Những giải pháp nâng cao hiệu quả mô hình thanh niên nông thôn tham gia xoá đói giảm nghèo

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cần thiết của đề tài nghiên cứu. Đói nghèo là một vấn đề toàn cầu. Công cuộc xoá đói giảm nghèo nói chung và Chương trình Mục tiêu Quốc gia xoá đói giảm nghèo (MTQGXĐGN) đã được các cấp chính quyền, các ngành, đoàn thể coi trọng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quan trọng, cấp bách nhất của Đảng và Nhà nước ta. Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế và XĐGN kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, nhưng tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam vẫn còn

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1833 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những giải pháp nâng cao hiệu quả mô hình thanh niên nông thôn tham gia xoá đói giảm nghèo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khá cao. Theo tiêu chuẩn nghèo mới (thu nhập bình quân nông thôn dưới 200.000/người tháng và thành thị dưới 260.000/người/tháng) đầu năm 2006 cả nước vẫn còn hơn 3.9 triệu hộ nghèo đói, chiếm tỷ lệ gần 22% tổng số hộ trong cả nước. Ngày nay, đói nghèo chủ yếu ở các khu vực nông thôn, tập trung vùng sâu xa và vùng DTTS. Đói nghèo là hậu quả của nhiều nguyên nhân. Theo điều tra của Viện nghiên cứu thanh niên, thiếu vốn và thiếu kiến thức làm ăn là những nguyên nhân cơ bản dẫn tới đói nghèo. Cũng theo số liệu điều tra hộ nghèo năm 2007 trên cả nước của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, các nguyên nhân chủ yếu dẫn tới nghèo đói là: Thiếu vốn sản xuất : 80% Thiếu kiến thức sản xuất : 69% Thiếu thông tin thị trường: 77% Thiếu đất và không có đất sản xuất: 30% Đông con: 26% Không tìm được việc làm: 23% Rủi ro: 5.9% Gia đình có người mắc tệ nạn xã hội: 1% Trong những năm qua, thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi của Đảng và Nhà nước, người nghèo đã dần tiếp cận được nguốn vốn sản xuất kinh doanh đã thoát nghèo được vay vốn sản xuất kinh doanh đã thoát nghèo đói mặc dù họ được hỗ trợ vay vốn vay ưu đãi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đoàn thanh niên trong nhiều năm qua đã có nhiều hoạt động tham gia phát triển kinh tế xã hội có hiệu quả. ĐTN có nhiều tổ chức hoạt động có hiệu quả.Việc xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến, nhiều mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả đã góp phần tích cực trong tạo việc làm cho thanh niên, XĐGN vươn lên làm giàu. Tuy nhiên, việc tổng kết đánh giá và nhân rộng mô hình XĐGN có hiệu quả của thanh niên chưa được chú trọng. Nhiều cơ sở, thanh niên lúng túng không biết làm từ đâu, làm như thế nào? Các điều kiện cần thiết cho một mô hình hiệu quả là gì? Trong phong trào thanh niên tham gia phát triển kinh tế xã hội, kinh tế hộ.. . đã đạt kết quả, xong cũng có nhiều thanh niên làm ăn thua lỗ; phong trào thanh niên nông thôn bỏ quê hương ra thành phố kiếm ăn; các tệ nạn xã hội thanh niên chiếm tỷ lệ cao… đang là vấn đề bức xúc trong công tác Đoàn hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu vấn đề Đói nghèo mọi người cứ ngỡ rằng đó là đơn giản là một trạng thái của con người, nhưng không phải đơn thuần như vậy. Đói nghèo liên quan đến nhiều vấn đề khác như: kinh tế xã hội, an ninh, con người…Xong mọi người cũng nghĩ rằng chỉ cần có tiền đưa cho người nghèo, hay đơn giản là giúp đỡ họ về mặt vật chất mang tính chất tạm thời mà thôi. Chưa chắc ai trong số chúng ta hiểu rõ nguyên nhân của nghèo đói là do đâu hoặc chỉ đọc những vấn đề có liên quan đến đói nghèo. Đã từng đọc qua những tài liệu mang tính chất lý luận về đói nghèo nhưng có lẽ là qua thực tiễn chúng ta mới hiểu thêm, đặc biệt là trong hoàn cảnh như nước ta hiện nay để thấy được nét riêng biệt từ đặc điểm của người Việt Nam. Tuy nhiên, chuyên đề em nghiên cứu xuất phát từ việc hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về đói nghèo, XĐGN và tác động của thanh niên đến XĐGN qua xây dựng các mô hình kinh tế cụ thể đã từng thành công và vững bước phát triển hơn nữa. Thanh niên là lực lượng đông đảo của giới trẻ, là linh hồn của tổ chức Đoàn đặc biệt đó là hoạt động của Trung Tâm Hỗ trợ phát triển thanh niên nông thôn hướng vào những người dân như: tập huấn kiến thức cơ bản về đói nghèo hay các vấn đề xã hội khác…nhằm mục đích chung làm sao cho người dân, người nghèo có được cơ hội tốt nhất tiếp cận và sử dụng đẩy đủ điều kiện của mình để có cuộc sống đầy đủ, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Qua đây đánh giá thực trạng hoạt động ĐTN trong XĐGN, tìm ra những giải pháp mới, những mô hình mới phù hợp với từng địa bàn mà hoạt động hướng tới. Từ những mô hình đó đưa vào thực hiện thấy được ưu nhược điểm của mỗi mô hình, rút ra được những kết quả và những vấn đề đặt ra cần giải quyết. Qua những tư liệu tham khảo tại đơn vị thực tập, cùng những hiểu biết của mình trong thực tế em muốn nhấn mạnh vào mô hình hay giải pháp mà em cảm thấy phủ hợp với người dân hiện nay. Mô hình này sẽ góp phần làm thay đổi cách làm kinh tế của người dân để sao có hiệu quả hơn cũng như mục tiêu của các chương trình XĐGN. 3.Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động của thanh niên trong XĐGN thông qua các hoạt động của Trung Tâm Hỗ trợ phát triển thanh niên nông thôn. 4.Phạm vi nghiên cứu: Khu vực nông thôn và các hoạt động của Đoàn. 5.Giới thiệu về chuyên đề Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề kết cấu thành 3 phần: Phần I: Cơ sở lý luận về XĐGN và tác động của thanh niên đến XĐGN Phần II: Thực trạng XĐGN và phong trào thanh niên nông thôn XĐGN Phần III: Những giải pháp nâng cao hiệu quả phong trào thanh niên nông thôn tham gia phát triển kinh tế, XĐGN giai đoạn 2007- 2012 Em xin chọn đề tài này làm chuyên đề thực tập, vừa là kết quả của quá trình thực tập tại Trung Tâm Hỗ trợ phát triển thanh niên nông thôn đồng thời là lúc được thực hành phần nào những kiến thức đã được học tại nhà trường. Em xin chân thành cảm ơn Ban Bí Thư Trung Ương Đoàn (trực tiếp là chị hướng dẫn Nguyễn Minh Hằng) cùng toàn thể anh chị phòng tổng hợp của Trung Tâm Hỗ trợ phát triển thanh niên nông thôn nơi em thực tập. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy PGS.TS Phạm Văn Khôi đã hướng dẫn em tận tình để hoàn thành tốt đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XĐGN VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH NIÊN ĐẾN XĐGN I. Một số vấn đề lý luận về đói nghèo và xoá đói giảm nghèo 1.Khái niệm về đói nghèo và xoá đói giảm nghèo Thế nào là đói nghèo Trên thế giới hiện nay có nhiều quan niệm đói nghèo. Ở mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi nhóm dân cư lại có quan điểm khác nhau về đói nghèo. Nó có thể được xem xét trên nhiều khía cạnh về kinh tế. chính trị, văn hoá…Có thể hiểu theo nghĩa hẹp theo thu nhập, chi tiêu. dinh dưỡng, giáo dục… hay theo nghĩa rộng hơn là sự phát triển toàn diện về mọi mặt của con người. Hiện nay, mỗi nước sử dụng những khái niệm khác nhau về đói nghèo. Như các nước phát triển đặc biệt là các nước Châu Á sử dụng khái niệm nghèo do tổ chức ESCAP đưa ra năm 1990 – “ Nghèo là hiện tượng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, phong tục tập quán”. Theo ngân hàng phát triển Châu Á: “Nghèo là tình trạng thiếu những tài sản cơ bản và cơ hội mà mỗi người có quyền được hưởng. Mọi người cần được tiếp cận với giáo dục và dich vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản”.. Có thể nói các quan điểm trên đếu không có sự khác biệt đáng kể, tiêu chí để xác định đều dựa trên mức chi tiêu để thoả mãn nhu cầu cơ bản của con người. Sự khác biệt ở đây là mức độ thoả mãn nhu cầu này là khác nhau giữa các khu vực, như Châu Âu hay Bắc Mỹ và một số nước công nghiệp phát triển thì mức độ thoả mãn là cao và ngược lại với nhóm các nước khác mức độ thoả mãn là thấp hơn hoặc là rất thấp. Ở nước ta quan niệm nghèo đói thường trực diện hơn và cụ thể đó là: nghèo đói là không đủ ăn, thiếu ăn, nhà cửa dột nát, ốm đau không có tiền chữa bệnh, con cái không được tới trường…. -Nghèo tuyệt đối: là bộ phận dân cư có mức thu nhập thấp không đủ khả năng đáp ứng nhu cẩu tối thiểu đẻ duy trì cuộc sống. - Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống thấp hơn mức sống trung bình tại địa phương. Khái niệm hộ nghèo, người nghèo, xã nghèo - Là đối tượng tác động của chương trình xoá đói giảm nghèo. Để chương trình có quả thì trước hết phải xác định đúng đối tượng cần tác động - Hộ nghèo: là những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới ngưỡng nghèo - Ngưỡng nghèo: chính là chuẩn nghèo là khái niệm dùng để đo mức độ nghèo. Do không có một khái niệm duy nhất vể nghèo nên không thể có một phương pháp hoàn hảo để đo được nó. Song vẫn có tiêu chí về nghèo để thông tin cho các chính sách công, để đánh giá mức độ thành công của chính sách đó. