Phân tích hiệu quả sử dụng Vốn lưu động tại Xí nghiệp Kim Hà Nội

Phần thứ nhất đặt vấn đề 1.1. Tính cấp thiết của đề tài. Để hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục cần phải có vốn nhằm phục vụ cho đầu tư ban đầu và bổ sung để đáp ứng nhu cầu của quá trình sản xuất và mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong thực tế hiện nay ở nhiều doanh nghiệp. Việc sản xuất vốn nói chung, vốn lưu động nói riêng còn phải gặp nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết. Tuy nhiên, để quản lý và sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, cần phải kết hợp một cách đồng bộ các giải pháp k

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1233 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích hiệu quả sử dụng Vốn lưu động tại Xí nghiệp Kim Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế, kỹ thuật, công nghệ... Bên cạnh đó cũng cần có hành lang pháp lý nhất định của Nhà nước để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong cơ chế quản lý tài chính. Trong vấn đề huy động, sử dụng và bảo toàn vốn lưu động các doanh nghiệp cần phải có sự phân tích, đánh giá thường xuyên để kịp thời rút kinh nghiệm nhằm sử dụng vốn lưu động có hiệu quả nhất. Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, vấn đề hiệu quả kinh tế luôn là mối quan tâm chung của mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả mới có khả năng tồn tại được, trên cơ sở đó mới có vốn để đầu tư công nghệ mở rộng sản xuất nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước Xí nghiệp Kim Hà Nội cũng có những tăng trưởng đáng kể. Tuy nhiên, sản xuất Kim hiện nay đang phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại nhập về giá cả và chất lượng sản phẩm, vì vậy vấn đề đặt ra cho các xí nghiệp là phải làm thế nào để có thể cạnh tranh, đứng vững trên thị trường. Vốn lưu động là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh không thể thiếu được trong quá trình sản xuất của tất cả các doanh nghiệp trong đó có xí nghiệp Kim nói riêng. Nó đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục từ việc nghiên cứu thị trường, mua sắm các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất cho đến khâu tiêu thụ. Nó chính là vốn luân chuyển cho xí nghiệp sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị sản xuất và lao động. ở Xí nghiệp Kim Hà Nội, từ khi thành lập đến nay quá trình sản xuất kinh doanh có nhiều tiến triển tốt đẹp, sản phẩm của xí nghiệp có chất lượng khá cao và đang dần chiếm được ưu thế trên thị trường. Nhưng do mới thành lập nên xí nghiệp còn phải gặp không ít khó khăn như phải cạnh tranh gay gắt với các loại kim ngoại, thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm và đặc biệt là tên tuổi của xí nghiệp còn khá mới mẻ trên thị trường. Xuất phát từ các khó khăn trên xí nghiệp cần phải không ngừng hoàn thiện mình nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mục tiêu của xí nghiệp là đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm nhằm tiêu thụ tối đa lượng sản phẩm, sản xuất ra và thu được lợi nhuận cao nhất. Để sử dụng vốn có hiệu quả một cách hoàn hảo các doanh nghiệp cần có chiến lược doanh nghiệp đúng đắn cả trước mắt cũng như lâu dài. Qua các kiến thức đã được các thầy cô giáo ở trường Đại học Nông nghiệp I giảng dạy. ở bài viết này tôi xin nghiên cứu đề tài: "Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại xí nghiệp Kim Hà Nội" 1.2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài. 1.2.1. Mục tiêu chung. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp Kim Hà Nội. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể. - Hệ thống hoá cơ sở lý luận về hiệu quả, hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp Kim Hà Nội. - Đánh giá thực trạng sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp Kim Hà Nội. - Đề xuất một số biện pháp quản lý để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp Kim Hà Nội. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu nghiên cứu vấn đề có liên quan đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động và một số biện pháp quản lý để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động cuả xí nghiệp Kim Hà Nội. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu. - Về không gian: Xí nghiệp Kim Hà Nội - Về thời gian : Từ ngày 01 - 4 - 2002 đến ngày 20 - 8 - 2002 - Nội dung : Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp Kim Hà Nội. Phần thứ hai Tổng quan tài liệu 2.1. Cơ sở lý luận về hiệu quả sử dụng vốn lưu động 2.1.1. Một số khái niệm 2.1.1.1. Tài sản lưu động. Là những tư liệu sản xuất tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm, chuyển toàn bộ giá trị vào giá trị của sản phẩm. Tài sản lưu động là tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh. Giá trị của các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp kinh doanh sản xuất thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp sản xuất. Quản lý và sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. Mặc dù hầu hết các vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố chứ không phải chỉ do quản trị vốn lưu động tồi. Nhưng cũng cần thấy rằng sự bất lực của một số Công ty trong việc hoạch định và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại tài sản lưu động, các khoản nợ ngắn hạn hầu như là một nguyên nhân dẫn đến thất bại cuối cùng của họ. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa hết sức sống còn đối với doanh nghiệp. Nó nao gồm việc quản lý, sử dụng và huy động nguồn lực về vốn, tài sản lưu động của doanh nghiệp. Như ta đã biết để tiến hành hoạt động kinh doanh ngoài tài sản cố định, doanh nghiệp còn phải có tài sản lưu động, tài sản lưu động của doanh nghiệp thường gồm hai bộ phận là tài sản lưu dộng sản xuất và tài sản lưu dodọng trong lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động trong lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất bao gồm một bộ phận là những vật tư dự trữ để đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục như nguyên liệu,vật liệu, nhiên liệu... và một bộ phận là những sản phẩm dở dang trong quá trình sản xuất. Tài sản lưu động trong lưu thông bao gồm sản phẩm hàng hoá chờ tiêu thụ, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán (nợ phải thu). 2.1.1.2. Vốn lưu động. Để kinh doanh trước hết cần có vốn, vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ xung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Từ lượng tiền ứng ra ban đầu doanh nghiệp mua nguyên vật liệu, máy móc thiết bị... để đưa vào sản xuất tạo ra hàng hoá, từ đó tiêu thụ và thu hồi tiền về. Lượng vốn ban đầu ứng ra gọi là vốn trong doanh nghiệp vốn trong doanh nghiệp là số tiền ứng ra ban đầu nhằm mua các yếu tố đầu và của sản xuất, được thu hồi lại sau khi doanh nghiệp bán ra các sản phẩm hàng hoá của mình. Vốn là yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp là cơ sở ban đầu trong việc mua sắm các tư liệu sản xuất, nhằm tạo ra của cải vật chất. Để kinh doanh, ngoài vốn ban đầu của chủ sở hữu, doanh nghiệp còn huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Nếu ta chia vốn lưu động của doanh nghiệp theo nguồn hình thành ta có: Vốn chủ sở hữu: Đối với doanh nghiệp Nhà nước: nguồn vốn này chủ yếu do ngân sách Nhà nước cấp phát, đồng thời doanh nghiệp bổ xung thêm từ lợi nhuận hoặc từ các khoản khác. Đối với Công ty cổ phần: vốn chủ sở hữu là vốn do các cổ đông đóng góp thông qua việc mua cổ phiếu. ở các doanh nghiệp tư nhân vốn chủ sở hữu do các cá nhân thành lập doanh nghiệp bỏ ra. Nói chung trong các dự án đầu tư vốn tự có của chủ đầu tư thường không đủ, đòi hỏi phải huy động từ các nguồn khác. Theo luật Công ty: Công ty được phép huy động vốn để bổ xung vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó bên cạnh nguồn vốn của chủ sở hữu còn có nguồn vốn đi vay và do vốn liên doanh liên kết. Vốn bổ xung được huy động bằng nhiều hình thức khác nhau (như phát hành thêm cổ phiếu, vay tín dụng ngân hàng tín dụng thương mại, vốm chiếm dụng...) Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chủ yếu mang tính chất dài hạn thì các nguồn vốn huy động bổ xung rất đa dạng về thời hạn. Các nguồn vốn huy động qua phát hành thêm cổ phiếu và trái phiếu mang tính chất dài hạn, trung hạn và ngắn hạn; các khoản tín dụng thương mại, các khoản nợ chưa trả hoặc các khoản ứng trước của khách hàng thường mang tính chất trung hạn và ngắn hạn. Ngoài việc phân chia vốn theo nguồn hình thành người ta còn phân chia vốn theo thời hạn sử dụng vốn bao gồm: Vốn trung hạn và dài hạn, sử dụng chủ yếu để đầu tư vào tài sản cố định. Vốn ngắn hạn sử dụng nhằm đảm bảo cho sản xuất kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp như để mua nguyên vật liệu, trả lương... Nói chung để xem xét về vốn sản xuất điều kiện người ta xem xét theo nhiều khía cạnh, tiêu thức khác nhau và phân chia ra một cách tương đối riêng biệt. Chẳng hạn theo nguồn hình thành gồm vốn của chủ sở hữu và vốn huy động (như đã phân tích ở trên) theo thời hạn sử dụng (vốn dài hạn, trung hạn và ngắn hạn...) theo hình thái tồn tại (gồm vốn tiền tệ và vốn hiện vật). Ngoài ra cách phân chia ở trên, người ta còn hay phân loại vốn sản xuất kinh doanh theo tính chất luân chuyển của các bộ phận trong vốn sản xuất kinh doanh. Theo phương thức này người ta chia vốn sản xuất kinh doanh ra làm hai loại vốn là: vốn lưu động và vốn cố định. Trước hết, số vốn huy động được phải được phân chia thành hai phần; phần để đầu tư xây dựng cơ bản muaams máy móc thiết bị và phần để mua sắm nguyên vật liệu, phụ tùng, trả lương, năng lượng... Vốn đầu tư xây dựng cơ bản được chi phí cho việc chuẩn bị đầu tư bao gồm: chi phí cho việc hoàn thành thủ tục pháp lý, các khoản lệ phí, chi về lập dự toán cho đến việc xây dựng, mua sắm máy móc thiết bị, công nghệ... để phục vụ cho yêu cầu sản xuất và quản lý của doanh nghiệp. Khi các công việc trên đây được hoàn thành thì quá trình đầu tư kết thúc. Nhà kinh doanh đã tạo ra một số chuyển hoá rất quan trọng của nguồn vốn từ trạng thái tiền tệ (động sản tài chính) sang trạng thái vật chất (tài sản tài chính). Các tài sản được đầu tư ở trên có thời hạn sử dụng lâu, được gọi là tài sản cố định. Phần vốn của doanh nghiệp chi phí cho việc hình thành nên tài sản cố định là vốn cố định. Phần vốn còn lại dùng để mua sắm các loại nguyên vật liệu phụ tùng... gọi là vốn lưu động. Các loại tài sản trên được gọi là tài sản lưu động. Tài sản lưu động thường có giá trị nhỏ hoặc thời gian sử dụng ngắn (thường chỉ sử dụng cho một chu kỳ sản xuất. Phần vốn này khi chưa sử dụng vẫn là vốn chuyển hoá thành tài sản phi tài chính nằm trong giá trị của các loại nguyên vật liệu dự trữ, trong giá trị sản phẩm dở dang hoặc trong giá trị chưa tiêu thụ. Nói chung mỗi doanh nghiệp không bao giờ cho chuyển hoá toàn bộ nguồn vốn lưu động mà luôn luôn có trong tài khoản của mình một lượng dự trữ nhất định để thực hiện các nghiệp vụ chi trả cần thiết. ở bài viết này chúng ta chủ yếu xem xét về nội dung thành phần của vốn lưu động và một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. 2.1.1.3. Hiệu quả và hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Ngày nay, hiệu quả kinh tế là vấn đề số một là điều kiện sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Nó là kết quả tổng hợp của một số loạt các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của các yếu tố bộ phận. Trong đó, hiệu quả sử dụng vốn lưu động gắn liền với lợi ích cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc sử dụng hiệu quả vốn lưu động được biểu hiện tất cả ở các khâu của quá trình sản xuất từ các khai thác các nguồn vốn, sử dụng vốn để mua sắm vật tư cho đến khi tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn để đầu tư cho quá trình tái sản xuất. Các doanh nghiệp luôn phải tìm cách để cung ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất, đồng