Những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của các Doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất vật liệu xây dựng trên địa bàn tỉnh Thái nguyên

Lời cam đoan Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này trung thực, chưa được sử dụng và bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2005 Tác giả LỜI CẢM ƠN Luận văn này được hoàn thành là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu lý luận và tích luỹ kinh nghiệm thực tế của tác giả. Những kiến thức mà

doc160 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2121 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của các Doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất vật liệu xây dựng trên địa bàn tỉnh Thái nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các thày cô giáo truyền thụ đã làm sáng tỏ những tư duy của tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Để có được kết quả này, tôi vô cùng biết ơn và bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc đối với TS – Nguyễn Đại Thắng người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành báo cáo luận văn này. Tôi xin bày tỏ lòng cảm tạ đối với các thày, cô giáo khoa kinh tế trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Xin cám ơn Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm và các thầy cô giáo trung tâm sau Đại học, trường Đại học Bách Khoa Hà Nội và trường Cao đẳng Công nghiệp Sao Đỏ nơi tôi công tác đã tạo mọi điều kiện về tinh thần, vật chất giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình học tập và viết luận văn tốt nghiệp. Có được kết quả này, tôi không thể không nói đến công lao và sự giúp đỡ của cán bộ lãnh đạo Sở Kế hoạch và đầu tư; Sở xây dựng; Cục thống kê; Cục thuế tỉnh Hải Dương. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Trung tâm hỗ trợ DNN&V tỉnh Hải Dương, cơ quan đã cung cấp số liệu, tư liệu về chính sách của tỉnh hỗ trợ DNN&V. Cuối cùng tôi xin cảm đồng nghiệp, gia đình, bạn bè, những người thân đã giúp đỡ chia sẻ những khó khăn và động viên tôi hoàn thành luận văn này. Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2005 Tác giả DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT. - CT TNHH : Công ty trách nhiệm hữu hạn. - CTCP : Công ty cổ phần - DN : Doanh nghiệp - DNV&N : Doanh nghiệp vừa và nhỏ. - DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước. - DNTN : Doanh nghiệp tư nhân. - GDP : Thu nhập quốc dân. - HĐND : Hội đồng nhân dân. - HQKD : Hiệu quả kinh doanh. - HTX : Hợp tác xã. - KD : Kinh doanh - KTQD : Kinh tế quốc dân - L. động : Lao động - { …} : Số danh mục tài liệu kham khảo - SX : Sản xuất - ROA : Sức sinh tài sản - ROE : Sức sinh lời vốn chủ sở hữu. - Tr/người : Triệu đồng/người - UBND : Uỷ ban nhân dân - VLXD : Vật liệu xây dựng MỤC LỤC Lời mở đầu Trang Chương 1- Lý luận chung về HQKD của dnv& n 1.1- Hiệu quả kinh doanh 1.1.1– Khái niệm về hiệu quả kinh doanh 1.1.2 – Bản chất của hiệu quả kinh doanh 1.1.3 – Tiêu chuẩn và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh 1.1.3.1 – Tiêu chuẩn và hiệu quả kinh doanh 1.1.3.2 – Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của DN 1.1.4– Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh 1.1.5– Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của DN 1.1.5.1– Các nhân tố bên trong 1.1.5.2– Các nhân tố bên ngoài 1.2- Vị trí, vai trò của DNN&V 1.2.1- Tiêu chuẩn xác định DNN&V trên thế giới và Việt Nam 1.2.2- Vai trò của các DNN&V 1.2.3- Ưu thế và hạn chế của DNN&V 1.2.3.1- Ưu thế 1.2.3.2- Hạn chế 1.3- Một số đặc điểm cơ bản của ngành sản xuất VLXD 1.3.1- Sản xuất công nghiệp 1.3.2- Vai trò và đặc điểm của công nghiệp sản xuất VLXD 1.3.2.1- Một số đặc điểm của công nghiệp sản xuất VLXD 1.3.2.2- Vai trò của công nghiệp sản xuất VLXD 1.4- Tóm lược Chương 2- Phân tích HQKD của các DNN&V sản xuất LVXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên ………….. 2.1- Giới thiệu khái quát đặc điểm kinh tế – xã hội tỉnh Thái Nguyên 2.1.2- Tiềm năng tài nguyên gắn với phát triển sản xuất VLXD 2.1.3- Thị trường VLXD trên địa bàn Thái Nguyên 2.1.4- Vị trí, vai trò của DNN&V sản xuất VLXD ở Thái Nguyên 2.2- Tình hình hoạt động của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 2.2.1- Giới thiệu các DNN&V tỉnh Thái Nguyên 2.2.1.1- Lĩnh vực hoạt động 2.2.1.2- Địa bàn hoạt động 2.2.2- Doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 2.2.3- Phân loại DNN&V ngành LVXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 2.2.3.1. Theo ngành nghề kinh doanh 2.2.3.2. Theo quy mô của doanh nghiệp 2.2.3.3. Theo hình thức sở hữu 2.3- Phân tích hiệu quả kinh doanh của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 2.3.1- Ngành nghề khai thác 2.3.2- Ngành sản xuất sản phẩm phi kim loại 2.3.3- Ngành chế biến gỗ 2.3.4- Ngành sản xuất kim loại 2.3.5- Đánh giá hiệu quả kinh doanh của DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn Thái Nguyên 2.4- Những thành quả, tồn tại các DNN&V sản xuất VLXD tỉnh Thái Nguyên 2.4.1- Những thành quả và nguyên nhân 2.4.2- Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân 2.5- Tóm lược Chương 3- Các giải pháp nâng cao HQKD của các DNN&V s VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên ản xuất 3.1- Lợi thế và khó khăn của DNN&V sản xuất VLXD 3.1.1- Lợi thế của DNN&V sản xuất VLXD 3.1.2- Khó khăn của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 3.2- Phương hướng và mục tiêu phát triển các DNN&V sản xuất VLXD tỉnh Thái nguyên 3.2.1- Mục tiêu phát triển 3.2.2- Mục tiêu phát triển 3.3- Các quan điểm, yêu cầu để nâng cao HQKD các DNN&V công nghiệp 3.3.1- Về phát triển công nghiệp sản xuất VLXD 3.3.2- Về phát triển và nâng cao HQKD của DNN&V công nghiệp 3.4- Một số giải pháp để nâng cao HQKD của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 3.4.1- Các giải pháp thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về kinh tế 3.4.1.1- Các giải pháp về quy hoạch và cơ cấu lại ngành công nghiệp VLXD 3.4.1.2- Các giải pháp về đổi mới và phát triển công nghệ sản xuất 3.4.1.3- Các giải pháp về phát huy, nâng cao hiệu lực quản lý ngành 3.4.1.4- Huy động các nguồn vốn để phát triển sản xuất VLXD 3.4.1.5- Nghiên cứu xây dựng và ban hành các chế độ chính sách hỗ trợ sản xuất, ổn định và mở rộng thị trường VLXD 3.4.1.6- Tiếp tục xúc tiến điều tra cơ bản và xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài của ngành VLXD 3.4.2- Các giải pháp đối với DNN&V sản xuất VLXD 3.4.2.1- Giải pháp về thị trường 3.4.2.2- Giải pháp về sản phẩm 3.4.2.3- Các giải pháp về phát huy hiệu quả sử dụng vốn 3.4.2.4- Giải pháp về tăng cường hiệu lực bộ máy quản trị DN 3.4.2.5- Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực 3.5- Kiến nghị 3.6- Tóm lược Phụ lục Tài liệu tham khảo LỜI MỞ ĐẦU 1. Tích cấp thiết của đề tài Thái nguyên là một tỉnh thuộc trung tâm vùng núi Đông Bắc có nhiều tiềm năng về phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến. Mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI (thời kỳ 2001-2005) là nâng gấp đôi giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh vào năm 2005, với mức tăng trưởng bình quân hàng năm 16% năm. Đồng thời trong năm 2003 HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 62-NQ/TU tại kỳ họp thứ 10 HĐND tỉnh Thái Nguyên khoá X “ Về phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tỉnh Thái Nguyên từ nay đến năm 2010”; trong đó xác định: Đưa tỷ trọng GDP ngành công nghiệp (kể cả xây dựng) tăng từ 17% năm 2003 lên 20,72% vào năm 2005 và trên 28% vào năm 2010”. Công nghiệp chế biến nói chung và công nghiệp sản xuất VLXD từ tài nguyên địa phương nói riêng là một trong những ngành chính, có lịch sử phát triển lâu dài của công nghiệp Thái Nguyên. Từ nhiều năm qua công nghiệp đã có những đóng góp đáng kể, góp phần giải quyết việc làm và phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh nhà, trong đó DNN&V góp phần không nhỏ. Cho đến nay, tài nguyên và tiềm năng về công nghiệp sản xuất VLXD của Thái Nguyên còn rất phong phú và có mặt chưa được phát huy hết. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng và phát triển, ngành VLXD của Thái Nguyên nói chung và các DNN&V sản xuất VLXD nói riêng vẫn còn những bất cập cần phải xem xét và điều chỉnh, trước hết là về hiệu quả kinh doanh (HQKD) và những tác động tiêu cực lên môi trường, cụ thể như: Chủng loại VLXD đã đựơc sản xuất chưa phong phú và đa dạng, nhất là các sản phẩm gốm xứ xây dnựg, vật liệu trang trí hoàn thiện khác, vật liệu mới, công nghệ và quy mô sản xuất còn hạn chế, việc khai thác tài nguyên khoáng sản làm VLXD nhất là khai thác đá xây dựng, cát xây dựng, sét gạch ngói cũng diễn biến phức tạp chưa có được sự quản lý chặt chẽ và tập trung, việc cung ứng các sản phẩm VLXD mà Thái Nguyên không có điều kiện sản xuất hoặc chưa được đầu tư sản xuất còn chưa thông suốt và hiệu quả, nhiều sản phẩm VLXD lưu thông trên thị trường chưa được quản lý chặt chẽ về chất lượng và giá cả … vì vậy, có thể nói ngành VLXD chưa phát triển tương xứng với tiền năng sẵn có và nhu cầu đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của tỉnh. Nhưng cho đến nay trên địa bàn Thái Nguyên chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên về lĩnh vực này. Đặt trong điều kiện nêu trên, đề tài “ Những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên” có ý nghĩa thiết thực trên nhiều mặt. 2. Mục đích yêu cầu: Luận văn hệ thống hoá các vấn đề lý luận về HQKD của DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Từ đó luận giải và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao HQKD của các doanh nghiệp này trong thời kỳ từ nay đến 2010. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của các luận văn là các vấn đề về HQKD của DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thời kỳ 2001-2003. Xác định những giải pháp đồng bộ nâng cao HQKD của các doanh nghiệp này trong thời kỳ từ nay đến 2010. 4. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài, luận văn đã sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: - Phương pháp quan sát: Được sử dụng để nắm vững tình hình hoạt động kinh doanh của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Thông qua trao đổi, phỏng vấn các chuyên viên Sở kế hoạch đầu tư, Cục thuế, Cục thống kê và các nhà sản xuất VLXD. - Phương pháp điều tra. Theo mục tiêu nghiên cứu của đề tài tiến hành điều tra, thu nhập số liệu liên quan đến tình hình hoạt động kinh doanh của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. - Điều tra khảo sát hệ thống. Để xử lý và phân tích số liệu đã thu nhập được. - Phân tích tổng hợp. Để nghiên cứu và trình bày các nội dung của luận văn. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài. - Xác định rõ vị trí của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. - Khảo sát, phân tích và đánh giá đúng thực trạng HQKD của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. - Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao HQKD của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn từ nay đến 2010. 6. Kết cấu của luận văn. Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu kham khảo, phụ lục, luận văn hồm 3 phần: Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh của DNN&V. Chương 2: Phân tích hiệu quả kinh doanh của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Chương 3: Những giải pháp nâng cao HQKD của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn từ nay đến 2010. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA. 1.1- HIỆU QUẢ KINH DOANH. 