Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới ở nước ta đã và đang có nhiều triển vọng tốt đẹp trong mọi lĩnh vực. Bên cạnh đó, những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng dần bộc lộ. Đây là những rào cản lớn trên bước đường phát triển của đất nước. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiến hành mạnh mẽ công cuộc cải cách nhằm loại bỏ những khâu bất hợp lý trong tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, tr

doc210 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1812 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong đó có các cơ quan tư pháp mà hệ thống Tòa án là một bộ phận quan trọng. Thực tiễn xét xử của ngành Tòa án trong thời gian vừa qua cho thấy không ít những vụ việc dân sự đã bị giải quyết kéo dài, gây tâm lý phản cảm, giảm sút niềm tin trong một bộ phận nhân dân. Một trong những nguyên nhân quan trọng của tình trạng trên là ở sự bất cập trong cách thức tổ chức phân cấp thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án. Trên thực tế, đã có những vụ án dân sự bị xét xử kéo dài hàng chục năm chưa kết thúc và đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại. Có thể nói, những quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án chưa tạo ra một cách thức phù hợp, hiệu quả, chưa đủ khả năng giải quyết các tranh chấp dân sự, vốn đã phức tạp và ngày càng phức tạp trong đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật về tố tụng, về tổ chức Tòa án tuy đã có nhiều sửa đổi những vẫn có những quy định không phù hợp, mà tập trung nhất là ở vấn đề tổ chức thực hiện thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự của Tòa án. Trước tình hình đó, Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh cải cách tư pháp cho phù hợp với nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập hiện nay. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm là công tác cải cách tư pháp. Đặc biệt trong thời điểm hiện nay, khi Ban chỉ đạo cải cách tư pháp của Việt Nam đang xây dựng đề án Chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn 2006-2020, mà một trong những nhiệm vụ trọng tâm là hoàn thiện mô hình tổ chức Tòa án và thủ tục tố tụng tư pháp, xác định "Tòa án là trung tâm của tư pháp, trọng tâm của hoạt động tư pháp là hoạt động xét xử của Tòa án", thì việc nghiên cứu mô hình tổ chức xét xử dân sự với việc phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm là một vấn đề hết sức cần thiết về phương diện lý luận cũng như về phương diện thực tiễn. Với các lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài "Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" làm luận án tiến sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đã có một số công trình khoa học, nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn, ở những mức độ khác nhau nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân (TAND). Có thể kể đến Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: "Vị trí, vai trò và chức năng của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam" của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) năm 1996; Đề án: "Đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Tư pháp" của Bộ Tư pháp năm 1996; Đề tài khoa học cấp Bộ: "Những yêu cầu và giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân" của TANDTC năm 1999; Tiến sĩ Trần Văn Độ: "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân" (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11/2003)... Đây là những công trình, bài viết đề cập đến những nội dung khác nhau, ở một số khía cạnh mang tính riêng lẻ vấn đề tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử vụ án nói chung hoặc chủ yếu là các vụ án hình sự. Đề tài "Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" là công trình đầu tiên nghiên cứu kết hợp tất cả những vấn đề về tổ chức, về thẩm quyền về dân sự của Tòa án và thủ tục tố tụng dân sự, trên cơ sở đó có cái nhìn tổng quan về hoạt động giải quyết vụ án dân sự tại hệ thống Tòa án. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án Trên cơ sở nghiên cứu những quy định về cách thức tổ chức thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống TAND và thực tiễn giải quyết về dân sự, luận án có mục đích xây dựng một mô hình tổ chức xử án dân sự thực sự khoa học, có khả năng nâng cao chất lượng xét xử về dân sự, phục vụ mục tiêu cải cách tư pháp. Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự phân cấp thực hiện thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự trong hệ thống Tòa án theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm về dân sự. Đó là cách thức tổ chức thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong mỗi cấp Tòa án cũng như giữa các cấp Tòa án trong hệ thống Tòa án. Luận án cũng đã nghiên cứu những bất cập trong cách thức tổ chức phân cấp thẩm quyền sơ thẩm, thẩm quyền phúc thẩm, thẩm quyền giám đốc thẩm, thẩm quyền tái thẩm khi Tòa án giải quyết một tranh chấp dân sự. Luận án không nghiên cứu sự phân cấp thẩm quyền giải quyết việc dân sự trong hệ thống Tòa án. Phạm vi nghiên cứu của luận án là những quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm về dân sự. Những quy định về thẩm quyền giải quyết việc dân sự không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận án được triển khai trên cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của triết học Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp và cải cách nền hành chính quốc gia. Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn xét xử, những tổng kết của ngành Tòa án, những số liệu thống kê về tình hình xét xử, về tổ chức cán bộ của các cơ quan chức năng, dư luận xã hội... làm cho những kiến nghị sửa đổi, bổ sung pháp luật về sự phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự không những chỉ dựa trên cơ sở khoa học mà còn có cơ sở thực tiễn. Phương pháp nghiên cứu so sánh những quy định tương ứng trong pháp luật của các quốc gia khác cũng như trong cổ luật của Việt Nam làm vấn đề được nghiên cứu trong tính hệ thống, từ đó cho phép đưa ra những kiến nghị về mô hình tổ chức sự phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án một cách toàn diện và đầy đủ hơn. Những phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống cũng được áp dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài như phương pháp tổng hợp, tiếp cận hệ thống, lịch sử, thống kê v.v... 5. Những điểm mới của luận án Luận án với đề tài "Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống cách thức tổ chức thực hiện thẩm quyền giải quyết một tranh chấp dân sự theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm về dân sự của hệ thống Tòa án. Luận án có những điểm mới sau đây: Một là, luận án đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thẩm quyền về dân sự của Tòa án, thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự, xây dựng một hệ thống khái niệm liên quan đến nội dung luận án xung quanh vấn đề thẩm quyền về dân sự và thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của Tòa án. Từ các nội dung này, luận án đã làm rõ khái niệm, sự cần thiết, ý nghĩa, vai trò của sự phân cấp thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống TAND. Hai là, luận án đã đi sâu nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam về phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án qua cách thức tổ chức thực hiện thẩm quyền sơ thẩm, thẩm quyền phúc thẩm, thẩm quyền giám đốc thẩm, thẩm quyền tái thẩm về dân sự của mỗi cấp Tòa án cũng như giữa các cấp Tòa án với nhau và thẩm quyền quyết định của mỗi Hội đồng xét xử sơ thẩm, Hội đồng phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm. Từ những nghiên cứu này, luận án đã chỉ ra những bất cập trong tổ chức thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng xét xử về dân sự, là nguyên nhân quan trọng đưa việc giải quyết vụ án dân sự rơi vào tình trạng xét xử lòng vòng qua nhiều cấp, kéo dài nhiều năm, gây bức xúc và mất niềm tin trong nhân dân. Ba là, luận án đã đề xuất những giải pháp nhằm đổi mới sự phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự, xây dựng mô hình tổ chức phân cấp thẩm quyền làm bảo đảm về mặt pháp lý cho việc nâng cao chất lượng xét xử về dân sự trong hệ thống Tòa án. Trước tiên là sự thay đổi việc tổ chức thẩm quyền tại mỗi Tòa án theo cách thức là có các Thẩm phán chuyên trách hoặc Tòa chuyên trách thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của cấp Tòa án đó. Về lâu dài, mỗi cấp Tòa án chỉ nên có một thẩm quyền giải quyết, theo nguyên tắc mỗi cấp Tòa án tương ứng với một cấp xét xử. Giải pháp thứ hai là việc thay đổi, bổ sung một số quy định về thủ tục tố tụng, tạo điều kiện cho việc tổ chức thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự đạt hiệu quả cao như quy định thủ tục rút gọn, nguyên tắc tranh tụng, quyền kháng cáo giám đốc thẩm, kháng cáo tái thẩm cho các đương sự. Giải pháp mang tính đồng bộ là vấn đề tăng cường và nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Tòa án mà trung tâm là các Thẩm phán. 6. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án là những bổ sung quan trọng về cơ sở lý luận về tổ chức Tòa án, về thủ tục tố tụng dân sự liên quan đến sự phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án. Kết quả nghiên cứu này cho phép tiếp cận với cách nhìn mới, cách đánh giá mới về những nguyên tắc và cách thức tổ chức Tòa án và Luật tố tụng dân sự. Đây là những cơ sở lý luận rất quan trọng để đưa ra một cách thức tổ chức phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án có tính mới. Những giải pháp nhằm hoàn thiện việc phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án có thể làm tiền đề cho những công trình nghiên cứu khoa học, những đề án về hoàn thiện mô hình tổ chức Tòa án, hoàn thiện hệ thống luật tố tụng và những kế hoạch cụ thể để nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán. Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những nhà nghiên cứu pháp luật và những người làm công tác thực tiễn. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 3 chương, 7 mục. Chương 1 : Một số vấn đề lý luận về phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án nhân dân 1.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của Tòa án nhân dân 1.1.1. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án 1.1.1.1. Một số vấn đề chung về thẩm quyền Nhà nước, theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, là "sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được" [29, tr. 31]. Đó là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ phận chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện những mục đích và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước là hệ thống cơ quan từ trung ương tới địa phương, bao gồm nhiều loại cơ quan như cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, cơ quan ngoại giao… Thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung của Nhà nước, nhưng mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước có chức năng, nhiệm vụ riêng phù hợp với phạm vi quyền hạn được giao. Cơ sở để xác định chức năng, nhiệm vụ và phạm vi quyền hạn cho mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các kiểu Nhà nước và hình thức Nhà nước. Chẳng hạn, trong hình thức Nhà nước quân chủ, quyền lực tối cao của Nhà nước tập trung toàn bộ hoặc phần lớn trong tay người đứng đầu Nhà nước, thường được gọi là Vua. Cách tổ chức này đã dẫn đến "sự tùy tiện là quyền lực của nhà Vua" hay "quyền lực của Vua là sự tùy tiện" như nhận xét của C.Mác [39, tr. 319]. Còn Montesquieu, một nhà xã hội học, một triết gia và nhà khai sáng người Pháp thế kỷ XVIII thì cho rằng, "trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực: quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự" [47, tr. 100]. Theo ông, thực hiện quyền lực nhà nước, xét cho cùng là việc tổ chức thực hiện ba quyền lực trên. Montesquieu đã đánh giá: Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện Nguyên lão, thì sẽ không còn gì là tự do nữa; vì người ta sợ rằng chính ông ta hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết [47, tr. 100-101]. Những quan điểm của Montesquieu là nền tảng cho học thuyết "tam quyền phân lập", một học thuyết có ảnh hưởng lớn tới tổ chức bộ máy nhà nước của các Nhà nước tư sản. Có thể thấy ảnh hưởng của học thuyết tam quyền trong Hiến pháp Mỹ năm 1787, trong tuyên ngôn của Cộng hòa Pháp về quyền con người và quyền công dân năm 1789. Chẳng hạn, Điều 16 của Bản tuyên ngôn năm 1789 nêu rõ: một xã hội trong đó không bảo đảm việc sử dụng các quyền và không thực hiện sự phân quyền thì không có Hiến pháp [90, tr. 6]. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong khi xây dựng học thuyết về Nhà nước kiểu mới, đã kế thừa những hạt nhân hợp lý của các học thuyết chính trị và trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh giai cấp để đưa ra quan điểm quyền lực nhà nước thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân. Nhân dân trao quyền lực đó cho người đại diện của mình là Quốc hội, đó "không phải là cơ quan đại nghị mà là một cơ quan hành động, vừa lập pháp, vừa hành pháp… các nghị sĩ tự mình cộng tác, tự mình thực hiện những pháp luật của mình, tự mình kiểm tra lấy tác dụng của những pháp luật ấy, tự mình phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước cử tri của mình" [28, tr. 33]. Nhưng cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước không trực tiếp làm tất cả công việc mà phân công cho các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, trong đó mỗi cơ quan có chức năng, nhiệm vụ, có quyền hoạt động trong một lĩnh vực nhất định. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta khi xây dựng Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Điều 2 Hiến pháp năm 2002 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [44] đã khẳng định: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp". Quyền lực nhà nước thực hiện thông qua những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ có sự phân công, phân nhiệm trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc thống nhất quyền lực. Sự phân công, phân nhiệm không chỉ xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho từng cơ quan, mà còn tạo ra những lĩnh vực hoạt động riêng của cơ quan đó trong bộ máy nhà nước. Ví dụ, cùng có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, nhưng TAND có chức năng xét xử, còn chức năng của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định. Phạm vi hoạt động riêng của từng cơ quan đã tạo ra thẩm quyền cho mỗi cơ quan nhà nước. Thẩm quyền của cơ quan nhà nước bao gồm lĩnh vực mà Nhà nước giao cho cơ quan đó thực hiện. Với thẩm quyền của mình, các cơ quan nhà nước không thể làm thay chức năng của nhau, không thể thay thế cơ quan nhà nước này bằng cơ quan nhà nước khác để thực hiện chức năng đã được xác định. Thẩm quyền của cơ quan nhà nước không chỉ xác định phạm vi hoạt động của từng cơ quan, mà còn phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước. Sự xác định và phân định này do pháp luật quy định. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan mà pháp luật quy định cho mỗi cơ quan có một hoặc nhiều thẩm quyền. Ví dụ, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có quyền quản lý và điều hành xã hội trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước… Khái niệm thẩm quyền gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Thẩm quyền trở thành một thuộc tính tất yếu của quyền lực nhà nước. Từ điển Luật học đã định nghĩa thẩm quyền là "tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định" [93, tr. 459]. Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội cũng cho rằng: Các cơ quan nhà nước hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của mình. Thẩm quyền của cơ quan nhà nước là toàn bộ những quyền và nghĩa vụ mà Nhà nước quy định cho cơ quan đó, phụ thuộc vào vị trí của mình trong bộ máy nhà nước. Các cơ quan nhà nước khác nhau thì có thẩm quyền khác nhau [85, tr. 204]. Là thuộc tính của quyền lực nhà nước, khái niệm thẩm quyền không chỉ gắn với hoạt động của một cơ quan nhà nước, mà trong nhiều trường hợp, thẩm quyền còn là quyền hạn của một cá nhân được thực hiện nhân danh quyền lực nhà nước theo quy định của pháp luật. Ví dụ, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội, đối ngoại. Thủ tướng Chính phủ là thành viên của Chính phủ, là người chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Bộ trưởng các bộ là người chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực, ngành mình phụ trách. Chánh án TANDTC chịu trách nhiệm báo cáo công tác của ngành Tòa án trước Quốc hội. Thẩm phán là người có quyền ra bản án… Với các nhiệm vụ như vậy, các cá nhân này có những quyền hạn, thẩm quyền nhất định được pháp luật quy định. Ví dụ, Chánh án TANDTC có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND các cấp. Thẩm phán có quyền xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi ra bản án. Giáo trình Luật tố tụng hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội cũng cho rằng: "Thẩm quyền là quyền hạn theo pháp luật quy định, của cơ quan công quyền và công chức giữ chức vụ nhà nước nhất định" [84, tr. 29]. Từ điển Tiếng Việt cũng định nghĩa: thẩm quyền là "quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật" [91, tr. 922]. Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về thẩm quyền như sau: Thẩm quyền là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho một cơ quan, tổ chức hoặc một công chức được xem xét giải quyết những công việc cụ thể trong lĩnh vực và phạm vi nhất định nhằm thực hiện chức năng của bộ máy nhà nước. 1.1.1.2. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, không phân chia, nhưng có sự phân công giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền tư pháp, hiểu theo nghĩa rộng, là toàn bộ các hoạt động bảo vệ cho hệ thống pháp luật được thực thi, bao gồm quyền điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Là một bộ phận của bộ máy nhà nước, Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, với chức năng xét xử. Điều 127 Hiến pháp 2002 khẳng định: "Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức TAND năm 2002 [33] đã quy định cụ thể nhiệm vụ của Tòa án, trong phạm vi chức năng của mình là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Từ chức năng, nhiệm vụ của TAND, thẩm quyền của Tòa án được xác định trong phạm vi xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Xét xử là thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét những hành vi vi phạm pháp luật, tùy theo mức độ của sự vi phạm, căn cứ vào quy định của pháp luật để đưa ra quyết định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của cá nhân, của các tổ chức và các lợi ích cộng cộng khác. Các quyết định này có thể là về hình phạt tương ứng với mức độ vi phạm của người thực hiện trong các vụ án hình sự; có thể là các quyết định về quyền và nghĩa vụ của cá nhân trong các vụ án dân sự, vụ án kinh tế, tranh chấp lao động và vụ án hành chính. Quyết định của Tòa án thường thể hiện dưới hình thức bản án. Một số trường hợp được thể hiện dưới hình thức quyết định như quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án… Chỉ có Tòa án mới có quyền ra bản án hoặc các quyết định này. Bản án, quyết định của Tòa án là nhân danh Nhà nước; mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang và cá nhân tôn trọng, những người và những tổ chức liên quan phải nghiêm chỉnh thi hành; được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước thông qua một hệ thống cơ quan nhà nước có chức năng thi hành án là hệ thống cơ quan thi hành án dân sự. Thẩm quyền của Tòa án không chỉ xác định phạm vi công việc của Tòa án mà còn giới hạn phạm vi những công việc giữa Tòa án với những có quan nhà nước khác. Ví dụ, giải quyết những tranh chấp quyền sử dụng đất, theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 [31], nếu có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong những giấy tờ được pháp luật quy định, tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án; nếu không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có những giấy tờ mà pháp luật quy định, tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân (Điều 136 Luật Đất đai). Trong trường hợp này, thẩm quyền của Tòa án cho phép xác định một vụ việc Tòa án xét xử, giải quyết là có cơ sở pháp lý để công nhận tính hợp pháp hay không. Nếu Tòa án xét xử, giải quyết một vụ án không đúng thẩm quyền, thì dù vụ án được giải quyết đúng về nội dung, phán quyết của Tòa án cũng không được công nhận và bị hủy bỏ. Không chỉ phân định sự khác nhau về giới hạn hoạt động của Tòa án với cơ quan nhà nước khác, thẩm quyền của Tòa án còn định ra giới hạn thẩm quyền cho các Tòa án trong cùng hệ thống Tòa án. Có thẩm quyền của Tòa án các cấp để phân định các loại việc thuộc thẩm quyền xét xử theo thủ tục sơ thẩm; thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ để phân định thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm giữa các Tòa án trong cùng một cấp; thẩm quyền xét xử theo sự lựa chọn của nguyên đơn để xác định Tòa án có thẩm quyền sơ thẩm vụ án. Lại có thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm nhằm xác định quy trình giải quyết một vụ án dân sự qua các cấp và các Tòa án có thẩm quyền. Đây cũng là loại thẩm quyền của Tòa án thuộc phạm vi nghiên cứu chính của đề tài luận án. Trước khi Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) được ban hành, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (Pháp