Những nhiêm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp

Lời nói đầu Một quốc gia muốn phát triển kinh tế nếu chỉ dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào thôi thì chưa đủ mà còn cần phải đề ra được chiến lược kinh tế hợp lý, phát huy được tối đa nội lực và tận dụng triệt để những thuận lợi do ngoại lực mang lại. Hiểu được điều này nên khi thoát khỏi chiến tranh bước vào thời kỳ quá độ Đảng ta đã đề ra chính sách kinh tế bao gồm những nhiệm vụ kinh tế cơ bản và thực hiện nó. Trải qua 20 năm thực hiện những nhiệm vụ kinh tế này Đất Nước đã gặt hái

doc19 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1173 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những nhiêm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được những thành tựu to lớn. Từ một nước nghèo Việt Nam đã vươn lên thành một nước đang phát triển, tốc độ phát triển kinh tế luôn ở mức cao và ổn định...nhưng để có thể nhanh chóng hoàn thành thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội chúng ta không được bằng lòng với hiện tại mà phải luôn nỗ lực, cố gắng thực thực hiện các nhiệm vụ kinh tế trên ngày một tốt hơn . Để làm tốt điều này mỗi chúng ta phải luôn nắm vững thực trạng kinh tế của đất nước từ đó đưa ra các giải pháp khác phục và đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế. Là một sinh viên được đào tạo trong một trường kinh tế cùng với ước muốn mai nay ra trường có thể đem những kiến thức mình học hỏi được để làm giàu cho bản thân, làm giàu cho xã hội nên khi được giao đề án:"Những nhiêm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp" em đã rất hào hứng và say mê thực hiện. Để hoàn thành đề án này em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy TRầN VIệT TIếN - giảng viên giúp đỡ em thực hiện đề án, thư viện trường đai học kinh tế quốc dân- nơi cung cấp những tài liệu cần thiết cho đề án của em. Đề án của em gồm 2 phần: Chương I: cơ sở lý luận của việc đề ra các nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chương II: thực trạng và giải pháp cho cac nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chương I: cơ sở lý luận của việc đề ra các nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên cnxh ở việt nam 1. Tính tất yếu của việc phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam Trong tác phẩm:"chủ nghĩa duy vật lịch sử" của mình Các Mác đã chỉ ra rằng: không thể có một có một quốc gia nào, với một chế độ chính trị ưu việt nào có thể tồn tại và phát triển được mà thiếu đi một nền tảng kinh tế vững chắc. Bởi vậy, Trong thời đại ngày nay, vấn đề phải phát triển kinh tế đang được đặt ra ở mức cấp thiết hàng đầu đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Chủ nghĩa tư bản đang trên đà thắng thế, thủ đoạn bóc lột ngày càng tinh vi hơn, và bản chất thì vẫn không hề thay đổi. Chúng ta đang bị cuốn vào dòng xoáy mãnh liệt của một nền kinh tế thế giới mang tính toàn cầu hoá cao và đang phát triển không ngừng nghỉ. Thời đại ngày nay đưa đến những cơ hội và thách thức to lớn, phát triển kinh tế có thể nói, đã trở thành một xu hướng tất yếu. Mỗi quốc gia phải cố gắng phát triển để theo kịp với trình độ của thế giới, nếu không muốn mình bị cô lập, lạc hậu và bị biến thành miếng mồi xâu xé của các cường quốc lớn. Thật vậy, muốn đứng vững về chính trị thì phải có vị thế về kinh tế. Vị thế về kinh tế càng cao thì ảnh hưởng càng lớn, tiếng nói càng có trọng lượng trong các tổ chức quốc tế. Cho nên tất cả đều phải cố gắng tự chủ về kinh tế, nâng cao vai trò của mình hơn nữa. Phát triển kinh tế là điều kiện cần để ổn định về chính trị, và ổn định về chính trị giúp nâng cao đời sống nhân dân, tạo niềm tin vững chắc trong dân về chính đảng của mình. Nước ta tiến lên XHCN từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, cuộc sống người dân vô cùng khốn khó. Nay phát triển kinh tế được đặt ra hàng đầu để cải thiện đời sống nhân dân là một nhiệm vụ mang tính khách quan, cần thiết. Bên cạnh đó, chúng ta kiên định đi theo con đường XHCN, trong vòng vây và sự chèn ép của tư bản, chúng ta phải phát triển kinh tế để có đủ tiềm lực về quốc phòng, an ninh để chống lại mọi thế lực thù địch nước ngoài. Đồng thời, để chứng minh cho thế giới thấy sự ưu việt của chủ nghĩa xã hội. 2. Nhận