1.1.1- Khái niệm về hiệu quả kinh doanh. Cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong quan niệm về hiệu quả kinh doanh (HQKD), mặc dù các nhà nghiên cứu cũng như các nhà kinh doanh đều thống nhất nhìn nhận rằng “ Hiệu quả kinh doanh” là thước đo về mặt chất lượng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ một quốc gia nào nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng, đặc biệt trong điều kiện nước ta hiện nay đang trong quá trình phát triển kinh tế thị trường mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, từ nền kinh tế còn chịu nhiều ảnh hưởng của kinh tế kế hoạch hoá tập trung lại càng đòi hỏi cấp thiết hơn nữa. - Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam: “ Hiệu quả kinh tế: Chỉ tiêu biểu hiện kết của hoạt động sản xuất, nói rộng ra là của hoạt động kinh tế, hoạt động kinh doanh, phản ánh tương quan giữa kết quả đạt được so với hao phí lao động, vật tư, tài chính. Là chỉ tiêu phản ánh trình độ và chất lượng sử dụng các yếu tố sản xuất – kinh doanh, nhằm đạt được kết quả kinh tế tối đa với chi phí tối thiểu”. Tuỳ theo mục đánh giá, có thể đánh giá hiệu quả kinh tế bằng những chỉ tiêu khác nhau như: năng suất lao động, hiệu suất sử dụng vốn, hàm lượng vật tư của sản phẩm, lợi nhuận so với vốn, thời gian thu hồi vốn, … Chỉ tiêu thường dùng nhất là doanh lợi thu được so với tổng số vốn bỏ ra “ {20}. Hoạt động kinh doanh là một lĩnh vực của hoạt động kinh tế, vì vậy khái niệm hiệu quả kinh tế trong kinh doanh có thể được hiểu là hiệu quả kinh doanh, trước hết là khía cạnh hiệu quả đó, là chỉ tiêu phản ánh trình độ và chất lượng sử dụng các yếu tố sản xuất kinh doanh nhằm đạt được hiệu quả tối đa với chi phí tối thiểu, với các chỉ tiêu đánh giá tương ứng … - Như vậy, có thể hiểu “ hiệu quả kinh doanh” là một phạm trù phản ánh về mặt chất lượng trình độ quản lý, khai thác, sử dụng và huy động các nguồn lực của doanh nghiệp. Nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận cao nhất với chi phí nhỏ nhất. Tỷ lệ chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả kinh doanh càng cao. Vì vậy, khái niệm này chỉ dùng để đánh giá chất lượng của các doanh nghiệp kinh doanh. Cũng với sự nhìn nhận này, đối với 1 doanh nghiệp đời sống của một sản phẩm thì cũng cần đánh giá, phân tích cả trong quan điểm ngắn hạn lẫn dài hạn để có sự nhìn nhận đúng đắn về quan hệ sản xuất kinh doanh của 1 sản phẩm đó. Có thể biểu thị hiệu quả bằng công thức sau: H = K (1.1) C Trong đó: H: Hiệu quả kinh doanh K: Kết quả đạt được C: Chi phí nguồn lực gắn với kết quả. Với khái niệm này, xét trên góc độ từng doanh nghiệp thì một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả lý tưởng là 1 doanh nghiệp hoạt động trên đường giới hạn năng lực sản xuất của doanh nghiệp, và tưng tự có thể suy rộng ra cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng vậy. Đây là trường hợp lý tưởng, nhưng trong thực tế nhà doanh nghiệp thường gặp phổ biến các trường hợp: “Đựơc cái này, mất cái kia”. Ví dụ, khi đầu tư công nghệ hiện đại để nâng cao năng suất, hạ giá thành – một giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả kinh doanh (xét về mặt lý thuyết), thì doanh nghiệp cần phải bỏ chi phí lớn, cần thời gian đầu tư dài và có lúc còn làm mất chỗ làm của công nhân. Vì vậy cũng phải chấp nhận những rủi ro có thể có đi theo nó và vì đó mà kinh doanh không hiệu quả. 1.1.2- Bản chất của hiệu quả kinh tế. Mục tiêu hiệu quả luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các nền sản xuất. Nhưng hiệu quả là gì? Như thế nào là hoạt động kinh doanh có hiệu quả? Không phải là một vấn đề đã được giải quyết triệt để và có quan niệm thống nhất trong lý luận và trong công tác thực tiễn. Dưới góc độ nghiên cứu khác nhau, phạm trù hiệu quả kinh tế sẽ được hiểu và xem xét khác nhau. Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự chỉ đạo và quản lý của nhà nước thì việc xác định rõ bản chất, phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế trở thành một đòi hỏi cấp bách. Thật khó đánh giá mức độ hiệu quả kinh tế đạt được mà khi bản thân phạm trù này chưa được xác định rõ về bản chất những biểu hiện của nó. Do vậy hiểu đúng hơn bản chất và có những quan niệm thống nhất về hiệu quả kinh tế là vấn đề không những có ý nghĩa quan trọng về lý luận mà còn rất cần thiết trong hoạt động thực tiễn. Nó sẽ cho phép xác định đúng đắn mục tiêu và biện pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế trước đây khi nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch tập trung, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được đánh giá bằng mức độ hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh do Nhà nước giao như: Giá trị tổng sản lượng hàng hoá thực hiện, khối lượng sản phẩm chủ yếu như chỉ tiêu nộp ngân sách … về thực chất đây là các chỉ tiêu phản ánh kết quả, không thể hiện được mối quan hệ so sánh với những gì mà doanh nghiệp bỏ ra và nhà nước đầu tư. Mặt khác trong thời kỳ này giá cả mang tính hình thức, theo sự chỉ đạo chung nên việc tính toán các chỉ tiêu thống kê và hạch toán mang tính hình thức không phản ánh đúng thực chất trình độ quản lý của doanh nghiệp. Khi nến kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, Nhà nước thực hiện chức năng quản ký kinh tế bằng các chính sách định hướng vĩ mô thông qua các công cụ là hệ thống luật pháp hành chính và luật pháp kinh tế nhằm đạt được mục tiêu chung của xã hội. Các doanh nghiệp là các chủ thể sản xuất, tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật cho phép, các doanh nghiệp có toàn quyền quyết định đường đi cho mình và bình đẳng trước pháp luật. Chính vì vậy mà hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp và hiệu quả xã hội không đồng nhất với nhau. Để đánh giá kết quả đạt được của các loại hình doanh nghiệp thì Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và xác định cho mỗi loại hình doanh nghiệp các mục tiêu khác nhau. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: “ Lấy suất sinh lời tiền vốn là tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh. Lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích”. Đây là một quan điểm có ý nghĩa rất quan trọng về cả mặt lý luận và thực tiễn trong việc làm rõ bản chất của hiệu quả kinh tế và tiêu chuẩn để xác định, đánh giá hiệu quả kinh tế. Từ thực tiễn nêu trên ta thấy, “Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh trình độ năng lực quản lý bảo đảm thực hiện có kinh tế cao những mục tiêu kinh tế xã hội với chi phí nhỏ nhất” {29}. Chúng ta cần đánh giá hiệu quả kinh tế toàn diện trên cả hai mặt đó là mặt định tính và mặt định lượng. - Thứ nhất: Về mặt định lượng: Hiệu quả kinh tế của việc thực hiện mỗi nhiệm vụ kinh tế, xã hội biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Nếu xét về tổng lượng, người ta chỉ thu được hiệu quả kinh tế khi nào kết quả lớn hơn chi phí, chênh lệch này càng lớn, hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại. - Thứ hai: Về mặt định tính: Mức độ hiệu quả kinh tế cao thu được phản ánh sự cố gắng, nỗ lực, trình độ quản lý ở mỗi khâu, mỗi cấp trong hệ thống công nghiệp và sự gắn bó của việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh tế với những yêu cầu và mục tiêu chính trị – xã hội. Hai mặt định lượng và định tính của phạm trù hiệu quả kinh tế có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong những biểu hiện về định lượng phải nhằm đạt được những mục tiêu chính trị – xã hội nhất định. Ngược lại, việc quản lý kinh tế, dù ở giai đoạn nào, cũng không chấp nhận việc thực hiện những yêu cầu, mục tiêu chính trị, xã hội với bất kỳ giá nào, cần phân biệt sự khác nhau và hiệu quả mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế và kết quả kinh tế. Về mặt hình thức, hiệu quả kinh tế luôn là một phạm trù so sánh thể hiện mối tương quan giữa cái phải bỏ ra và cái thu về được. Kết quả chỉ là yếu tố cần thiết để tính toán và phân tích hiệu quả. Từ bản thân mình, kết quả chưa thể hiện nó tạo ra ở mức và phải chi phí nào. Trong quản lý sản xuất kinh doanh, phạm trù hiệu quả kinh tế được biểu hiện ở những dạng khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh tế là cơ sở để xác định các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế, phân tích hiệu quả kinh tế và xác định những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế. Có mấy cách phân loại chủ yếu sau đây: - Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế quốc dân. Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả thu được từ hoạt động của từng doanh nghiệp công nghiệp, biểu hiện trực tiếp của hiệu quả này là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp phải thu được và chất lượng thực hiện những yêu cầu do xã hội đặt ra cho nó. Hiệu quả kinh tế quốc dân được tính cho toàn nền kinh tế quốc dân. Về cơ bản đó là lượng sản phẩm thặng dư, thu nhập quốc dân hoặc tổng sản phẩm xã hội, mà đất nước và tài nguyên đã hao phí. Trong việc thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, không những cần tính toán và đạt được hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, mà còn cần phải đạt được hiệu quả toàn bộ hệ thống kinh tế quốc dân, mức hiệu quả kinh tế quốc dân lại phụ thuộc vào mức hiệu quả cá biệt. Nghĩa là phụ thuộc và sự cố gắng của mỗi người lao động và mỗi doanh nghiệp. Đồng thời, xã hội qua hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng có tác động trực tiếp đến hiệu quả cá biệt. Một cơ chế quản lý đúng tạo tiền đề thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả cá biệt. Ngược lại, một chính sách lạc hậu, sai lầm lại trở thành lực cản kìm hãm việc nâng cao hiệu quả kinh tế. - Hiệu quả của những chi phí bộ phận và hiệu quả của chi phí tổng hợp. Hiệu quả của chi phí tổng hợp thể hiện mỗi tương quan giữa kết quả thu được và tổng chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Còn hiệu quả chi phí bộ phận lại thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với lượng chi phí từng yếu tố cần thiết để thực hiện nhiệm vụ ấy (lao động, thiết bị, nguyên vật liệu …). Việc tính toán hiệu quả chi phí tổng hợp cho thấy hiệu quả chung của doanh nghiệp, hay nền kinh tế quốc dân. Việc tính toán và phân tích hiệu quả của các chi phí bộ phận cho thấy sự tác động của những nhân tố nội bộ sản xuất kinh doanh đến hiệu quả kinh tế nói chung. Về nguyên tắc, hiệu quả chi phí tổng hợp phụ thuộc vào hiệu quả của các chi phí bộ phận. - Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh. Trong công tác quản lý công nghiệp, việc xác định và phân tích hiệu quả kinh tế nhằm hai mục đích: Một là: Phân tích và đánh giá trình độ quản lý và sử dụng các loại chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hai là: Phân tích luận chứng kinh tế – xã hội các phương án khác nhau, trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó để chọn lấy phương án cơ lợi ích nhất. Hiệu quả tuyệt đối được tính toán cho từng phương án bằng cách xác định mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra, khi thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội, về mặt lượng, hiệu quả này được biểu hiện ở các chỉ tiêu khác nhau, như năng suất lao động, thời gian hoàn vốn, tỷ suất vốn, lợi nhuận … Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối, hoặc so sánh tương quan các đại lượng thể hiện chi phí, hoặc kết quả của các phương án khác nhau. Các chỉ tiêu hiệu quả so sánh được sử dụng để đánh giá mức độ hiệu quả của các phương án, để chọn phương án có lợi nhất. 1.1.3- Tiêu chuẩn và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh. 1.1.3.1- Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế sản xuất kinh doanh. - Nâng cao hiệu quả kinh tế trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế- xã hội là yêu cầu khách quan. Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế là cơ sở để đánh giá mức độ hiệu quả của phương án khác nhau và chọn phương án có hiệu quả kinh tế. Trong thực tế thiếu một tiêu chuẩn thống nhất, không thể có căn cứ xác định để đưa ra những quyết định quản lý hợp lý, nhất là trong điều kiện giải quyết một nhiệm vụ đòi hỏi thực hiện tổng hợp các biện pháp, mà ảnh hưởng của chúng đến kết quả cuối cùng không đồng nhất hoặc không đồng hướng nhau. Chẳng hạn việc áp dụng kỹ thuật mới có tác động tích cực đến các chỉ tiêu khối lượng sản phẩm, năng suất lao động, nhưng lại đòi hỏi chi phí đầu tư. Một cách tổng quát, khi thực hiện một nhiệm vụ nào đó mà nhà kinh doanh có thể gặp trường hợp lý tưởng “được tất cả”, nhưng thông thường họ gặp trường hợp “ được cái này, mất cái khác” vì vậy, cần thống nhất, không thể có cơ sở để đưa ra quyết định tối ưu, tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế phải thể hiện được mối tương quan giữa thu và chi theo hướng cực đại cái thu được và cực tiểu phải chi ra. Tiêu chuẩn ấy, nhất thiết phải thể hiện mục đích của sản xuất trong điều kiện nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong từng giai đoạn cụ thể. Mục đích của chủ nghĩa xã hội, suy đến cùng, là nâng cao mức sống vật chất, tinh thần và sự phát triển toàn diện của mọi công dân trong xã hội. Để thực hiện mục đích đó, phải sử dụng hợp lý tất cả các chi phí và dự trữ sản xuất để tạo nên kết quả cao nhất. Nghĩa là phải tăng năng suất lao động xã hội. Như vậy, theo nghĩa tổng quát có thể coi tăng năng suất lao động xã hội như tiêu chuẩn chung của hiệu quả kinh tế dưới chủ nghĩa xã hội. Theo ý nghĩa trực tiếp, tăng năng suất lao động là giảm hao phí lao động xã hội cần thiết để tạo ra sản phẩm hoặc tăng sản lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, theo ý nghĩa rộng hơn, tăng năng suất lao động dưới chủ nghĩa xã hội còn là việc phát triển sản xuất mở mang ngành nghề, trên cơ sở đó thu hút thêm lao động vào sản xuất của cải vật chất, tạo thêm việc làm cho người lao động vào sản xuất của cải vật chất, tạo thêm việc làm cho người lao động. Tăng năng suất lao động xã hội tạo ra điều kiện vật chất để tăng thu nhập quốc dân, quỹ tích luỹ tiêu dùng xã hội. Đó là điều kiện không thể thiếu để cải thiện mức sống vật chất, tinh thần và sự phát triển toàn diện của một công dân trong xã hội. Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế quốc dân phải bảo đảm tính toàn diện. Trước hết, đó là sự gắn bó và ước định lẫn nhau giữa giá trị và giá trị sử dụng: Một mặt giảm chi phí lao động xã hội sản xuất hàng hoá; mặt khác, đảm bảo chất lượng sản phẩm và không ngừng mở rộng mặt hàng đáp ứng những nhu cầu đa dạng của xã hội. Thứ hai, sự toàn diện của tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế quốc dân đòi hỏi phải vừa giải quyết những vấn đề kinh tế kinh doanh, vừa phải giải quyết những vấn đề xã hội của đất nước. Thứ ba, sự toàn diện của tiêu chuẩn hiệu quả cũng đòi hỏi xem xét mỗi giải pháp, mỗi phương án một cách toàn diện về không gian và thời gian, làm sao phải bảo đảm hiệu quả của từng phần tử, từng phần khi có tác động tích cực đến việc nâng cao hiệu quả của toàn bộ hệ thống nhất, nâng cao hiệu quả hiện tại và lâu dài của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, mỗi doanh nghiệp cần chú trọng đến việc tạo ra và không ngừng tăng lợi nhuận. Nhưng cũng không nên đơn giản coi lợi nhuận như tiêu chuẩn duy nhất đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Điều quan trọng là xem xét lợi nhuận đạt được bằng cách nào và được phân phối sử dụng như thế nào. Mỗi doanh nghiệp là một tế bào của hệ thống kinh tế quốc dân, sự vận động của nó phải trong quỹ đạo chung và góp phần thực hiện mục tiêu của hệ thống. Bởi vậy mà lợi nhuận mỗi doanh nghiệp thu được trong hoạt động kinh doanh vừa phải thể hiện sự gắn bó của doanh nghiệp với sự vận động của thị trường, vừa phải đảm bảo sự tôn trọng pháp luật kỷ cương của nhà nước, góp phần vào chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Đồng thời, nói cũng phải được phân phối theo cách kết hợp hài hoà giữa các lợi ích khác nhau: Lợi ích cá nhân của người lao động, lợi ích người chủ sở hữu, lợi ích tập thể doanh nghiệp và lợi ích xã hội. Cuối cùng, cũng phải cần chú ý rằng một phương án không sinh lời ngay khi bắt đầu thực hiện mà chỉ có thể tạo được lợi nhuận sau thời gian nhất định, bởi vậy, phải có tầm nhìn chiến lược, kết hợp trước mắt và lâu dài khi xem xét vấn đề này. 1.1.3.2- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế là biểu hiện đặc trưng về lượng tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế. Trong thực tế, việc phân tích và đánh giá hiệu quả kinh tế phải sử dụng một hệ thống chỉ tiêu, vì: Thứ nhất: Để tính được mức tăng năng suất lao động xã hội, phải tính được hao phí lao động xã hội để sản xuất hàng hoá nghĩa là phải tính được giá trị hàng hoá. Tuy nhiên, điều đó chưa thực hiện được trong thực tế. Việc sử dụng hệ thống chỉ tiêu là nhằm phản ánh giá trị ở những mức độ và khía cạnh khác nhau. Thư hai: Bản thân mỗi chỉ tiêu có những nhược điển nhất định trong nội dung và phương pháp tính toán. Việc sử dụng hệ thống chỉ tiêu cho phép thấy được mối tương quan thu – chi một cách đầy đủ và toàn diện hơn. Cũng cần phân biệt sự khác nhau và mối quan hệ giữa 3 loại chỉ tiêu sau đây: - Các chỉ tiêu dùng để tính toán hiệu quả kinh tế. - Các chỉ tiêu dùng để phản ánh hiệu quả kinh tế. - Các chỉ tiêu dùng để so sánh hiệu quả kinh tế. Các chỉ tiêu dùng để tính toán hiệu quả kinh tế chỉ phản ánh từng mặt của mối tương quan thu – chi, nó được dùng để so sánh mối tương quan ấy, chẳng hạn: Chỉ tiêu khối lượng sản phẩm hàng hoá, vốn đầu tư cơ bản, giá thành sản phẩm, … Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế trực tiếp phản ánh từng mặt của mối tương quan thu – chi trực tiếp biểu hiện qua hiệu quả kinh tế, chẳng hạn: Năng suất lao động, thời gian thu hồi vốn, tỷ suất vốn, lợi nhuận … Các chỉ tiêu dùng để so so sánh hiệu quả kinh tế được tính toán dùng để thực hiện sự tương quan ở các phương án khác nhau, nhằm chọn lấy phương án có hiệu quả nhất. Sự so sánh này có thể thực hiện giữa các chỉ tiêu dùng để tính toán hiệu quả kinh tế với nhau, giữa các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế với nhau. HQKD được xét trên một số chỉ tiêu chủ yếu sau: a- Suất sinh lời của tài sản (ROA). (Return on Assets – ROA). Để xem xét sự kết hợp tác động giữ hệ số lãi ròng với số vòng quay tài sản, ta tính lãi suất sinh lời của tài sản như sau: Suất sinh lời của tài sản (ROA) = Lãi ròng Tài sản = Lãi ròng x Doanh thu (1.2) Doanh thu Tài sản Hệ số lãi ròng = Lãi ròng (1.3) Doanh thu Hệ số vòng quay tài sản = Doanh thu (1.4) Tài sản Suất sinh lời tài sản = Hệ số lãi ròng x số vòng vay tài sản (1.5) ROA là công cụ đo lường cơ bản tính hiệu quả của việc phân phối và quản lý các nguồn lực ở doanh nghiệp. Nó cho biết tỷ lệ lợi nhuận mang lại cho chủ sở hữu và cả chủ nợ. b- Suất sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE): (Return on Assets – ROA). Từ trước đến nay, tiêu chuẩn phổ biến nhất mà người ta thường dùng để đánh giá tình hình tài chính của các nhà đầu tư và các nhà quản lý cao cấp là suất sinh lời của vốn chủ sở hữu. Nó được định nghĩa như sau: Suất sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE) = Lãi dòng (1.6) Vốn chủ sở hữu = Lãi ròng x Doanh thu x Tài sản Doanh thu Tài sản Vốn chủ sở hữu Gọi ba hệ số trên lần lượt là hệ số lãi ròng, số vòng quay tài sản và đòn cân tài chính (đòn cân nợ), công thức trên có thể viết lại như sau: Suất sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE) = Lãi ròng x Doanh thu x Tài sản (1.7) Doanh thu Tài sản Vốn chủ sở hữu Suất sinh lời vốn chủ sở hữu đo lường tính hiệu quả của đồng vốn của các chủ sở hữu của doanh nghiệp. Nó xem xét lợi nhuận trên mỗi đồng tiền của vốn chủ sở hữu mang đi đầu tư, hay nói cách khác, đó là phần trăm lợi nhuận thu được của chủ sở hữu trên vốn đầu tư của mình. c- Hiệu quả sử dụng lao động. Lao động là nguồn lực sống quý giá nhất của doanh nghiệp và của nền kinh tế, vì vậy sử dụng yếu tố lao động có hiệu quả góp phần quan trọng tăng HQKD của doanh nghiệp. Chỉ tiêu biểu thị trực tiếp, bao trùm cho hiệu quả sử dụng lao động trong doanh nghiệp là chỉ tiêu năng suất lao động, nó được biểu thị bằng công thức sau W = Q (1.8) T Trong đó: W : Năng suất lao động bình quân (BQ) trong kỳ. Q : Khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ. T : Số lượng lao động bình quân hoặc thời._. gian công tác trong kỳ. Năng suất lao động phản ánh lượng sản phẩm mà một lao động tạo ra trong một đơn vị thời gian (giờ, ngày, tháng, năm). Nghịch đảo của nó là suất hao phí lao động (HLĐ) biểu thị bằng công thức: HLĐ = T (1.9) Q HLĐ phản ánh lượng lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Lượng hao phí này cần tính đầy đủ cho tất cả các khâu để hoàn thành 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh (SXKD) 1 sản phẩm hay dịch vụ. Về nguyên tắc, suất hao phí càng thấp thì hiệu quả càng cao và ở đây mức chuẩn để đánh giá hiệu quả sử dụng lao động là năng suất lao động bình quân của ngành. d- Chỉ tiêu mức sinh lời bình quân của lao động. Chỉ tiêu này cho chiết mỗi lao động tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong 1 chu kỳ tính toán xác định, nó được xác định bởi công thức sau: PBQ = PR (1.10) L PBQ : Lợi nhuận bình quân/1 lao động trong kỳ tính toán. PR : Lợi nhuận ròng của kỳ tính toán L : Tổng số lao động bình quân của kỳ tính toán. e- Số vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh. Vốn được ví như là “máu” của doanh nghiệp. Vì vậy vốn luân chuyển càng tốt, càng điều hoà càng có lợi và là điều kiện tốt để nâng cao HQKD cho doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được xác định bởi công thức: Số vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh = Doanh thu (1.11) Vốn kinh doanh g- Hiệu quả sử dụng nguyên liệu. Trong sản xuất công nghiệp có nhiều trường hợp nguyên liệu chiếm tới 70-80% giá thành sản phẩm, trong đó có những nguyên liệu đặc chủng, đắt giá. Vì vậy quản lý, sử dụng nguyên liệu có hiệu quả luôn là đòi hỏi đối với mọi doanh nghiệp để giảm giá thành, nâng cao HQKD. Một trong các chỉ tiêu dễ nhận biết của hiệu quả sử dụng nguyên liệu là tiêu hao nguyên vật liệu trên đơn vị sản phẩm. Ngoài những chỉ tiêu có thể định lượng chi tiết như trên, HQKD của doanh nghiệp còn được biểu hiện ở mặt định tính như về uy tín. Vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, danh tiếng thương hiệu của doanh nghiệp đã diễn biến tăng hay giảm theo thời gian, ngày nay người ta có thể định lượng được các giá trị này của doanh nghiệp, tuy nhiên không phải dễ dàng tính được cho tất cả, nên các chỉ tiêu này vẫn còn mang định tính nhưng có rất có ý nghĩa trong chiến lược dài hạn của doanh nghiệp và trong từng thời kỳ cụ thể nó có tác động lên các chỉ tiêu hiệu quả định lượng của doanh nghiệp, thông qua việc tác động lên tâm lý của người tiêu dùng về uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp. Tuỳ theo từng điều kiện của không gian, thời gian và tính chất đặc thù của các nhân tố để chúng có vị trí quan trọng và tác động khác nhau lên hoạt động và HQKD của doanh nghiệp. Nhưng giữa chúng luôn có mối quan hệ hữu cơ giữa những nhân tố trong một hệ thống nhân tố tương tác lẫn nhau mà kết quả mang lại có ý nghĩa như: tác dụng của một hợp lực hiểu theo nghĩa vật lý lên kết quả và hiệu quả của doanh nghiệp. h- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội. Dưới góc độ nền kinh tế quốc dân, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều có tác động đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển của nền kinh tế, nghĩa là phải xem xét các lợi ích kinh tế