẻ, càng nghèo”. Trong công tác xoá đói giảm nghèo phải coi trọng quan tâm thích đáng vấn đề giới, nhất là phát triển nguồn nhân lực, đạo tạo nghề phụ nữ, chăm sóc giáo dục trẻ em gái về sức khẻo sinh sản, ưu tiên tạo việc làm, tăng thu nhập cho phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ tiếp cận đầy đủ vai trò và vị thế phụ nữ tham gia quản lý lãnh đạo. Đấu tranh chống các tệ nạn xã hội. Chống các tệ nạn xã hội khác như cờ bạc, số đề, nghiện hút, mại dâm. Bởi chính các tệ nạn xã hội này đã làm cho nhiều gia đình rơi vào cảnh bần cùng, nghèo đói và tái nghèo đói. Phải xoá bỏ các loại chủ chứa, cờ bạc, tiêm chích, ma tuý, số đề. Đồng thời phát động phong trào đăng ký xây dựng gia đình văn hoá, xã, phường không có tệ nạn xã hội. Trợ giúp pháp lý cho người nghèo. Giúp người nghèo có những hiểu biết phổ thông về luật pháp liên quan đến đời sống hàng ngày (Luật hôn nhân gia đình, Luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em, Luật dân sự...). Giải đáp cho người nghèo về những vấn đề chính sách có liên quan đến quyền lợ và trách nhiệm của người nghèo. Hướng dẫn người nghèo các thủ tục pháp lý về quan hệ dân sự. Bồi dưỡng kiến thức về pháp luật cho cán bộ các xã nghèo; đào tạo nghiệp vụ tư vấn pháp lý cho cán bộ pháp lý và cộng tác viên. Đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Kết hợp trương trình xoá đói giảm nghèo với các chương trình phát triển- kinh tế xã hội khác trong chiến lược chung về phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn và chương trình việc làm. Do đó, chính phủ chỉ đạo kiên quyết lồng ghép các chương trình tạo thành tổng hợp lực xoá đói giảm nghèo từ Trung ương xuống cơ sở, tránh sự phân tán manh mún vốn, nhiều bộ máy điều hành một việc, tốn kém kinh phí hành chính, giao cho các cơ quan chức năng hướng dẫn va chỉ đạo. Đây cũng chính là nguyện vọng của nhiều huyện, xã. Theo thanh tra Nhà nước, tỉnh hầu như không chương trình nào là không bị suy suyển, “hao mòn” vốn. Trong xoá đói giảm nghèo ở một số nơi còn có tình trạng thu lại tiền của người được vay để sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng (nhất là trong cơ chế thị trường) thì thanh tra, kiểm tra phải được tiến hành liên tục, thường xuyên. Qua thanh tra phải xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Nếu không, tiền vẫn chi tiết hết mà mục tiêu thì không đạt được. 5. Kiến nghi cá nhân. Qua nghiên cứu phân tích về nguyên nhân thực trạng nghèo đói của Bắc Giang cũng như 1 số giải pháp xoá đói giảm nghèo mà Bắc Giang đã thực hiện cũng như những giải pháp đã được phân tích trên đây trở thành hiện thực và có tính khả thi cao giúp cho công tác xoá đói giảm nghèo ở Bắc Giang đạt được kết quả cao hơn nữa em có 1 số kiến nghị với Trung ương và tỉnh. * Kiến nghị cấp Trung ương: Bắc Giang là tỉnh nghèo, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo, xã nghèo còn cao. Đề nghị với quốc hội, Chính phủ cần đặc biệt quan tâm đến tỉnh để giúp tỉnh đẩy nhanh công tác xoá đói giảm nghèo, đưa tỉnh tiến kịp với các tỉnh trong khu vực. Để công tác xoá đói giảm nghèo ở Bắc Giang đạt hiệu quả, đề nghị: Quốc hội cần xác định trọng điểm đầu tư tập trung xoá đói giảm nghèo với các xã ĐBKK, miền núi, vùng cao, cần bổ sung thêm các xã vùng sâu, vùng trũng, vùng ngoài đê, những xã rất nghèo, rất khó khăn them chí nghèo hơn các xã vùng cao. Quốc hội cùng Chính phủ nghiên cứu điều chỉnh bổ sung hệ thống chính sách với vùng nghèo, xã nghèo, hộ nghèo như: - Chín h sách miễn giảm cần mở rộng hơn, cả đối tượng và mức độ. - Về mức độ và tốc độ và tốc độ đầu tư phải phù hợp đặc điểm từng vùng đói nghèo vì giữa các vùng rất khác nhau về trình độ phát triển của nền kinh tế, trình độ dân trí, khả năng tiếp nhận, sử dụng nguồn đầu tư, định hướng phát triển, ưu tiên đầu tư vùng căn cứ kháng chiến, vùng cao, vùng sâu. Chính phủ cần sắp xếp lại, loại bỏ một số chương trình hiệu quả thấp, quản lý khó khăn, dễ phát sinh tiêu cực như: Chương trình trợ giá một số mặt hàng cho đồng bào dân tộc, miền núi. Vốn đầu tư nước ngoài, vốn viện trợ phi Chính phủ, Nàh nước cần quan tâm hướng nước ngoài đầu tư, tài trợ vào các vùng nghèo, vùng miền núi. Nâng mức vốn đầu tư hàng năm cho các chương trình, đề án nằm trong Chương trình xoá đói giảm nghèo. Có chế độ khuyến khích động viên thoả đáng đội ngũ cán bộ trực tiếp giúp các xã nghèo, các xã đặc biệt khó khăn xoá đói giảm nghèo. * Kiến nghị cấp tỉnh: Cấp tỉnh là cấp trực tiếp chỉ đạo xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh vì vậy đề nghị tỉnh cần: - Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chủ trương, biện pháp xoá đói giảm nghèo của Trung ương và tỉnh. Tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm để tìm ra các điển hình tốt về xoá đói giảm nghèo từ đó nhân rộng ra các địa phương khác. - Tỉnh cần tập trung các nguồn