thức của Đảng về tầm quan trọng của việc đề ra các nhiệm vụ kinh tế trong thời kỳ quá độ Tuy nhiên, để có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế thì trước hết chúng ta phải đề ra đựơc các nhiệm vụ kinh tế cơ bản và thực hiện nó có hiệu quả. Hiểu sâu sắc điều này cùng với quyết tâm đưa nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi thời kỳ khủng hoảng, mau chóng đuổi kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, tại Đại hội lần VI Đảng ta đã đưa ra chiến lược phát triển kinh tế gồm 3 nhiệm vụ chính, đó là: - Phát triển Lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Xây dựng Quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Phát triển Lực lượng sản xuất là gi? Đó là xây dựng được Lực lượng sản xuất tiên tiến có khả năng sử dụng và quản lý nền sản xuất xã hội hoá cao với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến nhất. Để có thể phát triển Lực lượng sản xuất ta phải gắn nó trong mối quan hệ biện chứng với Quan hệ sản xuất. Xây dựng Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất. Tránh tư tưởng dùng Quan hệ sản xuất tiên tiến để ép Lực lượng sản xuất phát triển theo. Luôn coi Lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định trực tiếp đến nền kinh tế của một quốc gia, còn thể chế chính trị (đóng vai trò Quan hệ sản xuất ) chỉ có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm. Nếu chế độ chính trị ưu việt, phù hợp sẽ thúc đẩy phát triển các thành phần kinh tế, ngược lại nó kìm hãm, tạo ra mâu thuẫn trong lòng xã hội gây ra mâu thuẫn buộc xã hội chuyển lên giai đoạn mới cao hơn. Qua quá trình lãnh đạo Đất Nước đi lên CNXH, Đảng ta đã rút ra những kinh nghiệm bổ ích và xác định rằng: một trong những nguyên nhân làm cho sản xuất chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là:" Không nắm vững Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất".Từ đó Đảng rút ra cốt lõi để đẩy mạnh việc vân dụng quy luật bằng cách nêu vấn đề:gắn liền cách mạng Quan hệ sản xuất với cách mạng khoa học- kỹ thuật, chú trọng lại việc tổ chức nền sản xuất xã hội để xác định những hình thức và bước đi thích hợp. Đảng nhận thức rằng: sự phù hợp giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất không bao giờ tuyệt đối, không có mâu thuẫn, không thay đổi, sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với Lực lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp chung mà bao giờ cũng tồn tại dưới những hình thức cụ thể, thích ứng với những đặc điểm nhất định với trình độ nào đó của Lực lượng sản xuất.Trong thời kỳ đi lên của XHCN, nền kinh tế không còn là nền kinh tế tư bản, nhưng chưa hoàn toàn là nền kinh tế XHCN. Bởi vậy, công cuộc cải tạo XHCN phải chú ý đến đặc điểm của sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần. Trong cải tạo của nền Quan hệ sản xuất cũ và xây dựng Quan hệ sản xuất mới, Đai hội VI đã nhấn mạnh là phải giải quyết đồng bộ ba mặt, xây dựng chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối, không chỉ nhấn mạnh viêc xây dựng chế độ sở hữu mà bỏ qua viêc xây dựng hai chế độ kia. Không nên quá đề cao chế độ công hữu, coi đó là cái duy nhất để xây dựng Quan hệ sản xuất mới. Thực tế chỉ rõ, nếu chế độ quản lý và phân phối không được xác lập theo nhưng nguyên tắc của CNXH và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất nhằm củng cố chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà còn cản trở Lực lượng sản xuất phát triển. Trong công cuộc đổi mới Đất Nước phải tuân thủ quy luật về sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất hiện có, để xác định bước đi và những hình thức thích hợp. Quy luật đó luôn được coi là tư tưởng chỉ đạo công cuộc cải tạo Quan hệ sản xuất cũ xây dựng Quan hệ sản xuất mới trên những điều kiện phát triển của Lực lượng sản xuất. Đai hội VI chỉ rõ:" Đảm bảo sự phù hợp giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất, luôn luôn kết hợp chặt chẽ tạo Quan hệ sản xuất với tổ chức và phát triển sản xuất", không nên nóng vội duy ý chí trong việc xác định trật tự bước đi, cũng như việc lựa chọn các hình thức kinh tế, cần phải tạo nền sản xuất nhỏ, cá thể để đưa nền sản xuất từng bước tiến lên sản xuất lớn. Trên cơ sở sản xuất nhỏ xây dựng những hình thức của Quan hệ sản xuất phù