xã hội mà doanh nghiệp mang lại. Lợi ích kinh tế xã hội thu được so với chi phí mà nền kinh tế xã hội phải bỏ qua hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Những lợi ích mà xã hội thu được chính là sự đáp ứng của doanh nghiệp đối với thực hiện các mục tiêu chung của xã hội, của nền kinh tế sự đáp ứng này có thể đem lại tính tính chất kinh doanh của doanh nghiệp. - Các chỉ tiêu định lượng đánh giá lợi ích kinh tế, xã hội của doanh nghiệp thể hiện như sau: - Mức đóng góp vào ngân sách Nhà nước từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (như thuế doanh thu, thuế thu nhập, thuế VAT, thuế xuất nhập khẩu, …). - Số lượng lao động có việc làm từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Số lao động có việc làm ở đây bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp ở doanh nghiệp và số lao động có việc làm gián tiếp của doanh nghiệp liên đới về phía đầu vào và đầu ra. - Các chỉ tiêu tiết kiệm ngoại tệ: Đây là chỉ tiêu thể hiện tác động của doanh nghiệp đến cán cân thanh toán quốc tế của đất nước. . Những tác động định tính từ hoạt động của doanh nghiệp được thể hiện ở các mặt như sau: - Nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất, trình độ nghề nghiệp của người lao động, trình độ quản lý của các quản trị viên. Điều này góp phần vào việc nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực cho đất nước. - Những ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng kinh tế như giao thông, điện cấp thoát nước. - Tác động tới môi trường: Những yếu tố đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp có ảnh hưởng tới môi trường sinh thái tự nhiên. Những ảnh hưởng này có tác động tích cực và tiêu cực, … nếu có tác động tiêu cực thì cần phải có chi phí cho các giải pháp khắc khục hiệu quả. Nếu chi phí này lớn hơn lợi ích mà xã hội nhận thức được thì sự tồn tại của doanh nghiệp là không thể chấp nhận được. - Những tác động đến mặt xã hội, chính trị và kinh tế khác như tận dụng và khai thác các nguồn tài nguyên chưa được quan tâm, tiếp nhận các công nghệ và ngành nghề mới tham gia vào phân công lao động quốc tế. - Mỗi doanh nghiệp cần phải có trách nhiệm góp phần giải quyết các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, lợi ích mà doanh nghiệp đem lại cho xã hội phải lớn hơn cái gì xã hội phải trả lại cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế – xã hội mà doanh nghiệp đem lại càng lớn thì doanh nghiệp sẽ được hưởng các ưu đãi nền kinh tế dành cho. 1.1.4- Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trước hết, do sự chi phối của “Quy luật khan hiếm” buộc các doanh nghiệp nói riêng và các nhà quản lý nền kinh tế xã hội nói chung, phải cân nặng việc quản lý, sử dụng các nguồn lực sản xuất hạn chế của xã hội như thế nào để đủ thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người. Chính vì vậy đã buộc các doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn lực sao cho có hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất và đây cũng chính là một tất yếu để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Thứ hai, các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường là luôn tồn tại trong cạnh tranh, để tồn tại và phát triển được trong môi trường này thì doanh nghiệp phải có và luôn tạo ra và duy trì được các lợi thế cạnh tranh của mình, có thể bằng chất lượng tốt hơn, dịch vụ hậu mãi tốt hơn hay giá rẻ hơn … so với các doanh nghiệp khác sản xuất kinh doanh cùng sản phẩm. Để có thể làm được điều này thì chỉ bằng cách nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua tiết kiệm chi phí và nâng cao năng suất lao động. Thứ ba: Mục tiêu sau cùng, bao quát và dài hạn của mọi doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường là tối đa hoá lợi nhuận và là mục tiêu quan trọng nhất của doanh nghiệp. Vì vậy không chỉ tạo ra và duy trì khả năng cạnh tranh để tồn tại và phát triển là đủ, mà các doanh nghiệp còn mong muốn có lợi nhuận nhiều nhất và ngày càng cao trong điều kiện có thể được. Để có thể thực hiện được mong muốn này, thì doanh nghiệp phải thường xuyên tìm mọi giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh và tạo ra lợi thế cạnh tranh mới cho doanh nghiệp. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh là một tất yếu cần thiết, không chỉ đối với mọi doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường để cạnh tranh, tồn tại và phát triển và thu được lợi nhuận cao nhất, mà đối với các nhà quản lý nền kinh tế là để đòi hỏi các doanh nghiệp luôn sử dụng nguồn lực sản xuất xã hội một cách có hiệu quả nhất, trong điềun kiện ràng buộc có sự khan hiếm, để nèn kinh tế quốc doanh có thể phát triển một cách tối ưu, vươn tới tiệm cận với đường giới hạn tiềm năng của nền kinh tế, và ở đây hiệu quả bao hàm cả ý nghĩa của sự bền vững. 1.1.5- Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào quy mô, ngành nghề kinh doanh của từng loại doanh nghiệp mà nhân tố hiệu quả ảnh hưởng đến. Dưới đây là một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến HQKD của các doanh nghiệp. 1.1.5.1- Các nhân tố bên trong - Lực lượng lao động. Lao động là yếu tố đầu vào và quan trọng bậc nhất và có tính chất quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; mặc dù ngày nay kỹ thuật và công nghệ đã can thiệp hoặc thay thế được lao động của con người trên nhiều lĩnh vực. Công nghệ, kỹ thuật tiên tiến là một yếu tố có tính quyết định đến năng suất lao động và có hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đôi khi kỹ thuật công nghệ có ý nghĩa quan trọng đến mức người ta đã xem nó như một lực lượng sản xuất trực tiếp. Tuy nhiên dù công nghệ, kỹ thuật có tân tiến đến đâu thì nó cũng chỉ là công cụ, là phương tiện để giúp con người trong hoạt động và do chính con người sáng tạo ra mà thôi. Yếu tố con người mới quyết định thành, bại của doanh nghiệp, vì lực lượng lao động quyết định từ khâu ý tưởng kinh doanh ban đầu cho đến khâu cuối cùng là cung ứng tiêu thụ sản phẩm tới khách hàng và dịch vụ hậu mãi. Ngày nay nhân loại đang từng bước phát triển nền kinh tế tri thức; đòi hỏi lực lượng lao động phải có kiến thức, kỹ năng rất cao và phải đặc biệt tinh nhuệ trong lao động, điều nay đã một lần nữa khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của lực lượng lao động trong sản xuất kinh doanh nói chung và trong việc nâng cao hiệu quả kdcủa doanh nghiệp. Từ vai trò và ý nghĩa của lực lượng lao động đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nêu trên, ngày nay khi nói đến lực lượng lao động của doanh nghiệp là không chỉ về số lượng mà quan trọng hơn là bao hàm cả chất lượng. Trong doanh nghiệp công nghiệp sản xuất VLXD nói chung và DNN&V sản xuất VLXD nói riêng, vai trò nhân tố lao động cũng có ý nghĩa lớn lao như trên, đặc biệt trong công nghiệp sản xuất vật liệu mới, hay sản xuất VLXD từ sử dụng nguyên liệu là tài nguyên khoáng sản quý, hiếm hoặc hoạt động môi trường nguy hiểm … càng cần có đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao và tinh nhuệ. - Trình độ công nghệ, khả năng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật. Công cụ lao động là nhân tố thứ 2, cùng với lao động tạo nê sức mạnh của lực lượng sản xuất. Lịch sử phát triển của xã hội đã chứng minh được rằng, cứ mỗi thời kỳ con người sáng tạo ra được thế hệ công cụ mới thay đổi về chất thì cũng làm thay đổi về năng suất lao động, về đời sống kinh tế xã hội và hoạt động của con người. Ngày nay con người đã thống nhất một luận điểm cho rằng “ Công nghệ là chìa khoá để làm chủ sự phát triển kinh tế xã hội, ai nắm được công nghệ thì người đó sẽ làm chủ tương lai” {21}. Với giá trị và ý nghĩa như vậy thì các doanh nghiệp luôn hoạt động trong môi trường cạnh tranh, yêu cầu làm chủ công nghệ và phát triển cơ sở vật chất đồng bộ với công nghệ là một đòi hỏi không ngừng và cần thiết, để cạnh tranh, để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, bởi công nghệ và thiết bị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp. Nhưng không phải bằng mọi giá và lúc nào các doanh nghiệp cũng không cần phải có công nghệ và cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến, bời vì điều nay luôn luôn phù hợp và mang lại hiệu quả kinh doanh thực sự cho doanh nghiệp, và không phải lúc nào, doanh nghiệp nào cũng đủ điều kiện để thực hiện được. Đối với từng doanh nghiệp, trong từng thờu kỳ việc đầu tư và làm chủ được công nghệ – thiết bị mới cần phải tự lượng sức mình trong chiến lược đầu tư. Vì cho dù rất cần thiết trong phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng đầu tư công nghệ và cơ sở hạ tầng làm hao tốn nhiều vốn, nên việc đầu tư và làm chủ nó cần phải “ lựa chọn công nghệ thích hợp”{21}, vừa để tồn tại, để đứng vững và cạnh tranh phát triển được trên thương trường, nhưng cũng tránh được tình trạng “ vung tay quá trán”trong đầu tư, dẫn tới lãng phí và không những không phát huy được hiệu quả mà còn tạo nên thua lỗ cho doanh nghiệp. Trong sản xuất VLXD, phổ biến có yê cầu đầu tư TSCĐ giá trị lớn và được nhập từ nước ngoài, nên việc chọn công nghệ thích hợp càng trở lên thiết thực đối với doanh nghiệp nước ta. Bởi vì hiện nay chúng ta sản xuất VLXD chủ yếu cho tiêu thụ trong lãnh thổ và thay thế hàng nhập ngoại (hoặc thay thế một phần), tuy nhiên không vì thế mà để cho doanh nghiệp nhập nhiều công nghệ ,thiết bị lạc hậu, hao tốn nguyên nhiện vật liệu, giá thành cao nhưng chất lượng không cao vì kém khả năng cạnh tranh, nếu tham gia xuất khẩu, như một số thiết bị sản xuất xi măng, sản xuất đá ốp – lát trang trí, … hay một số máy công cụ cơ giới phục vụ cho sản xuất VLXD dạng secand – hand được nhập tràn lan như thời gian qua, có thể ở thời kỳ trước đây phần nào chúng ta phát huy được tác dụng ban đầu cho thúc đẩy kinh tế chung và mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, nhưng trong những năm gần đây và về lâu dài, chính điều đó đã gây thiệt hại, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và tác động xấu đến sự phát triển của cả ngành. - Nhân tố quản trị doanh nghiệp. Quản trị doanh nghiệp là sản phẩm của một bộ phận nhân lực quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp đó. Với vai trò này, càng ngày nhân tố quả trị càng trở lên quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để đảm bảo thành công và hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra cho hoạt động của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh thường trực tồn tại sự cạnh tranh thì việc xác định, định hướng và mục tiêu đúng, tổ chức, quản lý thực hiện đúng theo định hướng, kiểm tra, điều chỉnh để thực hiện đúng theo định hướng và đạt được mục tiêu đề ra là quan trọng đối với một doanh nghiệp. Quản trị doanh nghiệp là nhằm để thực hiện quá trình này, bao gồm từ lúc xây dựng chiến lược kinh doanh cho đến lúc thực hiện hoàn thành toàn bộ chiến lược và xác lập chiến lược mơi, là một quá trình “Động” và liên tục diễn ra, liên tục xuất hiện yếu tố mới, vấn đề mới. Chính vì vậy, nhân quá quản trị doanh nghiệp chịu tác động chi phối theo quan hệ nhân – quả của trình độ, năng lực, nhãn quan và tư cách phẩm chất, … của đội ngũ các nhà quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là các nhà quản trị cao cấp lãnh đạo doanh nghiệp. Và trong điều kiện quyền sở hữu doanh nghiệp và quyền lãnh đạo doanh nghiệp tách rời nhau (như trường hợp của doanh nghiệp nhà nước, hay thuê giám đốc doanh nghiệp) thì chất lượng của công tác quản trị doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng chịu ảnh hưởng lớn vào chất lượng của đội ngũ các nhà quản trị cao cấp của doanh nghiệp. - Hệ thống thông tin quản lý doanh nghiệp: “Thương trường” luôn được ví như “chiến trường” và với quan niệm