N.lý của phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến và vận dụng vào xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế

Phần I : Đặt vấn đề. Có ý kiến cho rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá nền kinh tế, mở cửa hội nhập mà lại dặt ra vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là thiếu nhạy bén, không thức thời, thậm chí là bảo thủ, tư duy kiểu cũ. Thế giới bây giờ là một thị trường thống nhất, cần thứ gì thì mua, thiếu tiền thì đi vay, sao lại chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ? Hội nhập là một thực tiễn và là nhân tố khách quan cần được tính đến khi xác định chiến lược phát triển. Ngày nay, hội n

doc14 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu N.lý của phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến và vận dụng vào xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hập đang trở thành một thực tiễn sinh động trong đời sống kinh tế xã hội ở tất cả các nước, và Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Vì sao chúng ta lại có nhận định như vậy? Về thương mại, thật sự đã có sự chuyển biến rất mạnh mẽ. Trong những năm qua, tăng trưởng thương mại nhất là tăng trưởng xuất khẩu cao trên 2 - 3 lần so với nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Năm 2000 đã đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ trong thương mại quốc tế của Việt Nam. Xuất khẩu đạt 14.308 triệu USD và nhập khẩu 15.200 triệu USD, như vậy thương mại hai chiều đạt 29.508 triệu USD, bằng 95% GDP. Đây là một tỉ lệ rất cao so với nhiều nước trong khu vực. Đối với các nước, hội nhập đã không chỉ trở thành một thực tiễn, mà là còn một nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế.Vấn đề lúc này đối với đất nước chúng ta không phải là bàn xem “nên hội nhập hay không nên hội nhập’’, “hội nhập lợi nhiều hay hại nhiều’’... vấn đề phải là nên lựa chọn quyết sách như thế nào, cần phải có những điều kiện gì để có thể thu được hiệu quả cao nhất khi đưa đất nước đi vào hội nhập. Nhưng suy cho cùng yếu tố quyết định thành công của hội nhập kinh tế quốc tế là nội lực của một quốc gia, là hiệu quả và sức cạnh tranh của bản thân nền kinh tế đó. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối chính trị độc lập tự chủ mà còn là đòi hỏi của thực tiễn, nhằm bảo đảm độc lập tự chủ vững chắc về chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và có hiệu quả ngay cho chính nền kinh tế, cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Nước ta phát triển kinh tế để đi lên chủ nghĩa xã hội, bối cảnh kinh tế có nhiều diễn biến phức tạp, các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội thường xuyên tìm cách ngăn cản và chống phá sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nếu không xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ thì dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực xấu, thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để lôi kéo, hoặc khống chế, ép buộc chúng ta thay đổi chế độ chính trị đi lệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã xác định “Đường lối kinh tế của Đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đòng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng trưởng quốc phòng - an ninh” [ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX-Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Hà Nội 2001-trang 89 ]. Với nhiệm vụ là một môn khoa học nghiên cứu thế giới ở tầm bao quát nhất, triết học cũng đưa ra một nguyên lý của phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến của sự vật. Vận dụng nguyên lý này vào mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế tôi hy vọng có thể đưa ra câu trả lời về sự đúng-sai, chính xác hay không chính xác trong ý kiến trên. Phần II : Giải quyết vấn đề. 1./ Nội dung nguyên lý của phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Khái niệm biện chứng dùng để chỉ sự tác động, liên hệ, ràng buộc và chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau. Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong những mối liên hệ, tác động và không loại trừ một lĩnh vực nào. Nhờ có mối liên hệ mà có sự vận động và do đó, mới có sự tồn tại của vật chất, hay nói cách khác mối liên hệ phổ biến là hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, thể hiện tính khác quan, tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật hiện tượng trong thế giới rất đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng rất đa dạng, phổ biến nhưng đều mang tính khách quan chứ không phải là thần linh, thượng đế hay “ý niệm tuyệt đối” nào sinh ra cả, có mối liên hệ giữa các hiện tượng vật chất, các hiện tượng tinh thần và giữa các hiện tượng vật chất với hiện tượng tinh thần, song những mối liên hệ tinh thần chỉ là sự phản ánh và là sản phẩm của các mối liên hệ vật chất. Trong thế giới vô cùng, vô tận này không có bất cứ một sự vất hiện tượng nào tồn tại bên ngoài mối liên hệ vơí sự vật hiện, tượng khác. Các mối liên hệ đó căn cứ vào tính chất phạm vi, trình độ có thể phân biệt được thành cấc loại như sau: Liên hệ bên trong và bên ngoài, chung và riêng, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, không gian và thời gian, trực tiếp và gián tiếp...Tuy nhiên sự phân loại này là tương đối vì mối liên hệ đó chỉ là bộ phận trong toàn bộ mối liên hệ phổ biến nói chung, và khi cần phân tích mối liên hệ phổ biến giữa những sự vật hiện tượng với nhau ta chỉ nghiên cứu những liên hệ đặc thù tuỳ thuộc vào tính chất và phạm vi của sự vật hiện tượng đó. Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ phổ biến chung nhất và phổ biến của thế giới khác quan. Còn những hình thức cụ thể, riêng biệt là đối tượng của các ngành khoa học cụ thể khác nhau. Nghiên cứu vềmối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện. Khi xem xét sự vật, hiện tượng quá trình phải xem xét tất cả các mối liên hệ giữa chúng với các sự vật hiện tượng khác, đặt chúng trong những điều kiện không gian và thời gian nhất định. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chống lại cách xem xét phiến diện, một chiều, siêu hình. Tuy nhiên, xem xét toàn diện không có ý nghĩa là đồng loạt, bình quân mà phải đánh giá đúng vị trí vai trò của từng mối liên hệ, có như thế mới nhận thức được bản chất sự vật, hiện tượng, sự việc và giải quyết vấn đề thấu đáo, đúng đắn, toàn diện và có hiệu quả cao. Đó chính là hoạt động theo quan điểm lịch sử - cụ thể. Nguyên tắc toàn diện trong quản lý kinh tế có nguồn gốc từ mối liên hệ phổ biến được nhận thức và được đề lên thành nguyên lý chỉ đạo phương pháp hành động và suy nghĩ. Theo nguyên lý này: Trong một nền kinh tế không có một sự kiện nào tồn tại trong trạng thái cô lập và tách khỏi những sự kiện khác, mà nó chỉ tồn tại với tư cách là nó trong mối liên hệ với những sự kiện kinh tế khác. Bản thân nền kinh tế cũng không tồn tại trong trạng thái cô lập mà trong mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế - chính trị - ngoại giao; kinh tế, chính trị, đạo đức - pháp quyền; kinh tế - chính trị - khoa học - nghệ thuật, v.v.. Vì mọi sự kiện kinh tế chỉ tồn tại, và chỉ biểu hiện với tư cách là nó tong mối quan hệ với những sự kiện khác cho nên nguyên tắc toàn diện đòi hỏi: Khi nghiên cứu một sự kiện kinh tế nào đó, để có thể nhận thức được bản chất của sự kiện cần phải xem xét nó trên tất cả các mặt, các mối liên hệ có thể có. Bản chất của sự kiện sẽ là cái chung, được chứa đựng trong tất cả các mối liên hệ đó. Tính chân lý và xác thực của tri thức khoa học được rút ra phụ thuộc vào độ lớn của tổng thể các mối quan hệ có thể thu thập được. Tuy nhiên vì số lượng các mối liên hệ có thể có là vô cùng, người nghiên cứu không thể nào bao quát hết, cho nên sai lầm vẫn có thể xảy ra. Chính vì vậy chân lý - sai lầm là hai mặt cùng tồn tại của một tri thức. Trong khi hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước phải tính đến tất cả các mối liên hệ trên các bình diện có thể có, chẳng hạn: Tương quan giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế các nước trong khu vực và quốc tế, giữa đầu tư cho tương lai với tiêu dùng hiện tại, giữa tiêu dùng kinh tế với tiêu dùng cá nhân v.v.. Một chiến lược phát triển kinh tế xã hội được xem xét trong tổng thể các mối liên hệ càng rộng bao nhiêu, khả năng sai lâm càng ít bấy nhiêu, tính hiện thực của nó cang nhiều bấy nhiêu. Mỗi chuyên ngành khác nhau có cách phân nhóm các mối liên hệ theo phương pháp khác nhau. Trên bình diện triết học người ta quan tâm đến các nhóm chủ yếu sau đây: + Mối liên hệ bên trong - bên ngoài (mối liên hệ không gian) + Mối liên hệ trực tiếp - gián tiếp + Mối liên hệ nhân quả (mối liên hệ thời gian) + Mối liên hệ cái chung - cái riêng + v.v.. 2./ Vận dụng nguyên lý của phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến để phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế 2.1.Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo giữ vững chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. 1.Thế nào là một nền kinh tế độc lập tự chủ? Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào nước khác, người khác, hoặc một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển kinh tế, về những điều kiện kinh tế, chính trị, mà người khác áp đặt với mình trong hợp tác song phương, đa phương hoặc trong tiếp nhận viện trợ ... mà làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc. Một sự tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là trước những chấn động của thị trường, của khủng hoảng kinh tế, tài chính ở bên ngoài về cơ bản nó vẫn có khả năng duy trì sự ổn định của nền kinh tế quốc gia và định hướng phát triển. Một sự tự chủ về kinh tế cũng còn có nghĩa là trước sự bao vây, cô lập và chống phá kinh tế, chính trị của các thế lực thù địch bên ngoài, đất nước vẫn trụ vững, không bị sụp đổ về kinh tế và chính trị. Bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là bảo đảm vững chắc định hướng xã hội chủ nghĩa và giá trị truyền thống, bản sắc văn hoá của dân tộc trong công cuộc phát triển kinh tế, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Không phải chờ đến khi có trình độ phát triển cao mới đặt vấn đề giữ vững độc lập tự chủ, mà ngay từ đầu, ngay bây giờ phải đã phải đảm bảo yêu cầu cơ bản về độc lập tự chủ, trước hết là đường lối chính trị, các nguyên tắc cơ bản về phát triển kinh tế. Đương nhiên, xây dựng kinh tế độc lập tự chủ là một quá trình lâu dài, đi từ thấp đến cao, ngày càng hoàn chỉnh, ngày càng bền vững. Khác với trước đây, khi nói tới độc lập tự chủ người ta thường hình dung là một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, trong điều kiện ngày nay, độc lập tự chủ kinh tế phải là độc lập tự chủ trong phát triển kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập, chủ động tham gia sự giao lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực và lợi thế so sánh của quốc gia, từng bước xây dựng một cơ cấu sản xuất đáp ứng được cơ bản nhu cầu cần thiết về đời sống của nhân dân và có khả năng trang bị lại ở mức cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng - an ninh. 2.Những điều kiện để bảo đảm tự chủ về kinh tế. Thực tế cho thấy, muốn có được độc lập tự chủ về kinh tế, nhất thiết phải có hai điều kiện: một là, phải có đường lối, chính sách độc lập tự chủ về phát triển kinh tế; và hai là, phải có thực lực tiềm lực kinh tế đủ mạnh. a. Có đường lối, chính sách độc lập tự chủ về phát triển kinh tế - xã hội. Độc lập tự chủ về đường lối chính sách kinh tế có nghĩa là chúng ta tự mình lựa chọn định hướng phát triển, tự mình xác định chủ trương, chính sách và mô hình kinh tế, không bị động và lệ thuộc bên ngoài, không chịu sức ép của bất cứ ai vì mục đích không lành mạnh của họ. b. Có thực lực kinh tế đủ mạnh. Toàn bộ giá trị sản xuất trong nước phải đáp ứng được đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và có phần tích luỹ cần thiết từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để tái sản xuất mở rộng nền kinh tế. Phải có thể chế kinh tế - xã hội bền vững, có cơ cấu kinh tế gắn với cơ cấu công nghệ, phát huy được lợi thế so sánh, có đủ khả năng tạo ra sức cạnh tranh và hiệu quả, trả được nợ, tạo được tích luỹ, đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong nước, chiếm lĩnh và giữ được thị trường ngoài nước, bảo đảm được nhịp độ tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững. Cơ cấu kinh tế này bao gồm cơ cấu các ngành sản xuất và dịch vụ; cơ cấu các vùng lãnh thổ; cơ cấu các thành phần kinh tế; cơ cấu kinh tế trong nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; cơ cấu về xuất nhập khẩu; cơ cấu đầu tư (ngắn hạn và dài hạn, trực tiếp và gián tiếp). Phải có một năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ để làm chủ công nghệ nhập khẩu và sáng tạo công nghệ mới của Việt Nam, bảo đảm cho sự trao đổi bình đẳng về kinh tếvà công nghệ với bên ngoài, nhất là trong điều kiện ngày nay, khi sức cạnh tranh kinh tế ngày càng dựa vào thế mạnh là khả năng về khoa học và công nghệ. Phải luôn luôn giữ được ổn định kinh tế vĩ mô với hệ thống tài chính, tiền tệ lành mạnh, bảo đảm giữ được cán cân thương mại và cán cân thanh toán: có dự trữ ngoai tệ cần thiết, có chiến lược vay và trả nợ hợp lý, không để bị động và lệ thuộc. Phải có một số yếu tố vật chất đảm bảo an toàn và điều kiện cơ bản cho phát triển. Trước hết là các yếu tố: an ninh lương thực, an toàn năng lượng, an toàn môi trường, kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội được xây dựng đồng bộ và tương đối có chất lượng. Đồng thời, có một số ngành và cơ sở công nghiệp, công nghiệp nặng có tính chất nền tảng để tạo sức mạnh công nghiệp quốc gia, đặc biệt là nếu phải đương đầu với những tình huông gay cấn, phức tạp ( như bị bao vây cấm vận, chiến tranh xâm lược,..) Muốn có thực lực kinh tế đủ mạnh thì nhất thiết phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân ta trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Có công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì mới tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Tạo ra thực lực của đất nước, nâng cao được đời sống của nhân dân. 2.2.Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để tạo điều kiện xây dựng thành công nền kinh tế độc lập tự chủ. Mục tiêu. Văn kiện Đại hội IX đã nêu rõ chủ trương “xây dụng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với hội nhập kinh tế quốc tế. Kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp đẻ phát triển đất nước”. Nói một cách khác, mục tiêu của hội nhập kinh tế là để tạo thêm nguồn lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những nguồn ngoại lực là tiền vốn, thiêt bị, vật tư, thị trường; những tiến bộ về khoa học và công nghệ, những kiến thức hiện đại về quản lý; những đói tác làm ăn, hợp tác... Như vậy chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chính là nhằm đáp ứng yêu cầu và lợi ích của nước ta trong quá trình phát triển, đồng thời qua đó phát huy vai trò của nước ta trong quá trình hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới, góp phần thiết thực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hình thức hội nhập. Hội nhập có cả hình thức đa phương và song phương, hội nhập quốc tế không chỉ có việc gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế mà việc thiết lập quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học - kỹ thuật với từng nước có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, các định chế kinh tế đa phương, nhất là đa phương toàn cầu có giá trị hướng dẫn, tạo khuôn khổ khống chế các quan hệ song phương; do đó hợp tác song phương nhìn chung là phải dựa theo các quy định của hợp tác đa phương. Nếu ta không tham gia các tổ chức đa phương thì nước ta rất khó mở rộng quan hệ kinh tế với các nước và nếu được quan hệ thì các nước đó vẫn không dành cho ta những ưu tiên, ưu đãi như họ dành cho những đối tác khác cùng tham gia tổ chức đa phương với họ. Các quan hệ đa phương không chỉ giới hạn ở các quan hệ lợi ích kinh tế, thương mại trực tiếp, cụ thể, mà còn có các lợi ích khác như liên kết các nước đang phát triển cùng nhau đấu tranh bảo vệ lợi ích chung trên các diễn đàn quốc tế, chống lại việc áp đặt không công bằng, không bình đẳng của các nước phát triển. Tư tưởng chỉ đạo trong hội nhập kinh tế quốc tế. Để đảm bảo cho hội nhập kinh tế quốc tế thắng lợi, thực sự đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần thấu suốt và quán triệt các nguyên tắc và phương châm sau: Nguyên tắc cơ bản và bao trùm là chủ động hội nhập trên cơ sở bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ vững độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập được thể hiện trước hết trong quyết sách hội nhập nhằm khai thác tối đa các lợi thế, đồng thời đối phó thắng lợi với các cách thức trong quá trình hội nhập. Sự chủ động cần được thể hiện trong việc lựa chọn tham gia, các đối tác ta có quan hệ và thời điểm tham gia. Tính chủ động còn được thể hiện qua việc chủ động xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý trong khuôn khổ qui định chung, chủ động điều chỉnh pháp luật, chính sách cho phù hợp; chủ động tổ chức sản xuất và điều hành kinh tế trong nước nhằm nâng cao không ngừng khả năng cạnh tranh không chỉ trong thị trường nội địa mà cả trên thị trường quốc tế, chủ động phương cách thực hiện cam kết. Nói một cách khác, tính chủ động được thể hiện trong việc “chọn sân chơi” và “cách chơi” theo “luật chơi” chung. Còn định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong những mục tiêu cần đạt được trong quá trình hội nhập nhằm phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phương châm cơ bản để tiến hành hội nhập là bảo đảm nguyên tắc cùng có lợi trong quan hệ song phương và đa phương mà nước ta tham gia. Theo nguyên tắc này, một mặt không để thiệt hại đến