lệnh TTGQCVADS) [59], Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế [60], Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động [61] quy định thủ tục giải quyết vụ án dân sự, vụ án kinh tế và các tranh chấp dân sự tại Tòa án. Căn cứ vào những Pháp lệnh này, thẩm quyền của Tòa án còn được xác định theo thủ tục tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng kinh tế hay thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng lao động. Đây cũng là một loại quy định về thẩm quyền của Tòa án. Nghiên cứu để đưa ra một khái niệm khoa học về thẩm quyền của Tòa án có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định phạm vi, cách thức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Tòa án. Có quan điểm cho rằng thẩm quyền của Tòa án là quyền xét xử, bao gồm nhiều mặt, nhiều khía cạnh, mang tính lịch sử cụ thể quy định quyền xét xử của Tòa án. Nội dung của nó do các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và các điều kiện khác quyết định [100, tr. 92]. Nếu hiểu như vậy thì khái niệm thẩm quyền của Tòa án mới chỉ mang tính xã hội, chưa thể hiện được tính quyền lực nhà nước. Trong khi đó, thẩm quyền của cơ quan nhà nước nói chung, có thẩm quyền của Tòa án nói riêng tồn tại trên cơ sở quyền lực nhà nước. Thẩm quyền là thuật ngữ được gắn với cơ quan công quyền, là thuộc tính của quyền lực nhà nước. Khái niệm thẩm quyền cũng được nghiên cứu, đề cập đến trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới. Tuy có nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau, nhưng nhìn chung thẩm quyền của Tòa án đều được thừa nhận là quyền xét xử và quyền quyết định của Tòa án. Đó cũng là quyền được làm những việc và quyền được quyết định về những vấn đề trong phạm vi pháp luật cho phép của Tòa án. Theo Từ điển pháp luật của tác giả Lemeunier thì thẩm quyền của Tòa án được hiểu là "khả năng của một Tòa án xem xét một vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép" [100, tr. 74]. Trong tiếng Anh, thuật ngữ Jurisdition được dùng để chỉ thẩm quyền hoặc quyền tài phán của Tòa án [99, p.297]. Theo các quan điểm này, khái niệm thẩm quyền không chỉ được phân tích về bản chất, mà còn chỉ rõ phạm vi thẩm quyền theo diện rộng. Theo tiến sĩ Wolf Ruecliger, thì "thẩm quyền của Tòa án cần phân biệt sự khác nhau giữa thẩm quyền theo vụ việc, địa điểm và thẩm quyền phân cấp" [22, tr. 227]. Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm thẩm quyền của Tòa án như sau: Thẩm quyền của Tòa án là toàn bộ những quyền do pháp luật quy định theo đó Tòa án được tiến hành xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể theo quy định của pháp luật. Hoặc cũng có thể định nghĩa, thẩm quyền của Tòa án là quyền xét xử những vụ án hình sự, giải quyết các tranh chấp, các yêu cầu về dân sự; hôn nhân và gia đình; kinh doanh, thương mại; lao động; giải quyết các vụ án hành chính và giải quyết các vụ việc khác trên cơ sở quyền lực nhà nước và được quy định bởi pháp luật. Thẩm quyền của Tòa án có nhiều nội dung, được xem xét dưới nhiều góc độ như thẩm quyền về hình sự, thẩm quyền về dân sự, thẩm quyền quyết định… Mỗi loại thẩm quyền tạo ra những giới hạn khác nhau cho phạm vi hoạt động của Tòa án. Ví dụ, một trong những thẩm quyền về dân sự của Tòa án là loại thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định của cơ quan nhà nước khác. Trên cơ sở thực hiện quyền lực tư pháp của Nhà nước, với tư cách là cơ quan xét xử, phán quyết của Tòa án là nhân danh Nhà nước, Tòa án có quyền công nhận hay không công nhận tính hợp pháp của một quyết định của cơ quan, tổ chức khác. Điều 12 Pháp lệnh TTGQCVADS quy định: Khi xét xử vụ án dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định rõ ràng là trái pháp luật của cơ quan, tổ chức khác xâm phạm quyền lợi hợp pháp của các đương sự trong vụ án mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết. Hiện nay BLTTDS không quy định thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định của cơ quan, tổ chức khác. Tuy vậy, theo chúng tôi điều đó không có nghĩa là Tòa án không có quyền hạn đối với các quyết định của cơ quan, tổ chức khác, nếu quyết định đó rõ ràng là trái pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự trong vụ án Tòa án đang giải quyết. Với chức năng là cơ quan xét xử của Nhà nước, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ nền công lý. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, cho dù hành vi đó là của cá nhân hay của cơ quan, tổ chức đều phải chịu sự phán xét của Tòa án. Đó cũng là một nội dung của thẩm quyền của Tòa án. Việc giải quyết này có thể được thực hiện theo thủ tục tố tụng hành chính hoặc có thể được Tòa án quyết định trong phạm vi quyền hạn của mình. Hoặc quy định về thẩm quyền quyết định của Tòa án xác định phạm vi quyền hạn đối với việc giải quyết vụ án. Quyền quyết định hay còn gọi là quyền hạn của Tòa án là bộ phận không thể thiếu của thẩm quyền của Tòa án. Nếu Tòa án có thẩm quyền xét xử mà không có quyền quyết định, không ra được bản án hay quyết định thì không thể hoàn thành được thẩm quyền của mình. Trong Từ điển tiếng Việt, quyền hạn là "quyền được xác định về nội dung, phạm vi, mức độ" [91, tr. 815]. Từ điển Luật học cũng định nghĩa: quyền hạn là "quyền được xác định trong không gian, thời gian, lĩnh vực hoạt động" [65, tr. 402]. Các định nghĩa này cho phép xác định quyền hạn của Tòa án là quyền quyết định trong phạm vi pháp luật quy định. ở các cấp, các thủ tục xét xử khác nhau, quyền hạn của Tòa án khác nhau. Ví dụ, quyền hạn của Tòa án cấp sơ thẩm, quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm, quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm. 1.1.2. Thẩm quyền về dân sự của Tòa án nhân dân 1.1.2.1. Khái niệm thẩm quyền về dân sự của Tòa án ở các loại việc khác nhau, các thủ tục xét xử khác nhau, mức độ quyền hạn của Tòa án là khác nhau. Sự khác nhau về thẩm quyền của Tòa án ở cấp độ này tạo ra phạm vi xét xử và giới hạn xét xử. Từ điển tiếng Việt định nghĩa, giới hạn là "phạm vi, mức độ nhất định, không thể hoặc không được phép vượt qua" [91, tr. 405], còn phạm vi là "khoảng được giới hạn của một hành động, một vấn đề hay một cái gì" [91, tr. 764]. Giới hạn thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án là quyền xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ việc dân sự; hôn nhân và gia đình; kinh doanh, thương mại; lao động; giải quyết các vụ án hành chính và quyền giải quyết những vụ việc khác theo quy định của pháp luật. Giới hạn thẩm quyền theo vụ việc tạo ra phạm vi thẩm quyền về dân sự, về hôn nhân và gia đình, thẩm quyền về hình sự, thẩm quyền về kinh doanh, thương mại, thẩm quyền về lao động, thẩm._. quyền về hành chính cho Tòa án. Thẩm quyền về dân sự của Tòa án là một loại thẩm quyền của Tòa án. Xét theo mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan nhà nước khác, thẩm quyền về dân sự của Tòa án xác định phạm vi những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, phân định với những vụ việc về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nhà nước khác. Xét theo mối quan hệ giữa các Tòa án với nhau thì thẩm quyền về dân sự của Tòa án trước hết xác định phạm vi giải quyết các vụ việc dân sự so với phạm vi xét xử về hình sự và phạm vi giải quyết những vụ việc khác thuộc thẩm quyền xét xử, giải quyết của Tòa án theo quy định của pháp luật. Phạm vi giải quyết các vụ việc dân sự và phạm vi xét xử về hình sự hình thành trên cơ sở những đặc thù của loại vụ án hình sự và loại vụ việc dân sự. Đặc thù của vụ án hình sự là giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và kẻ phạm tội, trong đó, hành vi vi phạm pháp luật mà kẻ phạm tội thực hiện không chỉ làm thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, đến tài sản của cá nhân người bị hại mà còn bị coi là nguy hiểm đối với xã hội. Tính chất "công" được coi như đặc trưng của mối quan hệ này. Vì lẽ đó, thủ tục tố tụng hình sự là một hoạt động được tiến hành bởi nhiều cơ quan tiến hành tố tụng như cơ quan điều tra, cơ quan kiểm sát, cơ quan Tòa án, trong đó, cơ quan điều tra có chức năng điều tra vụ án, cơ quan kiểm sát thực hiện việc truy tố và trên cơ sở đó, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Đối với vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, mối quan hệ cần giải quyết là lợi ích giữa các cá nhân hoặc tổ chức với nhau. Tính chất "tư", "cá nhân" được coi là đặc trưng trong các mối quan hệ này. Các tranh chấp này cần sự phán xử của một cơ quan là Tòa án. Thủ tục tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính bắt đầu từ việc Tòa án thụ lý vụ án hoặc thụ lý yêu cầu về dân sự. Toàn bộ hoạt động chuẩn bị xét xử cũng như việc xác minh, xây dựng hồ sơ vụ án và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Mặt khác, do tính chất dân sự, riêng tư của những quan hệ, nên các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính không phải lúc nào cũng phải mở phiên tòa xét xử. Nhiều vụ việc, với sự giải quyết của Tòa án, đã kết thúc bằng việc hòa giải giữa các đương sự hoặc bằng việc rút đơn kiện của nguyên đơn. Thẩm quyền xét xử vụ án hình sự của Tòa án xác định phạm vi thẩm quyền của Tòa án trong việc ra bản án, quyết định tại phiên tòa, còn thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính xác định thẩm quyền của Tòa án trong việc thụ lý, chuẩn bị xét xử, ra bản án, quyết định về vụ việc. Thẩm quyền giải quyết về dân sự của Tòa án có giới hạn phạm vi rộng hơn so với thẩm quyền xét xử về hình sự. Thẩm quyền về hình sự của Tòa án là quyền xét xử của Tòa án giới hạn chính trong phần phiên tòa. Thẩm quyền về dân sự của Tòa án là quyền quyết định của Tòa án đối với toàn bộ quá trình tố tụng mà xét xử tại phiên tòa chỉ là một giai đoạn. Hiến pháp cũng như Luật Tổ chức TAND xác định Tòa án là cơ quan xét xử các vụ án hình sự, các vụ án dân sự và các loại việc khác theo quy định của pháp luật. Các vụ án này thuộc "thẩm quyền xét xử" của Tòa án. Trong thực tế cũng như trong nhiều văn bản, nhiều trường hợp thường sử dụng thuật ngữ "xét xử hình sự" và "giải quyết vụ án dân sự" hoặc "thẩm quyền xét xử hình sự" và "thẩm quyền giải quyết dân sự" để chỉ thẩm quyền của Tòa án trong lĩnh vực hình sự và trong lĩnh vực dân sự. Trong chừng mực nhất định, "thẩm quyền giải quyết" có phạm vi rộng hơn "thẩm quyền xét xử" và cũng phù hợp hơn với vai trò của Tòa án trong việc giải quyết vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Trước khi có BLTTDS, thủ tục giải quyết các loại vụ án dân sự, kinh tế, lao động được quy định trong các pháp lệnh: "Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự", "Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế", "Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động". Đối với các vụ án hành chính thì thủ tục được quy định trong "Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính". Thẩm quyền về hình sự của Tòa án được xác định trong phạm vi "xét xử", thẩm quyền về dân sự của Tòa án ngoài phạm vi "xét xử" còn bao gồm phạm vi "giải quyết". Nếu thẩm quyền về hình sự của Tòa án xác định thẩm quyền xét xử, thì thẩm quyền về dân sự của Tòa án không chỉ xác định thẩm quyền xét xử, mà còn xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Thẩm quyền xét xử về dân sự và thẩm quyền giải quyết dân sự là những thuật ngữ được sử dụng để chỉ phạm vi quyền hạn của Tòa án đối với các vụ việc về dân sự. Vì vậy, trong luận án, ngoài việc sử dụng thuật ngữ "Thẩm quyền giải quyết về dân sự", một đôi chỗ vẫn sử dụng thuật ngữ "Thẩm quyền xét xử về dân sự" theo một số các văn bản pháp luật hiện hành. Thẩm quyền về dân sự của Tòa án là toàn bộ những quy định về quyền của Tòa án tiến hành giải quyết vụ việc dân sự gồm các vụ án dân sự và các việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và những chủ thể khác trong phạm vi do pháp luật quy định. Là một loại thẩm quyền của Tòa án, thẩm quyền về dân sự của Tòa án cũng do pháp luật quy định và có những đặc trưng riêng. Ví dụ, pháp luật quy định công dân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận cha, mẹ, con. Trường hợp nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Điều 63, Điều 64 Luật Hôn nhân và gia đình [32]). Nếu không có tranh chấp, các bên chỉ cần làm thủ tục khai sinh hoặc thủ tục sửa chữa lại hộ tịch tại cơ quan hộ tịch theo quy định của pháp luật. Nhưng không phải từ quy định này, mỗi khi có một tranh chấp về xác nhận cha, mẹ, con phát sinh trong đời sống dân sự thì Tòa án tự đưa vụ việc đó ra để giải quyết mà phải có yêu cầu của đương sự. Thẩm quyền giải quyết về dân sự của Tòa án chỉ xuất hiện khi có yêu cầu của đương sự, theo sự lựa chọn của đương sự. Ví dụ: các tranh chấp về kinh doanh, thương mại, đương sự có thể yêu cầu Tòa án giải quyết, nhưng cũng có thể lựa chọn hình thức giải quyết theo thủ tục trọng tài. Để bảo vệ quyền nhân thân của một cá nhân mỗi khi bị xâm phạm, theo Điều 27 Bộ luật Dân sự (BLDS) [3], cá nhân đó có quyền yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu Tòa án buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai. Chỉ khi cá nhân lựa chọn việc giải quyết sự xâm phạm quyền nhân thân của mình bằng việc yêu cầu Tòa án giải quyết, lúc đó, thẩm quyền của Tòa án mới xuất hiện đối với loại việc này. Cùng với quy định của pháp luật, sự lựa chọn trên cơ sở quyền định đoạt của đương sự là những thuộc tính không thể thiếu được của thẩm quyền về dân sự của Tòa án. Thuộc tính này cũng có thể được xác định là đặc trưng riêng của thẩm quyền về dân sự của Tòa án. Bởi lẽ, thẩm quyền về hình sự của Tòa án, về căn bản không được quyết định bởi sự định đoạt của cá nhân công dân. Hành vi vi phạm pháp luật hình sự của một người bị coi là nguy hiểm cho xã hội, khi đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm, thì sẽ bị truy tố và xét xử theo quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào mong muốn của cá nhân công dân. Do tính dân sự của những loại việc thuộc thẩm quyền của Tòa án, nên trong nhiều trường hợp cần có sự phân định thẩm quyền về dân sự của Tòa án với thẩm quyền về dân sự của cơ quan nhà nước khác. Đây cũng có thể coi là một đặc trưng khác của thẩm quyền về dân sự của Tòa án so với thẩm quyền về hình sự. Thẩm quyền xét xử hình sự chỉ thuộc về Tòa án mà không cần phải phân định với cơ quan nhà nước khác. Ngay cả đối với các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự khác, thì thẩm quyền của những cơ quan này cũng rất riêng biệt với Tòa án. Chẳng hạn cơ quan điều tra thì có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự, cơ quan kiểm sát có thẩm quyền truy tố vụ án hình sự. Chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự. Trong khi đó, khi giải quyết vụ việc dân sự, trong một số trường hợp, Tòa án cần phải xác định loại vụ việc dân sự có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nhà nước khác. Xác định giới hạn thẩm quyền về dân sự của Tòa án với cơ quan nhà nước khác là một thuộc tính của thẩm quyền về dân sự. Dưới góc độ này, loại thẩm quyền này được gọi là thẩm quyền chung hay còn gọi là thẩm quyền theo vụ việc về dân sự của Tòa án. Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2003 đã định nghĩa: Thẩm quyền chung là thẩm quyền của Tòa án trong việc thụ lý giải quyết các loại việc theo thủ tục tố tụng dân sự [86, tr. 37]. Định nghĩa này không chỉ xác định những loại việc về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND, mà còn xác định giới hạn những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của các Tòa trong cùng hệ thống Tòa án theo các thủ tục tố tụng khác nhau. Trước ngày BLTTDS có hiệu lực, việc giải quyết những vụ việc ở các Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động được tiến hành theo các thủ tục tố tụng dân sự, thủ tục tố tụng kinh tế, thủ tục tố tụng lao động. Trong giai đoạn này, ngoài việc xác định vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án, thì việc xác định vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án được giải quyết theo thủ tục nào, tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, hay tố tụng lao động có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định chính xác thẩm quyền về dân sự của Tòa án. Xác định thủ tục tố tụng để giải quyết loại vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án là bộ phận quan trọng trong việc xác định thẩm quyền chung về dân sự của Tòa án. Do phạm vi điều chỉnh của BLTTDS là thủ tục giải quyết vụ việc dân sự, thủ tục giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình, thủ tục giải quyết vụ việc kinh doanh, thương mại, thủ tục giải quyết vụ việc lao động, nên từ 1-1-2005, tất cả các vụ việc về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh và thương mại, lao động đều gọi chung là vụ việc dân sự, gồm vụ án dân sự và việc dân sự, được giải quyết theo một thủ tục chung là thủ tục tố tụng dân sự. Trong bối cảnh này, dấu hiệu được chỉ ra trong định nghĩa về thẩm quyền chung như Giáo trình của Đại học Luật Hà Nội năm 2004 xác định thủ tục giải quyết cho những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết về dân sự của Tòa án là không còn cần thiết. Khi chỉ còn thủ tục tố tụng dân sự để giải quyết vụ việc dân sự, vụ việc hôn nhân và gia đình, vụ việc kinh doanh, thương mại, vụ việc lao động, gọi chung là vụ việc dân sự, thì những vụ việc nào được coi là vụ việc dân sự để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự mới có ý nghĩa quyết định đến việc xác định thẩm quyền chung về dân sự của Tòa án. Vì vậy, có thể định nghĩa thẩm quyền chung về dân sự của TAND là quyền của Tòa án được tiến hành giải quyết các vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng. Vụ việc dân sự là gì? Đây là một khái niệm gắn liền với sự phát triển của Luật tố tụng dân sự. Trong mỗi một giai đoạn phát triển của luật tố tụng dân sự, khái niệm vụ việc dân sự có những thay đổi nhất định, tất yếu dẫn đến sự khác nhau trong thẩm quyền về dân sự ở các giai đoạn phát triển khác nhau của luật tố tụng dân sự. 1.1.2.2. Thẩm quyền về dân sự của Tòa án trước khi có Bộ luật tố tụng dân sự Trước khi có BLTTDS, trong các văn bản pháp luật cũng như trong thực tế, thuật ngữ "vụ án dân sự" đã được sử dụng để chỉ tất cả những loại vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự của TAND. Việc sử dụng thuật ngữ vụ án dân sự cũng có tính lịch sử. Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa [26], tại Điều thứ 65 quy định "trong khi xét xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc đại hình". Cùng với khái niệm việc hình là khái niệm việc hộ để chỉ những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Đây cũng là những thuật ngữ được sử dụng trong các Tòa án dưới thời Pháp thuộc (trước 1945), cả ở Bắc phần, Trung phần và Nam phần. Về loại việc hộ, trong Sắc lệnh số 13-SL ngày 24 tháng giêng năm 1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán [66], đã chỉ rõ bao gồm "các việc về dân sự và thương sự" (Điều thứ 3, Điều thứ 17). Các văn bản tố tụng trong thời kỳ tiếp theo đã chỉ rõ hơn về bản chất của việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Đó là những việc thường có kiện tụng, có tranh chấp về quyền lợi giữa các bên yêu cầu, vì vậy những việc này còn được gọi là việc kiện. Ví dụ, Sắc lệnh số 51 ngày 17-4-1946 ấn định thẩm quyền các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong tòa án [67], tại Điều thứ 6 xác định thẩm quyền xử về dân sự và thương sự của Tòa án sơ cấp gồm "những việc kiện dân sự, thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định không quá 150 đ". Sắc lệnh số 85-SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng [69], tại Điều 9 quy định: "Tòa án nhân dân huyện họp thành hội đồng hòa giải để thử hòa giải tất cả các vụ kiện về dân sự và thương sự, kể cả việc xin ly dị, trừ những vụ kiện mà theo pháp luật đương sự không có quyền điều đình". Theo cách thức mà những văn bản này sử dụng, thuật ngữ "việc kiện dân sự" cũng có thể được gọi là "vụ kiện dân sự", để chỉ những tranh chấp dân sự có yêu cầu được Tòa án giải quyết. Từ "việc" và "vụ" trong trường hợp này là tương đồng, có thể dùng là "việc kiện" hoặc "vụ kiện" đều được, nhưng chỉ có thể dùng hoặc "vụ kiện" hoặc "việc kiện", mà không dùng "vụ việc kiện". Các thuật ngữ này tiếp tục được sử dụng cho đến khi có Hiến pháp 1959 [26]. Điều 97 của bản Hiến pháp quy định: Tòa án nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự là cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt. Luật Tổ chức TAND năm 1960 [35], tại Điều 1 quy định: "Các Tòa án nhân dân là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tòa án nhân dân xét xử những vụ án hình sự và dân sự để trừng trị những kẻ phạm tội và giải quyết những việc tranh chấp về dân sự trong nhân dân…". Kể từ thời điểm này, thuật ngữ vụ án để chỉ những loại vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, chính thức được sử dụng trong các văn bản pháp luật. Thông tư số 1-UB ngày 3-3-1969 [75] của TANDTC hướng dẫn việc viết bản án sơ thẩm và phúc thẩm hình sự và dân sự, cũng sử dụng nhiều lần thuật ngữ "vụ án", bao gồm vụ án hình sự và vụ án dân sự. Thông tư số 01/TTLT ngày 1-2-1982 của TANDTC, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) hướng dẫn về thủ tục giám đốc thẩm, Thông tư số 02/TTLT ngày 1-2-1982 của TANDTC, VKSNDTC hướng dẫn về thủ tục tái thẩm cũng sử dụng thuật ngữ vụ án. Với cách sử dụng này, tất cả những việc hình sự và dân sự, được xác định thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, đều được gọi chung là vụ án. Về nội dung, vụ án dân sự dùng để chỉ những