hợp, từng bước và đồng bộ. Rà soát lại quá trình cải tạo XHCN trong thời gian qua, Đảng ta đã đưa ra nhận định:"Theo quy luật về sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất , quá trình cải tạo XHCN phải có bước đi và hình thức thích hợp", "phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, trong mỗi bước đi của quá trình cải tạo XHCN phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật tạo ra Lực lượng sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đưa Quan hệ sản xuất lên hình thức và quy mô thích hợp để thúc đẩy Lực lượng sản xuất phát triển". Song song với qúa trình phát triển Lực lượng sản xuất chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi vì, công nghiệp hoá, hiện đại hoá có tính tất yếu khách quan và tác dụng to lớn đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập vững chắc trên cơ sở vật chất- kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất- kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của Lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của xã hội. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là phải xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ nói trên, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế nông nghiệp. Chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại và phát triển, cũng cần phải có một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao dựa trên Lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội phải xây dựng trên cơ sở những thành tựu mới nhất, tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ. Cơ sở vật chất- kỹ thuật đó tạo ra được một năng suất lao động xã hội cao. Công nghiệp hoá chính là quá trình tạo ra nền tảng cơ sở vật chất- kỹ thuật đó cho nền kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa. Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá và coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.phân tích những tác động cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với nền kinh tế đất nước hiện nay càng làm rõ ý nghĩa vai trò trung tâm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước Quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nhờ thành tựu công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang lại là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển khối liên minh vững chắc giữa giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lý kinh tế của nhà nước. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinhtế độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiệ tốt sự phân công và hợp tác quốc tế. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển, thúc đẩy qúa trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, các miền trở nên thống nhất cao hơn. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng phát triển và hiện đại hoá nền quốc phòng, an ninh gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội. Thành tựu công nghiệp hoá tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế- chính trị, văn hoá- xã hội, quốc phòng an ninh. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hoá nền kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suồt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của khoa học và công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh tế khép kín, mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là xu thế tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính quy luật trong thời đại ngày nay. " Mở cửa" nền kinh tế sẽ đem đến cho chúng ta rất nhiều cơ hội mặc dù vẫn có những thách thức, những cơ hội đó cụ thể như sau: - Tăng đầu tư nước ngoài, trong quá trình này, nó yêu cầu hàng rào thuế quan thấp, những phương thức thương mại đơn giản, dưới sự quản lý hành chính, dẫn đến giảm chi phí sản xuất và đầu tư. - Hội nhập kinh tế và tự do hoá thương mại tạo nhiều cơ hội tiếp cận công nghệ cao. Các nước đang phát triển tiếp nhận công nghệ tiên tiến, công nghệ này không phải nước nào cũng có, nó giúp các nước đang phát triển nhảy vọt, đuổi kịp các nước khác trong khu vục và trên thế giới. - Hội nhập kinh tế mở rộng quyền xuất, nhập đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Vì vậy hàng hoá trên thị trường rất đa dạng, khách hàng là người có lợi nhất, họ có nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm chất lượng cao, giá cả phải chăng. Tóm lại, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là yêu cầu khách quan trong thời kỳ quá độ cả Việt Nam. Chương II:thực trạng và giảI pháp của những nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam A. phát triển Lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 1.Phát triển Lưc lượng sản xuất a.Thực trạng nguồn lực của Lực lượng sản xuất ở nước ta Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá,hiện đại hoá trong điều kiện đất nước còn mang nặng tính nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn chiếm tỉ trọng nhỏ, tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người thua xa so với các nước trong khu vực. Theo số liệu thống kê của Việt Nam lao động hoạt động chiếm gần 45% dân số, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 75%, công nghiệp chiếm 11%, còn lại là trong các hoạt động dịch vụ khác. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2010 đã đưa ra các thông tin dự báo về nguồn lực lao động:" Bước vào thế kỷ 21 nước ta có 80 triệu dân, với 45,4 triệu người trong độ tuổi lao động. Đến năm 2010 sẽ có khoảng 87 triệu dân với khoảng 50 triệu lao động. Tình hình giáo dục cũng có những biểu hiện đáng ngại, học sinh bỏ học hàng năm có xu hướng tăng lên, chất lượng giáo dục không đảm bảo. Nếu giáo dục đại học ở một số nước Đông Nam á đạt tỷ lệ 80- 100 sinh viên /10000 dân thì ở nước ta tỷ lệ đó chỉ có 30 sinh viên/10000 dân. b. Một số giải pháp phát triển Lực lượng sản xuất Nước ta một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH trong điều kiện tiền vốn ít, khả năng khoa học còn hạn chế và còn nhiều yếu tố khác quy định thì chưa thể đổi mới ngay Lực lượng sản xuất cũ bằng một Lực lượng sản xuất tiên tiến. Do đó những yếu tố của Lực lượng sản xuất cũ vẫn phải được duy trì và khai thác. Trong hoàn cảnh hiện nay Lực lượng sản xuất bổ sung quan trọng là Lực lượng sản xuất chuyển tiếp, cần phải sàng lọc trong Lực lượng sản xuất truyền thống những yếu tố nào có giá trị để bổ xung cho việc xây dựng Lực lượng sản xuất hiện đại cần phải kết hợp các yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại, đảm bảo tính phủ định có kế thừa, tiếp thu có chọn lọc cho phép tạo nên sự phát triển ổn định, bình thường của Lực lượng sản xuất, tránh được sự "gãy gục" trong tiến trình phát triển đó. Những tiến bộ to lớn cả cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật ngày nay cho phép nước ta có thể tranh thủ vận dụng trực tiếp những thành tựu khoa học- kỹ thuật, nhập khẩu tư liệu sản xuất hiện đại, chuyển giao công nghệ qua liên kết kinh tế với nước ngoài. Từ đó chúng ta có thể tạo nên sự kết hợp những tiến bộ về Lực lượng sản xuất do đó tiếp thu có chọn lọc từ bên ngoài với những cơ sở vật chất và Lực lượng sản xuất vốn có trong nước, để đẩy nhanh và rút ngắn thời hạn phát triển lịch sử tự nhiên của Lực lượng sản xuất, vươn lên kịp trình độ của thế giới. Con người tham gia vào quá trình sản xuất vừa với tư cách là sức lao động, vừa với tư cách là con người có ý thức chủ thể của nhưng quan hệ kinh tế. Trình độ văn hoá, trình độ kỹ thuật chuyên môn, ý thức và thái độ của người lao động đối với sản xuất và sản phẩm là những yếu tố quan trọng để sử dụng và khai thác kỹ thuật và tư liệu sản xuất vốn có, để sáng tạo trong quá trình sản xuất. Angghen đã nhấn mạnh" Muốn nâng cao sản xuất nông nghiệp và công nghiệp đến mức độ cao, mà chỉ có phương tiện cơ giới và hoá học thì chưa đủ. Còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người, sử dụng những phương tiện đó nữa" nghĩa là phải có sự phối hợp phát triển hài hoà các nhân tố khách quan của Lực lượng sản xuất hiện đại. Để tạo điều kiện cho con người chủ động, nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất, điều chỉnh và hoàn thiện Quan hệ sản xuất để thông qua đó phát triển Lực lượng sản xuất, đồng thời muốn tạo ra những động lực tích cực kích thích năng lực sángtạo của người lao động thì đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý phù hợp- cơ chế quản lý theo nguyên tắc hạch toán kinh tế. Muốn giải phóng và phát huy triệt để nhân tố con người trong sản xuất, trước hết phải có chiến lược về con người nhằm tạo ra những biến