lợi ích cần có và hợp lý mà ta được hưởng; mặt khác, phải chấp nhận một sự chia sẻ hợp lý lợi ích cho các đối tác tuỳ theo mức đóng góp của các bên hợp tác. Trong hợp tác liên kết, cần giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo, để đạt tới mục tiêu, bảo vệ được lợi ích chính đáng của ta. Phát huy cao độ (có ý nghĩa quyết định), đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài (có ý nghĩa rất quan trọng), kết hợp chặt chẽ nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước nói chung và để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. Tranh thủ các thời cơ thuận lợi trong hội nhập. Trong kinh tế, thương mại, thời cơ là nhân tố quan trọng, thời cơ bị bỏ lỡ nhiều khi không thể lặp lại. Mất thời cơ, bỏ lỡ thời cơ thì phải trả giá bằng sự thua thiệt, nhiều khi lớn hơn cả những thua thiệt được tính toán bằng đồng tiền, bằng giá trị vật chất cụ thể. Thực hiện nhất quán phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế trong hội nhập. Thực hiện phương châm này chẳng những vừa bảo đảm được lợi ích của nước ta mà còn có ý nghĩa rất quan trọng để giữ vững độc lập tự chủ, sự cân bằng trong các mối quan hệ quốc tế, tránh lệ thuộc một chiều vào một hoặc một số đối tác. Trong những hoạt động thương mại, không thể để cho một tập đoàn nước ngoài nào độc quyền kinh doanh trên đất nước ta, tạo điều kiện cho họ chi phối, thao túng kinh tế của ta. Bằng mọi cách, tạo ra sự cạnh tranh giữa các đối tác nước ngoài trong làm ăn với Việt Nam, nhằm tạo lợi thế, giúp các doanh nghiệp nước ta vươn lên. Luôn luôn đề cao cảnh giác, không mơ hồ trước âm mưu đen tối của các thế lực thù địch lợi dụng quan hệ kinh tế thương mại để xâm nhập, thực hiện diễn biến hoà bình, phá hoại, lật đổ chế độ ta. Thực tiễn nước ta cho thấy, điều cơ bản có tính quyết định để bảo đảm an ninh quốc gia là phải đặc biệt chăm lo xây dựng, củng cố niềm tin, sự ủng hộ và gắn bó của nhân dân với chế độ, với Đảng và Nhà nước. Mặt khác, quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau, sự đan xen lợi ích giữa nước ta với các nước tuy có mặt phức tạp nhưng chính sách đa phương hoá quan hệ đối ngoại là một yếu tố quan trọng góp phần bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Phần III : Kết luận. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến chỉ ra rằng các sự vật hiện và bản thân các yếu tố, các mặt, các quá trình của chúng trong thế giới không có cái nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập mà chúng là một thể thống nhất, tồn tại bằng cách tác động lẫn nhau, ràng buộc nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau. Mối liên hệ của sự vật, hiện tượng trong thế giới là đa dạng và nhiều vẻ: có mối liên hệ bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và không cơ bản, v.v.. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm toàn diện khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng, tức là khi xem xét phải đặt nó trong mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác, có như vậy mới thực sự nắm được bản chất của sự vật hiện tượng. Việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ đóng vai trò như một mặt bên trong và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như một mặt bên ngoài nên chúng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ giữa chúng tuân theo nguyên lý của phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến một cách nghiêm ngặt. Qua đó trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế chúng ta cần phải tiến hành đồng bộ việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ cũng như việc hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó vừa có thể phát huy cao độ nội lực vừa có thể sử dụng các nguồn lực bên ngoài để tạo thành một sức mạnh tổng hợp trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Tất cả là vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó tôi có đưa ra một vài ý kiến cá nhân sau đây: Tạo cơ sơ hạ tầng vững chắc để tập trung thu hút vốn đầu tư nước ngoài như cải tạo môi trường, cải tạo hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, điện lưới quốc gia v.v.. Phát triển công nghiệp nặng có chọn lọc để tạo ra máy móc và nguồn nguyên vật liệu cơ bản cho việc phát triển kinh tế v.v.. Tập trung phát triển nhân lực toàn diện cho tất cả các ngành, các lĩnh vực, cũng như hệ thống công nhân có tay nghề cao. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29930.doc
Tài liệu liên quan