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều chỉ tiêu về nghèo đói và phát triển đang được sử dụng. Như Bộ LĐTB&XH hội dùng phương pháp dựa trên thu nhập của hộ, Tổng cục thống kê xác định ngưỡng nghèo dựa trên chi phí cho một giỏ tiêu dùng gồm lương thực và phi lương thực, trong đó chi tiêu cho lương thực phải đảm bảo 2.100 calo mỗi ngày cho một người…. Từ 1993 đến nay chúng ta đã có 3 lần điều chỉnh chuẩn nghèo cho phù hợp với tình hình phát triển đất nước, đó là các giai đoạn 1993-1995, 1996-2000, 2001-2005. Sắp tới chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 với mức độ cao hơn về tất cả các mặt: ăn, mặc, đi lại, chăm sóc sức khoẻ, học tập.. dần dần tiếp cận với chuẩn nghèo quốc tế. Hiện nay trơng việc phân chia hộ nghèo thuộc đối tượng tác động của chương trình XĐGN còn chú ý tới các hộ nghèo thuộc DTTS đặc biệt khó khăn, thường được ưu tiên trong khi thực hiện chương trình. Có 3 tiêu chí để nhận dạng hộ nghèo thuộc DTTS đặc biệt khó khăn, theo tiêu chí này của uỷ ban dân tộc (QĐ 166/2001/QĐ- UBDTMN- 5/9/01). +Tiêu chí 1: Hộ DTTS đặc biệt khó khăn là các gia đình thiểu số ở vùng dân tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa có mức thu nhập bình quân đầu người từ 80.000 đồng/ người/ tháng trở xuống. +Tiêu chí 2: Hộ DTTS đặc biệt khó khăn là các hộ có tập quán sản xuất còn mang nặng tính chất tự nhiên hái lượm, chủ yếu phát lương rẫy, chăn nuôi theo tập quán cũ, công cụ sản xuất thô sơ, thiếu thốn, thiếu đất hoặc chưa có đất sản xuất. +Tiêu chí 3: Hộ DTTS biệt khó khăn là hộ có tổng giá trị tài sản bình quân đầu người dưới một triệu đồng (không tính giá trị sử dụng đất, giá trị cuả các lán trại trên lương rẫy); Hộ có hoàn cảnh leo đơn, thiếu lao động hoặc có người ốm đau kéo dài, không có điều kiện tiếp cận thông tin để phục vụ sản xuất. - Người nghèo: Là những người nằm trong hộ nghèo, tuy nhiên theo cách nhìn nhận rộng hơn theo cộng đồng quốc tế là những người thiếu một cách trầm trọng cơ hội lựa chọn và khả năng tham gia vào cuộc sống kinh tế xã hội của đất nước. - Xã nghèo: Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao và thiếu cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống. Theo đối tướng tác động của chương trình XĐGN thì có hai dạng xã nghèo Xã nghèo đặc biệt khó khăn thuộc chương trình 135- là xã đáp ứng các tiêu chí sau: Vị trí địa lý của xã ở xa trung tâm kinh tế xã hội, xa đường quốc lộ, giao thông đi lại khó khăn. Môi trường xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí còn thấp còn nhiều tập tục lạc hậu. Trình độ sản xuất còn lạc hậu chủ yếu mang tính chất tự cấp tự túc, công cụ thô sơ. Đời sống nhân dân còn khó khăn, thiếu thốn mức sống thấp. Hạ tầng cơ sở chưa phát triển, chưa đủ các công trình thiết yếu như điện, đường giao thông, trường học, trạm xá, nước sạch, chợ xã. Nước ta hiện nay có 2.362 xã đặc biệt khó khăn được nhà nước hỗ trợ. Xã nghèo ( ngoài chương trình 135) Là xã đáp ứng 2 tiêu chí: Tỷ lệ hộ nghèo trên 25%, chưa đủ 3 trên 6 công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu ( điện, đường giao thông, nước sạch, trường học, trạm y tế và chợ). (Theo Quyết định số 587/2002/QĐ- TTg ngày 22/5/2002 của Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH) Theo tiêu chí trên nước ta có 997 xã thuộc diện nghèo. Biểu hiện và đặc trưng của nghèo đói Có tiếp xúc với người nghèo mới thấy rõ họ có những biểu hiện dễ nhận thấy. Họ thiếu cơ hội và khả năng lựa chọn cơ hội là điều dễ thấy nhất, ẩn mình trong giao tiếp, ngại tiếp xúc trong đám đông người, tự ti trong quan hệ. Đặc biệt hơn đó là vấn đề phân biệt giàu nghèo ngày càng cao, sâu sắc thì người nghèo khó thoát nghèo và nhất là trong quan hệ giao tiếp lại càng bị lép vế, bị phân biệt. Chính do vấn đề phân biệt đẳng cấp này vô tình đẩy họ đến chỗ nghèo hơn, ít tham gia, nếu có lại không dám phát biểu đưa ra ý kiến của riêng mình, đôi khi họ cố gắng tự tin nói ra được ý kiến của mình rồi nhưng lỡ may bị từ chối thế là họ lại thôi. Bất kỳ quốc gia nào, cộng đồng nào cũng có thể thấy. + Biểu hiện: - Dề nhận thấy là tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm, đây là hình thức nghèo đói cơ bản nhất ở nước ta, nhất là khu vực miền núi đồng bào dân tộc. - Nhà ở tạm, nhà siêu vẹo, dột nát không đảm bảo an toàn trong mùa mưa bão, bản thân gia đình không có khả năng làm mới tự sửa chữa. - Con cái đến độ tuổi đi học không được đến trường - Không có tư liệu sản xuất + Đặc trưng: -Tỷ lệ nghèo đói ở nông thôn lớn hơn ở thành thị. Điều này có thể giải thích rằng do trình độ phát triển kinh tế thấp, nơi nông nghiêp là ngành chiếm tỷ trọng lớn. Lao động nông nghiệp vất vả xong lại có thu nhập thấp. - Mức độ nghèo đói ở nông thôn trầm trọng hơn ở thành thị. Điều này thể hiện qua tỷ lệ nghèo đói: tỷ lệ nghèo đói ở nông thôn cao hơn thành thị, số người ở dưới ngưỡng nghèo cao hơn thành thị. - Những nguyên nhân nghèo đói ở nông thôn có điểm khác biệt so thành thị như phong tục tập quán cổ hủ lạc hậu… - Nghèo mang đặc thù về địa lý sâu sắc, nhất là ở Việt Nam. Tỷ lệ nghèo đói luôn cao, khả năng giảm nghèo hạn chế vùng cao, miền núi và thấp hơn ở đồng bằng. Ở vùng đồng bằng vấn đề nghèo lương thực hầu như không còn trong khi đó miền núi vẫn còn và khá cao. - Các DTTS tỷ lệ nghèo cao hơn dân tộc Kinh và Hoa…Hiện nay trong chính sách XĐGN của nhà nước thường chú ý tới hộ nghèo xã nghèo miền núi, vùng sâu, vùng xa …nhằm thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng, miền… Khái niệm chính sách XĐGN Chính sách XĐGN là tổng thể biện pháp của chính phủ nhằm huy động các hoạt động của cộng đồng tác động đến nguyên nhân gây nên đói, nghèo tạo nên những điều kiện để những người trong diện đói nghèo tăng thêm thu nhập, nâng cao điều kiện sống và hội nhập và vương lên thoát khỏi đói nghèo. Tuy nhiên để chống đói nghèo cần phải tìm ra nguyên nhân để có sự tác động hiệu quả, đặc biệt là tác động của chính sách xoá đói giảm nghèo 2. Các nguyên nhân của nghèo đói và giải pháp thực hiện XĐGN *Nguyên nhân khách quan: - Nguyên nhân về sự tác động của điều kiện tự nhiên khắc nghiệt: Như đã trình bày phần trên, tỷ lệ nghèo đói vùng nông thôn, miền núi thường có xu hướng cao hơn thành thị. Có thể kết luận tình trạng này là do một phần điều kiện tự nhiên tác động. Vùng nông thôn là vùng sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, đồng thời nông nghiệp lại chủ yếu phụ thuộc vào tự nhiên, dẫn đến sự không ổn định năng suất của cây trồng: năm được mùa, năm mất mùa, đới sống nhân dân khó khăn. Hiện nay giao thông Việt Nam còn chưa phát triển, nhiều xã còn chưa có đường tới trung tâm xã. Chính vì thế gây khó khăn cho buôn bán, giao lưu giữa những cộng đồng. Sự cách trở về giao thông không những hạn chế phát triển kinh tế xã hội đồng thời hạn chế giáo dục và y tế. - Nguyên nhân về chiến tranh Trên thế giới đã từng xảy ra những cuộc chiến tranh tàn khốc, ngoài ra là những cuộc chiến tranh mang tính chất khu vực hay nôị chiến. Các quốc