thời phải tiết kiệm được vốn và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho doanh nghiệp. Sử dụng hiệu quả vốn lưu động có tính cấp thiết đối với sự tồn tại của doanh nghiệp và là một mục tiêu mà doanh nghiệp cần phấn đấu cao để đạt được. Vốn lưu động là một bộ phận quan trọng của vốn sản xuất, là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh. Mặt khác, do đặc điểm của vốn lưu động là vận động không ngừng trong mọi giai đoạn sản xuất hình thái biểu hiện phức tạp và khó quản lý nên sử dụng tốt vốn lưu động có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp sử dụng vốn không tốt, không bảo toàn được vốn sẽ dẫn đến thất thoá vốn làm ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất, quy mô sẽ bị thu hẹp, vốn luân chuyển chậm, hiệu quả sử dụng đồng vốn sẽ thấp có nghĩa là doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Nếu tình trạng này kéo dài chắn chắn doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại trên thị trường. Chuyển sang cơ chế thị trường, các khoản bao cấp về vốn qua cấp phát không còn nữa từ đó nảy sinh ra thực tế là hiện nay nhiều doanh nghiệp bị thiếu vốn lưu động. Để bù đắp cho thiếu hụt, nhiều doanh nghiệp phải huy động vốn bằng cách như: vay ngân hàng, vay của cán bộ công nhân viên, nợ nhà cung cấp, nợ tiền thuê, và các khoản phải nợ ngân sách... số lãi phải trả do việc huy đọng vốn hàng năm của doanh nghiệp tương đối lớn do vậy các doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động để hạn chế bớt các khoản phải chi phí do huy động vốn gây ra. Có thể nói hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp. Nó có ý nghĩa quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. 2.1.2. Phân loại vốn lưu động 2.1.2.1. Nếu dựa theo hình thái biểu hiện của vốn thì vốn lưu động chia thành các loại. + Vốn bằng tiền và các khoản phải thu: bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, các khoản phải thu chủ yếu là khoản phải thu từ khách hàng thể hiện số tiền mà khách hàng nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán hàng hoá, dịch vụ, tiền ứng trước cho người cung cấp, tạm ứng... + Vốn vật tư hàng hoá: nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được thường xuyên, liên tục không bị gián đoạn đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một lượng dự trữ nhất định gồm nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm.... gọi chung là hàng tồn kho. 2.1.2.2. Nếu dựa theo vai trò của vốn lưu động đối với quá trình sản xuất kinh doanh có thể chia vốn lưu động thành các loại gồm: - Vốn lưu động trong khoản dự trữ sản xuất (gồm nguyên liệu, vật liệu chính, nguyên liệu, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ). - Vốn lưu động trong lưu thông (gồm thành phẩm, vốn bằng tiền, đầu tư ngắn hạn về chứng khoán, vốn trong thanh toán....) 2.1.3. Vai trò của vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh Vốn lưu động của doanh nghiệp thường xuyên vận động và chuyển hoá qua nhiều hình thái khác nhau. Đối với doanh nghiệp sản xuất: vốn lưu động phát triển hình thái ban đầu là tiền được chuyển hoá sang hình thái vật tư dự trữ và tiếp tục chuyển hoá lần lượt sang hình thái sản phẩm dở dang, thành phẩm hàng hoá và khi kết thúc quá trình tiêu thụ lại trở về hình thái ban đầu là tiền. Đối với doanh nghiệp thương mại thì sự vận động của vốn lưu động nhanh hơn: từ hình thái tiền chuyển hoá sang hình thái hàng hoá và lại chuyển hoá về hình thái tiền. Sự vận động của vốn lưu động như vậy được gọi là sự tuần hoàn của vốn. Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ tạo thành sự chu chuyển của vốn lưu động. Trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh doanh, vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần và được hoàn lại toàn bộ sau khi doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm thu được bằng tiền bán hàng. Như vậy vốn lưu động hoàn hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh tài sản lưu động thay đổi hình thái không ngừng do đó tại một thời điểm nhất định vốn lưu động cùng tồn tại dưới các hình thái khác nhau trong các giai đoạn mà vốn đi qua. Như vậy: vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn ứng ra để hình thành nền tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị của chúng được hoàn lại một lần sau một kỳ kinh doanh. 