này thì “ Biết địch biết ta trăm trận trăm thắng”. Để có thể giành phần thắng trong cạnh tranh các doanh nghiệp không chỉ “Biết” rõ về đối thủ cạnh tranh, nắm bắt được thông tin thị trường và môi trường kinh doanh mà doanh nghiệp cần phải “biết” rõ về bản thân doanh nghiệp. Vì vậy, không còn cách nào khác ngoài việc phải đủ thông tin, trong đó đặc biệt là thông tin kinh tế vì “ Thông tin kinh tế có thể coi như huyết mạch của các doanh nghiệp và của các tổ chức kinh tế”; Trong điều kiện ngày nay thế giới đang từng bước tiến vào nền kinh tế tri thức và hội nhập toàn cầu hoá nền kinh tế đang xu thế gần như tất yếu và diễn ra mạnh mẽ, với những dòng thông tin đa dạng, đa chiều chảy như vũ bão, không chỉ ở giữa các quốc gia và trong từng quốc gia, lãnh thổ,để có thể ra được những quyết định đầu tư và kinh doanh đúng đắn, doanh nghiệp cần phải có đủ và chắt lọc được những thông tin đắt giá có liên quan từ những dòng thông tin khổng lồ này và có những tiếp cận đối lưu cần thiết với nó. Để làm được điều đó doanh nghiệp không những cần phải có hệ thống xử lý trao đổi thông tin, mà cần phải là hệ thống thích hợp với môi trường và mức độ cần thiết của doanh nghiệp, bảo đảm đủ độ thông suốt, nhanh nhạy, an toàn trong giao tiếp điều hành nội bộ và với các đối tượng bên ngoài, có như vậy thì doanh nghiệp mới có thể kịp thời nắm bắt thời cơ kinh doanh hay thoát khỏi, hạn chế nhưng rủi ro có thể xảy ra trong kinh doanh. Hiện nay các doanh nghiệp công nghiệp nước ta hầu hết đều có đầu tư các thiết bị máy móc để xử lý thông tin kinh doanh và thực hiện quản lý doanh nghiệp, nhưng số doanh nghiệp thực sự đầu tư và phát huy được mang thông tin quản lý doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu như trên thì chưa nhiều, do đó chưa thể phát huy được hết hiệu suất và tiện ích của chúng trong quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhất là doanh nghiệp Nhà nước cũng tồn tại tình trạng này. - Nhân tố tính toán kinh tế. Để có thể đánh giá hiệu quả kinh doanh được chính xác, phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố này và phương pháp tính toán được chọn. Tuy nhiên để có thể xác định chính xác được chính xác và hao phí nguồn lực bỏ ra cho kết quả người ta thường dùng lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận để đánh giá hiệu quả kinh doanh, vậy tương ứng chi phí chính là nguồn lực hao phí để tạo ra lợi nhuận đó. Để tính được chi phí người ta thường dùng chi phí tính toán, trong đó có thể là chi phí tài chính hay chi phí kinh doanh và mặc dù chi phí kinh doanh thường gần với chi phí “thực” hơn, nhưng do thói quen quản lý và phải áp dụng nguyên tắc Nhà nước thống nhất nên hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước đều sử dụng chi phí tài chính để tính chi phí hoạt động, đồng thời cũng để lập báo cáo với nhà nước, hãn hữu mới có nhà quản trị doanh nghiệp cho lập chi phí kinh doanh toàn bộ doanh nghiệp, một số khác chỉ xác lập chi phí kinh doanh ở một số khâu, một số lĩnh vực khi thấy cần thiết mà thôi. Vì vậy trong giới hạn của luận văn cũng chỉ có thể thu thập được các số liệu tài chính để phân tích. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp luôn chịu sự tác động thường xuyên và quan trọng của môi trường bên ngoài cả trực tiếp lẫn gián tiếp lên doanh nghiệp gồm: - Nhân tố môi trường pháp lý: Về nguyên tắc mọi doanh nghiệp hoạt động đều phải tuân theo pháp luật, bao gồm luật và các văn bản pháp quy dưới luật, đây là môi trường pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp, nó thường xuyên tác động lên kết quả và “luật chơi” công khai cho các doanh nghiệp cùng tham gia hoạt động trong môi trường này, đồng thời môi trường pháp lý còn là trọng tài khi cần thiết xử lý tranh chấp của doanh nghiệp. Vì vậy, việc được môi trường pháp lý vừa thông thoáng, vừa chặt chẽ và bình đẳng cho mọi doanh nghiệp hoạt động, giúp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh với nhau, phát huy hết nội lực tạo ra được hiệu quả “thực” của doanh nghiệp và còn giúp cho công tác quản lý vĩ mô có thể điều tiết, can thiệp một cách khoa học lên hoạt động của doanh nghiệp, nhằm hướng tới hiệu quả kinh tế – xã hội chung của nền kinh tế. Môi trường pháp lý quy định hành vi của doanh nghiệp hoạt động trong môi trường đó, có thể khai thác, tận dụng những thuận lợi, thời cơ của môi trường này để nâng cao hiệu quả kinh doanh và tránh được những rủi ro đối với doanh nghiệp. Vì vậy nếu doanh nghiệp hoạt động trên thị trường quốc tế hoặc ở các lĩnh vực liên quan đến quốc tế, thì cũng cần thiết phải nắm bắt rõ luật pháp của quốc tế, ít nhất là về những gì liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. “Sân chơi” và “luật chơi” càng thông thoáng, càng bình đẳng và chặt chẽ, càng có tác dụng tích cực lên hoạt động của doanh nghiệp và tiết kiệm được nguồn lực xã hội. - Nhân tố môi trường kinh tế. Các doanh nghiệp luôn chịu sự chi phối của chiến lược phát triển kinh tế chung của nền kinh tế quốc dân, đây là “chiến lược tổng” cho các chiến lược bộ phận khác, trong đó có của doanh nghiệp … sự tác động, chi phối này được thể hiện qua các chính sách để thực thi chiến lược đó. Những chính sách dù của cấp nào phát triển kinh tế, về đầu tư, về cơ cấu vùng, miền, ngành nghề, về thuế quan, về tỷ suất hối đoái, về phát triển nhân lực, … điều có tác động trực tiếp, mạnh mẽ và thường là lâu dài lên hoạt động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp . Môi trường kinh tế, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh trong nước và thu hút được đầu tư nước ngoài, hạn chế được độc quyền và cạnh tranh không bình đẳng … hay ngược lại, đều có tác động mạnh lên kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngày nay trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, nhân tố môi trường kinh tế của một nước, một nền kinh tế chịu sự tác động trực tiếp và mối liên hệ tương hỗ hữu cơ với quốc tế và khu vực, không chỉ về các chính sách thuế quan tác động lên mọi hàng hoá, mà còn mở các chính sách, hàng rào phi thuế quan khác như về bảo vệ môi trường, về sử dụng lao động, … với nước ta đang trong lộ trình gia nhập AFTA và trong các vòng đàm phán gia nhập APECT, WTO, … sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh lớn cả trên thị thị trường trong nước cũng như trong xuất khẩu. Bên cạnh đó môi trường kinh tế còn chịu sự tác động mạnh và trực tiếp của nhân tố ổn định chính trị xã hội là tiền đề để phát triển kinh tế. ở nơi nào không ổn định như do chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, hay do tồn tại nhiều tổ chức kinh tế “ngầm” chi phối, … thì nền kinh tế cũng phát triển bấp bênh kèm hiệu quả và do đó gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động và hiệu quả kinh doanh của hệ thống doanh nghiệp nói chung của nền kinh tế đó. - Những nhân tố cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng giống như một phần quan trọng của cái nền vật chất, cho kinh tế – xã hội và các doanh nghiệp phát triển trên đó. Nó bao gồm các công trình thuộc hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, cung cấp điện, nước; Các công trình dịch vụ, phúc lợi đời sống và xã hội khác như các cơ sở y tế, các công trình hạn chế thiên tai, … tất cả đều có tác động mạnh mẽ lên hoạt động và HQKD của doanh nghiệp; Nếu các yếu tố này thuận lợi, tốt sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, làm cho thị trường thông thoáng năng động để từ đó doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác. - Những nhân tố thuộc tài nguyên, địa lý và môi trường thiên nhiên. Những nhân tố tự nhiên tạo ra những lợi thế hay bất lợi cho doanh nghiệp, trong phát triển sản xuất kinh doanh và cạnh tranh, sự dồi dào hay khan hiến tài nguyên cục bộ của lãnh thổ, sự thuận lợi hay khó khăn khắc nghiệt của địa lý và môi trường thiên nhiên đều có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh hay là yếu tố tăng chi phí cho doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Mặc dù ngày nay các lợi thế so sánh về nhân tạo ngày càng tăng giá trị, nhưng các lợi thế viề tự nhiên nhưng vẫn rất có ý nghĩa, nhiều khi có ý nghĩa quyết định trong định hướng chiến lược và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là về tài nguyên khoáng sản, rừng biển, vị trí địa lý thuận lợi trong giao thương, hay điều kiện tự nhiên thuận lợi cho mùa vụ sản xuất, … Công nghiệp sản xuất VLXD chịu sự tác động mạnh mẽ, có lúc là tác động chi phối của những nhân tố tự nhiên này, nhất là khi doanh nghiệp sử dụng trực tiếp hay sản phẩm trung gian từ tài nguyên khoáng sản, nông – lâm – thuỷ sản làm nguyên liệu sản xuất. - Các nhân tố thuộc liên ngành công nghiệp khác. Trong hoạt động, các doanh nghiệp luôn chịu sự tác động tương hỗ vừa có tính chất cạnh tranh, vừa hợp tác của các doanh nghiệp khác, của các ngành công nghiệp khác. Thành tựu của một ngành công nghiệp này tạo điều kiện lao động cho các ngành, các doanh nghiệp khác, … nhưng có lúc ngược lại, nhất là khi xuất hiện sản phẩm thay thế với ưu thế hơn về tính năng hay giá cả. Trong trường hợp với công nghiệp sản xuất VLXD cũng không ngoài quy luật này. 1.2 - VỊ TRÍ VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 1.2.1- Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa trên thế giới và Viẹt Nam. Tiêu chí để xác định các DNN&V thường dựa vào một số căn cứ sau đây: - Các tiêu chí thường là: Vốn, lao động, doanh thu. Có nước chỉ dùng một tiêu chí, nhưng cũng có nước dùng một số tiêu chí để xác định DNN&V. Một số nước dùng tiêu chí chung cho tất cả các ngành, nhưng cũng có nước dùng tiêu chí riêng để xác định DNN&V trong từng ngành. - Tiêu chí để xác định các DNN&V của các nước khác nhau có khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện từng nước, cũng như quan điểm về chính sách của từng nước Bảng 1.1 giới thiệu tiêu chí xác định DNN&V ở một số nước Nước Loại doanh nghiệp Các chỉ tiêu áp dụng Số lao động (người) Tổng vốn Doanh thu CHLB Đức DNN&V < 250 < 100 triệu DMác trong đó: DN nhỏ < 9 < 1 triệu DMác Ôxtrâylia Canada DNN&V < 500 Riêng Canada < 20 triệu đô la Canada Nhật DNN&V trong CN < 300 < 100 triệu yên DNN&V trong buôn bán < 100 < 30 triệu yên DNN&V trong bán lẻ < 50 < 10 triệu yên Hồng Kông DNN&V trong CN DNN&V trong DV < 100 < 50 Indonesia DNN&V Trong đó: DN nhỏ DN cực nhỏ < 200 < 20 < 2 triệu Rupia < 600 triệu Rupia < 2 tỷ Rupia < 50 triệu Rupia < 1 tỷ Rupia Hàn Quốc DNN&V trong CN DNN&V trong DV < 100 < 20 Mêxicô < 250 < 7 triệu USD Philippines DNN&V Trong đó: DN cực nhỏ Hộ thủ công DN nhỏ < 200 < 9 < 9 10-99 < 2 triệu Rupia < 600 triệu Rupia 1,5-15 triệu pêxô < 60 triệu pêxô < 150.000 pêxô < 150.000-1,5 triệu pêxô Singapore < 100 < 499 triệu S $ Myamar DNN&V <100 Thái Lan <100 < 20 triệu Baht Mỹ <500 Ba Lan < 200 Malaysia DNN&V Trong đó: DN nhỏ < 200 < 50 <2,5 triệu đô la Malaysia <0,5 triệu đô la Malaysia - Do chí để xác định các DNN&V phụ thuộc vào ý đồ chính sách, khả năng hỗ trợ (về vật chất) của chính phủ ở từng thời kỳ nên các tiêu chí xác định DNN&V ở một số nước cũng không phải là không thay đổi. Trái lại, các tiêu chí này cũng thay đổi theo thời gia tuỳ thuộc vào ý đồ và chiến lược của Chính phủ muốn hỗ trợ ngành nào hoặc doanh nghiệp quy mô nào ở từng thời kỳ phát triển của nước đó. - Ngay trong cùng một nước, các tiêu chí để xác định DNN&V được nhận hỗ trợ của một tổ chức nào đó cũng không phải bao giờ cũng trùng với tiêu chí theo quy định trong luật của Chính Phủ (đối với những nước có luật về DNN&V). Tuy nhiên, nếu chính sách của nhà nươc thì tất nhiên chính sách đó phải tuân thủ pháp luật và phải lấy tiêu chí do luật định để xác định các đối tượng hưởng các chính sách đó. Việt nam khi bước vào thiên niên kỷ thứ 3, do yêu cầu của thực tiễn một số tiêu thức phân loại doanh nghiệp đã được xây dựng bởi nhiều nhà nghiên cứu, tổ chức nhà nước và tổ chức phi chính phủ. Đặc biệt, ngày 23 tháng 11 năm 2001 đã ban hành văn bản pháp lý ở mức độ cao để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển DNN&V. Đó là nghị định số 90/2001 NĐ-CP về “ Trợ giúp phát triển DNN&V”. Nghị định 90 quy định: “ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Theo định nghĩa này khu vực DNN&V ở Việt Nam bao gồm. - Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp. - Doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước. - Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo luật hợp tác xã. - Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3 tháng 2 năm 2000 của Chính Phủ về đăng ký kinh doanh. 