Những giải pháp mở rộng cho vay kinh tế hộ sản xuất ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Nga Sơn

Mở đầu Thực tiễn hơn 10 năm đổi mới kinh tế chúng ta đã khẳng định những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế xã hội. Tốc độ tăng trưởng đạt khá cao, Việt Nam đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế . Đời sống của dân dân ngày càng được cải thiện và đang bước vào thời kỳ mới như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: “Thời kỳ tiếp tục sự nghiệp đổi mới , đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp mở rộng cho vay kinh tế hộ sản xuất ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Nga Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xã hội”. Trong những thành tựu đó có bước phát triển mạnh của sản xuất nông nghiệp. Chúng ta đã áp dựng nhiều tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất đưa sản lượng lương thực, thực phẩm của nước ta không ngừng tăng trưởng. Từ chỗ là nước thiếu lương thực đến nay chúng ta đã trở thành nước thứ hai trên thế giới về xuất khẩu lương thực. Có được kết quả đó là có sự đóng góp đáng kể của kinh tế hộ gia đình. Thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước phát triển kinh tế hộ sản xuất trong đó trọng tâm là hộ nông dân sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Từ định hướng và chính sách về phát triển kinh tế hộ sản xuất đã giúp cho ngành Ngân hàng nói chung, Ngân hàng nông nghiệp nói riêng thí điểm, mở rộng và từng bước hoàn thiện cơ chế cho vay kinh tế hộ sản xuất, đa dạng hoá trong đầu tư. Từ chỗ chỉ cho vay các doanh nghiệp và các hợp tác xã chúng ta đã mở rộng đầu tư cho các hộ, tận dụng các nguồn lực về đất đai, lao động, tài nguyên, mặt nước để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Trong quá trình đầu tư vốn đã khẳng định được hiệu quả của đồng vốn cho vay và khả năng quản lý, sử dụng vốn của các hộ gia đình cho sản xuất kinh doanh mở rộng thêm ngành nghề tăng sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập cho gia đình và hoàn trả được vốn cho Nhà nước. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại trong cơ chế chính sách, hành lang pháp lý và những tác động của cơ chế thị trường do đó còn nhiều hộ sản xuất vẫn chưa được vay vốn hay vay chưa đủ nhu cầu vốn để phát triển kinh tế. Thực hiện Nghị quyết Trung ương VI (lần thứ nhất) khoá VIII: phát triển nông nghiệp nông thôn lên một bước mới. Nhu cầu vốn đòi hỏi rất lớn từ nội lực các gia đình từ ngân sách và từ nguồn vốn tín dụng Ngân hàng. Do đó đòi hỏi phải mở rộng đầu tư vốn cho kinh tế hộ để tận dụng những tiềm năng sẵn có về đất đai, mặt nước, lao động, tài nguyên làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp và nông thôn. Xuất phát từ suy nghĩ và thực tiễn đầu tư vốn của Ngân hàng N0 &PTNT Nga Sơn tôi chọn đề tài: “Những giải pháp mở rộng cho vay kinh tế hộ sản xuất ở Ngân hàng N0&PTNT huyện Nga Sơn ” . Nhằm mục đích tìm ra những giải pháp để mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện và đảm bảo an toàn vốn đầu tư. Tuy nhiên việc thu thập tài liệu và tầm nhìn còn hạn chế, do đó không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được các thầy cô giáo và ban giám đốc Ngân hàng nông nghiệp Nga Sơn giúp đỡ . Chương I Hộ sản xuất và vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế hộ. I - Hộ sản xuất và vai trò của kinh tế hộ đối với nền kinh tế . 1 - Khái quát chung về hộ sản xuất . Hộ sản xuất xác định là một đơn vị kinh tế tự chủ, được Nhà nước giao đất quản lý và sử dụng vào sản xuất kinh doanh và được phép kinh doanh trên một số lĩnh vực nhất định do Nhà nước quy định. Trong quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự: Những hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác do pháp luật quy định, là chủ thể trong các quan hệ dân sự đó. Những hộ gia đình mà đất ở được giao cho hộ cũng là chủ thể trong quan hệ dân sự liên quan đến đất ở đó. 1.1 Đại diện của hộ sản xuất : Chủ hộ là đại diện của hộ sản xuất trong các giao dịch dân sự và lợi ích chung của hộ. Cha mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ. Chủ hộ có thể uỷ quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện của hộ trong quan hệ dân sự. Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ sản xuất xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ sản xuất. 1.2 Tài sản chung của hộ sản xuất : Tài sản chung của hộ sản xuất gồm tài sản do các thành viên cùng nhau tạo lập lên hoặc được tặng , cho chung và các tài sản khác mà các thành viên thoả thuận là tài sản chung của hộ. Quyền sử dụng đất hợp pháp của hộ cũng là tài sản chung của hộ sản xuất. 1.3 Trách nhiệm dân sự của hộ sản xuất: Hộ sản xuất phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh hộ sản xuất. Hộ chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của hộ. Nếu tài sản chung của hộ không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ, thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình . 1.4 Đặc điểm của kinh tế hộ sản xuất : Quy mô sản xuất nhỏ, có sức lao động, có các điều kiện về đất đai, mặt nước nhưng thiếu vốn, thiếu hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, thiếu kiến thức về thị trường nên sản xuất kinh doanh còn mang nặng tính tự cấp, tự túc. Nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước và cơ chế chính sách, về vốn thì kinh tế hộ không thể chuyển sang sản xuất hàng hoá, không thể tiếp cận với cơ chế thị trường . 2 - Vai trò của kinh tế hộ sản xuất đối với nền kinh tế : Kinh tế hộ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội . Là động lực khai thác các tiềm năng, tận dụng các nguồn lực vốn, lao động, tài nguyên, đất đai đưa vào sản xuất làm tăng sản phẩm cho xã hội . Là đối tác cạnh tranh của kinh tế quốc doanh trong quá trình đó để cùng vận động và phát triển. Hiệu quả đó gắn liền với sản xuất, kinh doanh tiết kiện được chi phí, chuyển hướng sản xuất nhanh tạo được quỹ hàng hoá cho tiêu dùng và xuất khẩu tăng thu cho ngân sách nhà nước . Xét về lĩnh vực tài chính tiền tệ thì kinh tế hộ tạo điều kiện mở rộng thị trường vốn , thu hút nhiều nguồn đầu tư. Cùng với các chủ trương , chính sách của Đảng và nhà nước, tao điều kiện cho kinh tế hộ phát triển đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và tạo được nhiều việc làm cho người lao động góp phần ổn định an ninh trật tự xã hội , nâng cao trình độ dân trí , sức khoẻ và đời sống của người dân . Thực hiện mục tiêu “ Dân giầu , nước mạnh xã hội công bằng văn minh “ Kinh tế hộ được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo ra bước phát triển mạnh mẽ , sôi động , sử dụng có hiệu quả hơn đất đai , lao động , tiền vốn , công nghệ và lợi thế sinh thái từng vùng . Kinh tế hộ nông thôn và một bộ phận kinh tế trang trại đang trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu về lương thực , thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông lâm , thuỷ sản , sản xuất các ngành nghề thủ công phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu . 3 - Nhu cầu vốn của hộ sản xuất để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh và mở rộng các ngành nghề khác . 