Những mâu thuẫn trong nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

A. Lời mở đầu. Sau thắng lợi to lớn của chiến dịch Hồ Chí Minh, ngày 30/4/1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam, Bắc thống nhất dưới một chế độ chính trị.Cả nước ta đã bắt tay vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa trên cơ sở thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Trong giai đoạn này nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, đồng thời cũng có những khó khăn, thách thức to lớn. Đến năm 1986, cơ ch

doc23 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những mâu thuẫn trong nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế tập trung quan liêu bao cấp đã bộc lộ nhiều hạ chế, không còn phù hợp với xu thế của thời đại, do đó nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của đất nước. Nhận ra những hạn chế của cơ chế cũ đồng thời tahay tất yếu phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trừơng ở nước ta, Đảng ta đã quyết định đổi mới nền kinh tế. Đó là chuyển đổi nền kinh tế tập trung quannn liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo sự định hướng xã hội chủ nghĩa, đò là quyết định hoàn toàn đúng đắn. Sau đổi mới chúng ta đã thu đựợc những thành tựu to lớn , nhưng đồng thơi cũng nảy sinh nhiều khuyết tật và hạn chế. Lịch sử phát triển của sản xuất cũng đã chứng minh rằng: cơ chế thị trường là cơ sở điều tiết nền kinh tế hàng hóa đạt hiệu quả cao, song nó cũng không phải là hiện thâncủa sự hoàn hảo. Trong đó luôn tồn tại những mâu thuẫn. Những mâu thuẫn ấy đã kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới nhưng đó cũng là nguồn gốc và động lực của sự phát triển. Vì vậy, phải phát triển kinh tế và xây dựng thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước thì việc tìm ra những mâu thuẫn và phương hướng giải quyêt những mâu thuẫn ấy là rất cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, bằng những kiến thức tiếp thu được và những kiến thức tự tìm tòi em đã chọn đề tài: “Những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” cho bài tiểu luận của mình. Qua bài tiểu luận này, với mong muốn được tìm hiểu thêm về thực trạng nền kinh tế nước ta, cũng như những vướng mắc trong giải quyết những quy chế xử lý các vấn đề chính trị -xã hội có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc chuyển đổi nền kinh tế, để từ đó có thể xác định phương hướng nhiệm vụ cho tương lai mình. B.Nội dung. 1. Sự cần thiết phải xây dựng và phát triển nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.1. Khái niệm kinh tế thị trường, và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn hiện nay kinh tế thị trường được hiểu theo 2 cách khác nhau: Xét theo góc độ kinh tế học, kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa tuân theo cơ chế điều phối của thị trường. Đó chính là nền kinh tế hàng hóa gắn liền với thị trường, lấy thị trường làm điều kiện tồn tại và hoạt động. Thị trường là nơi gặp gỡ, trao đổi giữa người mua và người bán, là yếu tố chi phối mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, là nét đặc trưng bao quát của kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa càng phát triển thì thị trường càng mở rộng và trở thành yếu tố quan trọng kích thích sản xuất phát triển. Có thể nói, kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở giai đoạn cao. Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà ở trong đó, các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người dược biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua-bán, trao đổi hàng hóa-tiền tệ. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hóa- tiền tệ phát triển mở rộng, bao quát trên nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong những điều kiện lịch sử nhất định, kinh tế thị trường phán ánh trình độ văn minh và sự phát triển của xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật tự thân, đặc biệt là tính tự phát mù quáng, sự cạnh tranh lạnh lùng, dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ,… Vậy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.2. Sự cần thiết phải chuyển lên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Do nhận thức còn đơn giản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã thiết lập nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp. Đó là nền kinh tế vận hành theo mô hình kinh tế kế hoạch và cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp. Mô hình kinh tế và cơ chế đó có những đặc