1.2.2. Vai trò của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các tổ chức kinh doanh vừa và nhỏ ở bất cứ quốc gia nào đều giữ một vai trò rất quan trọng và hỗ trợ cho tiến trình phát triển kinh tế, không chỉ trong những giới hạn cho phép đáp ứng nhu cầu trong cả nước mà còn hỗ trợ các công ty đa quốc gia. Chính phủ nhiều quốc gia đã công nhận vai trò các loại hình doanh nghiệp này được coi là nguồn động lực và sức mạnh kinh tế cho sự phát triển mới và phát triển các mối quan hệ kinh doanh. Vai trò của các DNN&V trước hết thể hiện cụ thể ở mức độ đóng góp vào sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, thu hút lao động, vốn đầu tư, tạo ra giá trị gia tăng, góp phần tăng trưởng kinh tế, là tầng cơ sở trong cấu trúc của nền sản xuất xã hội. Số liệu thống kê của các nước cho thấy, tỷ trọng thu hút lao động, tạo ra giá trị gia tăng của khu vực các doanh nghiệp DNN&V ở một số nước trong khu vực châu á là đáng kể. Bảng số liệu dưới đây cho biết tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của V ở một số nước châu á. Bảng 1.2: Tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các DNN&V ở một số nước Châu á. Nước Thu hút lao động (%) Giá trị gia tăng (%) Singore 35,2 26,6 Malaisia 47,8 36,4 Hàn Quốc 37,2 21,1 Nhật Bản 55,2 38,8 Hồng Kông 59,3 - Nguồn {13}. Từ số liệu của các nước cho thấy, các DNN&V chiếm từ 81% đến 98% số doanh nghiệp, thu hút 30-60% lao động tạo ra 20%-40% giá trị gia tăng trong nền kinh tế. Như vậy, dù ở phát triển kinh tế cao hay thấp, DNN&V vẫn có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế các nước. Ở Việt nam, nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu là sản xuất nhỏ nên DNN&V chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp, cụ thể: Có khoảng 80% các DNN&V thuộc các nhóm DNN&V (Theo tinh thần của Nghị định 90/2001 NĐ-CP, ngày 23 tháng 11 năm 2001), khu vực kinh tế tư nhân các DNN&V chiếm khoảng 97% về vốn và khoảng 99% về lao động. Vào thời điểm đầu năm 2002, nếu tính tất cả các loại hình kinh doanh thì các DNN&V có trên 2 triệu đơn vị và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thu hút vốn, làm cho nền kinh tế năng động, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều đó được thể hiện qua các số liệu dưới đây: a- Cung cấp một khối lượng lớn, đa dạng và phong phú về sản phẩm, đóng góp vào kết quả hoạt động kinh tế. Ở Việt nam, chỉ tính riêng trong lĩnh vực công nghiệp, trung bình hàng năm các DNN&V đã tạo ra 30% giá trị sản lượng; hơn 50% giá trị công nghiệp địa phương và đóng góp khoảng 25% GDP. Năm 2003, xét về mặt sản lượng, khu vực ngoài quốc doanh ở Việt nam chiếm 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá, trong nhiều ngành nghề như gỗ xẻ, chiếu cói, giầy dép, mây tre đan, thủ công, mỹ nghệ, … {6} DNN&V sản xuất 100% sản phẩm. Hàng năm, DNN&V tạo ra 46% giá trị tổng sản phẩm xã hội; 31 % giá trị tổng sản lượng công nghiệp. Trong tổng mức hàng hoá và dịch vụ bán lẻ, hàng năm DNN&V cung cấp khoảng 80% tổng mức bán lẻ của thị trường xã hội. Nếu không có sự tồn tại của DNN&V với mọi loại hình sở hữu, thì thị trường nội địa rất có thể đã bị chiếm lĩnh bởi hàng hoá Trung Quốc, hàng ng._.hết là đội ngũ cán bọ kỹ thuật, cán bộ quản lý và các công nhân lành nghề. 3.3.1. Về phát triển và nâng cao hiệu quả của DNN&V công nghiệp. - Việc sắp xếp và phát triển các DNN&V công nghiệp nói chung và công nghiệp VLXD nói riêng thành các khu, cụm khai thác và sản xuất riêng biệt phải phù hợp với điều kiện cụ thể tại địa phương và có bước đi phù hợp với tình hình của tỉnh. Xây dựng cơ cấu DNN&V công nghiệp hợp lý để tránh tình trạng khai thác bừa bãi, sản xuất, kinh doanh phân tán, manh mún, … Đây là những tế bào quan trọng nhất của tỉnh trong tiến trình hội nhập king tế. - Việc xem xét đánh giá hiệu quả của các DNN&V công nghiệp phải có quan điểm toàn diện cả về mặt kinh tế, chính trị xã hội: trong đó lấy suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu đánh giá hiệu quả của DN kinh doanh,… 3.4 Các giải pháp để nâng cao HQKD các DNN&V sản xuất VLXD Để nâng cao HQKD và phát triển DNN&V sản xuất VLXD tỉnh Thái nguyên theo đúng quan điểm, mục tiêu và phương hướng nêu trên và để khắc phục những hạn chế đã trình bày ở trên, xin đề xuất một số giải pháp cơ bản sau: 3.4.1 Các giải pháp thuộc lĩnh vực quản lý Nhà nước về kinh tế 3.4.1.1 Các giải pháp về quy hoạch và cơ cấu lại ngành công nghiệp VLXD Có thể nói rằng, quy hoạch là kim chỉ nam cho xây dựng và phát triển mọi ngành, cũng như xác lập chiến lược phát triển địa phương và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, quy hoạch là giải pháp đầu tiên cần tính đến để phát triển công nghiệp nói chung, công nghiệp sản xuất VLXD và DNN&V sản xuất VLXD nói riêng. Trong thời gian qua, tỉnh Thái Nguyên chưa có quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp của tỉnh đến năm 2010 phù hợp với chiến lược phát triển của vùng và cả nước. Chưa có quy hoạch phát triển từng ngành sản xuất chính như ngành khai thác khoáng sản, ngành sản xuất VLXD,… Do đó, đã phần nào làm cho công nghiệp sản xuất VLXD phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa được tập trung đầu tư thích đáng, quy mô phán tán, sản phẩm chưa đa dạng, còn nặng về khai thác tính chất và tiềm năng tự nhiên sẵn có của nguyên liệu, vì vậy chưa khai thác được cao nhất giá trị có thể của sản phẩm. Công tác quy hoạch công nghiệp sản xuất VLXD trên địa bàn Thái Nguyên trong thời gian tới cần được thực hiện trên một số nội dung sau: - Trước hết lập quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp Thái Nguyên, ngành công nghiệp khai khoáng và ngành sản xuất VLXD bao gồm quy hoạch cả vùng nguyên liệu để sản xuất VLXD giai đoạn 2004 - 2010. Ssau đó cần công bố và phổ biến rộng rãi quy hoạch công nghiệp, quy hoạch VLXD, các quy hoạch chuyên ngành được duyệt trong từng thời kỳ và các dự án đầu tư dự kiến trên địa bàn cho các ngành, các địa phương, các DN và các nhà đầu tư nắm được, để tránh được sự đầu tư trùng lặp làm giảm hiệu quả đầu tư cho các DN và phức tạp trong quản lý quy hoạch. Đồng bộ trong triển khai, quản lý và nâng cao tính pháp lý của các dự án quy hoạch được duyệt. - Tiếp tục rà soát, khảo sát nâng cấp trữ lượng, đánh giá chi tiết thêm về chất lượng các mỏ khoáng sản nguyên liệu đang triển khai thác, cũng như các mỏ dự kiến khai thác để bổ sung tài liệu điều tra cơ bản cho điều chỉnh quy hoạch, định hướng sản phẩm mới của công nghiệp sản xuất VLXD trong thời gian tới, cho nhu cầu nguyên liệu trong thời kỳ 2005 - 2010 theo quy hoạch chung và quy hoạch chuyên ngành được duyệt; nhất là các mỏ sét cho công nghiệp sản xuất gạch Tuynen công suất lớn và mỏ than, quặng phục vụ cho công nghệ sản xuất thép. - Cơ cấu, quy hoạch lại công nghiệp sản xuất VLXD trong tổng thể quy hoạch ngành công nghiệp, nhất là đối với các sản phẩm cùng sử dụng chung nguồn nguyên liệu; nhằm bảo đảm sự phát triển cân đối chung, sử dụng bền vững và hiệu quả nguồn nguyên liệu và nguồn vốn đầu tư nói riêng. - Đẩy mạnh thực hiện các quy hoạch xây dựng hạ tầng cơ sở và hạ tầng kỹ thuật để phục vụ cho phát triển các ngành kinh tế nói chung trong đó có VLXD. Sản xuất VLXD liên quan đến nhiều ngành, trước hết là năng lượng và giao thông vận tải. Cơ sở hạ tầng ở tỉnh Thái Nguyên chưa phát triển, đường giao thông từ thành phố Thái Nguyên tới các tỉnh còn hẹp, chưa được nâng cấp. Đường quốc lộ 3 qua tỉnh mới đang được nghiên cứu lập dự án mở rộng, nâng cấp nhưng chưa được thực hiện. Đặc biệt, đường giao thông từ tỉnh lỵ tới các huyện về thị xã tuy đã có đường ôtô nhưng còn kém phát triển, do đó đã ảnh hưởng trở ngại tới sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và của ngành khai thác, ngành sản xuất VLXD. Bên cạnh đó, Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế và văn hoá giữa vùng trung du và miền núi và miền núi phía Bắc, nơi có khối lượng vận tải nguyên liệu, hàng hoá, sản phẩm ra vào lớn giao thông đang chủ yếu là đường bộ. Vì vậy, cơ sở hạ tầng cần được quan tâm hàng đầu. 3.4.1.2 Các giải pháp về đổi mới và phát triển công nghệ sản xuất Để góp phần tăng khả năng cạnh tranh và HQKD cho các DNN&V sản xuất VLXD trong điều kiện công nghệ - thiết bị chủ yếu là trung bình và lạc hậu, cần thiết thực hiện một số giải pháp sau: - Xây dựng ban hành quy chế hạn chế và tiến đến chấm dứt các công nghệ sản xuất lạc hậu, công đoạn thủ công trong quy trình sản xuất và tình trạng vượt quá tiêu chuẩn an toàn môi trường và an toàn lao động trong sản xuất vào năm 2005. Trong phát triển và đánh giá DNN&V, lấy việc đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ và nâng cao HQKD làm mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, không phát triển theo hướng "quảng canh" làm giảm sút hiệu quả đầu tư. - Thành lập quỹ khuyến công và đẩy mạnh hoạt động công tác khuyến công, nhằm có sự hỗ trợ thiết thực cho công tác nghiên cứu phát triển công nghệ mới, sản phẩm mới cả các DN, nhất là cho các sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm VLXD cao cấp. 3.4.1.3 Các giải pháp về phát huy, nâng cao hiệu lực quản lý ngành - Trước hết cần tăng cường hiệu lực quản lý, nâng cao tính pháp lý và tính đồng bộ giữa các quy hoạch chuyên ngành liên quan và quy hoạch tổng thể của địa phương, của các cơ chế, chính sách liên quan đến hoạt động của các DN nói chung và DNN&V nói riêng nhằm giúp đỡ các DNN&V hoạt động đúng quỹ đạo của pháp luật. - Xúc tiến nhanh và quản lý chặt chẽ lộ trình đổi mới và hiện đại hoá công nghệ - thiết bị của các DNN&V sản xuất VLXD, đồng bộ với các giải pháp hỗ trợ DNN&V. Đặc biệt ngành cần tham mưu cho địa phương ban hành quyết định liên quan đến việc khai thác cát, sỏi trên các dòng sông của tỉnh. - Khuyến khích các DN thực hiện khấu hao TSCĐ nhanh để đổi mới công nghệ - thiết bị; việc đổi mới, hiện đại hoá công nghệ có thực hiện từng phần, từng công đoạn trong dây chuyền và trước hết cho những khâu có tác động mạnh đến hạ giá thành hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm. - Không phân biệt đối xử với các loại hình DN tham gia SXKD sản phẩm VLXD trên địa phương. - Tham mưu cho tỉnh và cùng với DNN&V xây dựng quy chế phối hợp trong công tác quản trị DN, giữa lãnh đạo tỉnh các tổ chức chính trị, đoàn thể và lãnh đạo khối DNN&V một cách thực chất. - Tập trung đầu mối quản lý ngành về DNN&V sản xuất VLXD, tăng hiệu quả, hiệu lực phối hợp công tác quản lý nhà nước đối với DN trong trường hợp phải chịu sự quản lý đa ngành. - Cùng với ngành, UBND tỉnh và các tổ chức phi chính phủ thực hiện hỗ trợ DNN&V trong xúc tiến đầu tư, súc tiến thương mại; trong các chính sách khuyến công, chính sách hỗ trợ DNN&V, chính sách khao học công nghệ… - Định kỳ hàng năm cùng với tỉnh và các DNN&V sơ kết, tổng kết kịp thời các chương trình công tác, chương trình hành động thực hiện nghị quyết liên quan đến DNN&V và ngành để cùng tìm biện pháp tiếp tục thực hiện hay đề xuất những chương trình mới nằm thúc đẩy DNN&V phát triển. 