đổi tích cực về cơ cấu và chất lượng công nhân. Việc cải cách giáo dục,bồi dưỡng chuyên môn, kỹ thuật và năng lực quản lý, việc ban hành và thực hiên các chính sách xã hội, xây dựng môi trường xã hội có bầu không khí dân chủ phù hợp với yêu cầu của cuộc sống hiện đại và hướng tiến lên của xã hội, là những phương tiện đa dạng trong thống nhất để đi đến chỗ phát triển Lực lượng sản xuất. 2.Công nghiệp hoá, hiện đai hoá ở Việt Nam a. Thực trạng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam *Vấn đề vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta - Tính từ năm 1996- 2000 tổng vốn đầu tư xã hội thực hiện là 400 nghìn tỉ đồng, tương đương 30 tỷ USD, trong đó vốn trong nước là 60%. Điều này chứng tỏ kinh tế Việt Nam bắt đầu có tích luỹ sản xuất trong nước. Từ năm 1986 đến nay, vốn trong nước liên tục tăng. - Vốn đầu tư nước ngoài: Trong 10 năm qua, chúng ta thu hút được gần 3000 dự án đầu tư nước ngoài, tổng giá trị là 37,6 tỷ USD. Từ năm 1996 đến năm 2000 có 1500 dự án FDI được cấp phép, tổng vốn đăng ký là 20,7 tỷ USD. Vốn thực hiện trong 5 năm là 10 tỷ USD tương đương với 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội . Doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài tạo 34% giá trị xuất khẩu toàn nghành công nghiệp, chiếm hơn 22% kim nghạch xuất khẩu, góp 10% GDP của cả nước, thu hút 300 nghìn lao động. Riêng lĩnh vực công nghiệp chiếm 62,2% tổng vốn đầu tư. Như vậy, vốn đầu tư nước ngoài trong công nghiệp chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực: công nghiệp dầu khí, công nghiệp điện tử, công nghiệp ô tô và xe máy, công nghiệp hoá dệt, giày dép, xi măng, công nghiệp chế biến. Đây là những lĩnh vực mà Việt Nam cần phát triển trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mình. Kết luận: -Tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn thấp, trước mắt cần phải tìm biện pháp thu hút vốn nước ngoài. - Tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay còn chưa đáng lo ngại. *Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn Hiện nay, tuyệt đại đa số dân số, lao động tập trung ở nông thôn. Sự chênh lệch mức sống, trình độ giữa thành thị và nông thôn đang có nguy cơ dãn ra ngày càng xa. Vì vậy, công nghiệp hoá phải đi liền với phát triển nông nghiệp nông thôn. Đây là một biện pháp thực hiện công bằng xã hội, cũng là một bước đi cần thiết tạo điều kiện cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá được tiến hành thuận lợi. * Thực trạng về khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay. Theo đánh giá của bộ khoa học công nghệ và môi trường, trong các nghàng công nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu tứ 2- 4 thế hệ so với thế giới và được hình thành, chắp vá từ nhiều nguồn khác nhau, dẫn đến tình trạng tiêu hao năng lượng, nguyên liệu cao, gây ra ô nhiễm môi trường. Trình độ công nghệ thua xa các nước trong khu vực. Trong lĩnh vực công nghiệp, hệ thống máy móc xây dựng ở trình độ những năm 50 là 62%, trong khi đó, hệ số đổi mới công nghệ cua Việt Nam từ 1960- 1990 chỉ đạt 3% trên năm và 8- 10% trên năm giai đoạn từ 19991 đến nay. Hầu hết dừ án đầu tư nước ngoài ( trừ lĩnh vực dầu khí, viễn thông) đều công nghệ cũ, thậm chí quá cũ. Hàm lượng kỹ thuật công nghệ trong giá trị sản phẩm thấp (20%) trong khi ở các nước phát triển là 70%. Công nghệ du nhập nhiều nguồn khác nhau, chắp vá, không đồng bộ: 8% công nghệ sử dụng do ta thiết kế, xây dựng 57% do các nước trong SEV trước đay cung cấp. 34% từ các nước khác. Điều này dẫn đến khó khăn trong bảo dưỡng, bảo quản, sử dụng trang bị, trang bị lại. *Thực trạng về nguồn lực con người: - Lao động trẻ dồi dào: Số người trong độ tuổi lao động tăng từ 30,3 triệu năm 1986 đến 40,2 triệu năm 1995, năm 2000 là 45,4 triệu. Hàng năm có từ 1,4- 1,5 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động. - Giá lao động Việt Nam rất rẻ. Đây là một lợi thế to lớn. b.Các giải pháp để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá *Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả Công nghiệp hoá,hiện đại hoá đòi hỏi nguồn vốn rất to lớn. Do đó, mở rộng quy mô huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một điều kiện, tiền đề quan trọng để công nghiệp hoá,hiện đại hoá thành công Vốn