gia trên thế giới đã từng chịu ít hay nhiều hậu quả của chiến tranh. Việt Nam, một điểm nóng của khu vực cách đây mấy chục năm đã diễn ra hai cuộc chiến tranh tàn khốc và hậu quả của nó còn dai dẳng và rất nặng nề. Người chết, môi trường bị đe doạ, nền kinh tế bị suy kiệt đó là vấn đề dễ nhận thấy của chiến tranh và từ đó là vấn đề nghèo đói và các vấn đề xã hội khác phát sinh. Hiện nay tình hình thế giới còn chưa ổn định thì chiến tranh vẫn còn là mối đe doạ lớn ảnh hưởng tới nền kinh tế của nhiều quốc gia. Nguyên nhân về xã hội Vùng nông thôn thường lạc hậu hơn so với vùng thành thị về nhiều mặt như cơ sở hạ tầng, trình độ dân trí, các cơ sở vật chất khác hết sức thấp kém. Điều này gây cản trở cho việc áp dụng KHKT vào sản xuất. Đặc biệt nông thôn là nơi hay có những lễ hội đình đám gây nhiều lãng phí. Vấn đề này thể hiện rõ trong đời sống sinh hoạt của người dân vùng thiểu số với những lễ hội kéo dài có thể là gánh nặng đối với hộ nghèo khiền họ càng nghèo hơn. Trong cuộc sống cộng đồng ngày nay còn một vấn đề gây cản trở cho công tác XĐGN nếu không có sự an hiểu đó là tín ngưỡng. Người dân tộc họ thường tôn thờ những vị thần linh, đối với họ thì đó là vị thần thiêng liêng trong cả nếp sống, sinh hoạt cũng thể hiện sự tôn sung này. Đã có những dự án chính sách không hiệu quả khi thực hiện ở vùng DTTS do không phù hợp với nếp sống truyền thống của người dân. Vì thế khi thực hiện chính sách đối với vùng DTTS ố cần phải tìm hiểu để sao cho khi thực hiện luôn tạo hiệu quả cao nhất. Sự tác động của điều kiện tự nhiên, chiến tranh hay vấn đề xã hội tới XĐGN ở mỗi vùng mỗi khu vực là khác nhau, có những vùng gây ảnh hưởng lớn nhưng cũng có khu vực lại ít bị ảnh hưởng. Nhưng trong quá trình áp dụng chính sách và xây dựng các dự án phải luôn chú ý nghiên cứu các điều kiện này một cách nghiêm túc đảm bảo hiệu quả cao nhất. Ở Việt Nam vấn đề tự nhiên xã hội đa dạng và phức tạp, văn hoá tín ngưỡng phong phú. Chính vì vậy gây ra một số khó khăn trong công tác XĐGN *Các nguyên nhân chủ quan Các hộ nghèo thường bị các nguyên nhân khách quan tác động sâu sắc nhưng đồng thời lại do nguyên nhân chính họ: Bản thân không tự nâng cao trình độ dân trí, không ứng dụng các tiến bộ KHKT …không có kinh nghiệm và trình độ sản xuất kinh doanh. Đây là nguyên nhân chủ yếu của hộ nghèo ở vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc. Do không có kinh nghiệm trong sản xuất, trình độ kém trong sản xuất họ sợ đầu tư, sợ rủi ro hay đúng hơn là họ không có ý chí làm giàu, tự vươn lên. Vói đối tượng này cần có chính sách đào tạo, trau dồi kinh nghiệm sản xuất cho họ, cần thực hiện chính sách cụ thể “cầm tay chỉ việc”. Chỉ như vậy họ mới thoát nghèo. Không năng động giải quyết việc làm, lười lao động, một số rượu chè, cờ bạc…đây là nguyên nhân chung cho tất cả các vùng dân cư, việc hỗ trợ cho các đối tượng này thường hiệu quả thấp thậm chí không thu được kết quả như mong đợi. Gặp những bất thường trong cuộc sống: ốm đau, bệnh tật, hoả hoạn… cần chi tiêu lớn cần vay mượn nhiều. Sau khi khỏi hoặc khắc phục được tai nạn, sản xuất kinh doanh không gượng đủ trả nợ.. .đã trở thành các hộ nghèo. Đối với hộ nghèo ngay cả hộ trung bình vấn đề bệnh tật, tai nạn giao thông luôn là vấn đề lớn vì nó cần chi phí cao. Có những gia đình khi gặp phải sự cố trên đã phải đi vay mượn thậm chí bán cả tài sản. Sau những biến động như vậy họ thường không có khả năng chi trả, không có giự trữ và họ lâm vào tình trạng nghèo đói. Vấn đề này diễn ra khá nhiều ở nước ta khi mà vấn đề khám chữa bệnh còn rất tốn kém như hiện nay. Việc hỗ trợ cho đối tượng này cần một lượng vốn lớn nhưng họ lại sẵn sàng làm giàu nên hỗ trợ sẽ được hiệu quả mong muốn. Những hộ sinh đẻ nhiều, đông con… bố mẹ không đủ khả năng làm kinh tế. Đây là nguyên nhân đặc thù của khu vực nông thôn, miền núi. Đối với Việt Nam vấn đề trọng nam khinh nữ còn khá nặng nề đặc biệt là khu vực nông thôn, dẫn đến vấn đề sinh đẻ vỡ kế hoạch của một số dội tượng tập trung là hộ nghèo. Vùng DTTS, trình độ hạn chế, thiếu hiểu biết về kế hoạch hoá gia đình nên tình trạng đông con là khá phổ biến, làm cho kinh tế gia đình không đi lên được. *Nguyên nhân do cơ chế chính sách Hệ thống chính sách của nước ta đã lớn đầy đủ nhưng khi áp dụng còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. Đôi khi những chính sách áp dụng còn chưa phù hợp, chưa đúng đối tượng. Một số chính sách, cơ chế ban hành không chỉ chưa có tác dụng khuyến khích mạnh sự chủ động, sự tự lực vươn lên của hộ nghèo, của xã nghèo, mà còn tạo tư tưởng ỷ lại sự hỗ trợ của nhà nước, của cộng đồng nên nảy sinh nghịch lý: hộ nghèo giảm nhưng lại tăng xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn… 3. Nguyên nhân ảnh hưởng đến viếc triển khai các chính sách XĐGN Mục tiêu của chính sách XĐGN tuỳ thuộc vào trạng thái đói nghèo và điều kiện xoá đói giảm nghèo ở mỗi quốc gia, mỗi vùng nông thôn để xác định con số cụ thể. Đối với Việt Nam, những năm trước đây tỷ lệ đói nghèo còn cao mục tiêu của chính sách này đó là từng bước giảm tỷ lệ đói nghèo. Những năm gần đây do kinh tế có bước phát triển khá, công cuộc XĐGN có những thành tựu nhất định, chúng ta đã đưa ra mục tiêu xoá đói và giảm tỷ lệ nghèo từ 21.85% xuống dưới 11% năm 2010. Hạn chế tỷ lệ hộ tái nghèo hàng năm xuống dưới 0.5% so tổng hộ nghèo. Thu nhập của nhóm hộ nghèo tăng 1.45 lần so năm 2005. Tuy nhiên việc triển khai các chính sách này chưa được tốt, làm ảnh hưởng đến kết quả XĐGN Đó là: - Thiêt kế chính sách chưa tốt: Mức hỗ trợ học phí được Chính phủ được quy định theo quyết định 70/1998/QĐ- TTg về miễn giảm học phí so với tổng chi tiêu cho học hành của hộ gia đình còn rất thấp. Theo quy định mức hỗ trợ tối đa về học phí cho một học sinh nghèo nông thôn cấp PTCS là 10.000/ tháng, PTTH là 25.000/tháng, nhưng theo số liệu thống kê về tình hình miễn giảm học phí cho thấy, mức miễn giảm trung bình học phí trung bình một tháng chỉ đạt 6.600/ tháng năm học 1998-1999 và tăng lên 8.300/ tháng năm 2002-2003. - Thủ tục phức tạp, chi phí giao dịch cao: Các hộ nghèo, đối tượng nghèo nói chung để được hưởng lợi từ những chính sách hỗ trợ của Chính phủ thì phải thực hiện một quy trình nhiều khâu và chí phí để nhận được hỗ trợ ở nhiều nơi có thể ở nhiều nơi có thể còn lớn hơn mức hỗ trợ nhận được. Các yêu cầu về thủ tục như sau: +Phải có tên trong danh sách hộ nghèo của xã đã được tỉnh phê duyệt hay phải có thẻ hộ nghèo. + Phải làm đơn hoặc mua đơn và kê khai theo mẫu đơn. + Đơn phải có xác nhận của xã (chủ tịch hoặc phó chủ tịch UBND xã). Nhiều nơi lại cần phải có xác nhận của trưởng thôn trước khi có xác nhận của xã. + Phải có xác nhận của phòng LĐTB&XH (cấp huyện) + Nộp đơn cho ban lãnh đạo để được xem xét. Trong chính sách hỗ trợ y tế, khi các hộ nghèo được hỏi thì có tới trên 40% đối tượng nghèo vùng Đông Bắc và 10% đối tượng nghèo vùng Tây Bắc trả lời cho rằng không phải lúc nào họ cũng được miễn giảm. Hai lý do đó là: Thẻ BHYT được cấp quá muộn và các thủ tục nhận thẻ là quá phức tạp. Còn đối với chính sách hỗ trợ về giáo dục, hai lý do chính cho thấy không phải lúc nào người nghèo cũng được nhận hỗ trợ miễn giảm học phí đó là: người nghèo họ không biết họ đủ tiêu chuẩn để được miễn giảm theo chính sách; các thủ tục quá phức tạp để được miễn giảm. - Quản lý đối tượng nghèo là chưa tốt. Phối hợp quản lý chưa tốt gây phiền hà đối với công dân (đó là sự phối hợp giữa cơ quan LĐTB&XH và các ngành chuyên môn) thực hiện chính sách hỗ trợ, miễn giảm chưa hiệu quả, đặc biệt trong lĩnh vực thông tin. Trên thực tế, ngành LĐTB&XH chỉ quản lý danh sách hộ nghèo (chủ hộ), trong khi đó ngành chuyên môn (giáo dục, y tế, địa chính…) không quản lý đối tượng nghèo nhưng trực tiếp thực hiện chính sách hỗ trợ, miễn giảm cho đối tượng nghèo. Xác đính hộ nghèo thiếu chính xác, gây thiệt hại đối với hộ nghèo, gây ra sự mất cân bằng trong khi thực hiện chính sách: theo kết quả điều