3.4.1.4 Huy động các nguồn vốn để phát triển sản xuất VLXD. Để tạo lập nguồn vốn cho phát triển VLXD cần huy động từ nhiều nguồn khác nhau như: vốn tự có, vốn vây, phát triển trái phiếu, cổ phần hoá. Có biện pháp thu hút vốn đầu tư cảu nước ngoài: Liên doanh, đầu tư 100%, … đối với các DN quốc doanh, tỉnh cần có chính sách tín dụng phù hợp cho từng giai đoạn và từng chủng loại sản phẩm. 3.4.1.5 Nghiên cứu xây dựng và ban hành các chế độ chính sách hỗ trợ sản xuất, ổn định và mở rộng thị trường VLXD. Nghiên cứu các chế độ chính sách tạo mặt bằng pháp lý chung cho các loại hình doanh nghiệp khi tham gia sản xuất VLXD. Nghiên cứu các biện pháp kích cầu VLXD ở khu vực nông thôn. Hỗ trợ sản xuất và có chính sách bảo hộ hợp lý các sản phẩm VLXD trong tỉnh tiến tới tiêu thụ sản phẩm VLXD ở các tỉnh trong cả nước và xuất khẩu một số sản phẩm VLXD. 3.4.1.6 Tiếp tục xúc tiến điều tra cơ bản và xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài của ngành VLXD. Tỉnh cần có kế hoạch dành một tỷ lệ thích đáng về vốn cho công tác điều tra địa chất các mỏ nguyên liệu làm VLXD và thu hồi lại khi các DN sử dụng nguồn tài nguyên này. Đẩy nhanh tốc độ xây dựng hạ tầng cơ sở theo quy hoạch của ngành. Trong đó hệ thống giao thông là yếu tố quan trọng hàng đầu hỗ trợ cho sự phát triển của ngành công nghiệp VLXD của tỉnh. 3.4.2 Các giải pháp đối với DNN&V sản xuất VLXD 3.4.2.1 Giải pháp về thị trường - Cần nâng cao danh tiếng, uy tín sản phẩm, thương hiệu DN trên thương trường trong và ngoài nước; thông qua chất lượng sản phẩm, thời hạn cung ứng, qua việc giải quyết tốt mối quan hệ với khách hàng cả đầu vào và đầu ra của snả phẩm nhằm tạo được mối quan hệ với bạn hàng thực sự trong sản xuất kinh doanh, bởi vì chính khách hàng là người trả tiền và mang lại lợi nhuận cho DN. Bên cạnh đó, còn xử lý tốt mối quan hệ với các cơ quan quản lý vĩ mô không chỉ mục đích tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh và giao thương hàng hoá của DN được thuận lợi, mà đây còn là những khách hàng tiềm năng hay có những ảnh hưởng đáng kể đến khách hàng tiềm năng có sử dụng vốn nhà nước - Một trong những khách hàng tiêu thụ nhiều sản phẩm VLXD cho các công trình hạ tầng. - Sản phẩm VLXD của Thái nguyên chủ yếu tiêu thụ nội địa, riêng đối với sản phẩm gạch, ngói chỉ tiêu thụ tại chỗ và cung ứng cho thị trường Bắc kạn, do đó cũng cần tăng cường công tác nắm bắt thông tin về các dự án đầu tư, các dự án báo nhu cầu đầu tư và hệ thống công trình hạ tầng cơ sở, hạ tầng kỹ thuật và phát triển dân cư, đô thị trên địa bàn thông qua kênh thông tin, qua hệ thống QLNN để xây dựng chiến lược phát triển thị trường - sản phẩm phù hợp, ổn định và kế hoạch SXKD tương xứng với nhu cầu thị trường. - Tăng cường mở rộng liên doanh, liên kết ra ngoài vùng đê thúc đẩy sự lưu thông và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm VLXD và công nghệ, đối với các sản phẩm tiêu thụ ra ngoài địa phương hoặc có yêu cầu cao về công nghệ, vốn đầu tư mà trên địa bàn chưa có điều kiện đáp ứng. 3.4.2.2 Giải pháp về sản phẩm Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển xây dựng trong xã hội ngành công nghiệp VLXD tỉnh Thái Nguyên phát triển tương đối mạnh so với các tỉnh vùng Việt Bắc. Sản lượng VLXD trong các năm qua không ngừng tăng lên, đã góp phần đáp ứng nhu cầu VLXD tại chỗ, tham gia vào chương trình phát triển kinh tế xã hội của toàn tỉnh, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo cho người lao động. Tuy nhiên, chủng loại sản phẩm VLXD chưa đa dạng chẳng hạn như; chưa có nhà máy sản xuất gạch lát nền, nhà máy sản xuất kính, nhà máy sản xuất sứ. Bên cạnh đó, sản phẩm VLXD cao cấp mà thị trường nội địa và các thị trường lân cận cần có giải pháp về sản phẩm như: - Tăng cường đầu tư cho những sản phẩm mà địa phương có lợi thế so sánh tài nguyên, về truyền thống sản xuất kinh doanh so với trong vùng như thép xây dựng, lâm sản, gạch tuynen, đá xây dựng, tấm lợp cá loại,… để tiêu thụ thị trường ngoài tỉnh hoặc xuất khẩu những sản phẩm khác mà địa phương có chính sách hỗ trợ xúc tiến tiêu thụ. - Tăng cường đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm mới nhằm đa dạng chủng loại, tăng giá trị sử dụng nguyên vật liệu trên địa bàn . Hiện nay chất lượng công trình xây dựng đòi hỏi ngày càng cao và các hộ dân khi xây nhà hầu hết chọn mô hình nhà xây có trụ. Trong khi đó cả tỉnh chiếm có một nhà máy sản xuất gạch Tuynen nên không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường trong tỉnh. Để đáp ứng được những đòi hỏi này tỉnh hay các DN cần phải xây dựng thêm nhà máy sản xuất gạch Tuynen, hạn chế các lò sản xuất gạch thủ công khai thác nguồn đất sét bừa bãi và gây ô nhiễm môi trường . 3.4.2.3. Giải pháp về phát huy hiệu quả sử dụng vốn Vốn là một trong những nhân tố quan trọng tác động liên kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nghị quyết trung ương 3 khoá IX của BCH TW Đảng cũng đã xác định "lấy suất sinh lời trên vốn là một trong những tiêu chuẩn chủ yếu đánh giá hiệu qủa của doanh nghiệp kinh doanh "Vì vậy, việc phát huy hiệu quả sử dụng vốn đối với các DN có nghĩa đặc biệt quan trọng; một số giải pháp cần được áp dụng trong thời gian tới đối với các DNN&V sản xuất VLXD như sau : + Thực trạng hiện nay DNN&V sản xuất VLXD đầu tư vào TSCĐ tương đối lớn. Vì chính sách cho thuê đất của tỉnh còn có nhiều bất cập, do vậy các DNTN và các hộ kinh doanh cá thể muốn mở rộng sản xuất kinh doanh họ phải mua đất vì thế đã làm cho vốn cố định chiếm tỷ lệ lớn trong tổng vốn kinh doanh. Các giải pháp DNN&V cần phải thực hiện đối với vốn cố định là: - Điều chỉnh cơ cấu TSCĐ hợp lý, kể cả tỷ lệ giữa các loại TSCĐ để nhằm khai thác đồng bộ, triệt để công suất các tài sản này đáp ứng nhu cầu thị trường, phát huy cao hiệu quả sử dụng TSCĐ. - Đối với các loại hình doanh nghiệp định kỳ hàng năm phải kiểm kê, đánh giá lại tài sản theo giá thị trường thời điểm, để phân loại xác định các tài sản hiện có của DN ,trên cơ sở đó xác định tỷ lệ tài sản đang tham gia sản xuất kinh doanh của DN, tìm giải pháp đầu tư bổ sung để duy trì, phát triển năng lực sản xuất cần thiết. Riêng đối với tài sản không cần dùng, phải thay thế, thanh lý,…cần cương quyết giải toả để thu hồi vốn cho DN, tái quay vòng sử dụng . - Trích lập và tính khấu hao TSCĐ hợp lý, trong đó có tính đến yếu tố hoa mòn vô hình; trong trường hợp cho phép DN có thể tính khấu hao nhanh, vì phần lớn công nghệ - thiết bị của DNN&V sản xuất VLXD đều ở mức trung bình và còn nhiều hộ dân kinh doanh cá thể sử dụng công nghệ lạc hậu, thiết bị nghèo nàn cũ kỹ và không đồng bộ, càng thay thế sớm càng tạo điều kiện đeer nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cuả DN . - Việc quản lý, sử dụng TSCĐ của DN cần có cơ chế ràng buộc trách nhiệm vật chất của các cá nhân có trách nhiệm liên quan trong DN . - Thực hiện bảo hiểm TSCĐ thao quy định và những tài sản cần thiết khác, nhất là các tài sản ở các hầm mỏ . Đối với các hộ sản xuất gạch thủ công và sản xuất thép gia công yêu cầu vốn đầu tư thích hợp với khả năng của mình . + Đối với lưu động: chiếm tỷ lệ trung bình khoảng 55% trên tổng tài sản của DN, các giải pháp DN cần phải thực hiện là : - Tìm mọi giải pháp để rút ngắn thời gian luân chuyển vốn, xét trên từng khâu mà vốn chảy qua từ khâu dự trữ nguyên liệu, đến lưu thông hàng hoá và thu hồi công nợ . - Trong dự trữ và sản xút đều phải xây dựng và thường xuyên cập nhật các mức một cách hợp lý, khoa học ngay cả đối với DN sử dụng là nguyên liệu là khoáng sản thông thường tại chỗ . - Thông qua các công tác xúc tiễn thương mại , thông qua xử lý tốt mỗi quan hệ bạn hàng để tăng nhanh tiêu thụ và lưu chuyển hàng hoá, giảm tỷ lệ nợ phải thu. Bên cạnh đó, quản lý giám sát tốt số nợ phải trả bảo đảm sự chủ động, ổn định trong xử lý tài chính của DN . - Thực hiện trích lập các khoản dự phòng rủi ro theo quy định (đối với các loại hình DN). 3.4.2.4. Giải pháp về tăng cường hiệu lực bộ máy quản lý DN Hầu hết các DNN&V đều thiếu đội ngũ nhà doanh nghiệp thực thụ với "đầu óc và bản năng kinh doanh ", kiến thức quản lý, tay nghề công nhân hạn chế phần nào làm giảm đi khả năng cạnh tranh. Để khắc phục tình trạng này các DN cần thực hiện: - Trước hết cần tăng cường chất lượng đội ngũ, cả về năng lực chuyên môn và đạo đức, thông qua đào tạo bổ sung và đào tạo lại những cán bộ một cách có chọn lọc đã được thực tiễn hoạt động chứng minh; mạnh dạn đề bạt cán bộ tret đáp ứng nhu cầu năng lực chuyên môn và đạo đức giữ chức danh quan trọng của DN. Trong thời gian qua và điều kiện thực hiện của tỉnh Thái Nguyên, việc thu hút nhân tài từ bên ngoài vào và con em địa phương học giỏi ở các trường đại học về làm việc chưa nhiều. Do đó, trước mắt vẫn tập trung tăng cường năng lực cho đội ngũ hiện có; đồng thời xây dựng tiêu chuẩn chuyên môn, tay nghề cho các vị trí đã công tác, để người lao động trong DN phấn đấu thực hiện và tự đào tạo . - Cùng với tỉnh từng bước các DN cần mở rộng chính sách và phương thức trả lương hấp dẫn, nhằm thu hút nhân tài vế công tác tại công ty. - Không nên tuyển những người lao động trên phương thức quen biết , hoàn hành mà không có trình độ chuyên môn . Gắn trách nhiệm cả kinh tế và chính trị của đội ngũ quản trị cao cấp của DN với các quyết định và những thành bại của DN . Phát triển tương xứng hệ thống thông tin quản lý DN, từng bước phát triển thương mại điện tử theo xu thế mới, đặc biệt là các sản phẩm xuất ra ngoài tỉnh nhằm hỗ trợ công tác quản lý và ra quyết định kịp thời cơ . 3.4.2.5 Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực Với ý nghĩa vừa là nhân tố vừa là chủ thể phát triển và quyết định đến hiệu qủa sản xuất kinh doanh của DN, nhân lực cần được quan tâm trước hết trong phát triển DN. Trong thực tế nguồn nhân lực của các DNN&V còn rất hạn chế về chuyên môn, kỹ thuật và quản lý, số lao động qua đào tạo chỉ chiếm 30% tổng số lao động và còn một tỷ lệ đáng kể những lao động chưa học hết phổ thông trung học, giải pháp và chính sách phát triển nguồn nhân lực của các DNN&V sản xuất VLXD của cần thực hiện trên một số mặt cho số lao động trực tiếp như sau : - Đào tạo mới, đào tạo lại, tăng cường đào tạo bổ sung nâng cao kiến thức, trình độ, tay nghề, tác phong làm việc công nghiệp và kiến thức về an toàn sản xuất cho đội ngũ công nhân theo những chương trình huấn luyện được phê duyệt theo quy định. Đặc biệt, có kế hoạch đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật để có đủ khả năng tiếp nhận những tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ của thế giới . Có chính sách tiền lương, hỗ trợ đào tạo, hỗ trợ ổn địng chỗ ở,…để hình thành các gia đình nghề nghiệp truyền thống gắn bó với DN, tạo điều kiện cho quá trình tự đào tạo nghề phát triển ổn định nguồn lao động . Thực hiện đồng bộ công tác với đào tạo sử dụng, bố trí công việc hợp lý cho người lao động ở các DNN&V, vừa để khuyến khích phát triển chất lượng nguồn nhân lực hiện có tạo sức hút lao động có chất lượng từ nơi khác về DN . 