việc kiện dân sự và cả những việc dân sự đặc biệt. Việc kiện dân sự là những việc trong đó có sự tranh chấp về quyền, lợi ích giữa các đương sự trong các quan hệ về dân sự, hôn nhân và gia đình. Ví dụ Thông tư số 39-NCPL [75] ngày 21-1-1972 của TANDTC về việc thụ lý, di lý, xếp và tạm xếp những việc kiện về hôn nhân và gia đình và tranh chấp về dân sự. Trong việc kiện dân sự có các bên đương sự. Bên đi kiện gọi là bên nguyên hay còn gọi là nguyên đơn. Nguyên đơn là người giả thiết cho rằng có quyền và lợi ích bị xâm hại, bị tranh chấp nên đã tự mình yêu cầu hoặc được người khác yêu cầu Tòa án bảo vệ theo quy định của pháp luật. Bên bị kiện được gọi là bên bị hay còn gọi là bị đơn. Bị đơn là người giả thiết cho rằng đã xâm hại hoặc tranh chấp quyền và lợi ích với nguyên đơn nên phải tham gia tố tụng để giải quyết về việc kiện đó. Ngoài những việc kiện về dân sự, Tòa án cũng giải quyết cả những việc không có sự tranh chấp về quyền lợi ví dụ yêu cầu xác định người thất tụng (người mất tích), xác định người đã chết. Đây là những loại việc đặc biệt mà trên cơ sở phán quyết của Tòa án, sẽ phát sinh những quan hệ pháp luật mới. Ví dụ, bằng phán quyết của Tòa án về việc công dân đã chết, sẽ làm phát sinh quan hệ thừa kế hoặc về nhân thân, người vợ hay người chồng của người chết được phép kết hôn mới. Về phạm vi, khái niệm vụ án dân sự được sử dụng trong thời kỳ này là rất rộng, bao gồm những tranh chấp và những loại việc phát sinh trong quan hệ pháp luật dân sự liên quan đến đời sống cá nhân về tài sản và nhân thân của con người, như các tranh chấp phát sinh trong quan hệ dân sự, trong kinh doanh, trong lao động, trong quan hệ hôn nhân và gia đình... Khi những tranh chấp này phát sinh tại Tòa án, được Tòa án giải quyết, thì đó vụ án dân sự. Pháp lệnh TTGQCVADS năm 1989 vẫn tiếp tục sử dụng thống nhất thuật ngữ vụ án dân sự. Điều 10 Pháp lệnh TTGQCVADS đã xác định: Các Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự sau đây: - Những tranh chấp về quyền sở hữu, về hợp đồng, về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc những tranh chấp khác về quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật dân sự giữa công dân với nhau, giữa công dân với pháp nhân, giữa pháp nhân với nhau, trừ những việc thuộc thẩm quyền của cơ quan, tổ chức khác; - Những việc về quan hệ hôn nhân và gia đình; - Những việc tranh chấp về lao động; - Những việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết, trừ những trường hợp quân nhân, cán bộ mất tích hoặc chết trong chiến trường thuộc trách nhiệm giải quyết của các cơ quan hữu quan; - Những việc khiếu nại cơ quan hộ tịch về việc từ chối đăng ký hoặc không chấp nhận yêu cầu sửa đổi những điều ghi trong giấy tờ về hộ tịch; - Những việc khiếu nại về danh sách cử tri; - Những việc khiếu nại cơ quan báo chí về việc không cải chính thông tin có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; - Những việc khác do pháp luật quy định. Xét về nội dung, có vụ án dân sự xuất phát từ một tranh chấp dân sự như tranh chấp về hợp đồng, về quyền sở hữu. Có vụ án dân sự xuất phát từ một việc dân sự không có tranh chấp như yêu cầu xác định người chết, người mất tích. Khi một tranh chấp dân sự hay một việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, được Tòa án giải quyết thì trở thành vụ án dân sự. Về phạm vi các vụ án dân sự, tại thời điểm mới ban hành Pháp lệnh TTGQCVADS, những vụ án dân sự vẫn là những vụ việc về dân sự theo nghĩa rộng, được quy định thuộc thẩm quyền giải quyết về dân sự của Tòa án từ những văn bản đầu tiên về tổ chức Tòa án và luật tố tụng. Đó là những tranh chấp, những việc về dân sự, về hôn nhân và gia đình, những tranh chấp và những việc về lao động, những tranh chấp về hợp đồng kinh tế, một số tranh chấp trong lĩnh vực hành chính như khiếu nại cơ quan hộ tịch đã không đăng ký hoặc sửa chữa những giấy tờ về hộ tịch. Từ phạm vi những vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định trong Pháp lệnh TTGQCVADS, có thể xác định vụ án dân sự là những tranh chấp và những việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự. Tranh chấp dân sự là loại việc phát sinh từ các quan hệ pháp luật về dân sự và hôn nhân, gia đình trong đó các chủ thể có mâu thuẫn với nhau về quyền lợi, nghĩa vụ. Việc dân sự là loại việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự và quan hệ hôn nhân và gia đình nhưng không có mâu thuẫn về quyền lợi giữa các chủ thể mà chỉ là việc yêu cầu Tòa án xác nhận một sự kiện pháp lý làm cơ sở phát sinh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này. Theo cách định nghĩa này, khi một tranh chấp dân sự hay một việc dân sự theo quy định là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự sẽ trở thành vụ án dân sự. Việc thành lập các Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính và các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động năm 1996, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 [62] được ban hành, phạm vi của vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự đã thu hẹp. Đầu tiên là các vụ án kinh tế được chuyển sang cho Tòa kinh tế giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế, bắt đầu từ 1-7-1994, tính từ thời điểm các Tòa kinh tế được thành lập trong hệ thống Tòa án nhân dân và chính thức hoạt động. Tiếp đó, với việc thành lập thêm Tòa lao động và Tòa hành chính trong hệ thống Tòa án nhân dân, bắt đầu từ 1-7-1996, các tranh chấp lao động, các vụ án hành chính cũng được tách khỏi các vụ án dân sự, chuyển sang các Tòa lao động, Tòa hành chính giải quyết theo thủ tục tố tụng lao động, tố tụng hành chính. Với những thay đổi đó, khái niệm vụ án dân sự trong Pháp lệnh TTGQCVADS đã ngày càng thu hẹp phạm vi so với thời kỳ đầu mới ban hành Pháp lệnh này. Từ 1-7-1996, vụ án dân sự chỉ gồm những tranh chấp, những yêu cầu phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Người ta cũng thường dùng khái niệm "Vụ án dân sự theo nghĩa truyền thống" chính là để chỉ những tranh chấp, những yêu cầu trong hai lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự. Thuật ngữ "Vụ án dân sự" với nội dung và phạm vi như trên được sử dụng cho đến khi BLTTDS được ban hành và có hiệu lực từ 1-1-2005. 1.1.2.3. Thẩm quyền về dân sự của Tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Khi xây dựng BLTTDS, các nhà khoa học và các nhà làm luật đã mất khá nhiều công sức bàn về thuật ngữ mới cho vụ án dân sự. Mặc dù có nhiều ý kiến tranh luận, nhưng những ý kiến mang tính chỉ đạo là trong BLTTDS sẽ không sử dụng khái niệm vụ án dân sự để chỉ những loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết về dân sự của Tòa án. Gọi là vụ án thì phải có kết án như vụ án hình sự. Nhưng tìm từ để thay thế cho thuật ngữ mang tính truyền thống không phải chỉ là trong cách gọi mà còn trong các văn bản pháp luật thì không đơn giản. Thuật ngữ vụ việc dân sự ra đời trong bối cảnh đó. Lúc đầu vụ việc dân sự được định nghĩa tại Điều 23 Dự thảo BLTTDS (Dự thảo lấy ý kiến của nhân dân và cơ quan, tổ chức). Nội dung như sau: Trong Bộ luật này các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau: 1. "Vụ việc dân sự" bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự; 2. "Vụ án dân sự" bao gồm những vụ án dân sự, vụ án hôn nhân và gia đình, vụ án kinh tế, vụ án lao động; 3. "Việc dân sự" là việc cá nhân, tổ chức không có tranh chấp, nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động của mình hoặc của cá nhân, tổ chức khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động… Cách định nghĩa như Điều 23 tồn tại nhiều điểm bất hợp lý. Thứ nhất, không thể chỉ đơn thuần ghép tiếng đầu tiên của một từ vào nhau là hình thành một thuật ngữ. Điều này đã không thể áp dụng được ngay cả trong lĩnh vực ngôn ngữ, càng không thể áp dụng trong lĩnh vực pháp luật. Điểm bất hợp lý thứ hai là khoản 2 đã dùng các vụ án dân sự, vụ án hôn nhân và gia đình, vụ án kinh tế, vụ án lao động để giải thích thuật ngữ vụ án dân sự, thì khoản 3, lại dùng những việc không có tranh chấp, nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động của cá nhân, tổ chức để giải thích thuật ngữ việc dân sự là không thống nhất. Đọc cách giải thích từ ngữ này khó có thể hiểu vụ án dân sự khác việc dân sự ở chỗ nào. Chính bởi những bất hợp lý này mà khi BLTTDS được thông qua và được công bố thì không còn điều luật này. Thay vì việc đưa ra một định nghĩa mang tính học thuật, lý luận, nhà làm luật đã đưa ra một quy định cụ thể hơn nhằm chỉ rõ vụ việc dân sự là gì. Điều 1 BLTTDS quy định: Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa án… Với quy định này, phạm vi điều chỉnh của BLTTDS là vụ việc dân sự, gồm vụ án dân sự và việc dân sự. Vụ án dân sự là vụ có tranh chấp về quyền lợi, nghĩa vụ giữa cá nhân, tổ chức với nhau. Các tranh chấp gồm tranh chấp dân sự, tranh chấp hôn nhân và gia đình, tranh chấp kinh doanh và thương mại, tranh chấp lao động. Khi một tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, được đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết sẽ trở thành vụ án dân sự. Trong BLTTDS, thuật ngữ tranh chấp dân sự và thuật ngữ vụ án dân sự được sử dụng thay thế nhau, đồng nhất với nhau. Việc dân sự là việc không có tranh chấp về quyền và lợi ích nhưng có yêu cầu của cá nhân, tổ chức đề nghị Tòa án công nhận một sự kiện pháp lý mà phát sinh quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức này. Có các việc yêu cầu về dân sự, các việc yêu cầu về hôn nhân và gia đình, các việc yêu cầu về kinh doanh và thương mại, các việc yêu cầu về lao động. Tất cả các việc yêu cầu này được gọi chung là việc dân sự. Một việc dân sự theo quy định là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, được Tòa án giải quyết cũng không trở thành vụ án dân sự. Vụ án dân sự trong BLTTDS không bao gồm việc dân sự mà gồm các tranh chấp dân sự. Trong Pháp lệnh TGQCVADS thì vụ án dân sự, gồm có tranh chấp dân sự và việc dân sự. Theo nội dung này, khái niệm vụ án dân sự trong BLTTDS dường như bị thu hẹp hơn so với khái niệm vụ án dân sự trong Pháp lệnh TTGQCVADS. Tuy nhiên, thực tế thì khái niệm vụ án dân sự lại được mở rộng rất lớn, nếu xét theo phạm vi loại việc. Theo Điều 1 của Bộ luật thì chỉ riêng về vụ án dân sự, ngoài những vụ án dân sự theo cách sử dụng của Pháp lệnh TTGQCVADS, gồm những vụ án về dân sự và hôn nhân và gia đình, còn bao gồm những vụ án về kinh doanh, thương mại - trước đó là các vụ án kinh tế, được giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế - và những vụ án lao động - trước đó là các tranh chấp lao động được giải quyết theo thủ tục tố tụng lao động. Ngoài vụ án dân sự, BLTTDS còn điều chỉnh thủ tục giải quyết các việc dân sự. Cũng như phạm vi những vụ án dân sự, những việc dân sự có phạm vi rộng, ngoài các việc dân sự thường