tra số hộ nghèo đói năm 2003, việc quản lý hộ nghèo ở cấp xã còn bất cập, tình trạng hộ nghèo có tên trong danh sách và hộ không thuộc diện nghèo lại có trong danh sách còn phổ biến ở các xã ( 50% số xã kiểm tra tháng 10/ 2004). Mức độ sai sót chung là 3.8%, nhiều xã tỷ lệ này là 10 - 15% (Bộ LĐTB&XH Báo cáo kết quả kiểm tra số liệu nghèo đói 2001 -2003, Hà Nội, 10/2004). Sai sót này sẽ “loại bỏ” cơ hội hưởng thụ lợi ích của chính sách miễn giảm, chính sách hỗ trợ đối với người nghèo, trong khi đó hộ không thuộc diện ưu tiên lại được hưởng lợi - Thông tin về chính sách hỗ trợ chưa thực hiện tốt: hơn 20% hộ nghèo không biết có các chính sách hỗ trợ cho người nghèo. Năm 1999, một quan sát tại huyện Đại Từ - Thái Nguyên cho kết quả 45% hộ nghèo không biết có chính sách miễn giảm học phí đối với con hộ nghèo. Hơn 50% hộ nghèo thiếu các nguồn thông tin chính thức về chính sách hỗ trợ người nghèo. Như vậy, người nghèo đang thiếu thông tin chính thức và tin cậy về chính sách. Có thể nói đơn giản là vì người dân còn thiếu các phương tiện nghe nhìn, những số liệu cho thấy: công tác tuyên truyền chính sách của các cấp chính quyền ở cấp cơ sở còn yếu kém. Nhiều người có trách nhiệm liên quan trực tiếp đến thực hiện chính sách hỗ trợ cũng “không rõ” về chính sách. Hầu như tất cả các hộ nghèo chưa được hướng dẫn về thủ tục, thiếu tài liệu hướng dẫn, đào tạo cán bộ cấp xã làm công tác XĐGN . Và còn một thực tế đó chính là bản thân những người nghèo không chủ động tìm kiếm thông tin về chính sách. Đây là điểm yếu rất phổ biến của người nghèo. Nhiều người nghèo không chỉ thờ ơ với các chính sách nói chung mà ngay cả các chính sách hỗ trợ ảnh hưởng trực tiếp đến họ. - Nguồn kinh phí do Trung Ương bố trí để cung cấp cho việc thực hiện các chính sách còn rất hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đề ra. - Ở một khía cạnh nào đó, một số chính sách hỗ trợ chưa thực sự phù hợp với người nghèo, ảnh hưởng tới hiệu quả của chương trình XĐGN - Hệ thống theo dõi giám sát thực hiện chương trình chưa đồng bộ và hệ thống. - Thiếu đội ngũ cán bộ XĐGN có đủ năng lực để tổ chức thực hiện chính sách làm ảnh hưởng không ít tới hiệu quả của chương trình XĐGN. II. MỘT SỐ CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA VÀ XĐGN 1. Một số trình quốc gia XDGN Tham khảo một số chương trình quốc gia là xem xem đã làm được những gì và còn tồn tại những gì mà chúng ta chưa làm được. Mỗi chương trình có một đặc điểm riêng, có một cách triển khai hoạt động riêng thông qua đó ta có thể rút ra được những kinh nghiệm hay bải học cần thiết cho mỗi chương trình sau để có hiệu quả hơn. Mục tiêu của các chương trình Mục tiêu của chương trình 133 là xoá đói kinh niên, giảm tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước xuống còn 10% vào năm 2000 Một mục tiêu khác không được nêu cụ thể trong các văn kiện của chương trình nhưng tại Đại hội Đảng VIII, các nhà lãnh đạo và công chúng nhấn mạnh đó là: “Giảm chênh lệch giữa các nhóm dân cư và các khu vực địa lý bằng cách đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội cho đối tượng yếu thế” Các mục tiêu này mở rộng cho giai đoạn 2001 – 2005, và chương trình 143 có mục tiêu: Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%, sử dụng chuẩn nghèo mới của Bộ LĐTB&XH, tức là trung bình 1.5 – 2% mỗi năm và xoá hoàn toàn nạn đói kinh niên. Bảo đảm các xã nghèo có các công trình hạ tầng cơ sở cơ bản như thuỷ lợi nhỏ… Tạo 1.4 – 1.5 triệu việc làm mỗi năm. Giảm tỷ lệ thất nghiệp tại thành thị xuống dưới 6 %, và nâng tỷ lệ sử dụng thời giam lao động lên 80% vào năm 2005. Phạm vi và đối tượng Chương trình thực hiện trong cả nước và hướng vào tất cả các hộ nghèo theo tiêu chuẩn nghèo của Bộ LĐTB&XH. Nội dung của hương trình điển hình Nội dung của chương trình 143 Chương trình được thực hiện với các chính sách và dự án thành phần sau: Các chính sách: Chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế. Chính sách hỗ trợ người nghèo về giáo dục Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn Chính sách an sinh xã hội giúp các đối tượng yếu thế. Hỗ trợ người nghèo về nhà ở Hỗ trợ công cụ và đất sản xuất cho người nghèo Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp Các dự án XDGN trực tiếp: + Nhóm dự án XDGN chung Dự án tín dụng cho hộ nghèo vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh Hướng dẫn cho người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Xây dựng mô hình XĐGN ở các xã nghèo. + Nhóm dự án XĐGN cho các xã nghèo (ngoài chương trình 135) Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng các xã nghèo Hỗ trợ sản xuất và phát triển các ngành nghề ở xã nghèo Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác XĐGN và các cán bộ xã nghèo Ổn định dân cư và xây dựng vùng kinh tế mới ở các xã nghèo Dự án định canh đình cư ở các xã nghèo Chương trình 135 Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi vùng sâu vùng xa (được gọi là chương trình 135) được Thủ tướng chính phủ phê duyệt theo quyết định số 135/1998/QĐ – TTg ngày 31/7/1998 nhằm tăng cường hoạt động xoá đói giảm nghèo cho các xã đặc biệt khó khăn miền núi vùng sâu vùng xa tại 52 tỉnh. Đến năm 2000 Thủ tướng chính phủ ban hành quyết định số 138/2000/QĐ – TTg ngày 29/11/2000 về việc hợp nhất dự án hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn do uỷ ban dân tộc quản lý. Theo bước chuyển đó chương trình 135 hiện nay bao gồm 5 hợp phần: Phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển cơ sở hạ tầng trung tâm cụm xã, quy hoạch ổn định dân cư, khuyến nông, khuyến ngư (gắn với ngành công nghiệp chế biến), đào tạo cán bộ xã, thôn, bản ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chương trình 135 theo đúng nghĩa thì không phải là một chương trình mục tiêu quốc gia vì không xác định đối tượng là tất cả các tỉnh nhưng vẫn là một chương trình trọng điểm vì bao phủ 49 tỉnh. Về mặt phân bố ngân sách thì ngân sách của chương trình lớn hơn nhiều lần so với phần ngân sách của dự án xoá đói giảm nghèo của chương trình 143. Mặc dù cả 2 chương trình được quản lý độc lập nhưng giữa chúng không có sự phân chia rõ ràng. Hầu hết các chính quyền địa phương đều coi chương trình 135 là một kênh đặc biệt cho các khoản đầu tư ưu tiên của Chính phủ trung ương và các công trình hạ tầng cấp xã đã được xác định trước và CTMTQGXĐGN là một kênh cho các hỗ trợ còn lại. Chương trình 135 có thể được xem là một công cụ đặc biệt phục vụ cho tập trung nguồn lực XĐGN và các hoạt động vào các khu vực địa lý cụ thể. Trên thực tế chính quyền đã đơn giản hoá các thủ tục đầu tư các dự án công trình hạ tầng cơ sở trong chương trình. Vì vậy CTMTQGXĐGN và chương trình 135 có trùng nhau về địa lý, và công tác điều phối, lồng ghép cả 2 chương trình được thực hiện thông qua công tác lập kế hoạch hàng năm tại các cấp địa phương, đặc biệt là cấp tỉnh. Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 A. CĂN CỨ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH I.Thực trạng nghèo đói 1.Thực trạng nghèo đói theo chuẩn nghèo cũ (giai đoạn 2001-2005) + Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh: Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004 đã ghi nhận “Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh tế”. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh trong vòng 5 năm từ 17,2% năm 2001 (2,8 triệu hộ) xuống dưới 7% năm 2005 (1,1 triệu hộ) bình quân mỗi năm giảm khoảng 34 vạn hộ. Tính đến cuối năm 2005 có: 12 tỉnh/thành phố cơ bản không còn hộ nghèo (tỷ lệ nghèo dưới 3%) 14 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo từ 3-5% 25 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo từ 5-10% 01 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo trên 15% (Lai Châu 18,98%) + Tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng, tỷ lệ nghèo khu vực miền núi vẫn cao gấp 1,7 đến 2 lần so với tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước: Tây Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất và vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất. Gần 90% hộ nghèo sống ở nông thôn; hộ nghèo là đồng bào DTTS còn chiếm tỷ lệ rất cao ở một số tỉnh (Kon Tum 80%, Gia Lai 77%...) Biể._.u 1. Tỷ lệ nghèo đói 2000-2005 (theo chuẩn 2001-2005) Vùng Tỷ lệ hộ nghèo năm 2000(%) Số hộ nghèo năm 2005 (hộ) Tỷ lệ hộ nghèo năm 2005(%) Năm 2005 so với 2000 giảm (%) 1.