trưng chủ yếu sau: Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu với hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Do đó hoạt động của các doanh nghiệp chủ yếu phải dựa vào chi tiêu pháp lệnh hoặc là quyết định của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, từ phương hướng sản xuất nguồn vật tư , địa chỉ tiêu thụ sản phẩm, đến việc định giá, sắp xếp bộ máy . Thứ hai, các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở ,nhưng lại không chịu trách nhiệm về vật chất đối với các uyết định của mình. Những thiệt hại do các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Hậu quả do hai điểm nói trên mang lại là cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc, vì không có quyền tự chủ, vùa ỷ lại vào cấp trên, vì không bị dàng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh. Thứ ba, trong cơ chế cũ qaun hệ hàng hóa- tiền tệ bị coi thường, nhà nước quản lý kinh tế và kế hoạch hóa bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện các dưới hình thức : Bao cấp qua giá là hình thức phổ biến và nghiêm trong nhất. Nhà nước định giá tài sản, thiết bị, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn giá trị của chúng. Với giá thấp như vậy, coi như một phần những thứ đó được cho không Bao cấp qua ché độ tem phiếu ( tiền lương hiện vật ). Chế độ cung cấp tem phiếu với giá quá thấp đã biến thành một loại tiền lương hiện vật đã phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động. Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, mà không ràng buộc trách nhiệm về vật chất đối với người được cấp vốn đã tạo ra gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một độ ngũ kém năng lực quản lý, nhưng phong cách thì cửa quyền quan liêu. Mô hình kinh tế chi huy, mà điển hình là nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp…với những đặc trưng nêu trên có những ưu điểm là tập trung được nguồn lực vào những mục tiêu chủ yếu, nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh nên đã kìm hãm tiến bộ khoa học – kỹ thuật. Mô hình kinh tế đó không có tiêu chuẩn khách quan đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế, bởi lẽ giá cả gần như không có quan hệ gì với giá trị hàng hóa, cung như tương quan cung - cầu, nên mọi sự tính taón đều sai lệch, làm mất đi động lực của sự phát triển kinh tế, làm triệt tiêu tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh tế, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. khi đó chủ yếu phát triển kinh tế theo bề rộng chứ không phải phát triển kinh tế theo chiều sâu. Từ những đặc trưng trên, ta thấy rõ ràng cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp đã có vai trò tích cực trong việc đảm bảo sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Nhà nước trong điều kiện đất nước còn chiến tranh. Tuy nhiên cơ chế này càng bộc lộ những hạn chế như: phương pháp quản lý mang nặng tính chất hành chính bao cấp, hiệu quả sử dụng các nguồn kinh tế thấp, không tạo động lực cho doanh nghiệp và người lao động. Do không còn phù hợp với xu thế phát triển đất nước hiện nay, nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển nền kinh tế của nước ta. Nhận thức được điều này và cùng với sự đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới kinh tế là chuyển nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một điều cần thiết, tất yếu đối với nước ta. 1.3. Một số ưu, nhược điểm của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. 1.3.1. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường có những mặt tích cực, những ưu điểm to lớn mà ta không thể phủ nhận, đó là: Thứ nhất, cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, có hiệu quả Thứ hai, sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng cung)với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội (tổng cầu). Nhờ đó ta có thể thõa mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân về hàng ngàn, hàng vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để Nhà nước làm sẽ phải thực hiện một số công việc rất lớn, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong quá trình ra quyết định. Thứ ba, cơ chế thị trường kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng những phương pháp sản xuất tốt nhất như không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả. Thứ tư, cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển phân phối các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thị trường ; chúng sẽ chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lực