được dùng theo nghĩa truyền thống, gồm các việc về dân sự, hôn nhân và gia đình, còn có các việc về kinh doanh, thương mại và các việc về lao động. Vụ án dân sự trong BLTDS vẫn là những việc có tranh chấp, bắt đầu từ mâu thuẫn về quyền và lợi ích dân sự, vì vậy vẫn tiếp tục tạo ra các bên đương sự trong tố tụng dân sự. Luật tố tụng dân sự gọi những người này là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Các đương sự này chỉ xuất hiện trong vụ án dân sự. Trong việc dân sự, do không có yếu tố kiện, không có tranh chấp về lợi ích giữa các đương sự nên không có bên đi kiện hay bên bị kiện nên không xuất hiện khái niệm nguyên đơn, bị đơn trong việc dân sự. BLTTDS đã đưa ra hai thủ tục giải quyết khác nhau là thủ tục giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự. Chương III của BLTTDS quy định những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết về dân sự của Tòa án, bao gồm: - Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Điều 25 BLTTDS; - Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại tại Điều 26 của BLTTDS; - Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Điều 27 của BLTTDS; - Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Điều 28 của BLTTDS; - Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Điều 29 BLTTDS; - Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Điều 30 BLTTDS; - Những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Điều 31 BLTTDS; - Những yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Điều 32 của BLTTDS. Đây chính là những quy định về thẩm quyền về dân sự của Tòa án theo quy định của BLTTDS. Căn cứ vào những điều luật này, có thể xác định được những vụ án dân sự và những việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tuy nhiên, luận án không nghiên cứu tất cả các loại thẩm quyền về dân sự theo nghĩa rộng được quy định trong BLTTDS, gồm các vụ việc về dân sự, các vụ việc về hôn nhân và gia đình, các vụ việc về kinh doanh, thương mại, các vụ việc về lao động. Luận án chỉ nghiên cứu thẩm quyền về dân sự giới hạn trong các tranh chấp dân sự, không gồm các việc dân sự. Mặt khác, các tranh chấp dân sự được nghiên cứu trong luận án cũng mang nghĩa truyền thống, gồm các tranh chấp về dân sự được quy định tại Điều 25 BLTTDS, các tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại Điều 27 BLTTDS Vì vậy, trong phạm vi luận án, có thể định nghĩa: Thẩm quyền về dân sự của Tòa án là quyền của Tòa án được tiến hành giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật tố tụng. 1.1.3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của Tòa án 1.1.3.1. Khái niệm tranh chấp dân sự và giải quyết tranh chấp dân sự Một vụ việc dân sự, căn cứ vào thẩm quyền về dân sự, được xác định là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nếu là tranh chấp dân sự sẽ được giải quyết theo thủ tục giải quyết vụ án dân sự, nếu là việc dân sự, sẽ được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự. Một tranh chấp dân sự, nếu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, sẽ là vụ án dân sự. Cũng vì mối liên hệ giữa tranh chấp dân sự và vụ án dân sự, trong luận án, thường sử dụng thuật ngữ tranh chấp dân sự, nhưng cũng có lúc dùng thuật ngữ vụ án dân sự. Vụ án dân sự và việc dân sự được Tòa án giải quyết theo hai thủ tục khác nhau. Những vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự được quy định từ chương đến chương XII đến chương XIX của BLTTDS. Việc dân sự được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự được quy định từ chương XX đến chương XIX của BLTTDS. Tuy nhiên, do luận án không nghiên cứu về phân cấp thẩm quyền giải quyết việc dân sự, nên những vấn đề liên quan đến việc dân sự không đư._.hường xuyên. Người Thụy Điển đã tổ chức những cơ quan đặc biệt gọi OMBUDSMAN để giám sát hoạt động của các Thẩm phán cũng như của các viên chức nhà nước. Cơ quan giám sát trực thuộc Quốc hội, do Quốc hội chỉ định với nhiệm kỳ bốn năm. Thành viên của các cơ quan giám sát có thể được bầu lại ở nhiệm kỳ tiếp theo. Cơ quan giám sát có thể điều tra bất kỳ khiếu nại nào về cơ quan hoặc nhân viên nhà nước. Thường thì những khiếu nại này ở dạng các nguồn tin trên báo chí. Cơ quan này cũng có quyền chủ động tiến hành các cuộc điều tra bằng các cuộc thanh tra. Cơ quan kiểm tra có quyền đưa ra truy tố trước pháp luật viên chức phạm lỗi bất cẩn và báo cho cơ quan nơi nhân viên này làm việc biết hoặc đề nghị xử lý kỷ luật. Hàng năm cơ quan này cũng đệ trình Quốc hội một bản báo cáo gồm những đề nghị sửa đổi, bổ sung những luật lệ có sơ hở hoặc thiếu sót. Cổ luật Việt Nam cũng có những quy định về vấn đề này. Bộ Quốc triều Hình luật có quy định một chương đoán ngục (xử án) gồm 65 Điều. Gần như cả 65 điều luật này là 65 chế tài phần lớn dành cho người xử án. Ví dụ, Điều 658 (Điều 1) quy định: Những người bị giam, kẻ nào đáng giam mà không giam, đáng gông cùm mà không gồng cùm, nếu là tù phạm tội biếm thì người coi tù bị phạt 60 trượng; nếu là kẻ phạm tội đồ trở lên, thì sẽ xử tăng dẫn một bậc, nếu thay đổi chỗ giam thì xử giảm một bậc. Những tù phạm không đáng giam mà giam, không đáng gông mà gông cùm, thì (người coi tù) bị phạt 70 trượng. Điều 671 (Điều 14) quy định: Những quan xét án, dùng dằng để việc quá kỳ hạn không xét xử, thì bị tội theo luật đã định (kỳ hạn là việc trộm cướp thì bị xét trong ba tháng, việc hủy báng trong bốn tháng, việc điền thổ trong ba tháng, việc hộ hôn, việc trái pháp luật lặt vặt, việc đánh chửi nhau, cùng việc tạp tụng, thì hai tháng, các việc này đều lấy ngày bắt bị cáo đến hầu kiện là ngày đầu. Luật định là việc quá kỳ hạn đến một tháng, thì xử tội biếm; quá ba tháng thì xử tội bãi chức, quá năm tháng thì bị xử tội đồ. Luật lệ thời phong kiến đã được đánh giá là hệ thống pháp luật hà khắc. Nhưng có như vậy pháp luật mới hoàn thành vai trò của mình. Điều này rất có giá trị, nhất là khi "tình trạng nhờn pháp luật" không phải chỉ xuất hiện ở người dân mà còn rất đáng lo ngại là có dấu hiệu tại chính các cơ quan công quyền, trong đó có cơ quan tư pháp. Hiện nay, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản quy định trách nhiệm hành chính, trách nhiệm bồi thường dân sự của công chức, viên chức. Trước hết là các quy định của BLDS. Điều 623 của Bộ luật quy định: cơ quan nhà nước phải bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ. Cơ quan nhà nước có trách nhiệm yêu cầu công chức, viên chức phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị hại theo quy định của pháp luật, nếu công chức, viên chức có lỗi trong khi thi hành công vụ. Điều 642 của Bộ luật quy định: cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền đó có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ. Trên cơ sở những quy định này của BLDS, nhiều văn bản về bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành như Nghị định số 47/CP ngày 03-5-1997 về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; Thông tư số 54/1998/TT-TCCP ngày 04-06-1998 của Ban tổ chức cán bộ Chính phủ hướng dẫn thực hiện một số nội dung Nghị định số 47/CP. Bên cạnh những quy định này, ngành Tòa án cũng đã quy định trách nhiệm cụ thể trong trường hợp Thẩm phán xét xử sai. Tuy vậy, vẫn còn hiện tượng cán bộ Tòa án tiêu cực, nhũng nhiễu người dân. Có Thẩm phán và Thư ký bị tố cáo nhận tiền chạy án, thậm chí đã bị khởi tố về hình sự. Việc Thẩm phán xét xử chưa đúng pháp luật, một số người vô cảm trước những thiệt thòi, mất mát của người dân, sự thiếu trách nhiệm của người giữ cán cân công lý đang là những vấn đề mà xã hội rất bức xúc. Bên cạnh những biện pháp mạnh và cứng rắn từ phía cơ quan chức năng, bản thân người Thẩm phán phải luôn ý thức được hơn nữa vai trò của mình. Ngoài việc nâng cao trình độ chuyên môn, việc dưỡng liêm của người Thẩm phán phải là một công việc thường nhật. Người Thẩm phán cần hiểu mình, hiểu được nghề nghiệp đặc biệt mà mình đã lựa chọn để trân trọng mình, biết giữ mình trước những cám dỗ của cuộc sống. Đây là công việc khó, nhưng khó không có nghĩa là không làm được. Hồ Chủ tịch cũng đã từng nhắc nhở rằng: "Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm, nhưng chỉ sợ không biết kiên quyết sửa nó đi" [44, tr. 167]. Chỉ cần chúng ta luôn tận tâm và bắt đầu ngay từ bây giờ và phải bắt đầu từ việc chiến thắng chính bản thân mình. kết luận chương 3 Với những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật và phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự, những yêu cầu mới của đời sống xã hội và yêu cầu của quá trình hội nhập, việc cải cách tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp dân sự là hết sức cấp thiết, vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn. Từ thực trạng của quá trình phân cấp thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án, những kinh nghiệm của nước ngoài và trong quy định của cổ luật Việt Nam, tác giả đã đề xuất những giải pháp đổi mới phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự về tổ chức, về thủ tục. Một giải pháp khác mang tính đồng bộ nhằm biến những quy định của pháp luật thành chất lượng xét xử thực tế là việc nâng cao chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực xét xử cho đội ngũ cán bộ Tòa án, trước hết là các Thẩm phán. Kết luận Những quy định về phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án cho thấy sự phân cấp thẩm quyền của Tòa án nếu khoa học, hợp lý sẽ là một trong những điều kiện quan trọng để hoạt động xét xử của Tòa án có chất lượng. Thực tiễn phân cấp thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án Việt Nam trong giai đoạn hiện nay nhìn chung đã tạo ra một hệ thống xử án có khả năng góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp khác trong xã hội. Nhưng cách thức tổ chức thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm trong hệ thống Tòa án cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Hậu quả là một bộ phận án dân sự bị xét xử lòng vòng qua nhiều cấp, kéo dài nhiều năm gây lo lắng trong dư luận cũng như trong chính cơ quan nhà nước có thẩm quyền về chất lượng xét xử án dân sự nói riêng cũng như chất lượng hoạt động của hệ thống cơ quan Tòa án và các cơ quan tư pháp khác nói chung. Trong bối cảnh này, tổ chức lại việc phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án là yêu cầu khách quan, cần thiết cho sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Trên cơ sở những phân tích hệ thống xét xử hiện tại, kết hợp với sự so sánh cách thức tổ chức xử án của nhiều nước trên thế giới cũng như trong cổ luật Việt Nam và các giai đoạn khác nhau trong lịch sử Việt Nam hiện đại, tác giả luận án đã đề xuất những giải pháp sau: 1. Đổi mới phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự về tổ chức Trước hết, cần từng bước tập trung việc xét xử các loại án tại mỗi cấp Tòa án theo chuyên ngành