Đông Bắc 22,35 126.790 6,27 16,08 2.Tây Bắc 33,96 57.528 11,41 22,55 3.ĐB sông Hồng 9,76 206.545 4,77 4,99 4.Bắc Trung Bộ 25,64 211.928 9,28 16,41 5.Duyênhải NamTrung Bộ 22,34 113.910 7,59 14,75 6.Tây Nguyên 24,90 82.939 11,86 13,04 7.Đông Nam Bộ 8,88 108.932 4,07 4,81 8.ĐB sông Cửu Long 14,18 207.600 5,67 8,51 Toàn quốc 17,18 1.033.608 6,53 10,65 Kết quả XĐGN chưa bền vững: Qua xem xét sự phân bố về thu nhập của các hộ gia đình cho thấy còn một tỷ lệ khá lớn hộn gia đình nằm ngay sát cận trên chuẩn nghèo và nếu gặp thiên tai, rủi ro, sự thay đổi của cơ chế chính sách và tác động của quá trình hội nhập thì khả năng tái nghèo của nhóm này sẽ rất lớn. Tốc độ giảm nghèo của nhóm DTTS chậm: Tuy khu vực miền núi tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh hơn khu vực đồng bằng, thành thị, nhưng tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền núi vẫn cao hơn nhiều. Mặc dù số lượng hộ nghèo là DTTS đã giảm nhưng tỷ lệ trong tổng số hộ nghèo của cả nước từ năm 1992 đến 2004 có chiều hướng tăng lên, điều đó cho thấy tốc độ giảm nghèo của đồng bào DTTS chậm hơn tốc độ chung của cả nước (biểu 2). Nhóm dân tộc có tỷ lệ hộ nghèo cao là Vân Kiều chiếm 60,3%; Pakô 58,5% và H’mông 35% vào năm 2003. Biểu 2. Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo trong tổng số hộ nghèo Đơn vị: % Dân tộc 1992 1998 2005* Dân tộc thiểu số 21 29 36 Dân tộc kinh 79 71 64 Chung 100 100 100 2.Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới (2006-2010) Do mức sổng của người dân nói chung ngày càng tăng, cùng với định hướng chung là từng bước tiếp cận với các nước đang phát triển trong khu vực về XĐGN, nên chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005 không còn phù hợp với giai đoạn mới. Vì vậy việc điều chỉnh chuẩn nghèo cho giai đoạn 2006-2010 là hết sức cần thiết. Chuẩn nghèo cho giai đoạn 2006-2010, có tính đến các yếu tố ảnh hưởng (trượt giá, tăng trưởng…) Thủ tưởng Chính phủ đã ký Quyết định 170/2005/QĐ-TTg ngày 8/7/2005 ban hành tiêu chí chuẩn ngèo như sau: Đối với khu vực nông thôn, những hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng từ 200.000 đồng trở xuống. Đối với khu vực thành thị, những hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng từ 260.000 đồng trỏ xuống. Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn hoặc bằng chuẩn nghèo được xác định là hộ nghèo. Theo tiêu chuẩn nghèo nêu trên, ước tính vào cuối năm 2005 cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số hộ toàn quốc. Vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất là Vùng Tây Bắc (42%) và vùng Tây Nguyên (38%), thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ (9%)… Biểu đồ 1. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn giai đoạn 2006- 2010 năm 2005 B MỤC TIÊU, CHỈ TIÊU CỦA CHƯƠNG TRÌNH I. Mục tiêu 1.Mục tiêu tổng quát Đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo, hạn chế tái nghèo; củng cố thành quả giảm nghèo, tạo cơ hội cho hộ đã thoát nghèo vươn lên khá giả; cải thiện một bước điều kiện sống và sản xuất ở các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn; nâng cao chất lượng cuộc sống của nhóm hộ nghèo, hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa nhóm hộ nghèo và nhóm hộ giàul Mục tiêu cụ thể đến năm 2010 Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 22% năm 2005 xuống còn 10-11% năm 2010 (trong 5 năm giảm 50% số hộ nghèo); Thu nhập của nhóm hộ nghèo tăng 1,45 lần so với năm 2005. Phấn đấu 50% số xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn. II. CÁC CHỈ TIÊU CẦN ĐẠT ĐƯỢC ĐẾN NĂM 2010 1.Đối với các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo cơ bản xây dựng đủ các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu theo quy định. 2.Có 6 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi. 3.Thực hiện khuyến nông- lâm- ngư, chuyển giao kỹ thuật, hướng dẫn cách làm ăn cho 4,2 triệu lượt người nghèo. 4.Miễn giảm học phí học nghề cho 150 nghìn người nghèo. 5.100% người nghèo được Nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế, khi ốm đau đi khám, chữa bệnh được Quỹ BHYT thanh toán theo quy định. 6.Miễn, giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường cho 19 triệu lượt học sinh nghèo, trong đó có 9 triệu học sinh tiểu học. 7.Tập huấn nâng cao năng lực cho 170 nghìn cán bộ tham gia công tác giảm nghèo ở các cấp, trong đó 95% là cán bộ cấp cơ sở. 8.Hỗ trợ để xoá nhà tạm cho 500 nghìn hộ nghèo. 9.Phấn đấu 98% ngươì nghèo có nhu cầu được trợ giúp pháp lý miễn phí C.ĐỐI TƯỢNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH; Đối tượng là người nghèo, hộ nghèo, xã đặc biệt khó khăn, xá nghèo; ưu tiên đối tượng hộ nghèo mà chủ hộ là phụ nữ, hộ nghèo dân tộc thiểu số, hộ nghèo có đối tượng bảo trợ xã hội (người già, người tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt). D.THỜI GIAN THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH: Từ nay đến năm 2010 E.PHẠM VI HOẠT ĐỘNG CTMTQGGN là một bộ phận cấu thành trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai đoàn 2006-2010, hoạt động trên phạm vi cả nước nhưng một số chính sách, dự án được tập trung ưu tiên cho những địa bàn đặc thù (xem chi tiết phần các chính sách, dự án. F.CÁC CHÍNH SÁCH, DỰ ÁN, HOẠT ĐỘNG THUỘC CHƯƠNG TRÌNH GIAI ĐOẠN 2006-2010 I Tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập. 1. Chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo 1.1 Mục đích: Cung cấp tín dụng cho các hộ nghèo có sức lao động, có nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất. tăng thu nhập và tự vượt nghèo. 1.2 Đối tượng, phạm vi: Hộ nghèo, ưu tiên chủ hộ là phụ nữ, hộ có người tàn tật, hộ đồng bào dân tộc thiểu số có sức lao động, có nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh, làm nền nhà vượt lũ, chuộc lại đất sản xuất. Hộ mới thoát nghèo sẽ được hưởng lợi từ chính sách này thêm 2 năm kể từ khi cấp xã công nhận thoát nghèo. Chính sách này thực hiện trên phạm vi cả nước. 1.3 Cơ quan quản lý: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1.4 Cơ quan thực hiện: Ngân hàng Chính sách Xã hội. 1.5 Thời gian thực hiện: Từ 2006-2010. 1.6 Nội dung: Cung cấp tín dụng ưu đãi, chủ yếu là tín dụng quy mô nhỏ cho các hôn gia đình nghèo với thủ tục vay vốn thu hồi vốn đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, phù hợp với người nghèo. Áp dụng linh hoạt phương thức cho vay, chủ yếu là tín chấp thông qua hình thức nhóm tín dụng- tiết kiệm, hoặc các nhóm tương trợ tự nguyện của người nghèo, các đoàn thể xã hội. Thời gian từ khi đăng ký vay đến khi nhận được tiền, tối đa không quá 15 ngày. Món vay và thời gian vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh, bình quân từ 4-7 triệu đồng/món vay nhưng tối đa không quá 15 triệu đồng và không quá 5 năm. Tuỳ vào từng vùng, có thể cung cấp vốn vay bằng tiền hay bằng hiện vật theo yêu cầu của người nghèo (như mô hình Ngân hàng Bò, hay cho vay vật tư nông nghiệp). Kết hợp chặt chẽ giữa tín dụng với hoạt động tiết kiệm giúp hộ nghèo vươn lên thoát nghèo bền vững. Đồng thời thực hiện giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay thông qua tổ nhóm tín dụng- tiết kiệm để hạn chế tình tràng nợ đọng và sử dụng vốn vay không hiệu quả. Phối kết hợp cung cấp tín dụng với khuyến nông, đào tạo nghề, hỗ trợ đất cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm… để vốn vay của người nghèo được sử dụng có hiệu quả. Tăng cường cả số lượng và chất lượng cán bộ tín dụng của NHCSXH, nhất