kinh tế được phân bố cách tối ưu. Thứ năm, sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước những điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội và nhu cầu xã hội. Nhờ những ưu điểm và tác dụng đó, cơ chế thị trường có thể giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Nó là cơ chế tốt nhất điều tiết nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên, “sự thành công” của cơ chế đó là có điều kiện : các yếu tố sản xuất được lưu động, di chuyển dễ dàng; giá cả thị trường có tính linh hoạt, thông tin thị trường phải nhanh nhạy, và các chủ thể thị trường phải lắm được đầy đủ thông tin liên quan. 1.3.2. Những nhược điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những ưu điểm to lớn, không thể phủ nhận nền kinh tế thị trường cũng có những nhược điểm cần khắc phục, sửa chữa. Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh trạnh không hoàn hảo, thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền có thể giảm sản lượng, tăng giá để thu lợi nhuận cao, mặt khác khi xuất hiện độc quyền, thì không có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật. Thứ hai, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế- xã hội không được đảm bảo. Thứ ba, phân phối thu nhập không công bằng, có những mục tiêu xã hội dù cơ chế thị trường có hoạt động trôi chảy cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, sự phân cực về của cải, tác động xấu đến đạo đức và tình người. Sự tác dộng của cơ chế thị trường sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó không tự động mang lại những giá trị mà xã hội muốn vươn tới. Edgar Morin đã nhận xét chua chát: “trong cac nền văn minh đựoc gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hóa, trí não, tình người” Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần túy khó trách khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp. Người ta nhận thấy rằng, một nền kinh tế thị trường hiện đại đứng trước một khó khăn nan giải của kinh tế vĩ mô: không một nước nào trong một thời gian dài lại có được lạm phát thấp và đầy đủ công ăn việc làm. 1.4. Vai trò của kinh tế thị trường đối với sự phát triển kinh tế của nước ta. Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn mang nặng tính tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hóa phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự xã hội hóa sản xuất. Kinh tế hàng hóa tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hóa, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật , áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng xuất lao động xã hội Trong nền kinh tế hàng hóa, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào. Do đó kinh tế hàng hóa kích thích tính năng động , sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối lượng hàng hóa và dịch vụ. Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa, đến lượt nó sự phát triển kinh tế hàng hóa sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng kinh tế với nước ngoài. Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời sản xuất lớncó xã hội hóa cao; đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đôi ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao dộng lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chung ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối khá cao trong thời gian qua. Kinh tế thị trường đã góp phần thúc đẩy nền kin tế nước ta, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, lực lượng sản xuất kém phát triển, dần trở thành một nước có khả năng cũng như tiềm lực kinh tế khá ổn định trong khu vực. Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2. Thực trạng về những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và phương hướng giải quyết. 2.1. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta. Đảng ta đã xác định phải chuyển tư nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã đem lại nhiều thành công cho nền kinh tế. Song ncho đến nay nền kinh tế thị trường ở nước ta vẫn tồn tại một số vấn đề cần được quan tâm và giải quyết một cách thỏa đáng như: Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai. Mà nguyên nhân là do cơ sở vật chất kĩ thuật còn ở trình độ thấp, nhiều ngành kinh tế , máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội; kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, thông tin liên lạc còn lạc hậu, kém phát triển; phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ; khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như thị trựờng nước ngoài còn rất yếu . Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ. Nguyên nhân của của tình trạng trên là do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hóa thống nhất; thị trường hàng hóa- dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực; thi trường hàng hóa sức lao động mới mang nha, nét nổi bật cua thị trường này là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được việc làm; thị trường tiền tệ, vốn đã có niều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp tư nhân rất nhiều vốn nhưng không vay được vì vướng nhiều thủ tục; thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng chưa có nhiều hàng hóa để mua- bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia thị trường này. Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường: thành phần kinh tế tư nhân ; kinh tế nhà nước; tư bản tư nhân;… Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế- kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác: Toàn cầu hóa và khu vực hóa về kinh tế đang đặt ra cho các nước nói chung và nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt. Quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta nhận định về vấn đề này như sau: “Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Một số cơ chế chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với thực tế cuộc sống thiếu tính khả thi. Nhiều cấp, nhiều ngành chưa thay thế sửa đổi nững quy định về quản lý Nhà nước không phù hợp; chưa bổ sung những cơ chế, chính sách mới có tác dụng giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, khai thác nhiều hơn nữa các nguồn lực dồi dào trong các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các vùng và toàn xã hội” ( Đảng cộng sản Việt Nam: văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr75) 2.2. Những mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như đã nói ở trên, nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế thị trường quá độ, do vậy nó không thể trách khỏi những mâu thuẫn quá độ của nó, vấn đề đặt ra là chúng ta phải làm sao xác định được chính xác những mâu thuẫn đó, với các mặt đối lập của chúng từ đó tìm ra phương hướng giải quyết thích hợp. Sau đây tôi xin nêu ra một số mâu thuẫn cơ bản đang tồn tại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Viêt Nam và những phương hướng giải quyết. 2.2.1. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đây là mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu, nó diễn ra hết sức gay gắt, quyết liệt và phức tạp đòi hỏi cần được giải quyết một cách kịp thời, hợp lý. Theo quan điểm của Triết học thì mâu thuẫn này tồn tại là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường đang ở thời kỳ quá độ ở nước ta. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập trong một chỉnh thể là phương thức sản xuất. Giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc nhau và quy định lẫn nhau. Thật vậy, lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật, còn quan hệ sản xuất là hình thức của sự vật. Do vậy lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất thường xuyên vận động và phát triển nên quan hệ sản xuất cũng phải luôn thay đổi để đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất đáp ứng được những yêu cầu của lực lượng sản xuất thì sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên nếu quan hệ sản xuất không đáp ứng được những yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất và điều đó đồng nghĩa với việc kìm hãm sự phát triển kinh tế. Khi đó, để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển thì cần phải có một cuộc cách mạng xã hội. Cuộc cáh mạng đó sẽ làm thay đổi quan hệ sản xuất, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự chuyển đổi cơ chế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một minh chứng cho điều này. Quan hệ sản xuất trước năm 1986, có tác dụng tích cực khi nước ta còn chiến tranh, nhưng khi đất nước hòa bình, thì quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp, nó đã trở thành yếu tố lạc hậu, là yếu tố kìm hãm sự phát triển kinh tế nước ta trong suốt một thời gian dài. Công cuộc đổi mới do Đại hội Đảng VI đã làm thay đổi quan hệ sản xuất, chuyển nền kinh tế nước ta từ từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng của Nhà nước. Công cuộc đổi mới đã thu được rất nhiều thành tựu đáng kể: đời sống nhân dân được nâng cao, nền sản xuất phát triển mạnh, tình hình chính trị ổn định …Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã đựoc giải quyết mà thực sự, nó lại chuyển thành một mâu thuẫn mới và đấu tranh mới. Hiện nay, đất nước dang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế nước ta trở thành nền kinh tế tri thức. Do vây Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề phát triển lực lượng sản xuất theo kịp với trình độ thế giới. Và thực tế, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể: lực lượng lao động của chúng ta có trình đọ, có năng lực, khả năng sáng tạo cao, cộng thêm sự cần cù chịu khó vốn có của người Việt Nam; việc mở cửa nền kinh tế đã tạo điều kiện cho chung ta tiếp thu nhiều thành tựu của khoa học trên thế giới với những công nghệ và kỹ thuật tiên tiến của họ áp dụng vào Việt Nam. Do vậy, có thể nói lực lượng sản xuất ở nước ta đang phát triển với một trình độ tương đối cao. Tuy nhiên do ảnh hưởng nặng nề của cơ chế cũ, quan hệ sản xuất ở nước ta vẫn chưa theo kịp sự phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó đã kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước. Tôi xin đưa ra một số nguyên nhân để nhận định để minh chứng cho điều trên: - Thứ nhất, trong nền kinh tế của nước ta vẫn tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất khác nhau, giữa các thành phần kinh tế lại có sự mâu thuẫn về lợi ích làm cho sự quản lý ở tầm vĩ mô là rất khó, gây ra nhiều bất cập trong các chính sách của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế chung của cả nước. - Thứ hai, quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất vẫn còn nhiều yếu kém, biểu hiện ở các mặt sau: cơ cấu tổ chức của bộ máy Nhà nước ta vẫn còn khá cồng kềnh, phức tạp. Tình trạng này đã gây nên sự đan xen, chồng chéo quyền lực giữa các cơ quan quyền lực của nhà nướclàm cho một số thủ tục pháp lý trở nên phức tạp, cản trở việc kinh doanh của các doanh nghiệp; tình trạng tham ô, cửa quyền của một số cán bộ trong bộ máy Nhà nước ta vẫn còn rất nhức nhối, nó đã làm cho quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất không được lành mạnh; sự phân công lao động xã hội chưa hợp lý như tình trạng thừa thầy thiếu thợ, nơi thừa cán bộ, nơi thì tập trung nhiều lao động có tay nghề, trình độ cao nơi thì thiếu…; sự chuyên môn hóa và hiệp tác hóa sản xuất chưa cao cụ thể là: nền sản xuất nước ta vẫn là một nền sản xuất nhỏ, manh mún, chưa đi vào chuyên môn hóa, chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữ các doanh nghiệp trong việc sản xuất và tìm thị trường tiêu thụ… - Thứ ba, quan hệ phân phối sản phẩm chưa được tổ chức một cách hợp lý. Tình trạng sản phẩm làm ra qua nhiều khâu trung gian rồi mới đến tay người tiêu dùng vẫn còn rất phổ biến điều đó làm cho sản phẩm của chúng ta rất khó cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp của chúng ta vẫn chưa chủ động tìm kiếm thị trường, ít có sự liên kiết trong việc tìm kiếm đầu ra… Đó là một sự yếu kém của quan hệ sản xuất ở nước ta. Những yếu kém này đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Dẫn đến làm chậm sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Để giải quyết mẫu thuẫn này thì trước hết vai trò quản lý vĩ mô của Nhà Nước rất quan trọng . Tuy nhiên, cần phải có những giải pháp hợp lý, đúng đắn thì mới thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sau đây tôi xin nêu ra một số ý kiến đẻ giải quyết mâu thuẫn trên: - Thứ nhất, tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, đẩy mạnh phát triển nền kinh tế tập thể, hướng các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kết hợp hài hòa lợi ích giữa các thành phần kinh tế. - Thứ hai, tinh giảm bộ máy nhà nước, kiên quyết xử lý những cán bộ có hiện tượng tiêu cực, tổ chức thuyên chuyển cán bộ, cải cách hệ thống đào tạo cho phù hợp với tình hình hiện tại, đào tạo lại cán bộ, tổ chức phân công lao động xã hội một cách hợp lý, tổ chức lại mạng lưới phân phối sản phẩm, có những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm thị trường tiêu thụ và phân phối sản phẩm. - Thứ ba, đẩy mạnh và nâng cao trình độ của lượng lao động, lấy con người làm nòng cốt, không ngừng cải tiến và nâng cao nền khoa học và công nghệ nước nhà. 2.2.2. Mâu thuẫn giữa bình đẳng, công bằng xã hội với tình trạng bất bình đẳng, bất công bằng xã hội. Từ khi nước ta thực hiện việc mở cửa, chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường đã thu đựơc nhiều thành tựu to lớn, đời sống của người dân được nâng cao. Nhưng bên cạnh những mặt tích cực của kinh tế thị trường thì tồn tại trong nó