chuyên sâu. Tại TAND cấp tỉnh, thẩm quyền xét xử các tranh chấp dân sự theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm của TAND cấp tỉnh sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa dân sự TAND cấp tỉnh. Tương tự, tại TANDTC, thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự theo thủ tục phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm của TANDTC sẽ chỉ thuộc về Tòa dân sự TANDTC và cũng chỉ tiến hành một lần giám đốc thẩm hoặc tái thẩm ở cấp Tòa án tối cao. TAND cấp huyện tổ chức giải quyết tranh chấp dân sự theo tính chất chuyên sâu bằng cách thành lập Tòa dân sự ở một số địa phương có lượng án lớn như thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Các TAND cấp huyện ở các địa phương khác, căn cứ vào lượng án tại địa phương tổ chức các Thẩm phán chuyên xét xử về dân sự. Về lâu dài, toàn bộ hệ thống Tòa án nên được kiện toàn theo hướng tổ chức từng cấp Tòa án tương ứng với một cấp xét xử. Hệ thống Tòa án với ba cấp, tương ứng sẽ có ba cấp xét xử. Việc minh bạch thêm cấp xét xử thứ ba sẽ có cơ chế kiểm soát chặt chẽ, công khai. Mặt khác, trong một cấp Tòa án, nên tổ chức xét xử chuyên ngành chuyên sâu theo hướng thu gọn chủ yếu vào lĩnh vực dân sự và lĩnh vực hình sự. 2. Đổi mới phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự về thủ tục Một là, cần quy định thủ tục rút gọn. Với lợi thế thực hiện trong thời gian ngắn, do một Thẩm phán giải quyết và bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật ngay, thủ tục rút gọn là điều kiện quan trọng cho các Tòa án, đặc biệt là TAND cấp huyện giải quyết được khối lượng án gia tăng đến quá tải. Hai là, cần nhấn mạnh quyền ra bản án của Hội đồng xét xử phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm. Điều này sẽ góp phần giảm thiểu phần nào tình trạng xét xử lòng vòng một vụ án dân sự. Ba là, cần quy định quyền kháng cáo đề nghị giám đốc thẩm cho chính đương sự, hạn chế tình trạng khiếu nại việc xét xử của các đương sự. Bốn là, cần quy định quyền tranh tụng trong tố tụng dân sự. Tranh tụng là một biện pháp quan trọng để việc xét xử thực sự dân chủ, làm đương sự phải tích cực và chủ động trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của họ trong vụ án. Quy định nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự sẽ làm cho việc tổ chức thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án hiệu quả hơn. 3. Tăng cường và nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Tòa án Cán bộ Tòa án, mà trước hết là các Thẩm phán cần đổi mới phương pháp tư duy, nỗ lực vận động mình theo kịp sự đòi hỏi của xã hội, của đất nước, thực hiện nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Các công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán cần được đặc biệt chú trọng. Người Thẩm phán cũng cần thường xuyên tự trau dồi đạo đức nghề nghiệp của mình. Tóm lại, những giải pháp nhằm hoàn thiện cách thức thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống TAND cần phải được thực hiện một cách đồng bộ. Tùy theo tính chất, có giải pháp cần được thực hiện trước, có giải pháp mang tính chiến lược, lâu dài. Thiếu bất kỳ một giải pháp nào, tổ chức xử án không thể tạo khả năng bảo vệ được những quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân phù hợp với yêu cầu đổi mới mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đang chờ đợi. Những CÔNG Trình Của Tác Giả Đã CÔNG Bố Có LIÊN QUAN Đến luận án Lê Thu Hà (1997), "án dân sự bị xét xử kéo dài - vài nguyên nhân và giải pháp", Nhà nước và pháp luật, 10(114), tr. 41-46. Lê Thu Hà (1998), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Lê Thu Hà (1999), "Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử các vụ dân sự của Tòa án nhân dân", Nhà nước và pháp luật, 1(129), tr. 41-50. Lê Thu Hà (2001), "Cơ quan nào có thẩm quyền xác nhận cha cho con?", Tòa án nhân dân, (12), tr. 23-25. Lê Thu Hà (2003), Một số suy nghĩ về cơ chế xét xử vụ án dân sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Lê Thu Hà (2003), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Lê Thu Hà (2004), "Xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự", Tòa án nhân dân, (19), tr. 21-23. Lê Thu Hà (Đồng chủ biên) (2004), Kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Lê Thu Hà (2005), "Chế độ đào tạo luật gia tại Hoa Kỳ", Nghiên cứu lập pháp, (19), tr. 72-76. Danh mục tài liệu tham khảo Lê Thọ Bình - Bá Kiên (2003), "Chất lượng xét xử của chúng ta đã ổn chưa?", Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, (87/2003 ra ngày 17-11), tr. 7. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 1 năm 2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội. Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Tư pháp (1994), "Thành lập Tòa án khu vực - Vấn đề then chốt trong quá trình cải cách hệ thống cơ quan xét xử ở Việt Nam", Đổi mới các cơ quan tư pháp, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Hà Nội. Bộ Tư pháp (2004), Văn bản số /TP-DSKT ngày 23 tháng 4 năm 2004 của về việc tổng hợp ý kiến góp ý cho Dự án Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội. Các văn bản pháp luật về tổ chức Tòa án nhân dân (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Chí (2003), "Tố tụng tranh tụng và vấn đề cải cách tư pháp ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền", Nhà nước và pháp luật, (11), tr. 53-59. Cục Văn phòng dân sự Tòa án tối cao Nhật Bản (1992), Tài liệu nghiệp vụ liên quan tới phí tố tụng dân sự, Hiệp hội tư pháp Nhật Bản. Ngô Cường (1996), "Tòa án ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc (1884-1945)", Đề tài nghiên cứu khoa học: Vị trí, vai trò và chức năng của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội, tr. 213-220. Dennis A. Rondinelly và John R. Nellis (1985), "Đánh giá những chính sách phân cấp: Một trường hợp lạc quan một cách thận trọng", Chính sách và phát triển, (IV), tr. 5. Lưu Tiến Dũng (1996), "Hệ thống tư pháp và thủ tục tố tụng ở Nhật Bản", Đề tài nghiên cứu khoa học: Vị trí, vai trò và chức năng của Tòa án nhân dân trong bộ máy Nhà nước qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao. Đặng Đức Đạm (2002), Phân cấp quản lý kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), "Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII", Trong sách: Các nghị quyết của trung ương Đảng 1996-1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Huy Đấu (Thẩm phán, Giám đốc Nha Hộ vụ, Giảng viên Trường Luật khoa Đại học Sài Gòn) (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, Xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ Tư pháp. Trần Văn Độ (2003), "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân", Nhà nước và pháp luật, (11), tr. 16. Gareth Morgan (1994), Cách nhìn nhận tổ chức từ nhiều góc độ, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. Gunter Buschges (1996), Nhập môn xã hội học tổ chức, Nxb Thế giới, Hà Nội. Gustave Peiser (1994), Luật Hành chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Hồng Hạnh (2002), "Bàn về việc đổi mới tên gọi chương trình, nội dung môn học luật kinh tế", Luật học, (8), tr. 27. Lê Hồng Hạnh (2003), "Chế định Hợp đồng kinh tế - tồn tại hay không tồn tại", Luật học, (3), tr. 17. Hệ thống văn bản pháp luật tố tụng dân sự (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hiến pháp Việt Nam (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Tư pháp Nhật Bản, Tài liệu do tổ chức JICA cung cấp. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 33 Nxb Tiến bộ, Matxcơva. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. Phạm Văn Lợi (1995), "Hệ thống Tòa án của Singapore", Nhà nước và pháp luật, (1), tr. 54-55. Luật Đất đai năm 2003, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26-11-2003. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ tư thông qua ngày 28-12-1993. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ tám thông qua ngày 28-10-1995. "Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960" (1960), Công báo, (32). "Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981" (1981), Công báo, (23). Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 (1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ănghen (1978), Toàn tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ph.ănghen (1980), "Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844", Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. Nguyễn Đức Mai (2003), "Vấn đề tranh tụng trong dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi)", Nhà nước và pháp luật, (10), tr. 39. Vũ Văn Mẫu (Luật khoa thạc sĩ, Giáo sư thực thụ, nguyên khoa trưởng Luật khoa Đại học Sài gòn, luật sư tòa thưởng thẩm Sài gòn) (1975), Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử diễn giảng, quyển thứ hai (chương trình cử nhân luật, năm thứ hai), Sài gòn. Malcolm Wallis (1996), Chính quyền địa phương và phát triển, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), "Tự phê bình", Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), "Thiếu óc tổ chức - Một khuyết điểm lớn trong các ủy ban nhân dân", Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), "Mấy điều kinh nghiệm" Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn - Khoa luật, Hà Nội. Lê Hoài Nam, Thẩm quyền xét xử theo thủ tục sơ thẩm theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà nội. Nhà pháp luật Việt - Pháp (1998), Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội. Nghị định số 5/ĐB ngày 01 tháng 01 năm 1947 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp tạm đình chỉ công việc xử án của các tòa thượng thẩm (1947), Việt Nam dân quốc công báo. Nghị định số 44/ĐB ngày 12 tháng tư năm 1947 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp thiết lập ở khu một Hội đồng phúc án (1947), Việt Nam dân quốc công báo. Nghị định số 381-TTg ngày 20-10-1959 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của TANDTC, Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hòa số 41-1959. Nghị định số 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án (1997), Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (15). Nghị quyết số 56/2002/QH10 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 11, từ ngày 15 tháng 3 đến ngày 02 tháng 4 năm 2002, Nghị quyết về việc thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức VKSND. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991, Hệ thống hóa các văn bản pháp luật về dân sự và tố tụng dân sự (1992), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Pháp lệnh nhà ở năm 1991, Hệ thống hóa các văn bản về dân sự và tố tụng dân sự (1992), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (1990), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đình Quý (1996), "Tổ chức Tòa án Thụy Điển", Đề tài nghiên cứu khoa học: Vị trí, vai trò và chức năng của Tòa án nhân dân trong bộ máy Nhà nước qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội. Nguyễn Duy Quý (1997), "Đại hội lần thứ VIII của Đảng và những vấn đề cấp bách của khoa học về Nhà nước và pháp luật trong hệ thống xã hội", Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam và những cấn đề cấp bách của khoa học về Nhà nước và pháp luật, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 17. Nguyễn Hữu Quỳnh (Chủ nhiệm công trình) (1999), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. Sắc lệnh số 13-SL ngày 24 tháng giêng năm 1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa về Tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán (1945), Việt Nam quốc dân công báo. Sắc lệnh số 22-B ngày 18-2-1946 để quyền tư pháp cho ủy ban Hành chính ở những nơi chưa đặt được Tòa án biệt lập, Việt Nam quốc dân công báo. Sắc lệnh số 51-SL ngày 17 tháng 4 năm 1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ấn định thẩm quyền của các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án, Việt Nam quốc dân công báo. Sắc lệnh số 85-SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, Việt Nam quốc dân công báo. Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng (1996), Nxb Giáo dục, Hà Nội. Trần Đại Thắng (2003), "Tố tụng "tranh tụng" và tố tụng "thẩm cứu"", Nghiên cứu lập pháp, (9), Hà Nội, tr. 50-60. Nguyễn Quốc Thùy (1994), "Thành lập Tòa án khu vực - vấn đề then chốt trong quá trình cải cách hệ thống cơ quan xét xử ở Việt Nam", Chuyên đề: Đổi mới các cơ quan Tư pháp, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, tháng 12/1994. Tìm hiểu về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước theo Hiến pháp 1992 (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tờ trình Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng giêng năm 1946, Việt Nam quốc dân công báo. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng dân sự, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1995), Bản án giám đốc thẩm số 04/HĐTP ngày 01-08-1995 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ tranh chấp giữa ông Nguyên Duy Giá và bà Nguyễn Thị Hiếu. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Công văn số 16/1999 ngày 1-2-1999 của TANDTC giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Báo cáo tổng kết công tác Tòa án năm 2000, phương hướng nhiệm vụ công tác Tòa án năm 2001, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Báo cáo tổng kết công tác Tòa án năm 2001, phương hướng nhiệm vụ công tác Tòa án năm 2002, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tại Hội thảo về xây dựng Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự với các chuyên gia Nhật Bản tháng 10 năm 2003, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết công tác Tòa án năm 2003, phương hướng nhiệm vụ công tác Tòa án năm 2004, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Quyết định số 27/HĐTP-DS ngày 26-08 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ thừa kế. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Tờ trình Quốc hội về dự án Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội. Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng hành chính, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Trường Đại học Luật Hà Nội (1994), Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật, Hà Nội. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Trường Đào tạo các chức danh tư pháp (2003), Đề án kiện toàn tổ chức, nâng cao nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ tư pháp và xây dựng chỉ tiêu đào tạo thường xuyên cho các chức danh tư pháp. Trần Anh Tuấn (2003), "Cải cách tư pháp và việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam", Nghề Luật, (6), tr. 27. Đào Trí úc (Chủ biên) (1997), Đại hội VIII Đảng cộng sản Việt Nam và những vấn đề cấp bách của khoa học về Nhà nước và Pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1992), Tìm hiểu về Nhà nước pháp quyền, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. Viện Sử học Việt Nam (1991), Quốc triều Hình luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Nguyễn Như ý (Chủ biên) (1999), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. tiếng anh How U.S. Courts work (9/1999), An Electronic Journal of the U.S. Deparment of state, Janpan International Cooperation Agency, Cooperation in the legal and judicial field vietnam: Phase III, Part I "Strengthening Vietnamese Judicial Training Institutions" (2004), Sơ lược về chế độ tư pháp của Nhật Bản. Janpan International Cooperation Agency, Cooperation in the legal and judicial field vietnam: Phase III, Part I "Strangthening Vietnamese Judicial Training Institutions" (2004), Tổng quan về chế độ thống trị và chế độ luật pháp Nhật Bản. Japan International Cooperation Agency JICA (2000), Japanese Laws, volume2: 1997-1998, Youth Publishing House. The Code of Civil Proceduce of Japan, Ehs Law bulltetin series, Japan, Enbun-Horei-Sha,Ing. The Hanoi Law University (1997), English for Lawyers, The People's public securtity publishing House, Hanoi. tiếng pháp Lemeunier (1988), Dictionnaire juiridique, La maison du dictionnaire, Paris. Mở đầu 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4 5. Những điểm mới của luận án 4 6. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án 6 7. Kết cấu của luận án 6 Chương 1 : Một số vấn đề lý luận về phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án nhân dân 7 1.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của Tòa án nhân dân 7 1.1.1. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án 7 1.1.1.1. Một số vấn đề chung về thẩm quyền 7 1.1.1.2. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án 12 1.1.2. Thẩm quyền về dân sự của Tòa án nhân dân 17 1.1.2.1. Khái niệm thẩm quyền về dân sự của Tòa án 17 1.1.2.2. Thẩm quyền về dân sự của Tòa án trước khi có Bộ luật tố tụng dân sự 23 1.1.2.3. Thẩm quyền về dân sự của Tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 28 1.1.3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của Tòa án 33 1.1.3.1. Khái niệm tranh chấp dân sự và giải quyết tranh chấp dân sự 33 1.1.3.2. Khái niệm thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của Tòa án 37 1.1.3.3. Các loại thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của Tòa án 38 1.2. Khái niệm phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án 43 1.2.1. Khái niệm phân cấp và phân cấp thẩm quyền 43 1.2.2. Khái niệm phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án 49 1.2.3. Kinh nghiệm phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án tại một số quốc gia trên thế giới và trong cổ luật Việt Nam 56 1.2.3.1. Tổ chức giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án Hoa kỳ 56 1.2.3.2. Tổ chức giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án Thụy Điển 58 1.2.3.3. Tổ chức giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án Cộng hòa Pháp 59 1.2.3.4. Tổ chức giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án Nhật Bản 60 1.2.3.5. Tổ chức giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án Singapore 63 1.2.3.6. Tổ chức giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống xét xử triều Lê 65 1.2.3.7. Tổ chức giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án thời kỳ phong kiến nửa thuộc địa 66 Kết luận chương 1 67 Chương 2: pháp luật Việt Nam về phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự tại Tòa án 69 2.1. Pháp luật Việt Nam về phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự giữa các cấp Tòa án 69 2.1.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân 69 2.1.1.1. Tòa án nhân dân tối cao 69 2.1.1.2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh 71 2.1.1.3. Tòa án nhân dân cấp huyện 72 2.1.2. Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự giữa các cấp Tòa án trong hệ thống TAND 72 2.1.2.1. Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự theo thủ tục sơ thẩm 73 2.1.2.2. Phân cấp thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm 85 2.1.2.3. Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 93 2.2. Pháp luật Việt Nam về phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong mỗi cấp Tòa án 103 2.2.1. Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong Tòa án nhân dân cấp huyện 103 2.2.2. Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong Tòa án nhân dân cấp tỉnh 108 2.2.3. Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong Tòa án nhân dân tối cao 113 2.3. pháp luật Việt Nam về phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự thông qua việc thực hiện thẩm quyền của các Hội đồng xét xử 124 2.3.1. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm 124 2.3.2. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm 128 2.3.3. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm và tái thẩm 134 2.3.3.1. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm 134 2.3.3.2. Thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm 137 Kết luận chương 2 139 Chương 3 : Các giải pháp nhằm hoàn thiện việc phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án Việt Nam 142 3.1. Những yêu cầu của việc đổi mới về phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án Việt Nam 142 3.1.1. Yêu cầu về đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án 142 3.1.2. Yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới 144 3.1.3. Yêu cầu đổi mới do quá trình hội nhập quốc tế 144 3.2. Các giải pháp đổi mới phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự 146 3.2.1. Đổi mới phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự về tổ chức 146 3.2.1.1. Đổi mới về tổ chức trong mỗi cấp Tòa án 146 3.2.1.2. Đổi mới về tổ chức trong toàn bộ hệ thống Tòa án 156 3.2.2. Đổi mới phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự về thủ tục 166 3.2.2.1. Quy định thủ tục rút gọn 166 3.2.2.2. Vấn đề quyền hạn của các Hội đồng xét xử 171 3.2.2.3. Về quyền đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án 174 3.2.2.4. Vấn đề tranh tụng trong tố tụng dân sự 178 3.2.3. Tăng cường và nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Tòa án 182 3.2.3.1. Thực trạng đội ngũ Thẩm phán 183 3.2.3.2. Các giải pháp tăng cường và nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm phán 185 kết luận chương 3 193 Kết luận 194 1. Đổi mới phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự về tổ chức 194 2. Đổi mới phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự về thủ tục 195 3. Tăng cường và nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Tòa án 196 Những CÔNG Trình Của Tác Giả Đã CÔNG Bố Có LIÊN QUAN Đến luận án 197 Danh mục tài liệu tham khảo 198 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2682.doc
Tài liệu liên quan