là ở vùng sâu và vùng xa. Nâng cao kỹ năng tiếp cận cộng đồng và cung cấp dịch vụ tài chính vi mô cho người nghèo đối với cán bộ tín dụng. 2.Chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho hộ nghèo DTTS 2.1 Mục đích: Giải quyết đất sản xuất theo quy định cho các hộ nghèo DTTS không còn đất hoặc thiếu đất để phát triển sản xuất, duy trì thu nhập ổn định và từng bước tăng thu nhập, vượt nghèo bền vững. 2.2 Đối tượng, phạm vi: Hộ nghèo DTTS không có đất hoặc thiếu đất sản xuất (thực hiện theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ) 2.3 Cơ quan quản lý: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2.4 Cơ quan thực hiện: Các tỉnh có đồng bào DTTS. 2.5 Nội dung: -Đối với những địa phương còn qũy đất: Giao cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số với mức đất sản xuất tối thiểu là 0,5 ha đất nương, rẫy, hoặc 0.25 ha đất ruộng lúa nước một vụ hoặc 0,15 ha đất ruộng lúa nước 2 vụ. - Đối với những địa phương không còn quỹ đất: Kết hợp với tín dụng, hỗ trợ các hộ nghèo thiếu đất do bị cầm cố, có đủ vốn để có thể chuộc lại đất canh tác của mình. Ngoài sử dụng giải pháp đào tạo nghề và tạo việc làm để nông dân không đất chuyển đổi nghề khác tự tạo việc làm tại chỗ, làm việc ngoài địa bàn, hoặc tham gia xuất khẩu lao động để có thu nhập ổn định. -Gắn việc giao đất, chuộc lại đất sản xuất với khuyến nông- lâm – ngư và hỗ trợ tín dụng để giúp người dân sử dụng hiệu quả đất được giao. - Rà soát hiện trạng sử dụng và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất của các nông, lâm trường để tạo quỹ đất giao cho các hộ DTTS nghèo thiếu đất sản xuất. 3. Dự án khuyến nông- lâm- ngư và hỗ trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề 3.1 Mục đích: Hỗ trợ người nghèo về kiến thức và kỹ năng xây dựng kế hoạch, bố trí sản xuất hợp lý, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào tổ chức sản xuất và kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, tăng thu nhập bền vững. 3.2 Đối tượng, phạm vi: Hộ nghèo có lao động, có đất sản xuất nhưng thiếu kiến thức, kinh nghiệm, làm ăn, có điều kiện áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất; ưu tiên cho các đối tượng là phụ nữ nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Hộ mới thoát nghèo cũng được hưởng lợi từ dự án này trong thời gian là 2 năm. Dự án này thực hiện trên phạm vi cả nước, ưu tiên vùng miền núi, dân tộc thiểu số. 3.3 Cơ quan quản lý dự án: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 3.4 Cơ quan thực hiện: Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 3.5 Nội dung: Trang bị kiến thức và kỹ năng ra các quyết định sản xuất kinh doanh, xây dựng kế hoạch sản xuất phù hợp với thị trường, điều kiện tự nhiên và lợi thế cạnh tranh của địa phương. Trang bị kiến thức và kỹ năng về khuyến nông, lâm, ngư thông qua áp dụng khuyến nông có sự tham gia của dân, hội nghị đầu bờ, tập huấn trên cơ sở mô hình thực tế. Gắn kết chặt chẽ khuyến cáo tiến bộ kỹ thuật với giới thiệu phương pháp tổ chức sản xuất, bảo quản chế biến, hạch toán kinh tế và tiêu thụ sản phẩm. Hỗ trợ việc hình thành và tổ chức hoạt động của các tổ chức khuyến nông tự quản như câu lạc bộ khuyến nông, nhóm tín dụng - tiết kiệm, nhóm nông dân cùng sở thích; quản lý tổng hợp dịch hại (IPM). Cung cấp các thông tin khoa học và kỹ thuật, thị trường cho nông dân, nhất là người nghèo ở vùng sâu và vùng xa. Tăng cường đội ngũ cán bộ khuyến nông ở các xã nghèo, xã ĐBKK và thông, bản. Có cơ chế phù hợp về tổ chức, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ với cán bộ khuyến nông cơ sở. Đào tạo cán bộ khuyến nông thôn bản về phương pháp khuyến nông và phương pháp tiếp cận cộng đồng. 4. Dự án dạy nghề cho người nghèo 4.1 Mục đích: Trợ giúp người nghèo có được tay nghề cần thiết để tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập thông qua các khoá dạy nghề ngắn hạn để họ tìm việc làm tại các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ; đi lao động xuất khẩu hoặc tự tạo việc làm, góp phần giảm nghèo bền vững. 4.2 Đối tượng, phạm vi: Người nghèo, đặc biệt là thanh niên nghèo, người nghèo ở vùng đông dân cư, thiếu đất sản xuất, những nơi chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang phát triển công nghiệp và đô thị hoá. Người mới thoát nghèo cũng được tham gia dự án này trong vòng 2 năm. Dự án thực hiện trên phạm vi toàn quốc, ưu tiên tập trung vào một số khu vực có khả năng tạo việc làm ở các nông- lâm trường, các doanh nghiệp, các khu kinh tế quốc phòng và xuất khẩu lao động. 4.3 Cơ quan quản lý dự án: Bộ LĐTB&XH 4.4 Cơ quan thực hiện: Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 4.5 Nội dung: Nghiên cứu, đánh giá nhu cầu học nghề của người nghèo. Xây dựng kế hoạch đào tạo và tổ chức đào tạo nghề có thể sử dụng tại chỗ hoặc được thu nhận vào các khu công nghiệp, doanh nghiệp và đi lao động ở nước ngoài. Gắn đào tạo nghề với tạo việc làm và cung cấp tín dụng, người học nghề được trợ giúp giới thiệu việc làm miễn phí. Hỗ trợ các trung tâm dạy nghề cấp huyện trang thiết bị dạy nghề phù hợp. 5. Dự án nhân rộng mô hình XĐGN 5.1 Mục đích: Nhân rộng các mô hình giảm nghèo có hiệu quả góp phần đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo chung của cả nước. 5.2 Đối tượng, phạm vi: Hộ và các xã nghèo nơi có điều kiện phát triển vùng nguyên liệu vã các xã nghèo thuộc các vùng sinh thái có điều kiện nhân rộng, ưu tiên tập trung vào những vùng khó khăn nhất. 5.3 Cơ quan quản lý: Bộ LĐTB&XH . 5.4 Cơ quan thực hiện: Các doanh nghiệp và một số địa phương. 5.5 Nội dung: Tổng kết đúc rút kinh nghiệm các mô hình đã triển khai trong giai đoạn 2001-2005, kể cả các mô hình do các địa phương và các tổ chức đoàn thể tự huy động nguồn lực thực hiện. Duy trì và mở rộng các mô hình có hiệu quả hiện có bằng nguồn lực của địa phương, các doanh nghiệp và chính các hộ nông dân. Đẩy mạnh việc tuyên truyền và hỗ trợ nhân rộng các mô hình có hiệu quả hiện có và mở rộng sang các lĩnh vực khác như chăn nuôi, chế biến thực phẩm, may mặc, ưu tiên mô hình liên kết giữa doanh nghiệp với hộ nghèo phát triển vùng nguyên liệu. Khuyến khích các doanh nghiệp ký hợp đồng tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản với các hộ nghèo. 6. Chính sách hỗ trợ về y tế cho người nghèo 6.1 Mục đích: Hỗ trợ người nghèo tiếp cận dịch vụ y tế khi ốm đau thuận lợi hơn, bình đẳng hơn; Giảm thiểu rủi ro, khó khăn cho người nghèo. 6.2 Đối tượng và phạm vi: Người nghèo, người mới thoát nghèo trong vòng 2 năm. Chính sách này thực hiện trên phạm vi toàn quốc. 6.3 Cơ quan quản lý: Bộ Ytế. 6.4 Cơ quan thực hiện: Bộ Ytế và Bảo hiểm xã hội Việt Nam. 6.5 Nội dung: Củng cố mạng lưới y tế cơ sở, nhất là y tế xã, thôn và bản. Đầu tư toàn diện cơ sở vật chất cho các trạm y tế xã, đào tạo đội ngũ y, bác sĩ về làm việc ở y tế cơ sở. Thực hiện nồng ghép với “Đề án nâng cấp trạm y tế và đầu tư cho các trung tâm giáo dục sức khoẻ” để đẩy mạnh các hoạt động xã hội hoá chăm sóc sức khoẻ tại cộng đồng. Ban hành cơ chế khu vực tư nhân được tham gia cung cấp dịch vụ y tế cho người nghèo. Khuyến khích các tổ chức quốc tế đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị và phát triển nhân lực cho mạng lưới y tế cơ sở. Miễn 100% chi phí khám và chữa bệnh cho người nghèo khi đau ốm đến khám chữa bệnh nội trú hay ngoại trú ở các cơ sở y tế công lập và dân lập. 7 Chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người nghèo. 