3.1 - Quan điểm và chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế hộ sản xuất. Một trong những thay đổi quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế những năm qua là sự khẳng định chủ trương : “ Phát triển kinh tế nhiều thành phần , vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước “ . Khẳng định sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau như là một tất yếu khách quan trên con đường đi lên của đất nước”. Tất cả mọi người , mọi doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân. Khuyến khích các nhà kinh doanh từ thành phố thị xã về nông thôn lập nghiệp. Kinh tế hộ được xác định là những đơn vị kinh tế tự chủ đã được khuyến khích phát triển theo khả năng về vốn, lao động và đất đai. Thực hiện chính sách xoá bỏ quan hệ bao cấp và áp đặt của nhà nước với nông dân. Thực hiện phân phối theo lao động. Nông dân chỉ có nghiã vụ nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng với các tổ chức kinh tế cung cấp các yếu tố sản xuất cho hộ. sản phẩm còn lại thuộc người sản xuất và có toàn quyền quyết định. Các chủ trương đó được thể hiện rõ ở các Nghị quyết của Đảng bắt đầu từ Chỉ thị 100 của Ban bí thư khoá V được coi là điểm đột phá đề ra giải pháp tình thế chặn đà suy thoái của kinh tế nông nghiệp . Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hộ Đảng lần thứ 6, Nghị quyết 10 của Bộ chính trị ngày 5 tháng 4 năm 1998 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp được đánh giá là bước ngoặt quan trọng của sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta. Từ các chủ trương, quyết sách đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hộ phát triển đặc biệt là kinh tế hộ nông dân và các hộ gia đình làm dịch vụ phục vụ cho nông nghiệp. Tuy vậy sự phát triển của kinh tế hộ cũng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội, còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác, còn nhiều lao động chưa có việc làm , nhiều hộ vẫn lâm vào cảnh nghèo đói. nguyên nhân của những tồn tại đó có nhiều. Có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, cả về chủ trương chính sách và quá trình tổ chức thực hiện các chủ trương , chính sách đó. Trong các nguyên nhân đó có một nguyên nhân không kém phần quan trọng đó là thiếu vốn. Nhiều hộ vì lý do này, hay lý do khác vẫn chưa được vay vốn để phát triển kinh tế , nhiều hộ đã được vay nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình ...Đó là vấn đề cần được nguyên cứu tháo gỡ để kinh tế hộ sản xuất không ngừng phát triển đi lên theo định hướng, chủ trương của Đảng và nhà nước . 3.2 - Thực trạng các hộ sản xuất trước khi có chủ trương của Nhà nước về cho vay kinh tế hộ . Trước khi có chủ trương của nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất, nhìn chung kinh tế hộ gia đình rất khó khăn. Nhất là các hộ nông dân. Một bộ phận vào hợp tác xã làm theo chế độ chấm công lao động, ăn chia theo khẩu. Năng suất lao động thấp , giá trị sản phẩm làm ra không nhiều do đó phần lớn là thiếu đói, không có tích luỹ. Một bộ phận không vào hợp tác xã mà làm ăn cá thể. Do chủ trương chưa được mở ra nên sản xuất kinh doanh theo kiểu nhỏ lẻ, công cụ sản xuất lạc hậu, chất lượng sản phẩm kém. Nhìn chung các hộ thiếu tất cả các điều kiện để tổ chức sản xuất. Chỉ có một đối tượng duy nhất là sức lao động. Khi có chủ trương của nhà nước về phát triển kinh tế hộ, các hộ cá thể được khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Các hộ nông dân được giao đất, giao rừng, mặt nước, được tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Nhưng để khai thác được các tiềm năng ấy phải có vốn, có kiến thức khoa học kỹ thuật và phải am hiểu thị trường, thì mới phát huy được. Thực tiễn mấy năm qua cho thấy nếu không có sự đầu tư của nhà nước, không có vốn tín dụng Ngân hàng đầu tư thì các hộ không thể mở rộng được sản xuất kinh doanh và không mở mang được ngành nghề mới. Do đó để thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế hộ đòi hỏi bên cạnh những chủ trương đúng chúng ta cần phải có cơ chế mở rộng đầu tư vốn cho phát triển kinh tế hộ kết hợp với chuyển giao khoa học kỹ thuật , công nghệ để các hộ sản xuất phát huy quyền tự chủ của mình, tận dụng sức lao động và các tiềm năng sẵn có tạo ra sản phẩm làm giầu cho mình và cho xã hội II-Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế hộ sản xuất. 1 - Khái niệm Ngân hàng thương mại : Là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, Ngân hàng. Hoạt động chủ yếu và thường xuyên của các Ngân hang thương mại là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiến đó để cho vay, đầu tư, và để chiết khấu, làm phương tiện thanh toán. 2-Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế hộ sản xuất - Đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh tế hộ sản xuất mở rộng sản xuất, kinh doanh, mở rộng thêm ngành nghề. Khai thác các tiềm năng về lao động , đất đai , mặt nước và các nguồn lực vào sản xuất. Tăng sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập cho hộ sản xuất. - Tạo điều kiện cho kinh tế hộ sản xuất tiếp cận và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, tiếp cận với cơ chế thị trường và từng bước điều tiết sản xuất phù hợp với tín hiệu của thị trường . - Thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất chuyển từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá, góp phân thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn . - Thúc đẩy các hộ gia đình tính toán, hạch toán trong sản xuất kinh doanh, tính toán lựa chọn đối tượng đầu tư để đạt được hiệu quả cao nhất. Tạo nhiều việc làm cho người lao động. - Hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi trong nông thôn, tìng trạng bán lúa non, ... Kinh tế hộ sản xuất trong nông nghiệp dù họ làm nghề gì cũng có đặc trương phát triển do nền sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp quy định. Như vậy hộ sản xuất kinh doanh trong nền sản xuất hàng hoá không có giới hạn về phương diện kinh tế xã hội mà phụ thuộc rất nhiều vào trình độ sản xuất kinh doanh, khả năng kỹ thuật, quyền làm chủ những tư liệu sản xuất và mức độ vốn đầu tư của mỗi hộ sản xuất. Nên cần phân loại hộ theo những căn cứ thực tiễn để có quyết sách phù hợp kể cả việc đầu tư của ngân sách nhà nước và việc đầu tư của tín dụng Ngân hàng . + Loại hộ sản xuất mà có vốn, có kỹ thuật ( kỹ năng ) lao động biết tiếp cận với môi trường kinh doanh . + Loại hộ có sức lao động, làm việc cần mẫn nhưng trong tay không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất, thiếu vốn. Lại cư trú ở những nơi chưa có môi trường kinh doanh. Loại hộ này chiếm số đông trong xã hội. Loại này cần giúp họ làm quen với nền sản xuất hàng hoá, với tài chính Ngân hàng tạo điều kiện cho họ tiếp tục đi lên. Trước hết cần thực hiện tốt việc giao quyền sử dụng đất, rừng, mặt nước lâu dài cho hộ sản xuất và ban hành chuyển nhượng quyền sử dụng đó. Có sự tài trợ của nhà nước về tài chính, kích thích nền sản xuất hàng hoá. Xây dựng môi trường kinh doanh phát triển lành mạnh. Trong điều kiện nền kinh tế quốc gia. Nhà nước cần có chính sách tài trợ qua thuế. Điều tiết lại cho ngân sách cơ sở ( xã , phường ) để đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ cho kinh tế hộ phát triển. Sử dụng lợi thế đòn bẩy tín dụng để đầu tư kích thích chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ sản xuất tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá đem lại hiệu quả kinh tế cao. + Loại thứ 3: là những người không có sức lao động, hoặc không tích cực lao động đang tồn tại trong xã hội. Trong quá trình sản xuất hàng hoá sẽ có sự phá sản của các nhà sản xuất kinh doanh. Do đó sẽ diễn ra quá trình chuyển hoá thường xuyên giữa các hộ bổ sung vào đội quân lao động dư thừa. phương pháp giải quyết loại này là các quỹ tài trợ nhân đạo, quỹ hộ vay xoá đói giảm nghèo. Không những giúp họ về vốn mà còn giúp họ về phương diện kỹ thuật , đào tạo tay nghề để họ thoát khỏi cảnh nghèo. Một trong những biện pháp tác động có hiệu quả nhất đối với loại này đó là tín dụng ưu đãi hộ nghèo . III - Những quy định chung về cho vay hộ sản xuất . 1- Nguyên tắc vay vốn : - Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng . - Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. - Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện quy định của chính phủ, thống đốc Ngân hàng nhà nước . 