để công nghiệp hoá,hiện đại hoá có hai nguồn: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn trong nước được tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở hiệu quả sản xuất, là lao động thặng dư của người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hoá sản xuất. ở nước ta hiên nay, để tăng năng suất lao động xã hội tạo nên nguồn vốn cho tích luỹ, trước hết và chủ yếu là phải khai thác và sử dụng tốt quỹ lao động, tập trung sức phát triển nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu…nguồn vốn trong nước còn phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm. Với một khối lượng của cải nhất định, tỷ lệ tiết kiêm càng cao, nguồn vốn càng lớn. Do đó để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, ta phải triệt để tiết kiệm coi "tiết kiêm là quốc sách", đấu tranh triệt để với nạn tham nhũng lãng phí… Nguồn vốn trong nước còn phụ thuộc vào các chính sách kinh tế như:chính sách cơ cấu các thành phần kinh tế, chính sách thuế, chính sách lãi suất… Do đó, xây dựng chính sách kinh tế phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn phát triển là yêu cầu khách quan. Nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định vì đó là nhân tố bên trong đảm bảo cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; là tiền đề để huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài…Do đó viêc đề cao nội lực là hoàn toàn cần thiết và đứng đắn. Tiến lên chu nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu làm cho việc tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế hết sức khó khăn, đặc biệt trong thời kì đầu. Để thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn: vì nghèo nên tích luỹ thấp; tích lũy thấp thì tăng trưởng kinh tế chậm và khó thoát khỏi đói nghèo;vì nghèo nên tích luỹ thấp… cần phải tận dụng mọi khả năng để thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài.Đây là nguuồn vốn có vai trò rất quan trọng, không những giúp các nước nghèo khắc phục một phần khó khăn về vốn trong thời kì đầu mà còn góp phần năng cao trình độ quản lý và công nghệ,tạo việc làm cho người lao động… Vì thế, tranh thủ nguồn vốn bên ngoài là nhân tố đẩy nhanh thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước. Để huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn,xây dựng và phát triển thị trường vốn là giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng. Nhờ có thị trường vốn, người sở hữu vốn nếu nhượng quyến sử dụng vốn cho người khác sẽ có thu nhập. Đồng thời khi có thị trường vốn, đồng vốn sẽ dễ dàng chuyển dịch từ nơi có hiệu quả thấp đến nơi có hiệu quả cao. Do đó, để đáp ứng nhu cầu vốn cho công nghiệp hoá,hiện đại hoá, xây dựng và phát triển thị trường vốn ở nước ta là rất cần thiết. *Đào tạo nguồn nhân lực Công nghiệp hoá,hiện đại hoá không chỉ đòi hỏi phải có vốn, kỹ thuật, tài nguyên… mà còn cần phải phát triển một cách tương xưng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó. Nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá,hiện đại hoá bao gồm những con người có đức, có tài, ham học hỏi, thông minh, sáng tạo, làm việc quên mình, vì nền độc lập và sự phồn vinh của tổ quốc;được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất, kinh doanh, về điều hành vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa học- kỹ thuật vươn lên ngang tầm thế giới. Trong nguồn nhân lực mới ấy, việc xây dựng giai cấp công nhân là nhiệm vụ trọng tâm, bởi vì chỉ với một giai cấp công nhân trưởng thành về chính trị, có trình độ tổ chức, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, có trình độ làm chủ khoa học- kỹ thuật và công nghệ mới, trí thức hoá mới có thể là nòng cốt để liên minh với nông dân, trí thức, tập hợp và đoàn kết các thành phần khác, phấn đấu đưa sự nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá đến thành công. Để có nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá,hiện đại hoá phải coi việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, giáo dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Phải đào tạo ra một cơ cấu nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, cán bộ nghiên cứu và triển khai công nghệ, cán bộ quản lý, cán bộ trong các nghành kinh doanh, công nhân kỹ thuật… *phát triển khoa học công nghệ Khoa học và công nghệ được xác định là động lực của công nghiệp hoá,hiện đại hoá. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung, công nghiệp hoá,hiện đại hoá nói riêng của các quốc gia. Là một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển nên tiềm lực khoa học và công nghệ của nước ta còn yếu.. Cho nên, trong giai đoạn trước mắt việc phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta phải tập chung chủ yếu vào các hướng sau: + Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chủ trương công nghiệp hoá,hiện đại hoá của Đảng và nhà nước ta đạt hiêu quả cao với tốc độ nhanh +Đẩy mạnh công tác nghiên cứu để đánh giá chính xác tài nguyên quốc gia, nắm bắt những công nghệ cao cùng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ … để từ đó đề xuất một chiến lược đúng đắn cho việc ứng dụng vào các nghành kinh tế- xã hội một cách nhanh chóng và khai thác, sử dụng hợp lý, bảo vệ tốt tài nguyên quốc gia +Chú trọng đúng mức nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên để làm chỗ dựa lâu dài cho nghiên cứu ứng dụng triển khai và tiếp cận các thành tựu mới về khoa học và công nghệ. +Mở rộng hợp tác khoa học- công nghệ với các nước và các tổ chức quốc tế nhằm tiếp cận, kế thừa những thành tựu khoa học- công nghệ của thế giới; tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế. + Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến, bao gồm đẩy mạnh các hình thức đào tạo và sử dụng cán bộ khoa học, chú trọng đào tạo lớp chuyên gia đầu đàn, tăng cường cơ sở vật chất- kỹ thuật cho các nghành khoa học và công nghệ. Muốn làm những điều trên cần phải xây dựng và thực hiện tốt cơ chế và chính sách đồng bộ cho việc phát triển khoa học và công nghệ (khuyến khích bằng lợi ích vật chất và tinh thần, thị trường, quyền sở hữu trí tuệ, ưu đãi nhân tài…). Để khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự phát triển thì trước hết phải tạo ra động lực cho sự phát triển của chính bản thân khoa học công nghệ. * mở rông quan hệ kinh tế đối ngoại Trong xu thế toàn cầu hoá, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rông rãi và có hiệu quả cao bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước càng được tiến hành thuận lợi và càng thành công nhanh chóng bấy nhiêu. Thực chất của việc mở rông quan hệ kinh tế đối ngoại là việc thu hút nguồn vốn bên ngoài, là việc tiếp thu nhiều kỹ thuật và công nghệ hiện đại, là viêc mở rộng thị trường cho sự nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá được thuận lợi. *Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước Đây là tiền đề quyết định cho sự thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước Nam đối với trước hết là phải tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị, Đảng Cộng Sản Việt Nam phải là người lãnh đạo duy nhất, trực tiếp và toàn diện mọi hoạt động của xã hội Việt Nam. Điều này có ý nghĩa to lớn trong viêc huy động các nguồn lực của đất nước nhằm đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát triển kinh tế đối ngoại… Thứ hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được tiến hành theo đường lối, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đây là nhân tố trực tiếp đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước có chức năng quản lý kinh tế- xã hội, Nhà nước ta có sứ mệnh tổ chức đường lối công nghiệp hoá của Đảng Cộng Sản Việt Nam thông qua việc thực thi cơ chế, chính sách và điều hành các hoạt động kinh tế- xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng ta đã đề ra. Có thể nói rằng thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trực tiếp phụ thuộc vào vai trò quản lý kinh tế- xã hội của Nhà nước. B. xây dựng Quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa Phải xây dựng từng bước những Quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất. Đây là yêu cầu đặt ra đối với mọi chế độ xã hội. Nhưng việc xây dựng Quan hệ sản xuất mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân thêo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Xuất phát từ quan điểm cho rằng bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều phải là kết quả tất yếu của việc t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0186.doc
Tài liệu liên quan