7.1 Mục đích: Hỗ trợ con em hộ nghèo được tới trường học tập bình đẳng như các trẻ em khác, góp phần nâng cao trình độ văn hoá của người nghèo, giảm nghèo bền vững. 7.2 Đối tượng, phạm vi: Con hộ nghèo và các thành viên khác của hộ nghèo trong độ tuổu đi học; trong đó, ưu tiên con các hộ nghèo là DTTS và trẻ em tàn tật. Chính sách này thực hiện trên phạm vi cả nước, cả trường công lập và ngoài công lập. 7.3 Cơ quan quản lý: Bộ LĐTB&XH 7.4 Cơ quan thực hiện: Bộ Giáo dục và Đào tạo. 7.5 Các nội dung: Miễn toàn bộ học phí (đối với các cấp học và bậc học phải đóng học phí) và các khoản đóng góp xây dựng trường cho người học là thành biên các hộ nghèo khác. Giảm 50% học phí (đối với các cấp học và bậc học phải đóng học phí) và 50% các khoản đóng góp xây dựng trường cho người học là thành viên các hộ nghèo khác. Giảm 50% học phí cho người học là thành viên hộ nghèo học ở các trường học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học. Hỗ trợ sách giáo khoa, vở viết cho học sinh các cấp học phổ thông là con các hộ nghèo DTTS sống ở các xã khu vực III và các trường dân tộc nội trú. 8.Chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở và nước sinh hoạt 8.1 Mục đích: Hỗ trợ hộ nghèo, đặc biệt là hộ nghèo DTTS về đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt để ổn định đời sống và thoát nghèo bền vững. 8.2 Đối tượng, phạm vi: Hộ nghèo DTTS định cư thường trú tại địa phương có khó khăn về đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt (thực hiện theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/07/2004 của Thủ tướng Chính phủ). Hộ nghèo khác chưa có nhà học nhà ở tạm bợ. Chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở thực hiện trên phạm vi toàn quốc. 8.3. Cơ quan quản lý: Uỷ ban dân tộc chủ trì và phối hợp với bộ xây dựng, Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn. 8.4 Cơ quan thực hiện: UBND các tỉnh thành phố. 8.5 Nội dung: -Về hỗ trợ đất ở cho hộ nghèo DTTS: Đối với những địa phương còn quỹ đất: Giao cho hộ nghèo DTTS với mức đất ở tối thiểu là 200m2 cho một hộ sống ở nông thôn. -Về hỗ trợ nhà ở: Đối với các hộ nghèo DTTS tại chỗ hiện chưa có nhà ở hoặc nhà ở tạm bợ thì thực hiện phương châm Nhà nước hỗ trợ một lần (triệu đồng/hộ), phần còn lại huy động cộng đồng giúp đỡ một phần và hộ nghèo tự lực một phần. Đối với hộ nghèo khác không có nhà ở hoặc đang ở nhà tạm, việc hỗ trợ nhà ở theo phương thức Nhà nước tạo cơ chế, ngân sách địa phương hỗ trợ, huy động cộng đồng, dòng họ và tự lực của chính hộ nghèo. - Về nước sinh hoạt: Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho các hộ nghèo DTTS sống phân tán ở vùng cao, núi đá, khu vực khó khăn về nguồn nước sinh hoạt để đào giếng, xây bể dự trữ nước hoặc tạo nguồn nước sinh hoạt mức 300.000 đồng/hộ. III. ĐẶC ĐIỂM VAI TRÒ CỦA ĐOÀN THANH NIÊN TRONG XĐGN 1.Đặc điểm Về thế lực: Ngay từ những ngày đầu giải phóng thành phố, thanh niên luôn là lực lượng đi đầu trong công việc khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng đất nước. Hàng chục vạn thanh niên dưới màu áo của thanh niên xung phong, đã tình nguyện đi xây dựng công trường, các vùng kinh tế xa xôi đầy gian khổ, thử thách. Lực lượng thanh niên xung phong có mặt trên khắp mọi miền đất nước, xứng đáng là lực lượng mũi nhọn ở tuyến đầu lao động và chiến đấu khôi phục phát triển kinh tế xã hội. Nhiều thanh niên xung phong đã xuất sắc đã được ứng vào hàng ngũ của Đảng của Đoàn thanh niên. Trình độ văn hoá trí tiến thủ: Trong sản xuất công nghiệp, các phong trào tổ chức khởi xướng đã tác động tích cực vào nền sản xuất hàng hóa, tạo thêm nhiều thu nhập cho người lao động trẻ và rèn luyện bản lĩnh, tay nghề trong thanh niên công nhân thành phố. Thanh niên nông thôn cũng thể hiện vai trò xung kích trên mặt trận nông nghiêp. Từ cánh đồng mẫu, đã phát triển rộng rãi phong trào ứng dụng khoa học kỹ thuật, hình thành các tổ đội nhóm giúp đỡ nhau trong sản xuất. Với lòng yêu nước nồng nàn, dũng cảm không ngại khó khăn, tuổi trẻ thành phố đang, sẽ luôn sẵn sàngg lên đường bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trất tự an toàn xã hội cho thành phố. Thanh niên ngày nay luôn khẳng định mình ở vị trí trung tâm của những vấn đề chính trị xã hội của đất nước và thành phố; có ý thức tự lực, tinh thần vượt khó, lỗ lực trong học tập, quyết chí vươn lên trong cuộc sống, không cam chịu đói nghèo. 2.Vai trò thanh niên nông thôn đối với XĐGN Vai trò trong hoạt động chung XĐGN Là lực lượng xung kích trong mọi phong trào do Đoàn thanh niên tổ chức với khẩu hiệu “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”. Phong trào thanh niên tình nguyện - sự trưởng thành của thanh niên Việt Nam, đó là lời khen ngợi của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm dành cho thanh niên trong lễ tổng kết 5 năm phong trào thanh niên tình nguyện, Thủ tướng còn nhấn mạnh: “Các hoạt động thanh niên, phong trào thanh niên phải tập trung hướng vào trí tuệ và sức sáng tạo của thanh niên để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước…” Tự hào với kết quả to lớn, thiết thực mà phong trào thanh niên tình nguyện 5 năm qua đã đạt được. Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Hơàng Bình Quân khẳng định: “5 năm qua, phong trào thanh niên tình nguyện đã không ngừng phát triển, thu hút sự tham gia đông đảo thanh niên, với nhiều nội dung thiết thực hiệu quả, hình thức ngày càng phong phú, đa dạng, được xã hội ghi nhận, đánh giá cao. Phong trào chẳng những ngày càng đông đảo thanh niên mà còn lôi cuốn các tầng lớp khác…” Ngoài những việc làm, hành động thiết thực giúp dân XĐGN xoá nạn mù chữ, tiếp cận với KHKT tiên tiến trong sản xuất…thanh niên tình nguyện của chúng ta còn làm lợi hàng chục ngàn tỷ đồng cho đất nước thông qua các công trình, phần việc của thanh niên, tiêu biểu là công trình thanh niên tình nguyện mở đường vào xã Tào Xi Láng, huyện Trạm Tấu, Yên Bái với giá trị hơn 7 tỷ đồng, công trường thanh niên mở đường vào 30 bản khó khăn của tỉnh Đoàn Thanh hoá với giá trị 11 tỷ đồng… “Phong trào thanh niên tình nguyện là bài ca lớp trẻ hôm nay trong cuộc xây dựng đất nước, vừa động viên lực lượng thanh niên tham gia vào nhiệm vụ phát triển kinh tế, giải quyết khó khăn của cộng đồng. Đây không chỉ là lời khen ngời của thủ lĩnh thanh niên mà còn là sự đánh giá, nhìn nhận của toàn xã hội vói những việc làm, những hành dộng thiết thực thông qua phong trào thanh niên tình nguyện của gần 20 triêu thanh niên, học sinh, sinh viên cả nước” Kinh nghiệm quý báu rút ra từ thực tiễn sinh động của phong trào thanh niên tình nguyện là phải luôn tin tưởng, kỳ vọng ở thanh niên và cổ vũ mạnh mẽ kịp thời hiệu quả, mong muốn làm việc là khao khát cống hiến luốn tiềm ẩn trong mỗi thanh niên, vấn đề tìm ra cách thức phù hợp để tác động trong điều kiện mới để thanh niên phát huy được khả năng vốn có của mình sẵn sàng hiến dâng trí tuệ, tuổi xuân cho đất nước. Vai trò với tư cách là người thuộc diện đói nghèo Thanh niên là lực lượng to lớn, chiếm gần 40% dân số cả nước và 55% lực lượng lao động xã hội. Với trình độ học vấn và kĩ năng nghề nghiệp ngày càng cao, ý thức vai trò trách nhiệm ngày càng cao, ý thức vai trò trách nhiệm đối với đất nước, đối với cộng đồng ngày càng lớn, thanh niên đã đang gớp phần hiệu quả vào các lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trước yêu cầu mới của đất nước thời kì hội nhập, để thực hiện nhiệm vụ “Phát triển kinh tế là trung tâm”, đẩy mạnh toàn diện hiệu quả phong trào “Thi đua tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ĐTN đã chủ trương tăng cường, vận động và hỗ trợ thanh niên tham gia phát triển kinh tế xã hội, xung kích XĐGN, làm giàu chính đáng cho bản thân, gia đình và xã hội là coi một chủ trương lớn. Một trong kết quả nổi bật những năm qua, đó là phong trào thi đua học tập lao động sáng tạo làm chủ KHKT mà thanh niên tham gia rất nhiệt tình có hiệu quả. Bới vì thanh niên chính là những hạt nhân góp phần cải tổ lại nền kinh tế ở nông thôn. Muốn XĐGN phải từng bước tác động vào tầng lớp thanh niên - lực lượng quan trọng của xã hội. Dưới đây là một câu chuuyện có thật được đăng trên tạp chí Khuyến nông mà em được đọc qua đây ta có thể thấy được vai trò của họ trong XĐGN bẰng chính bản thân họ. Không những thế họ còn truyền cho nhau cùng nhau phát triển, XĐGN. Thoát nghèo nhờ cây nấm Một ngày đầu mùa đông, trời se lạnh chúng tôi theo chân anh cán bộ về Trung