2 - Điều kiện vay vốn : - Phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật cụ thể là: + Hộ thường trú tại địa bàn nơi chi nhánh Ngân hàng đóng trụ sở. Trường hợp hộ chỉ có đăng ký tạm trú thì phải có xác nhận hộ khẩu của nơi thường trú và có xác nhận của UBND xã phường nơi đến cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh. + Đại diện hộ gia đình để giao dịch với Ngân hàng là chủ hộ hoặc người đại diện của chủ hộ. Người đại diện phải có đủ năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự . + Đối với h0ộ nông dân (Nông, lâm, ngư, diêm) được cơ quan có thẩm quyền cho thuê, giao quyền sử dụng đất, mặt nước . + Đối với hộ đánh bắt hải sản phải có phương tiện đánh bắt và được cục bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản cho phép . + Đối với hộ gia đình, cá nhân kinh doanh: Được cơ quan thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh . + Đối với hộ làm kinh tế gia đình, hộ khác được UBND xã ( phường) xác nhận cho phép sản xuất, kinh doanh hoặc làm kinh tế gia đình . - Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết . - Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp . - Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi , có hiệu quả . - Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước . 3 - Đối tượng vay vốn . - Giá trị vật tư hàng hoá, máy móc thiết bị và các khoản chi phí để khách hàng thực hiện các dự án hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống và đầu tư phát triển . - Số lãi tiền vay trả cho Ngân hàng trong thời hạn thi công, chưa nghiệm thu, bàn giao và đưa tài sản cố định vào sử dụng mà khoản trả lãi được tính trong giá trị tài sản cố định đó . 4 - Các biện pháp đảm bảo tiền vay : Đảm bảo tiền vay là một trong những nguyên tắc tín dụng nói chung và tín dụng kinh tế hộ nói riêng. Thực hiện đảm bảo tiền vay nhằm mục đích bảo đảm an toàn đồng vốn Ngân hàng đầu tư ra cho nền kinh tế, cho khách hàng. Đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng để Ngân hàng có thể tiếp tục đầu tư và phát triển. Mặt khác thực hiện đảm bảo tiền vay còn là động lực để thức đẩy khách hàng chấp hành tốt hợp đồng tín dụng, chấp hành những nguyên tắc, kỷ luật tín dụng, thực hiện hạch toán trong kinh doanh, tìm biện pháp, đối tượng để đầu tư vốn đem lại hiệu quả kinh tế cao, làm sao có nguồn trả nợ Ngân hàng đúng hạn cả gốc và lãi và có thu nhập cho mình (hộ gia đình) cho doanh nghiệp. Có nhiều hình thức đảo bảo tiền vay nhưng đối với cho vay kinh tế hộ gia đình chủ yếu làm với ba hình thức chính đó là: + Thế chấp . + Cầm cố . + Bảo lãnh . Theo văn bản 1700/NHN0-03 ngày 14 tháng 11 năm 1996 của Tổng giám đốc Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam về việc thực hiện thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vốn trong hệ thống Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam. Các nội dung có thể hiện rõ 4.1 - Thế chấp tài sản vay vốn Ngân hàng : Là việc bên vay vốn (bên thế chấp) dùng tài sản là bất động sản là sở hữu hợp pháp của mình (tài sản thế chấp) để đảm bảo cho khoản nợ vay gồm gốc, lãi, tiền phạt (nếu có) đối với Ngân hàng (bên nhận thế chấp ). - Tài sản dùng để thế chấp : ơ. Các loại đất + Các loại đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được nhận làm tài sản thế chấp cụ thể : . Đất dùng để ở trong nội thành, nội thị của các thành phố, thị xã, đất ở của các chủ trang trại kinh doanh ở nông thôn. . Đất dùng sản xuất nông nghiệp, đất trồng rừng kinh doanh, đất trồng cây công nghiệp, đất làm sân muối, ao hồ, bãi triều, đầm phá từ 0,5 ha trở lên cho một hộ và nằm trong vùng quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản, hải sản . + Các loại đất không nhận làm tài sản thế chấp gồm : .Đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp . Đất sử dung vào mục đích công cộng , lợi ích quốc gia . . Đất sử dụng vào mục đích quốc phòng , an ninh . . Đất trong diện quy hoạch của nhà nước . . Đất đang tranh chấp . ư - Các công trình xây dựng, tài sản trên diện tích đất thế chấp phù hợp với mục đích sử dụng đất ( giá trị được tính gồm giá trị quyền sử dụng đất và giá trị công trình đã xây dựng trên đất ) gồm : - Nhà ở của các doanh nghiệp , các chủ trang trại ở nông thôn có giá trị từ 100 triệu VNĐ trở lên . - Nhà ở của nhân dân ở khu vực đô thị, thị xã, trị trấn có giá trị từ 50 triệu VNĐ trở lên . - Nhà xưởng, nhà kho, bến bãi, dây chuyền thiết bị công nghệ , nhà hàng, khách sạn, công trình xây dựng phục vụ sản xuất kinh doanh khác... Nằm trong quy hoạch xây dựng và phát triển sản xuất kinh doanh của nhà nước có giá trị 500 triệu VNĐ trở lên . - Đập nước, kè cống, đường giao thông nội bộ trong khu vực đất thế chấp thuộc quyền sở hữu của người vay có giá trị còn lại từ 100 triệu đồng trở lên và còn có giá trị sử dụng từ 50% trở lên - Vườn cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm, rừng cây kinh doanh trên đất lâm nghiệp trong vùng quy hoạch của nhà nước - Các công trình xây dụng, tài sản trên diện tích đất được nhà nước cho thuê theo quy định của luật đất đai . * Thổ cư và nhà ở của hộ gia đình ở khu vực nông thôn chưa nhận làm tài sản thế chấp 4.2- Cầm cố tài sản : Cầm cố tài sản vay vốn Ngân hàng là việc bên vay vốn (bên cầm cố) giao tài sản là động sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình (tài sản cầm cố) cho Ngân hàng để đảm bảo khoản nợ vay bao gồm : gốc, lãi và tiền phạt (nếu có) . * Những tài sản được cầm cố : - Vàng , đá quý . - Các chứng chỉ có giá đang trong thời hạn thanh toán do chính phủ, kho bạc nhà nước, Ngân hàng phát hành gồm: trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm , thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi ... - Máy mốc thiết bị , dây chuyền sản xuất , tàu thuyền đánh cá , thiết bị khai thác thuỷ , hải sản như ngư lưới cụ, máy thuỷ , thiết bị đông lạnh ... - Phương tiện vận tải như : xe đạp , xe gắn máy , xe ô tô , tàu thuyền ... - Các loại tài sản khác như ti vi , tủ lạnh , đầu VIDEO . - Các loại tài sản là máy mốc thiết bị , phương tiện giao thông ... phải có giá trị tối thiểu tại thời điểm cầm cố từ 1 triệu đồng trở lên và giá trị sử dụng còn 50 % trở lên . 4.3 - Bảo lãnh vay vốn Ngân hàng . Bảo lãnh vay vốn Ngân hàng là : Hành vi mà pháp nhân hoặc cá nhân thứ 3 ( bên bảo lãnh ) dùng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình để thế chấp hoặc cầm cố đối với Ngân hàng để đảm bảo cho khoản nợ vay bao gồm gốc ,lãi và tiền phạt ( nếu có ) cho bên vay vốn . - Đối với kinh tế hộ gia đình thì hình thức bảo lãnh phổ biến là bảo lãnh của các tổ chức chính trị xã hội và chính quyền địa phương bảo lãnh cho các thành viên của tổ chức mình được vay vốn Ngân hàng . Nhưng đây không phải là các tổ chức chính trị xã hội dùng tài sản để thế chấp , cầm cố thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà bảo lãnh ở đây là bảo lãnh trách nhiệm và hình thức cho vay này gọi là cho vay tín chấp . Hiện nay Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đang áp dụng mức cho vay tín chấp đối với hộ gia đình là 10 triệu đồng trở xuống , không cần thế chấp tài sản còn lại các hộ vay vốn từ trên 10 triệu đồng đều phải thực hiện thế chấp , cầm cố tài sản . Thế nhưng thực tế đang diễn ra trái ngược với cơ chế là đối với các hộ gia đình ở khu vực nông thôn tài sản của họ rất hạn chế , phần lớn chỉ có nhà và đất ở là tài sản có thể dùng để thế chấp được . Nhưng theo văn bản 1700/ NHN0 - 03 thì nhà và đất ở của các hộ gia đình ở khu vực nông thôn chưa nhận làm tài sản thế chấp đang là khó khăn cho hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp nói riêng và các Ngân hàng thương mại ở khu vực nông thôn nói chung . Cùng với các giải pháp của nhà nước , sự quan tâm của cấp uỷ , chính quyền các cấp đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện , nhu cầu phát triển sản xuất ngày càng mở rộng do đó nhu cầu vốn ngày càng cao mới đáng ứng được nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy Quyết định 67/ CP đã mở rộng mức vay tín chấp từ 10 triệu đồng trở xuống nhưng nhiều Hộ sản xuất không đủ nhu cầu để đầu tư cho sản xuất kinh doanh của mình , tài sản để cầm cố không có , tài sản thế chấp thì chủ yếu là nhà và đất ở nếu không được thế chấp thì đây là những khó khăn bức xúc cần phải tháo gỡ cho các hộ sản xuất và tạo điều kiện để các Ngân hàng thực hiện mở rộng đầu tư kinh tế hộ gia đình , thực hiện mục tiêu của Đảng và nhà nước về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn cho vay cho thấy cơ chế hiện nay vẫn còn nhiều bất cập như quy định về thế chấp , cầm cố, bảo lãnh vay vốn, cách xử lý tài sản thế chấp giải quyết như thế nào ? đấu mối với các ngành ra sao ?, sự không đồng bộ ở các văn bản dưới luật đã làm cho hành hanh pháp lý do hoạt động Ngân hàng vẫn còn khó khăn , chưa mở ra được , việc cho vay tín chấp người vay không trả được thì các tổ chức đoàn thể chịu đến đâu ? thực tế họ chỉ chịu trách nhiệm còn rủi ro , tổn thất vẫn là Ngân hàng phải chịu . Nếu không có những giải pháp để tháo gỡ thì Ngân hàng không thể mở rộng đầu tư vốn cho kinh tế hộ . Chương II Thực trạng về cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá I - Khái quát chung tình hình kinh tế huyện Nga Sơn . Nga sơn nằm ở phía đống bắc tỉnh Thanh Hoá, được bao bọc bởi sông và biển phía bắc là sông Càn, phía tây là sông Hoạt , phía nam là sông Lèn , phía đông là biển . 1. Một số nét về điều kiện tự nhiên và xã hội: Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện : 14.495,5 ha . Trong đó: - Tổng diện tích canh tác : 8367 ha . - Tổng diện tích gieo trồng : 16.845 ha . Trong đó : + Diện tích trồng cói : 2.330,2 ha . + Diện tích trồng lúa : 8.667,3 ha . + Diện tích trồng màu : 1.740,7 ha . + Diện tích trồng lạc : 1.163,7 ha + Diện tích trồng đay : 166,9 ha . + Diện tích cây khác : 2.776,2 ha . * Ngành nghề sản xuất chính : Chủ yếu là hàng thủ công cói , đay xuất khẩu với lợi thế của huyện Nga Sơn là có diện tích cói lớn , hàng năm được bồi đắp thêm của thuỷ triều do đó diện tích cói của Nga Sơn không ngừng được mở rộng, có thể nói về sản lượng cói ở Nga Sơn là huyện có sản lượng lớn nhất nước. Hàng năm có từ 21-23 ngàn tấn cói nguyên liệu. Người dân Nga Sơn có nghề truyền thống làm thủ công chiếu cói từ lâu đời, có tay nghề cao, sản phẩm thủ công được thị trường trong nước và thế giới ưa chuộng nhất là chiếu, thảm và làn, túi xách cói ... trong những năm 1980 về trước hàng thủ công chiếu cói Nga Sơn được nhập cho các nước Đông âu. Từ sau năm 1980 đến 1990 các nước Đông âu sụp đổ, hàng thủ công Nga Sơn lâm vào bế tắc, không có nơi tiêu thụ, thị trường còn lại là nội địa với mức tiêu thụ hàng năm ít do đó nghề chiếu cói Nga Sơn lâm vào khó khăn, đời sống của người dân giảm sút, tình trạng thiếu đói, không có việc làm kéo dài. Mãi từ 1993 đến nay mở ra thị trường Trung quốc, tuy thị trường và giá cả không ổn định (XK tiểu ngạch) nhưng cũng đã vực dậy được nghề thủ công chiếu cói Nga Sơn đi vào sản xuất ổn định , khôi phục lại các làng nghề truyền thống và đòi hỏi nhu cầu vốn đầu tư lớn từ khâu sản xuất nguyên liệu, sản xuất chế biến thành phẩm , tiêu thụ sản phẩm . Bên cạnh nghề thủ công cói đay thì các ngành nghề khác cũng song song tồn tại và phát triển. Như sản xuất nông nghiệp với sản lượng thóc đạt hàng năm là trên dưới 40 ngàn tấn, chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản và dịch vụ thương mại. Vơi các ngành nghề đó làm đa dạng thêm cho nền kinh tế huyện Nga Sơn. Là điều kiện để Ngân hàng đa dạng hoá các đối tượng cho vay . * Nếu xét cơ cấu theo thành phần kinh tế . Kinh tế quốc doanh chỉ còn lại hai đơn vị: Đó là công Ty thủy nông và công ty thương mại . Doanh nghiệp tư nhân có hai doanh nghiệp. Còn lại chủ yếu là phát triển kinh tế hộ gia đình. Với hơn 32 nghìn hộ được phân bố đều ở các ngành sản xuất đang tận dụng các nguồn lực có sẵn đầu tư vào sản xuất kinh doanh tăng sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập cho gia đình và góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế huyện, làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp và nông thôn . * Tổng dân số trong toàn huyện 142.273 người . Tổng sô lao động : 58.493 lao động . Trong đó : + Lao động nông nghiệp 35.438 + Lao động ngư nhiệp : 1.520 + Lao động tiểu thủ công nghiệp : 16.563 + Lao động dịch vụ thương mại : 2.152. + Lao động làm nghề khác : 820 + Lao động thiếu việc làm : 2.000 ( Theo số lệu điều tra của phòng thống kế huyện đến tháng 10 năm 1996 ) . 2. Mục tiêu phát triển kinh tê huyện Nga sơn đến năm 2000. 2.1 - Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản đã đạt được : Trong 3 năm 1997 - 1998 - 1999 TT Năm chỉ tiêu đơn vị tính 1997 1998 1999 99 so với 97 99 so với 98 1 Tốc độ tăng trưởng kinh tế % 7 9 10 +3 +1 2 Giá trị sản lượng sản xuất Triệu đồng 297.400 449.850 650.500 + 353.100 + 200.650 3 Kim nghạch xuất khẩu USD 2.000.000 2.630.000 3.000.000 +1.000.000 +370.000 4 Sản lượng lương thực quy thóc tấn 37.667 41.603 42.300 +4.663 +697 5 Sản lượng cói tấn 21.624 20.206 20.106 -1.518 -100 6 sản lượng lạc vỏ tấn 861 1.740 1.860 +1.199 +120 7 Thịt lợn hơi tấn 2.849 2.850 2.860 +11 +10 8 Thuỷ sản tấn 1.464 1.845 1.895 +431 +50 9 Thu ngân sách triệu 3.430 6.295 8.145 +4.715 +1.850 (Báo cáo kết quả chỉ đạo thực hiện các mục tiêu kinh tế XH 1997, 1998 và 1999) Thu nhập bình quân đầu người: Năm 1997:1.500.000 đồng/người/năm đến năm 1999 : 2.300.000/người/năm . Sản lượng lương thực bình quân đầu người : năm 1997 : 260 kg/người/năm đến năm 1999 : 300 kg/ người/năm . Qua số liệu trên thể hiện tốc độ phát triển kinh tế trên địa bàn huyện các năm qua có tốc độ phát triển nhanh, nhưng do do xuất phát điểm ban đầu thấp do đó mặc dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 3 năm là trên 8,6% nhưng thu nhập bình quân đầu người chỉ tăng từ 1.500.000 đ/ người/ năm 1997 lên 2.300.000đ/ người/ năm 1999. Thể hiện tốc độ tích luỹ của người dân trong huyện còn thấp, Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng ở các năm sau đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư lớn thì mới giữ được nhịp độ tăng trưởng và phát triển . 2.2 - Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội huyện Nga Sơn đến năm 2000 . 2.2.1 - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế : Với mục tiêu phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp với sản xuất lương thực là trọng tâm, công nghiệp chế biến nông sản , thuỷ sản là mũi nhọn theo hướng công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn . Phát triển công nghiệp trước hết là chế biến nông sản thực phẩm, hàng tiêu dùng xuất khẩu, vật liệu xây dựng, chọn lọc phát triển một số ngành công nghiệp khác có nhu cầu bức bách, có điều kiện về vốn, tài nguyên mà thị trường để tạo ra tốc độ tăng trưởng, tích luỹ cao . Mở mang ngành nghề khắp mọi nơi , tạo ra mặt hàng phong phú đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và tham gia xuất khảu giải quyết phần lớn lao động trong nông nghiệp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững . Đến năm 2000 có cơ cấu kinh tế 4+3+3( nông nghiệp chiếm 40 % ; công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 30 %; thương mại dịch vụ chiếm 30 % ) . 