vốn cho xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh vào một đầu mối theo phương thức lồng ghép các chương trình để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Đối với một số xã đặc biệt khó khăn, hàng năm tỉnh cần trợ cấp một khoản ngân sách cho xã để giúp các hộ thoát khỏi cảnh nghèo. - Xoá đói giảm nghèo là một quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ không thể nôn nóng, chủ quan. Vì vậy, tỉnh cần tuyên truyền để nhân dân hiểu tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo và đưa nó trở thành phong trào rộng khắp trong toàn tỉnh và cụ thể xuống tưùng xã nghèo, hộ nghèo, người nghèo ... - Tỉnh cần chủ động hơn nữa trong việc phát huy nhuồn vốn tại chỗ để xoá đói giảm nghèo, không nên quá trông chờ ỷ lại vào Trung ương và các tổ chức khác... Kết luận Qua hơn 10 năm đổi mới, kinh tế- xã hội tỉnh Bắc Giang đã có những bước phát triển mới GDP tăng bình quân 7-8%/ năm trong đó Nông nghiệp tăng 7,2; Công nghiệp- xây dựng cơ bản tăng gia đình 3,8%; dịch vụ tăng 6,3% góp phần giải quyết việc làm cho 3-4 vạn lao động, hàng năm nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi ngăn chặn giảm bớt các tệ nạn xã hội, đời sống nhân ngày càng được nâng lên, công tác xoá đói giảm nghèo đã thu được kết quả cao. Để phục vụ công tác xoá đói giảm nghèo, Đảng và Nhà nước, tỉnh Bắc Giang đã có nhiều lỗ lực, ưu tiên những nguồn lực ngay từ những năm đầu của quá trình đổi mới mà tiêu biểu nhất là sự ra đời của Chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo được coi là chương trình trọng điểm của Chính phủ và đã được tỉnh Bắc Giang thực hiện triệt để. Tuy nhiên, do xuất phát điểm quá thấp nên mặc dù kinh tế Bắc Giang có tăng trưởng khá trong những năm qua, nhưng Bắc Giang vẫn là một tỉnh nghèo với một tỷ lệ đói nghèo khá cao so với các tỉnh và thành phố khác trong cả nước. Do đó để đạt đươc mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XIV đề ra là: “Giảm tỷ lệ nghèo đói xuống còn 10% vào năm 2000 và tiến tới xoá hẳn tình trạng đói nghèo vào năm 2010”. Quá trình thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ đã đi được một nửa quá trình đó là vào năm 2000 tình trạng đói nghèo của tỉnh đã còn là 9,1% vượt mức nghị quyết đề ra, nhưng còn nửa chặng đường nữa thì vẫn cần sự cố gắng lỗ lực nhiều hơn nữa của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang. Hiện nay, bức tranh toàn cảnh về sự đói nghèo ở Bắc Giang đã sáng sủa hơn, nhưng các nguyên nhân gây ra tình trạng đói nghèo (như thiếu vốn, kinh nghiệm làm ăn...) vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Trong điều kiện hoàn cảnh đó, em đã thực hiện đề tài: “Những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo tỉnh Bắc Giang”, là nhằm phân tích tình trạng đói nghèo ở Bắc Giang về thực trạng và nguyên nhân, từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị cần thiết. Chuyên đề của em đã đạt được kết quả như sau: - Đưa ra được các khái niệm về đói, nghèo; xoá đói, giảm nghèo . - Tổng hợp được kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm được rút ra đối với Việt Nam nói chung và Bắc Giang nói riêng. - Phân tích thực trạng nghèo đói ở Bắc Giang về mức sống, nguyên nhân, so sánh sự đói nghèo theo vùng, dân tộc của tỉnh với cả nước. - Phân tích được hệ thống các giải pháp cần thiết cho công tác xoá đói giảm nghèo ở Bắc Giang. Tài liệu tham khảo. 1. Báo cáo Việt Nam đánh giá sự nghèo đói và chiến lược của Ngân hàng thế giới-1995. 2. Báo cáo chung của nhóm công tác chuyên gia Chính phủ, Nhà tài trợ, Tổ chức phi Chính phủ: Việt Nam tấn công nghèo đói -1999. 3. Vấn đề giảm nghèo trog nền kinh tế thị trường ở Việt Nam của TS. Trần Thị Hằng. 4. Viện chiến lược phát triển -Ban nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội- “Phương hướng, biện pháp và chính sách giải quyết việc làm tăng thu nhập giảm bớt tình trạng nghèo khổ tuyệt đối Việt Nam thời kỳ 1991-2000”. 5. Đại học Kinh tế quốc dân, Khoa Kinh tế Phát triển- Giáo trình Kinh tế phát triển tập I, II. 6. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bắc Giang đến năm 1010. 7. Văn kiện đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XI(1997), XV(2000). 8. Báo cáo tổng kết điều tra khảo sát hộ nghèo tỉnh Bắc Giang các năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. 9. Báo cáo kết quả 6 năm thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo tỉnh Bắc Giang (1993-1998), và chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo (1998-2000). 10. Báo cáo thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo các năm 1999, 2000. 11. Tạp chí Lao động và Xã hội số tháng 4/2001. 12. Dự án phát triển nông thôn tổng hợp giảm nghèo tỉnh Bắc Giang 03/2000. 13. Việt Nam hướng tới năm 2010 của Nhà Xuất kê - 2001. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0041.doc
Tài liệu liên quan