tâm Công nghệ sinh học Thực vật - Viện di truyền nông nghiêp về thăm anh Quang - một gương mặt điển hình về phát triển kinh tế hộ từ cây nấm tại thôn Cấm xã An Khánh (Ninh Bình). Lớn lên tại vùng quê thuần nông trồng lúa, trong hoàn cảnh gia đình khó khăn, anh Quang một thanh niên có nghị lực vươn lên số phận của mình. Để thoát nghèo anh đã lăn lộn kiếm sống, trăn trở với nhiều nghề kiếm sống từ thợ xây, vác than, đạp xích lô anh đến vói cây nấm. Qua lớp tập huấn của Trung tâm, anh bắt đầu trồng thử cây nấm với tổng vốn đầu tư 4 triệu nấm mỡ, 600 bịch nấm sò cuối năm đã cho thu hoạch 5 tấn nấm sò, trừ chi phí anh thu lãi 5 triệu. Từ thành công bước đầu, nhờ nắm vững kỹ thuật cùng hỗ trợ về giống, năm 2003 anh mạnh dạn mở rộng quy mô với diện tích nhà xưởng 2 sào và 35 tấn nguyên liệu: nấm sò 8 tấn, nấm mỡ 12 tấn, nấm rơm 3 tấn, và 2000 bịch mộc nhĩ và 3000 bịch nấm linh chi, cuối năm trừ chi phí gia đình anh thu được 35 triệu đồng tiền lãi. Sang năm 2004 riêng mộc nhĩ anh đã phát triển thêm 10.000 bịch, phấn đấu cuối năm thu 50 triệu đồng. Hiện nay, anh phải thuê 3 đến 4 lao động/ ngày với thu nhập bình quân 600 ngàn đồng/ tháng. Trò chuyện vói chúng tôi về hiệu quả kinh tế trồng nấm, anh cho biết: Trồng nấm hiệu quả gấp 4 lần trồng lúa, cứ bỏ 1 triệu đồng tiền vốn thì sẽ thu được hơn 1 triệu đồng tiền lãi. Sang năm anh dự tình sẽ mở rộng quy mô nhà xưởng, tăng số lượng sản phẩm. Mong muốn của anh thành lập công ty riêng về nấm góp phần nâng cao thu nhập, tạo công ăn việc làm cho bà con. Theo gương anh nhiều bà con trong xã đã phát triển và quyết tâm đi theo nghề trồng nấm - một nghề giúp nông dân ở đây thoát nghèo ở xã Khánh An. PHẦN II: THỰC TRẠNG XĐGN VÀ PHONG TRÀO THANH NIÊN NÔNG THÔN XĐGN I. Một số kết quả đạt được trong công tác XĐGN Trong 5 năm qua Trung ương Đoàn đã tham gia các Chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội, XĐGN: Tham gia CTMTQGXĐGN và việc làm, chương trình 135: ĐTN tham gia có hiệu quả các vấn đề mang tính cấp thiết của thanh niên đó là việc làm và thu nhập. Từ năm 1994 đến năm 2004 đã triển khai thực hiện 15.000 dự án nhỏ với số vốn vay trên 500 tỷ đồng, tạo việc làm và thu nhập cho trên 40.000 thanh niên. Tín chấp nhận uỷ thác trên 700 tỷ đồng cho gần 150.000 hộ nghèo vay XĐGN.Dự án hướng dẫn người nghèo làm ăn thông qua xây dựng mô hình thanh niên XĐGN Trong giai đoạn 2001 – 2005,Trung ương Đoàn đã triển khai mô hình tại 20 xã nghèo, xã 135. Dự án đã trực tiếp hỗ trợ cho 3300 hộ nghèo tập huấn chuyển giao tiến bộ KHKT, hỗ trợ cây giống và vật tư trồng mới 427 ha cây ăn quả, cây công nghiệp, lâm nghệp dài ngày, hỗ trợ giống, vật tư gieo trồng 245 ha cây lương thực, thực phẩm ngằn ngày, cung cấp trên 40.000 tờ rơi phổ biến kỹ thuật, trên 12.000 cuốn sách KHKT, pháp luật và nghiệp vụ công tác Đoàn. Xây dựng 20 câu lạc bộ khuyến nông trẻ với 40 thành viên nòng cốt ở thôn bản. 1. Dự án đào tạo cán bộ làm công tác XĐGN Trong 5 năm, bằng nguồn vốn kinh phí hỗ trợ của chương trình Mục tiêu Quốc gia Trung ương Đoàn đã tập huấn, đào tạo được 1.800 cán bộ đoàn cơ sở xã nghèo trong cả nước về chương trình này trong thời gian 4 – 5 ngày. Ngoài những nội dung bài giảng bắt buộc của Ban chỉ đạo chương trình, các cán bộ đoàn còn trang bị thêm những kỹ năng tổ chức thực hiện, tham gia quản lý, giám sát chương trình, xây dựng chương trình hành động giúp các hộ nghèo là thanh niên thoát nghèo; kỹ năng phối hợp các chuyên môn kỹ thuật giúp người nghèo làm ăn có hiệu quả. 2. Dự án hỗ trợ sản xuất, phát triển ngành nghề Dự án Hỗ trợ sản xuất và Phát triển ngành nghề trong 5 năm tập trung tập huấn cho 2.750 thanh niên nông thôn nghèo tại xã nghèo của tỉnh Hoà Bình, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Lạng Sơn…..và đầu tư trang thiết bị mô hình xây dựng 10 mô hình, với 310 hộ thanh niên nghèo tham gia. Nội dung tập huấn tập trung phổ biến quy trình công nghệ, kỹ thuật bảo quản, chế biến nông sản sau thu hoạch vói quy mô hộ và nhóm hộ gia đình. Giới thiệu một số công nghệ vừa và nhỏ về kỹ thuật sấy lúa, chè; bảo quản và chế biến ngô, đậu, sắn, điều…..; bảo quản và chế biến một số loại hoa quả phù hợp điều kiện đặc thù của địa phương; giới thiệu kinh nghiệm và hỗ trợ kỹ thuật nhằm khôi phục và phát triển một số ngành nghề truyền thống và nghề mới tại nơi tổ chức tập huấn như nghề dệt thổ cẩm, sản xuất nấm, làm chiếu cói, sản xuất mây tre đan xuất khẩu… 3. Dự án xây dựng các làng thanh niên lập nghiệp dọc đường Hồ Chí Minh. Triển khai thí điểm 4 làng thanh niên lập nghiệp, nhiều gia đình trẻ sản xuất kinh doanh giỏi đã có thu nhập từ 20 – 50 triệu đồng/ năm. Trung ương Đoàn ký với Bộ Quốc Phòng chương trình phối hợp tham gia phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh vùng sâu, xa biên giới hải đảo giai đoạn 2005- 2010. Trung ương Đoàn chủ trì xây dựng đề án xây dựng 30 làng thanh niên lập nghiệp tuyến biên giới và các xã đặc biệt khó khăn 4. Dự án xoá cầu khỉ, xây dựng cầu nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long. Trên cơ sở thực hiện có hiệu quả dự án thí diểm 542 cầu, Thủ tướng Chính phủ quyết định giao cho Trung ương Đoàn mỏ rộng dự án xây dựng 1.000 chiếc cầu. Cùng với quá trình triển khai dự án, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã lập 3.411 đội thanh niên tình nguyện tham gia xây dựng được 7.573 cầu mới thay thế cẩu khỉ, tạo điều kiện phát triển giao thông, phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. 5. Dự án tổ chức các đội tri thức trẻ tình nguyện tham gia phát triển nông thôn miền núi. Được Thủ tướng Chính phủ đồng ý, năm 2007 Trung ương Đoàn đã thí điểm triển khai tuyển chọn 500 đoàn viên thanh niên đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp tham gia đội tri thức trẻ tình nguyện về 125 xã đặc biệt khó khăn của 10 tỉnh (Lạng Sơn, Hoà Bình, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Bình Phước, Sóc Trăng, Cà Mau) trong thời gian 24 tháng. Hoạt động chủ yếu tập trung vào công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, tham gia xóa mù chữ và phổ cập tiểu học, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, tham gia bảo vệ môi trường. Kết quả đã có 538 lượt đội viên được tiếp nhận, sau 24 tháng có 459 đội viên có nguyện vọng ở lại địa phương công tác lâu dài và đã có 286 đội viên được tiếp nhận. Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho Trung ương Đoàn mở rộng dự án với 1000 tri thức trẻ tình nguyện tham gia phát triển nông thôn miền núi. 6. Dự án y bác sĩ trẻ tình nguyện Cùng với Bộ Y tế, TW Đoàn đã tuyển chọn 545 y, bác sĩ trẻ tình nguyện về công tác tại 300 xã đặc biệt khó khăn của 27 tỉnh và huyện đảo Thanh niên Bạch Long Vĩ. Trong 2004 các y, bác sĩ trẻ tổ chức 271 lớp tập huấn cho 5287 cán bộ y tế thôn bản; khám chữa bệnh cho 862.875 lượt người. Triển khai chương trình liên tịch giữa Trung ương Đoàn và NHCSXH về việc tổ chức nhận uỷ thác cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Xác định một trong những nguyên nhân nghèo đói của thanh niên là thiếu vốn và không biết cách làm ăn, TW Đoàn đã chỉ đạo các tỉnh Đoàn triển khai tốt việc tạo vốn cho thanh niên vay lập nghiệp. Ngoài nguồn vốn giúp nhau lập nghiệp của thanh niên mỗi năm có gần 190 tỷ đồng, vốn vay từ các ngân hàng thương mại, cần chú ý khai thác và sử dụng nguồn vốn của NHCSXH. Đến nay các tổ chức Đoàn nhận uỷ thác trên 850 tỷ đồng vốn vay hộ nghèo cho trên 185 nghìn hộ nghèo thanh niên vay vốn XĐGN. Quản lý trên 50 tỷ đồng vốn quỹ Quốc gia hỗ trợ giải quyết việc làm (vốn 120 tỷ đồng), tạo điều kiện giúp thanh niên có thêm việc làm, thu nhập ổn định. Phong trào hành động thanh niên nông thôn. Hàng năm ĐTN các cấp đã tổ chức tập huấn KHKT cho trên 600 nghìn lượt người, xây dựng và duy trì hoạt động 5500 câu lạc bộ khuyến nông với 226.900 hội viên; xây dựng trên 60.000 công trình tha._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7712.doc
Tài liệu liên quan