2.2.2 - Các chỉ tiêu chủ yếu cần đạt được : Chỉ tiêu Chỉ tiêu Mục tiêu đến năm 2000 - Lương thực - Sản lượng cói - Chăn nuôi + Trâu bò + đàn lợn ( lợn hơi) + đàn dê + Gia cầm -Nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản - D.vụ thương mại: Doanh thu - Tiểu thủ công nghiệp 43.500 tấn/năm 25.000 tấn 10.000 con 3.100 tấn 3.000 con 500.000 con 2.500 tấn 100.000 triệu 40.000 triệu (Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội huyện Nga Sơn 1996-2000) Qua các chỉ tiêu về mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2000 , để đạt được các m._.ục tiêu đó đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn. Kể cả vốn ngân sách nhà nước, vốn nội lực của các hộ sản xuất và vốn tín dụng Ngân hàng. Tính đến thời điểm 31 tháng 12 năm 1999 tổng các nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế huyện là : 57,6 tỷ . Trong đó : + Vốn tín dụng Ngân hàng : 49 tỷ . + Vốn quỹ tín dụng nhân dân : 2,5 tỷ + Vốn 120, 327 của kho bạc : 3,5 tỷ + Vốn của hội nông dân , phụ nữ, Cựu chiến binh : 0,5 tỷ + Vốn đầu tư đánh cá xa bờ : 2,1 tỷ . Trong các nguồn vốn trên thì nguồn đầu tư cơ bản vẫn là nguồn vốn tín dụng Ngân hàng ( Nguồn vốn ngân sách chỉ đầu tư cơ sở hạ tầng như giao thông, thuỷ lợi ... ) . Để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2000 thì ngoài vốn nội lực của các hộ sản xuất, vốn của các doanh nghiệp thì nguồn vốn có tác động quan trọng đó là vốn tín dụng Ngân hàng đây là nguồn vốn đầu tư thường xuyên và tương đối ổn định. Cần có biện pháp tháo gỡ để mở rộng đầu tư từ nguồn vốn tín dụng cho phát triển kinh tế huyện. Các nguồn vốn khác cũng quan trọng nhưng khả năng tăng trưởng rất khó, không đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế huyện mà chỉ mang tính chất hỗ trợ , bổ sung . II/ Thực tiễn huy động vốn và cho vay trong 3 năm của NHNo Nga sơn: 1 - Đặc điểm kinh tế hộ gia đình huyện Nga Sơn . 1.1- Tổng số hộ trong toàn huyện : 32.185 hộ Trong đó : + Hộ sản xuất nông , lâm , ngư nghiệp 21.923 hộ = 68 % . + Hộ tiểu thủ công nghiệp 8.347 hộ = 26 % . + Hộ kinh doanh thương mại , dịch vụ : 1.372 hộ = 4,2 % . + Hộ làm nghề khác : 543 hộ = 1,8 % . Phần lớn các hộ gia đình trong huyện là sản hộ sản xuất nông nghiệp , ngư nghiệp chiếm 68 % số hộ trong toàn huyện, số hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp chiếm 26% tổng số hộ. Hai lực lượng hộ này đã chiếm 94% số hộ trong toàn huyện. Điều đó cho thấy tiềm năng kinh tế của các hộ gia đình ở huỵên Nga Sơn nghèo, mức độ tích luỹ thấp do sản xuất nông nghiệp chậm được đổi mới, mức độ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất chậm, thu nhập của người dân thấp nên dẫn đến tích luỹ vốn ít . 1.2 - Đặc điểm kinh tế hộ sản xuất Có nhiều cách phân loại hộ sản xuất. Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau người ta có kết quả phân loại khác nhau và tuỳ theo yêu cầu của mục đích nghiên cứu người ta đưa ra các tiêu chí điều tra khác nhau. Đứng trên góc độ kinh tế người ta phân loại hộ giầu, hộ tư bản, hộ nghèo để có các chính sách kinh tế phù hợp với từng loại hộ. Giầu nghèo là một phạm trù kinh tế - xã hội biểu hiện kết quả tổng hợp lâu dài các mối quan hệ kinh tế trong không gian và thời gian nhất định. Trong đó các nhân tố về điều kiện sản xuất, đời sống, quan hệ xã hội, môi trường, chính sách quản lý thường xuyên tác động, đan xen với nhau, phản ánh mức đạt được về của cải vật chất và tinh thần của hộ gia đình và các thành viên thông qua quá trình phân phối và tích luỹ thu nhập trong thời gian và không gian nhất định. Có rất nhiều chỉ tiêu thống kế có thể làm cơ sở để xác định giầu nghèo. Trong điều kiện Việt nam hiện nay tổng cục thống kê đưa ra 2 tiêu thức chủ yếu làm căn cứ đánh giá giầu nghèo của hộ gia đình như sau: - Thu nhập bình quân đầu người một tháng trong năm. - Trị giá tài sản hiện có bình quân đầu người. Với 2 tiêu thức này ở huyện Nga Sơn đánh giá : * Hộ giầu là những hộ thoả mãn 2 điều kiện sau đây: + Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng trong năm đạt: 200.000 đồng trở lên. + Giá trị tài sản hiện có bình quân đầu người từ 20 triệu đồng trở lên. * Hộ trung bình (khá) : + Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng trong năm đạt: 80.000 đồng đến dưới 200.000 đồng. + Giá trị tài sản hiện có bình quân đầu người từ 5 triệu đồng đến dưới 20 triệu. * Hộ nghèo là những hộ: + Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng trong năm đạt: 60.000 đồng đến dưới 80.000 đồng. + Giá trị tài sản hiện có bình quân đầu người từ 1 triệu đồng đến dưới 5 triệu. * Hộ đói là những hộ: + Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng trong năm đạt: dưới 60.000 đồng. + Giá trị tài sản hiện có bình quân đầu người dưới 1 triệu đồng. Với các tiêu thức này kết quả phân loại hộ gia đình ở huyện Nga Sơn như sau: Tổng số hộ trong toàn huyện : 32.185 hộ . trong đó : + Hộ giầu ( khá ) 945 hộ = 2,93 % . + Hộ trung bình 24.858 hộ = 77,2 % . + Hộ nghèo 4.148 hộ = 12,8 % . + Hộ đói 2.234 hộ = 7,07 % . ( Số liệu phòng thống kê huyện điều tra năm 1996 ) . Tỷ lệ đói nghèo chiếm 20 % tổng số hộ trong toàn huyện . Trong khi đó số hộ giầu chỉ chiếm 2,93%.Số hộ trung bình chiếm 77,2%. Số hộ có nhu cầu vay vốn thường xuyên chiếm 90 % tổng số hộ trong toàn huyện (gồm hộ trung bình và hộ nghèo). Đây là nhu cầu tiềm tàng về vốn cần được xem xét giải quyết đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh của các hộ gia đình. Đòi hỏi cần phải cân đối các nguồn vốn để đầu tư đáp ứng các nhu cầu đó . 2- Giới thiệu tổng quát về hoạt động của Ngân hàng nông nghiệpvà PTNT huyện Nga Sơn . 2.1 - Quá trình hình thành và phát triển của NHNo Nga sơn: - Ngân hàng nông nghiệp và PTNT huỵên Nga Sơn là một đơn vị trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp và PTNT tỉnh Thanh Hoá. Nằm trong hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và PTNT Việt nam. Được thành lập theo quyết định số 603 NH-QĐ ngày 22 tháng 12 năm 1990 của Ngân hàng nông nghiệp Việt nam. Mô hình tổ chức : Có 2 phòng và 1 tổ . + Phòng kế hoạch kinh doanh. + Phòng kế toán ngân quỹ . + Tổ hành chính nhân sự. - Địa bàn hoạt động : Huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá . Tổng số xã trong huyện : 27 xã với hơn 32.000 hộ gia đình . Dân số 142.273 người. Cự ly xã xa nhất so với trung tâm huyện là 30 Km. - Mạng lưới hoạt động: Gồm 1 trụ sở chính và 2 Ngân hàng loại 4. Trụ sở chính đóng tại trung tâm thị trấn huỵên. Ngân hàng loại 4 Điền Hộ: Phục vụ huy động vốn, cho vay tại 6 xã phía đông bắc huyện. Ngân hàng loại 4 Tư Sy: Phục vụ huy động vốn, cho vay tại 6 xã phía nam huyện . 2.2- Nguồn nhân lực: - Tổng lao động đến 31 tháng 12 năm 1999 gồm: 40 cán bộ Trong đó: + Số lao động nam 20 đồng chí lao động nữ 20 đ/c + Số cán bộ có trình độ Đại học 10 đồng chí. + Số cán bộ có trình độ Trung học 28 đồng chí. + Số cán bộ có trình độ sơ cấp 02 đồng chí . - Phân bố nguồn nhân lực ở các phòng , tổ như sau: + Ban giám đốc: 4 đồng chí ( 1giám đốc, 3 phó giám đốc) + Phòng kế hoạch kinh doanh 21 đồng chí. + Phòng kế toán ngân quỹ 11 đồng chí. + Tổ hành chính nhân sự 4 đồng chí. 2.3- Hoạt động kinh doanh chính: NHNo & PTNT Nga sơn hoạt động trên địa bàn một huyện nông nghiệp, kinh tế hàng hoá phát triển chưa mạnh, các DNNN, tổ chức kinh tế chính trị - xã hội không nhiều. Do đó hoạt động của Ngân hàng Nga Sơn chủ yếu là kinh doanh tín dụng và thực tế hoạt động đã chứng minh điêù đó 98% tổng thu là thu từ dịch vụ tín dụng . Đối tác của Ngân hàng Nga Sơn chủ yếu là các hộ gia đình. Các hoạt động về dịch vụ tiền tệ cũng được mở ra nhưng doanh số còn thấp, doanh thu mới chiếm khoản hơn 2% tổng thu nhập của Ngân hàng nông nghiệp Nga Sơn . 3 - Tình hình huy động vốn và cho vay hộ gia đình tại Ngân hàng nông nghiệp Nga Sơn . 