cũng rất nhiều khiếm khuyết, một trong những khiếm khuyết đó chính là sự bất bình đẳng, bất công bằng xã hội, mặc dù mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là bảo đảm công bằng xã hội. Trong cơ chế cũ thì việc quan niệm không đứng đắn về vấn đề bình đẳng xã hội đã gây ra sự yếu kém, trì trệ trong nền kinh tế. Do vậy trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần nhận thức lại vấn đề bình đẳng xã hội. Theo quan điểm của cá nhân tôi thì bình đẳng xã hội không phải là mọi người trong xã hội đều dược hưởng quyền lợi, lợi ích như nhau mà bình đẳng xã hội là đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của mọi người, mọi tổ chức, không được phân biệt đối xử giữa những cá nhân, tổ chức…, lợi ích của những cá nhân, tổ chức được đánh giá thông qua lao động của họ; làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là đảm bảo xã hội công bằng, văn minh, nhưng nền kinh tế thị trường lại sản sinh ra những hiện tượng tiêu cực như sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, nạn thất nghiệp, tình trạng bất công tiêu cực ngày càng gia tăng. Nhưng nếu chúng ta thực hiện đảm bảo công bằng xã hội thì mặt tiêu cực đó sẽ bị hạn chế và ít có biểu hiện rõ nét hơn. Kinh tế thị trường tuy có mặt trái không thể tránh của nó, nhưng về cơ bản và lâu dài, nó là một trong những điều kiện để thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội. Trong điều kiện hiện nay thì công bằng xã hội phải được hiểu ở cả hai mặt: mặt bình đẳng và bất bình đẳng. Bên cạnh việc đấu tranh cho bất bình đẳng xã hội, chúng ta phải chấp nhận có sự bất bình đẳng do yêu cầu khắt khe của quy luật thị trường ở một giới hạn nhất định đối với mọi thành viên trong xã hội. Theo xu hướng chung, thì sự bất bình đẳng sẽ cùng dần bị sự bất bình đẳng, công bằng xã hội phủ định, dần dần thay thế, nhưng trước mắt chúng ta chỉ phấn đấu thực hiện bình đẳng về cơ hội,còn về mặt hưởng thụ thì chỉ thực hiện bình đẳng ở một số nhu cầu cơ bản rồi dần phát triển lên. Do đó để giải quyết mâu thuẫn này ta cần phỉa làm tốt một số nhiệm vụ sau: Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước để vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo công bằng xã hội Hai là, coi trọng giáo dục cơ bản và dạy nghề, thanh toán nạn mù chữ, nâng cao trình độ dân trí, dặc biệt là đối với đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng,mở rộng dân chủ, thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa thiết thực để phát triển kinh tế, tạo nên sự tiến bộ và công bằng xã hội. Ba là, tiếp tục triển khai chương trình xóa đói, giảm nghèo rộng khắp bằng nhiều hình thức và biện pháp nhằm tạo ra công ăn việc làm cho mọi người: phát triển các ngành nghề mới trong nông lâm ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng, làm hàng xuất khẩu, các dịch vụ khác ở thành thị và nông thôn. Đặc biệt, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong việc tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. Bốn là, hạn chế tình trạng thu nhập bất hợp lý, kiên quyết xử lý mạnh các trường hợp thu nhập bất hợp pháp do tham nhũng, ăn cắp của công, buôn lậu. Tham nhũng hiện nay là một ung nhọt gây nhức nhối nhất trên cơ thể xã hội, là một trong bốn nguy cơ cản trở quá trình CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, lúc này, chống tham nhũng là một trong những trọng điểm để tạo nên sự tăng trưởng kinh tế, làm lành mạnh các quan hệ xã hội, đạt tới tiến bộ và công bằng xã hội. 2.2.3. Mâu thuẫn biện chứng giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải bắt đầu từ con người, lấy con người làm điểm xuất phát. Một trong những điều kiện đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng con người trong giai đoạn hiện nay là đời sống sinh hoạt vật chất. Những nhu cầu vật chất - tinh thần phong phú của con người chỉ có thể được thỏa mãn trong một nền kinh tế vững vàng ổn định, phát triển cao, có tốc độ tăng trưởng nhanh. Việc tiến hành sự nghiệp trồng người hôm nay gắn bó một cách chặt chẽ với quá trình mở rộng, hoàn thiện kinh tế thị trường kết hợp với mở cửa giao lưu quốc tế. Thực tiễn những năm gần đây cho thấy đất nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước là phù hợp quy luật khách quan, hợp lòng dân, đáp ứng yêu cầu cuộc sống. Đây chính là nội dung của công cuộc đổi mới, là con đường, phương thức xây dựng con người mới trong quá trình vận động biện chứng của xã hội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0475.doc
Tài liệu liên quan