3.5 Kiến nghị. Doanh nghiệp nhỏ và vừa giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế tỉnh Thái Nguyên, việc tồn tại và phát triển DNN&V nói chung và DNN&V sản xuất VLXD nói riêng có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh, vì nó tham gia khai thác các tiềm năng thế mạnh của tỉnh, tham gia chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giữ vai trò quyết định công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Vì vậy, tỉnh cần quan tâm đúng mức đến lĩnh vực kinh tế này. Để có thể phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các DNN&V sản xuất VLXD trong thời gian tới, kiến nghị với UBND tỉnh Thái Nguyên một số vấn đề . Đề nghị UBDN tỉnh chỉ đạo các cấp, ngành tăng cường nâng cao chất lượng phục vụ DN, đơn giản hoá thủ tục hàng chính vì cơ quan ban hành nghiện cứu cải cách thủ tục hành chính còn rườm rà. Bãi bỏ những văn bản trái quy định của pháp luật tạo thuận lợi cho kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm. - Đề nghị UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo sở công nghiệp, các sở ban ngành có liên quan của tỉnh thành lập quy hoạch và công khai quy hoạch các khu, cụm công nghiệp, triển khai các quy hoạch chi tiết, các quy hoạch chuyên ngành phát triển ngành sản xuất VLXD (bao gồm cả quy hoạch phát triển ngành sản xuất VLXD giai đoạn 2004 - 2010) trên các địa bàn toàn tỉnh và cấp huyện nhằm định hướng chung cho các DN nói chung và DNN&V sản xuất VLXD nói riêng trong đầu tư phát triển doanh nghiệp và khai thác thông tin thị trường, đầu tư cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Hoàn thiện tổ chức thanh tra khoáng sản, bổ sung kinh phí, thiết bị nhằm tăng cường công tác thanh tra kiểm tra khoáng sản đối với các đơn vị tham gia hoạt động khoáng sản để đưa hoạt động khai thác khoáng sản trên tỉnh đi vào nề nếp tuân thủ quy định của pháp luật về khoáng sản. - Sớm thành lập và triển khai quỹ khuyến công, quỹ bảo lãnh tín dụng DNN&N, quỹ hỗ trợ đầu tư, thành lập trung tâm xúc tiến đầu tư và thương mại thành lập công ty mua bán nợ … thuộc tỉnh để hỗ trợ thiết thực cho DNN&V. - Đề nghị UBND tỉnh cấp giấy phép về khai thác cát sỏi cho các hộ khai thác cát sỏi hoạt động hợp pháp, có vậy thì sản xuất mới ốn định và phát triển. - Thành lập trung tâm tư vấn nhằm hỗ trợ các DNN&V công nghiệp nói chung và DN sản xuất VLXD nói riêng, cung cấp những thông tin cần thiết nhằm nâng cao năng lực và hoạt động của các DN, tổ chức các đợt huấn luyện để nâng cao trình độ quản lý chuyên môn, kỹ thuật và hiểu biết pháp luật cho các DN. - Đầu tư cho công nghiệp sản xuất VLXD cần thiết được xác định là đầu tư cho hạ tầng cơ sở, do đó phải quan tâm đầu tư phát triển trước. - Tăng cường tiếp xúc và chỉ đạo các ngành tiếp xúc với DN trên nhiều cấp để nắm bắt thông tin và có những đề xuất thực hiện hỗ trợ DN, như hỗ trợ về vốn, khoa học- công nghệ, tiêu thụ sản phẩm.. - Đề nghị tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện Luật doanh nghiệp và các văn bản có liên quan xuống đến các huyện, thành thị, các phường, xã theo chương trình hành động của chính phủ về phát triển kinh tế tư nhân. Các ngành, cơ quan trong tỉnh tổ chức tốt công tác phổ biến tuyên truyền về chính sách, chủ trương của Đảng và nhà nước thông qua các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật đến 100% doanh nghiệp. 3.6 Tóm lược Qua phân tích thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của DNN&V trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, ta thấy hoạt động kinh doanh của các DNN&V sản xuất VLXD còn nhiều hạn chế làm cho HQKD cảu các DN này chưa cao. Trong chương 3, đề tài đã nhận thấy những mặt những mặt hạn chế của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái nguyên, từ đó đã đề xuất được một số giải pháp nâng cao HQKD của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa chỉ bàn tỉnh. * Hạn chế: - Quy mô vốn của các DNN&V sản xuất VLXD chủ yếu là nhỏ và rất nhỏ, vốn ít, kết cấu vốn, chất lượng nguồn vốn chưa cao. Hiệu quả vốn có xu hướng giảm qua các năm. - Nhiều sản phẩm VLXD chưa có thương hiệu, sức mạnh cạnh tranh thấp, thị trường hẹp, chủ yếu là ở nội tỉnh. - Đầu tư tự phát là chủ yếu, chưa có quy hoạch và hạn chế về định hướng và chiến lược kinh doanh. - Trình độ quản lý hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, đội ngũ người lao động tay nghề chưa cao, tác phong nghề nghiệp công nghiệp chưa có. - Nhiều DN chưa quan tâm đống bảo hiểm cho người lao động, khá đông DN chấp hành Luật doanh nghiệp chưa tốt. * Giải pháp: Hiện nay, trong qúa trình hoạt động kinh doanh DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên còn gặp rất nhiều khó khăn, yếu kém. Trong các mặt yếu kém trên, đề tài tập trung giải quyết những vấn đề sau: + Giải pháp phát huy hiệu quả sử dụng vốn. + Các giải pháp về đổi mới và phát triển công nghệ sản xuất VLXD. + Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực. + Giải pháp về sản phẩm. Do thời gian nghiên cứu và khả năng tự nghiên cứu có nhiều hạn chế, do đó giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của các DNN&V trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên còn mang nặng tính lý thuyết. Nên rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy, cô giáo và bạn đọc để phần giải pháp được hoàn thiện hơn. KẾT LUẬN Nước ta đang trong tiến trình phát triển kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, đồng thời lại tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Việc nhận thức đúng đắn và kịp thời phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa là rất cần thiết. Không những chỉ dừng lại ở nhận thức mà còn phải có những biện pháp thật khả thi, thật cụ thể của nhà nước và của mỗi doanh nghiệp, để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trở thành hiện thực trong thời gian không cho phép được kéo dài. Như chúng ta đều biết, thời gian để triển khai thực hiện AFTA chẳng còn bao lâu nữa đối với nước ta (2006). Nếu sự lỗ lực của các doanh nghiệp bị kéo dài hợc ít hiệu quả thì các sản phẩm của các doanh nghiệp nước ta không bị ngã đổ trên "sân người" (về xuất khẩu) mà ngay cả trên "sân nhà" (tại thị trường Việt Nam) DNN&V sản xuất VLXD tỉnh Thái Nguyên cũng không nằm ngoài quy luật và đồi hỏi nêu trên trong thời kỳ phát triển sắp tới và lâu dài hơn, đặc biệt trong điều kiện xuất phát của nền kinh tế và công nghiệp của Thái Nguyên ở mức thấp nhất, công nghệ lạc hậu, thiết bị nghèo nàn, cũ kỹ, không đồng bộ; tây nghề công nhân hạn chế; sản phẩm lượng còn non yếu, giá thành cao, sức cạnh tranh kém; hoạt động phân tán,…Trước đòi hỏi của thị trường, trước nhu cầu bức thiết của doanh nghiệp và chủ trương phát triển doanh nghiệp nói chung và DNN&V nói riêng của nhà nước và của tỉnh. Đề tài "Những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn tỉnh Thái nguyên", chừng mực nào đó đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp này và định hướng phát triển DNN&V của tỉnh theo yêu cầu đổi mới. Trong phạm vi nghiện cứu và mục đích nghiên cứu của đề tài về thực trạng HQKD của các DNN&V sản xuất VLXD trên địa bàn Thái Nguyên, Snhằm đề xuất một số giải pháp để góp phần nâng cao HQKD của các doanh nghiệp này cho thời kỳ đến 2005 và 2010. Đề tài tập trung hoàn thành một số nhiệm vụ sau này: 1. Hệ thống những khái niệm cơ bản về HQKD của DNN&V, ý nghĩa cảu các chỉ tiêu đánh giá HQKD, các nhân tố tác động lên HQKD và sự cần thiết phải nâng cao HQKD đối với các DNN&V nói chung và DNN&V sản xuất VLXD nói riêng. 2. Phân tích thực trạng hoạt động và HQKD tại các DNN&V sản xuất VLXD Thái Nguyên. Từ đó, rút ra những thành quả, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ảnh hưởng lên HQKD của các DNN&V sản xuất VLXD Thái Nguyên. 3. Đề xuất một số giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế, có tính khả thi nhằm nâng cao HQKD của các DNN&V sản xuất VLXD Thái Nguyên cho thời kỳ tới, đồng bộ với các kiến nghị lên các cơ quan quản lý vĩ mô những chính sách, cơ chế nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp này nâng cao HQKD. Danh mục tài liệu tham khảo 1- Văn kiện hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương khoá IX. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2002 2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội - 1996 3. Nguyễn Đình Cung, Trần Kim Hào, Lê Viết Thái, Tô Đình Thái, Hoàng Văn Thành. Báo cáo nghiên cứu "Doanh nghiệp nhỏ và vừa: hiện trạng và những kiến nghị giải pháp" Hà Nội 5/2000 4. Trần Đình, tăng sức cạnh tranh của các DNN&V. Thời báo kinh tế Việt Nam số 811, ngày 12/11/2003 5. TS. Trần Đình Hào, Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - Thực trang, các vấn đề và triển vọng. 14/4/2000 6. GS. TS Hồ Văn Vĩnh. Vai trò và đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. 17/3/2000 7. GS.TS Nguyên Đình Phan, Thạc sỹ Trần Đình Toàn. Phát triển DNN&V trong sự nghiệp công nghiệp hoá ở Việt Nam và các giải pháp vĩ mô. T/C công nghiệp số 5/96. 8. PGS.TS Đỗ Văn Phức. Để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn. NXB Khoa học kỹ thuật. Hà Nội 2003. 9. Ưong Tin Sinh. Chính sách Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Malaysia. Hội thảo Chính sách phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam. Nikki Hotel. 19-22/2/2003 10. TS. Nguyễn Đình Cung. So anhs hiệu quả phát triển kinh tế tư nhân giữa các tỉnh. Hà Nội 11/2003 11. TS Nguyễn Đình Cung, TS Bùi Anh Tuấn, Th.S. Bùi Văn, GS David Dapice. Lịch sử hay chính sách: tại sao các tỉnh phía bắc không tăng trưởng nhanh hơn. 12. TS. Nguyễn Minh Thọ, Nguyễn Thanh Bình, TS. Nguyễn Thị Thắc. Báo cáo nghiên cứu việc thực hiện cơ chế chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. TN - 5/2004 13. Đặng Văn Thuần. Phó giám đốc Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Thái nguyên. Điều tra đánh giá thực trạng, giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Thái Nguyên năm 2000-2001 14. Nguyễn Văn Thử. Giám đốc sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Thái nguyên. Báo cáo tổng quan về tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Thái nguyên. 15. Cục thống kê Thái nguyên: Niên giám thống kê 2003 16. Sở xây dựng Thái Nguyên. Dự thảo đề án quy hoạch phát triển VLXD tỉnh Thái nguyên 2004 đến 2010 định hướng phát triển đến năm 2015. 17. Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, PGS.TS nguyễn Thành Độ, TS Nguyễn Ngọc Huyền (đồng chủ biên): Giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp tập 1,2 - NXB Thống kê - 2001. 18. Hồ sỹ Giao. Khai thác mỏ vật liệu xây dựng - NXB Giáo dục 1997 19. GS Nguyễn Lân. Từ điển Từ và ngữ Việt Nam - NXB thành phố Hồ Chí Minh - 3/2000. 20. Hội đồng biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam. Từ điển Bách khoa Việt Nam - NXB Từ điển bách khoa - 2001. 21. GS-TS Nguyễn Đình Phan. Kinh tế và quản lý công nghệ - NXb Giáo dục - 1999. 22. GS-TSKH Phạm Phố. Vật liệu và vật liệu mới - NXB Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh - 2001. 23. Viện chiến lược Bộ Công nghiệp. DNN&V sản xuất VLXD dự thảo quy hoạch phát triển ngành công nghiệp tỉnh Thái Nguyên từ năm 2004 đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015. 24. Viện khoa học Công nghệ vật liệu xây dựng - Bộ Xây dựng. Đề án quy hoạch tổng thể ngành công nghiệp VLXD ở Việt Nam đến 2010 và định hướng đến 2020: Hà Nội - 12/2001. 25. Tỉnh uỷ Thái Nguyên. Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện chương trình "phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2001 - 2005) 26 . UBND tỉnh Thái Nguyên. Báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết của tỉnh uỷ về năm công nghiệp - doanh nghiệp trình đại hội Đảng bộ Thái Nguyên khoá X. 27. UBND tỉnh Thái Nguyên. Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2003 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2004. 28. Các tạp chí: Kinh tế và dự báo, chiến lược và chính sách công nghiệp… một số của năm 2001 - 2004. 29 Một số luận án tiến sỹ và luận văn thạc sỹ của các khoá, tốt nghiệp năm 2001 - 2002 tại trường Đại học kinh tế Quốc dân Hà Nội. 30. Quy hoạch tổng thể ngành công nghiệp VLXD ở Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến 2020. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctk2.doc
Tài liệu liên quan