3.1- Phương pháp, kết quả huy động vốn : 3.1.1 Phương pháp huy động vốn: Xác định Ngân hàng thương mại là phải “ Đi vay để cho vay “ do đó không thể trông chờ vào nguồn vốn cấp trên mà phải tìm mọi biện pháp để khai thác nguồn vốn , đảm bảo hoạt động của mình. Thực hiện đa dạng hoá công tác huy động vốn, cả về hình thức lãi suất huy động. Kết hợp giữa huy động vốn trong địa bàn huyện với huy động ngoài địa bàn huyện. Sử dụng các hình thức huy động vốn như: Tiền gửi tiết kiệm các loại , kỳ phiếu các loại , với thời hạn và mức lãi suất khác nhau. Vận động mở tài khoản tư nhân và thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng. Vay các tổ chức tín dụng khác. Với phương chân tập trung khai thác nguồn vốn trên địa bàn huyện là chủ yếu. Trong khi nguồn vốn trong địa bàn chưa đủ đáp ứng nhu cầu vay vốn, thì vươn ra khai thác nguồn vốn bên ngoào địa bàn để bù đắp. Song đây chỉ là những giải pháp tình thế để giải quyết những khó khăn trước mắt . 3.1.2 - Kết quả huy động vốn Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn huy động qua các năm Đơn vị : 1.000.000 đồng TT Năm chỉ tiêu 1997 1998 1999 99 so với 97 99 so với 97 I Nguồn vốn nội tệ 22.118 35.197 37.205 +13.079 15.087 + Vốn trong địa bàn huyện 12.118 14.197 21.205 +2.079 +9.087 + Vốn ngoài địa bàn huyện 10.000 21.000 16.000 +11.000 +6.000 II Nguồn vốn ngoại tệ 39.788 58.488 60.528 +18.700 +20.740 + Vốn trong địa bàn huyện 39.788 58.488 60.528 +18.700 +20.740 + Vốn ngoài địa bàn huyện 0 0 0 (Số liệu báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 1997,1998 và năm 1999) Mức tăng trưởng nguồn vốn trong 3 năm đạt 57,87% bình quân mỗi năm tăng 19,29 % nhưng trong đó vốn tăng trưởng trong địa bàn trong 3 năm đạt 57,5 % bình quân năm đạt 19,17 % còn lại chủ yếu là huy động nguồn vốn bên ngoài địa bàn với hình thức là bán kỳ phiếu ra thị trường vốn Hà Nội . Tính đến 31 tháng 12 năm 1999 tỷ lệ vốn huy động vốn ngoài địa bàn chiếm 43 % tổng nguồn vốn huy động nội tệ . Điều này cho thấy việc tăng trưởng nguồn vốn nội tệ trong 3 năm qua tại Ngân hàng Nga Sơn là không vững chắc . Đây là vấn đề đơn vị cần xem xét vì nếu không khai thác được nguồn vốn trong địa bàn không phát huy được nội lực sẽ không chủ động trong việc mở rông tín dụng . Nguyên nhân huy động vốn trong địa bàn còn hạn chế một mặt do thu nhập dân cư chưa cao kinh tế của các hộ gia đình còn hạn chế , tích luỹ trong dân còn thấp nên tiềm năng nguồn vốn nhàn rỗi còn hạn chế. Mặt khác mục đích gửi tiền của người dân là lãi suất chứ không phải là "giữ tiền" do đó nên lãi suất thấp như hiện nay thì việc huy động vốn lại càng khó khăn hơn. Bên cạnh đó về phía Ngân hàng chưa có các biện pháp tuyên truyền, tiếp thị hợp lý do đó chưa làm cho người dân hiểu và tiếp cận, sử dụng các hình thức gửi tiền. Phong cách thái độ phục vụ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, nhiều người vẫn còn mặc cảm gửi vào Ngân hàng thì dễ nhưng lấy ra rất khó do đó họ không gửi. Việc tuyên truyền, vận động mở tài khoản tiền gửi tư nhân và thanh toán không dùng tiền mặt chưa làm được nhiều do đó cũng hạn chế kết quả huy động vốn. Các hình thức huy động vốn còn đơn điệu, ít hấp dẫn khách hàng 3.2 Phương pháp, kết quả đầu tư vốn: 3.2.1 Phương pháp đầu tư vốn: Ngân hàng đã kết hợp với chính quyền địa phương phân loại hộ sản xuất. Căn cứ vào kết quả phân loại này để có định hướng đầu tư đối với các hộ nghèo thiếu vốn, kết hợp với chính quyền địa phương và các đoàn thể xây dựng các tổ tương trợ vay vốn và đầu tư bằng nguồn vốn của Ngân hàng người nghèo. Đối với những hộ có nhu cầu vốn thấp, sản xuất mang tính tự cấp, tự túc là chủ yếu,tỷ trọng SX hàng hoá thấp ngân hàng đã kết hợp với chính quyền địa phương hướng dẫn các đoàn thể quần chúng xây dựng các tổ liên doanh vay vốn, trên cơ sở tự nguyện và cùng chịu trách nhiệm liên đới. Tổ trưởng là người thực hiện một số khâu trong quy trình cho vay kinh tế hộ gia đình. Căn cứ vào hợp đồng dịch vụ đã ký kết giữa Ngân hàng nông nghiệp Nga Sơn và tổ trưởng. Đối với những hộ có khả năng quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh thì hướng dẫn họ xây dựng các dự án để thực hiện đầu tư theo dự án, sát với định hướng phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn . Hiện nay Ngân hàng Nga Sơn đang áp dụng hai phương pháp cho vay đó là cho vay trực tiếp và cho vay gián tiếp thông qua các tổ nhóm liên doanh với hình thức uỷ quyền bán phần cho các tổ chức đoàn thể: a- Cho vay gián tiếp thông qua tổ nhóm liên doanh. - áp dụng đối với những hộ sản xuất nông lâm, ngư nghiệp cùng phát sinh nhu cầu vào một thời điểm để đầu tư các chi phí giống, phân bón, công lao động và các chi phí sản xuất khác. Có nhu cầu vốn thấp từ 2,5 triệu đồng trở xuống. - Hình thức cho vay: Cho vay tín chấp thông qua sự giới thiệu bảo lãnh của các tổ chức đoàn thể . a.1- Những điều kiện cần thiết để thực hiện quy trình cho vay: + Cho vay qua tổ nhóm liên doanh được thực hiện thông qua các tổ chức đoàn thể xã và các chi hội trực thuộc. Các tổ vay vốn phải được thành lập trên cơ sở tự nguyện, có sự hướng dẫn của các cấp hội. Được chính quyền địa phương công nhận và cho phép hoạt động. Được đặt quan hệ vay vốn Ngân hàng khi các thành viên có nhu cầu vay vốn cho sản xuất kinh doanh. + Tổ vay vốn phải có quy chế hoạt động và người đứng đầu là tổ trưởng hoặc tổ phó thay mặt khi tổ trưởng đi vắng . + Các thành viên trong tổ khi cần vay vốn phải có các điều kiện sau : Là người có hộ khẩu thường trú tại địa phương, tham gia sinh hoạt tại các chi hội sở tại. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Có phương án sản xuất kinh doanh thực sự được chính quyền địa phương xác nhận. Là người đã thành lập gia đình, hoạc làm chủ gia đình. Có tài sản độc lập là nhà, đất ở, có ruộng canh tác, siêng năng cần cù trong lao động sản xuất . Không mắc bệnh tâm thần, không mắc các tệ nạn xã hội . Các thành viên vay vốn phải là người không có nợ dây dưa với tập thể và nhà nước, có quan hệ vay vốn Ngân hàng sòng phẳng . Không có nợ Ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác đến ngày xin vay. Có nhu cầu vay từ 2,5 triệu đồng trở xuống . + Mỗi tổ vay vốn không vượt quá 30 thành viên. + Người đứng tên nhận nơ với Ngân hàng là từng tổ viên . Tổ trưởng là người đứng tên trên hợp đồng uỷ thác chịu trách nhiệm thực hiện các công việc mà Ngân hàng uỷ quyền trong hợp đồng. Chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát tình hình sử dụng vốn vay của các tổ viên, đôn đốc thu lãi hàng tháng và đôn đốc tổ viên trả nợ khi đến hạn . Cùng với Ngân hàng xử lý nợ quá hạn ( nếu có) a.2- Quy trình cho vay: - Thủ tục lập hồ sơ xin vay vốn . + Các thành viên của tổ có nhu cầy vay vốn phải viết đơn xin vay kiêm phương án sản xuất kinh doanh, nêu rõ mục đích sử dụng vốn, số tiền xin vay và thời hạn trả nợ . Liệt kê các tài sản đảm bảo nợ vay. Đơn xin vay phải có chữ ký của chủ hộ và người thừa kế. Có xác nhận của chính quyền địa phương (UBND xã sở tại) gửi tổ trưởng. + Tổ trưởng nhận đơn xin vay của các tổ viên, tiến hành thẩm định sau đó tổ chức họp tổ bình xét mức vốn cần vay của từng hộ cho phù hợp với khả năng và năng lực quản lý của từng hộ. Gửi biên bản họp tổ kèm theo toàn bộ đơn xin vay của từng tổ viên cho cán bộ tín dụng phụ trách địa bàn. + Cán bộ tín dụng Ngân hàng nhận đơn xin vay và phương án vay vốn của các tổ viên tiến hành thẩm định điển hình hoặc thẩm định toàn bộ. Sau khi đã thống nhất với tổ trưởng số tiền cho vay từng tổ viên tiến hành bán hồ sơ và cùng tổ trưởng hướng dẫn cho các tổ viên lập hồ sơ vay vốn. Sau khi hồ sơ đã được lập xong có đầy đủ chữ ký của người vay , người thừa kế và xác nhận của chính quyền địa phương , cán bộ tín dụng xét duyệt và trình trưởng phòng tín dụng, giám đốc phê duyệt và hẹn ngày giải ngân. - Thủ tục Ngân hàng : + Ngân hàng trực tiếp phát tiền vay đến từng tổ viên có hai cán bộ Ngân hàng 1 cán bộ kế toán và một cán bộ tín dụng kiêm thủ quỹ . + Địa điểm phát tiền vay : Tại UBND xã. - Kiểm tra sử dụng vốn vay: Cán bộ tín dụng cùng với tổ trưởng kiểm tra việc sử dụng vốn vay ở tất cả các tổ viên. Phiếu kiểm tra dùng loại tổng hợp theo danh sách gồm các cột số thứ tự, họ và tên, số tiền thực nhận, số lượng vật tư mua sắm, nhận xét và kiến nghị của cán bộ tín dụng Ngân hàng, chữ ký của người vay . - Quy trình thu nợ, thu lãi: + Thu lãi: Thực hiện thu lãi theo tháng . Hàng tháng cán bộ tín dụng thống nhất thời gian, địa điểm thu lãi với tổ trưởng . Tổ trưởng thông báo cho các tổ viên chuẩn bị tiền lãi đến đúng thời gian, địa điểm để nộp lãi. Cán bộ Ngân hàng trực tiếp thu lãi tại tổ theo hình thức thu tay ba, gồm cán bộ Ngân hàng, tổ trưởng liên doanh và người vay vốn. + Thu nợ: Nếu tổ viên trả trước hạn thì đem trực tiếp đến trụ sở Ngân hàng để trả nợ. Nếu trả nợ đúng kỳ hạn thì Ngân hàng lập tổ thu nợ lưu động xuống trực tiếp để thu nợ cho tổ viên tại điạ điểm đã thoả thuận với tổ trưởng ( thường là UBND xã ). - Xử lý các vi phạm: Nếu đến hạn có một thành viên nào đó chưa trả được nợ thì cả tổ có trách nhiệm tương trợ để trả thay sau đó thu sau từ thành viên đó theo đúng cam kết thi thành lập tổ. a.3 - ưu điểm của cho vay tổ liên doanh. - Tạo điều kiện để Ngân hàng phục vụ kịp thời các nhu cầu vốn của khách hàng. Đáp ứng được yêu cầu vốn có tính thời vụ, thời điểm của khách hàng vì cùng một khoảng thời gian ngắn có thể phục vụ được nhiều khách hàng . - Tăng sự giám sát, quản lý vốn trong quá trình các hộ quản lý sử dụng vốn vay. Vừa chịu sự kiểm tra, giám sát của tổ trưởng vừa chịu sự kiểm tra giám sát của cán bộ Ngân hàng. Giúp Ngân hàng nắm bắt được nhiều thông tin từ khách hàng do đó quản lý vốn an toàn hơn. - Giảm bớt sự quá tải cho cán bộ tín dụng. Vì một số công việc được uỷ quyền cho tổ trưởng liên doanh làm hộ. - Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đỡ phải mất công đi lại, chờ đợi lâu khi làm thủ tục vay vốn, trả lãi và trả nợ. - Tăng sự gắn bó và cộng đồng trách nhiệm giữa các hội viên với các tổ chức đoàn thể. a.4 - Nhược điểm của cho vay qua tổ liên doanh. - Chỉ phù hợp đối với những món vay nhỏ, các nhu cầu phát sinh cùng một lúc mang tính chất mùa vụ như vay các chi phí cho sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, chăn nuôi ... - Nếu quản lý không tốt dễ xảy ra tình trạng tổ trưởng thu nợ, thu lãi của các tổ viên đem sử dụng vào mục đích cá nhân mà không nộp vào Ngân hàng gây khó khăn cho Ngân hàng trong khâu thu hồi vốn. b - Cho vay trực tiếp tới hộ gia đình: - Phạm vi áp dụng : Có thể áp dụng được với tất cả các loại hộ có nhu cầu vay khác nhau. b.1 - Quy trình cho vay: + Cán bộ chuyên quản nhận hồ sơ xin vay( đơn xin vay, dự án vay vốn, tờ khai thế chấp tài sản) có nhiệm vụ thẩm định đơn xin vay, dự án xin vay nếu không đủ điều kiện cho vay thì trả lại hồ sơ cho khách hàng để khách hàng chủ động tìm nguồn vốn khác. Nếu dự án xin vay có khả năng thực thi thì viết phiếu hẹn khách hàng, chậm nhất trong vòng 10 ngày làm việc phải giải quyết . Cán bộ chuyên quản thống nhất mức vốn cho vay, thời hạn vay và mức lãi suất với khách hàng, bán cho khách hàng bộ hồ sơ vay vốn và hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ xin vay vốn. Trường hợp phải đi tái thẩm định ( đối với những món vay lớn) trưởng phòng tín dụng tập hợp hồ sơ trong ngày, cử cán bộ đi tái thẩm định . Người được cử đi tái thẩm định cho vay phải ghi rõ ý kiến của mình (đồng ý hay không đồng ý) ghi rõ họ và tên, chữ ký và phải chịu trách nhiệm trước Ngân hàng cấp trên, trước pháp luật về việc làm sai trái của mình . + Trưởng phòng hoặc tổ trưởng tín dụng tổng hợp hồ sơ kinh tế , kỹ thuật của dự án, đối chiếu với nguồn vốn hiện còn trình giám đốc phê duyệt ( cho vay hoặc không cho vay) và thông baó cho khách hàng biết . + Trường hợp quyết định cho vay, hồ sơ được chuyển cho cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng lập khế ước cho vay hoặc hướng dẫn vào sổ vay vốn . Sau khi hoàn tất các khâu công việc trên đây. Bộ phận tín dụng chuyển hồ sơ vay vốn cho bộ phận kế toán thực hiện nghiệp vụ hạch toán kế toán và tổ chức giải ngân. Bộ phận tín dụng vào sổ thống kê theo dõi cho vay . + Tổ chức giải ngân: Giải ngân tại trụ sở Ngân hàng. Khách hàng trực tiếp đến nhận tiền vay. + Kiểm tra xử dụng vốn : Chậm nhất sau 20 ngày kể từ ngày giải ngân lần đầu, cán bộ tín dụng chuyên quản phải tiến hành kiểm tra sử dụng vốn vay, nhằm giám sát người vay sử dụng vốn đúng mục đích đã cam kết . Các lần kiểm tra sau tuỳ thuộc vào thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của từng khách hàng để tiến hành kiểm tra đột xuất hay kiểm tra định kỳ. + Quy trình thu nợ, thu lãi: Trả lãi hàng tháng: Hàng tháng khách hàng trực tiếp đem tiền đến trụ sở Ngân hàng nộp lãi . Trả nợ: Thực hiện trả nợ trực tiếp tại trụ sở Ngân hàng . - Xử lý kỷ luật tín dụng: Quá hạn khách hàng không trả được nợ và không được cho gia hạn nợ thì Ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn, và thông báo cho hộ vay vốn, chính quyền địa phương biết để phối hợp đôn đốc khách hàng trả nợ . Nếu khách hàng có hành vi chay ì không chịu trả nợ thì Ngân hàng phối hợp với chính quyền địa phương để xử lý theo pháp luật. b.2 - Ưu điểm của phương pháp cho vay này . - Ngân hàng kiểm soát được toàn bộ quá trình sản xuất, kinh doanh của hộ vay vốn, nắm được thực trạng của các hộ trước khi cho vay do đó quyết định mức vốn cho vay phù hợp với năng lực quản lý và khả năng tài chính của khách hàng. - Có thể áp dụng được với tất cả các hộ vay vốn có mức vốn vay khác nhau . - Kiểm tra chặt chẽ các món cho vay lớn do đó độ an toàn vốn cao hơn . b.3 - Nhược điểm của phương án cho vay này : - Do phải kiểm tra trực tiếp đến hộ vay vốn do đó nếu đến thời vụ, số hộ đông thì cán bộ Ngân hàng không thể phục vụ kịp thời nhu cầu của khách hàng . - Dễ dẫn đến quá tải đối với cán bộ tín dụng do khối lượng công việc nhiều , khi đã quá tải thì chất lượng công việc không cao, dẫn đến nợ quá hạn tăng . - Không phù hợp với những món vay nhỏ, vì chi phí bỏ ra lớn . c - Thời hạn cho vay và mức cho vay: c.1 - Thời hạn cho vay: - Thời hạn cho vay trung hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng . Nhưng thực tế tại Ngân hàng Nga Sơn mới áp dụng cho vay 36 tháng , chưa thực hiện cho vay đến 60 tháng . Nguyên nhân chủ yếu là do cán bộ tín dụng sợ đầu tư thời gian dài khả năng rủi ro lớn do đó thường thoả thuận với khách hàng để áp dụng thời hạn cho vay trung hạn từ trên 12 tháng đến 36 tháng . Phổ biến là cho vay 24 tháng dẫn đến một số hộ đến kỳ hạn nợ chưa có nguồn trả nợ buộc phải cho gia hạn nợ . Thể hiện việc định kỳ hạn nợ chưa phù hợp với chu kỳ luân chuyển , chu kỳ sản xuất, kinh doanh của đối tượng vay. - Thời hạn cho vay ngắn hạn: Theo quy định việc định kỳ hạn nợ phải căn cứ vào chu kỳ luân chuyển vật tư, tiền vốn của đối tượng vay nhưng tối đa không quá 12 tháng . Thực tiễn tại Ngân hàng Nga Sơn kỳ hạn nợ ngắn hạn phần lớn là 12 tháng, không cần quan tâm đó là đối tượng gì , kể cả đầu tư cho các hộ làm dịch vụ, kinh doanh thương mại đều định kỳ hạn nợ là 12 tháng. Việc định kỳ hạn nợ như thế này chưa phù hợp với chu kỳ luân chuyển của từng đối tượng vay, mới giải quyết được khâu giảm bớt quá tải cho cán bộ tín dụng. Nhưng dễ dẫn đến tình trạng khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, nợ quá hạn phát sinh. Đây là vấn đề cần phải xem xét và chấn chỉnh lại trong khâu định kỳ hạn nợ, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình sử dụng vốn và thanh toán nợ. c.2 - Mức cho vay: - Mức cho vay qua tổ liên doanh thực tế mới đạt bình quân 1.600.000đ/hộ. - Mức cho vay trực tiếp tới từng hộ : Bình quân mới đạt 3.300.000đ/hộ . Với mức cho vay này thực tế còn quá thấp so với nhu cầu vốn của các hộ gia đình. Trong thời gian tới cần phải tìm biện pháp để nâng mức đầu tư bình quân trên 1 hộ gia đình và mở rộng số hộ được vay vốn. Có như vậy mới đáp ứng nhu cầu vốn cho các hộ gia đình thực hiện các phương án đầu tư sản xuất kinh doanh của mình. Góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện. Kết hợp giữa tín dụng ngắn hạn với tín dụng trung , dài hạn để đầu tư đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả kinh tế cao . Đặc biệt chú trong đầu tư chiều sâu cho các ngành trồng trọt, chăn nuôi và phát triển ngành nghề thủ công chiếu cói xuất khẩu, góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn huyện. Trong quá trình đầu tư vốn phải lấy mục tiêu an toàn vốn là mục tiêu hàng đầu, tăng trưởng tín dụng nhưng phải đảm bảo an toàn vốn. Thường xuyên tìm các giải pháp để củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng với phương chậm “ An toàn để phát triển “. 3.2.2 - Kết quả cho vay : a - Phân theo thành phần kinh tế Bảng 2: Cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế Đơn vị 1.000.000 đồng Năm chỉ tiêu 1997 1998 1999 98 so với 97 99 so với 97 Tổng dư nợ Trong đó: + Kinh tế quốc doanh + Kinh tế hộ gia đình . + Kinh tế tập thể 30.906 173 30.733 0 39.898 404 39.494 0 49.294 129 49.165 0 +8.992 +231 8.761 +18.386 -44 +18.432 (Số liệu ở báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 1997, 1998 và 1999) Hoạt động của Ngân hàng N0& PTNT huyện Nga Sơn chủ yếu là đầu tư kinh tế hộ gia đình . Dư nợ đầu tư kinh tế quốc doanh qua các năm có tăng nhưng đến năm 1999 chỉ chiếm 0,26 % trong tổng dư nợ . Dư nợ đầu tư kinh tế hộ gia đình chiếm 99,74 % tổng dự nợ của Ngân hàng nông nghiệp và PTNT Nga Sơn. Thể hiện Ngân hàng nông nghiệp Nga Sơn đối tác chủ yếu trong kinh doanh là các hộ gia đình . Do đó để tồn tại và không ngừng phát triển thì Ngân hàng nông nghiệp Nga Sơn cần có các giải pháp để mở rộng đầu tư phát triển kinh tế hộ gia đình, đây là khách hàng truyền thống của Ngân hàng nông nghiệp Nga Sơn . b - Mức đầu tư qua các năm cho kinh tế hộ gia đình : Bảng 3: Doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ qua các năm Đơn vị 1.000.000đ TT Năm chỉ tiêu 1997 1998 1999 98 so với 97 99 so với 97 1 Dư nợ đầu năm 26.978 30.733 39.494 +3.755 +12.516 2 D.số cho vay t.năm 28.951 38.200 43.899 +9.249 +14.948 3 Doanh số thu nợ 25.196 29.439 34.099 +4.243 +8.903 4 Dư nợ cuối năm 30.733 39.494 49.294 +8.761 +18.561 5 Số hộ còn dư nợ đến 31/12 15.704h 17.923h 18.257 +2.219 +2.553 6 B. quân dư nợ 1 hộ 1,95tr/h 2,2tr/hộ 2,7tr/hộ +0,25 +0,85 Theo báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 1997, 1998 và 1999 Mức đầu tư cho kinh tế hộ gia đình hàng năm đều có tốc độ tăng trưởng đáng kể . Nhưng cùng với mức độ tăng trưởng dư nợ thì số hộ được vay vốn cũng tăng lên . Xét về mặt chính sách xã hội thì đầu tư được nhiều hộ , tạo điều kiện cho nhiều hộ gia đình được vay vốn Ngân hàng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh , phát triển kinh tế hộ gia đình . Và về góc độ Ngân hàng thực hiện được phân tán ruỉ ro , khả năng an toàn vốn cao hơn . Những về góc độ kinh doanh của Ngân hàng thì chưa có hiệu quả vì đầu tư nhiều món nhỏ chi phí cao , quá tải đối với cán bộ . Khi đã quá tải thì chất lượng công việc không cao và dẫn đến chất lượng tín dụng cũng không cao . Qua phân tích thực tế thì các món cho vay ở Ngân hàng Nga Sơn phần lớn là các món nhỏ dưới 10 triệu đồng . Đây không phải là khách hàng chỉ có nhu cầu như vậy mà do cơ chế của Ngân hàng nông nghiệp những món vay từ 5 triệu đồng trở xuống không phải thế chấp tài sản và thủ tục đơn giản gọn nhẹ hơn . Những món cho vay trên 10 triệu thì phải thế chấp tài sản thủ tục lại quá rườm rà. Hạn chế về loại tài sản thế chấp nên cán bộ Ngân hàng và khách hàng đều ngại làm, cán bộ tín dụng muốn cho vay từ 10 triệu trở xuống cho yên tâm, không phạm luật. Nhưng ngược lại nhiều hộ vay không đủ nhu cầu sản xuất kinh doanh của họ đã dẫn đến khó khăn cho họ và có thể họ phải đi vay ngoài . Nếu xét về số hộ được vay vốn đến năm 1999 mới đạt 18.257 hộ so với nhu cầu cần vay là 28.966 hộ chiếm 63%. Như vậy còn 37% số hộ chưa được vay vốn , chưa kể số hộ đã được vay vốn nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vốn của họ . Đây là vấn đề cần phải xem xét để tìm biện pháp tháo gỡ. Nguyên nhân còn 37% số hộ chưa được vay vốn là do : - Nhu cầu vay vốn mang tính chất thời vụ, phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất của cây trồng, vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp. Nên đến thời vụ gieo trồng, chăm sóc thì nhu cầu vay vốn rất lớn, quá thời vụ đó thì các hộ gia đình không có nhu cầu vay nữa. Nhưng khả năng phục vụ của cán bộ tín dụng có hạn chỉ có thể phục vụ được khi công việc( nhu cầu) rải đều trong năm, nếu tập trung vào thời vụ thì cán bộ tín dụng quá tải, không phục vụ kịp. - Mặt khác một số hộ gia đình chưa đủ điều kiện vay vốn do nhiều nguyên nhân như mắc các tệ nạn xã hội, thiếu kiến thức làm kinh tế, không có kế hoạch làm ăn, không sòng phẳng đối với tập thể và nhà nước do đó không thể cho vay được . Một số hộ đã vay vốn Ngân hàng nhưng sử dụng vốn sai mục đích, có biểu hiện chay ỳ không chịu trả nợ nên Ngân hàng không thể tiếp tục cho vay. Tuy nhiên số hộ thuộc lý do này chiếm tỷ lẹ không lớn . Còn lại phần lớn các hộ chưa được vay vốn rất cần được sự quan tâm của Ngân hàng, Ngân hàng cần phải tìm biện pháp để mở rộng đầu tư giúp họ có vốn thực thi các phương án làm ăn, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện. c - Kết quả phân theo loại cho vay : Bảng 4: Cơ cấu dư nợ theo loại cho vay Đơn vị 1.000.000 đồng TT Năm chỉ tiêu 1997 1998 1999 98 so với 97 99 so với 97 1 Tổng dư nợ đến 31/12 trong đó 30.733 39.494 49.294 +8.761 +18.651 2 + dư nợ ngắn hạn 18.027 15.304 15.490 -2.723 -2.537 Số hộ 9.654 8.050 7.040 -1.604 -2.614 3 + Dư nợ trung hạn 12.706 24.190 33.804 +11.484 +21.098 Số hộ 6.050 9.873 11.217 +3.823 +5.167 4 Tỷ lệ nợ tr.hạn trong tổng dư nợ 41,3% 61,2% 68,6% +19,9% +27,3% ( Theo báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 1997,1998 và 1999) Qua biểu phân tích trên cho thấy việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư thể hiện rõ qua các năm . Dư nợ vốn ngắn hạn giảm, dư nợ vốn trung hạn tăng lên. Từ chỗ năm 1997 dư nợ trung hạn mới chiếm 41,34% nhưng đến năm 1999 dư nợ trung hạn đã chiếm 68,6% tổng dư nợ tăng 27,26% so với năm 1997. Có được kết quả trên là do Ngân hàng Nga Sơn đã chú trọng đầu tư chiều sâu thông qua các dự án như dự án cải tạo 400 ha cói thuộc 6 xã vùng chuyên canh cói với tổng số vốn đầu tư trên 5 tỷ đồng, dự án chăn nuôi bò, lợn sinh sản ở 9 xã đồng màu với tổng số vố đầu tư trên 10 tỷ đồng và dự án phát triển hành thủ công nghiệp chiếu cói ở các xã vùng đồng chiêm trũng với tổng số vốn đầu tư trên 3 tỷ đồng. Ngoài ra còn đầu tư các tiểu dự án chăn nuôi con đặc sản. Các dự án được Ngân hàng cho vay đang phát huy tác dụng tốt , góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn huyện. Nhưng nếu chỉ tập trung đầu tư vốn, trung dài hạn mà không chú ý đến đầu tư vốn ngắn hạn một cách cân đối hài hoà thì sẽ hạn chế tốc độ phát triển kinh tế và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Xem xét các món vay trung hạn thấy mức vốn đầu tư còn quá thấp so với nhu cầu của dự án, thời gian đầu tư chưa phù hợp với chu kỳ luân chuyển vật tư, hàng hoá, thường ngắn so với thực tế . Phần lớn kỳ hạn nợ trong khoảng từ 2 - 3 năm phân kỳ hạn nợ còn máy móc chưa gắn với thực tế luân chuyển vốn của dự án đầu tư do đó đến kỳ hạn nợ phân kỳ nhiều hộ chưa trả được nợ, phải gia hạn nợ đến kỳ hạn cuối cùng . d - Kết quả cho vay ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28224.doc
Tài liệu liên quan