2.1.4. Chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Để đánh giá đầy đủ hơn về kết quả và hiệu quả sử dụng vốn lưu động cần phải xem xét hiệu quả đó từ nhiều góc độ khác nhau. Vì thế trong công tác quản lý cũng sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau để đánh giá mức sinh lợi của đồng vốn. Ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong kỳ có thể sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu sau: - Chỉ tiêu kết quả. Hệ số khả năng sinh lời vốn kinh doanh = Lợi nhuận trước thuế + Lãi vay Vốn kinh doanh sử dụng bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vồn kinh doanh và không tính đền ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc của vốn kinh doanh. Chỉ tiêu này cũng có thể đánh giá được trình độ sử dụng vốn và trình độ kinh doanh của doanh nghiệp qua các kỳ khác nhau. Trong đó: Chỉ tiêu vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ = Số vốn kinh doanh đầu kỳ + Số vốn kinh doanh cuối kỳ 2 * Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh trong kỳ = Lợi nhuận trước thuế trong kỳ Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ Chỉ tiêu này thể hiện mỗi đồng vốn kinh doanh trong kỳ có khả năng đưa lại cho chủ sở hữu bao nhiêu đồng lợi nhuận sau khi đã trang trải lãi tiền vay. Như vậy nó cũng phản ánh mức sinh lời của đồng vốn có tính đến ảnh hưởng của lãi vay nhưng chưa tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp. * Tỷ suất lợi nhuận ròng của vốn kinh doanh = Lợi nhuận sau thuế Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh mỗi đồng vốn kinh doanh trong kỳ tham gia tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng hay là đưa lại bao nhiêu đồng thực lãi. * Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán Giá trị hàng tồn kho Cho biết trong kỳ hàng tồn kho quay vòng được bao nhiêu vốn. * Vòng quay vốn lưu động = Doanh thu thuần Giá trị tài sản lưu động Chỉ tiêu này phản ánh trong kỳ vốn lưu động của doanh nghiệp thực hiện được bao nhiêu vòng luân chuyển. Để cụ thể hoá chỉ tiêu này người ta còn sử dụng chỉ tiêu: Kỳ chu chuyển của vốn lưu động = 360 ngày Số vòng quay của vốn lưu động - Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động. * Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu Doanh thu bình quân một ngày Chỉ tiêu này phản ánh trong doanh thu một ngày kỳ thu tiền bình quân là bao nhiêu ngày. Ngoài ra để khái quát khả năng thanh toán của doanh nghiệp người ta còn sử dụng nhóm các chỉ tiêu chủ yếu sau: Hệ số thanh toán ngắn hạn = Giá trị tài sản lưu động Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán nhanh = Vốn bằng tiền + các khoản phải thu Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán tức thời = Vốn bằng tiền Nợ đến hạn Để sử dụng vốn có hiệu quả đòi hỏi doanh nghiệp phải áp dụng nhiều biện pháp khác nhau nhằm nâng cao kết quả và hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Các biện pháp này đòi hỏi phải thực hiện một cách đồng bộ, kịp thời dựa trên các tính toán cụ thể. 2.1.5. Đặc điểm sử dụng vốn lưu động. Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được liên tục thì tương ứng với quy mô kinh doanh nhất định thường xuyên phải có một lượng tài sản lưu động nhất định nằm trong các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh bao gồm các khoản dự trữ về nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm, nợ phải thu từ khách hàng. Do vậy những tài sản lưu động này được gọi là tài sản lưu động thường xuyên. Tuy nhiên có nhiều nguyên nhân khác nhau giữa các thời kỳ khác nhau trong năm hay trong các chu kỳ kinh doanh dẫn đến việc hình thành bộ phận tài sản lưu động có tính chất tạm thời để trang trải. Chẳng hạn như: dự kiến giá vật tư, nguyên liệu... tăng doanh nghiệp phải tăng dự trữ, sản xuất tiêu thụ hàng hoá của xí nghiệp sản xuất kinh doanh theo thời vụ, đột xuất xí nghiệp nhận được đơn đặt hàng mới có tính chất riêng lẻ... Những tài sản lưu động hình thành không có tính chất thường xuyên được gọi là tài sản lưu động tạm thời và biểu hiện bằng tiền của chúng là vốn lưu động tạm thời xí nghiệp phải có nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu nói trên. vấn đề đặt ra có tính chất chiến lược là cần tạo ra sự phù hợp chặt chẽ giữa thời hạn của nguồn vốn với thời hạn sử dụng của tài sản được tạo ra. Đối với tài sản cố định là loại tài sản có thời gian sử dụng lâu dài tất yếu phải đảm bảo hình thành bằng nguồn vốn thường xuyên nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn. Những tài sản lưu động có thời gian sử dụng tương đối ngắn và luôn luôn được đổi mới. Tuy vậy để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh thực hiện được liên tục phải có một lượng tài sản lưu động thường xuyên ở mức độ nhất định được hình thành bằng nguồn vốn thường xuyên có tính chất ổn định và dài hạn. Bộ phận tài sản lưu động tạm thời có thể đảm bảo bằng nguồn vốn có tính chất tạm thời. Mỗi xí nghiệp có cách thức phối hợp khác nhau giữa nguồn vốn lưu động thường xuyên và nguồn vốn lưu động tạm thời trong việc đảm bảo nhu cầu chung về vốn lưu động của xí nghiệp. Nguồn vốn lưu động thường xuyên = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn Hoặc: Nguồn vốn lưu động thường xuyên = Tổng nguồn vốn thường xuyên - Giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp (đã trừ số khâu hao) Nguồn vốn lưu động thường xuyên tạo ra một mức độ an toàn cho xí nghiệp trong kinh doanh, làm cho tình trạng tài chính của xí nghiệp được đảm bảo vững chắc hơn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp sử dụng nguồn vốn lưu động thường xuyên để đảm bảo cho việc hình thành tài sản lưu động thì xí nghiệp phải trả chi phí cao hơn cho việc sử dụng vốn. Do đó phải đòi hỏi người quản lý xí nghiệp phải xem xét tình hình thực tế của xí nghiệp để có quyết định phù hợp trong việc tổ chức vốn. Khi: nguồn vốn dài hạn < tài sản cố định Hoặc: tài sản lưu động < nguồn vốn ngắn hạn. Có nghĩa nguồn vốn thường xuyên < 0. Nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho tài sản cố định. Xí nghiệp phải đầu từ vào tài sản cố định một phần nguồn vốn ngắn hạn, tài sản lưu động không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của xí nghiệp mất thăng bằng xí nghiệp phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả. Trong trường hợp như vậy giải pháp của xí nghiệp là phải tăng cường huy động vốn ngắn hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư dàu hạn hoặc thực hiện đồng thời hai giải pháp đó. Khi: Nguồn vốn dài hạn > tài sản cố định Hoặc: Tài sản lưu động > nguồn vốn ngắn hạn Tức vốn lưu động thường xuyên > 0 nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào tài sản cố định phần thừa đó đầu vào tài sản lưu động. Đồng thời tài sản lưu động > nguồn vốn ngắn hạn do vậy khả năng thanh toán của xí nghiệp tốt. Vốn thường xuyên = 0 có nghĩa là nguồn vốn dài hạn tài trợ đủ cho tài sản cố định và tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn tình hình tài chính như vậy là lành mạnh. Vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính của xí nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết: xí nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không? Tài sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không? Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu động, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên = Hàng tồn kho và các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn Khi nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 tức là tồn kho và các khoản phải thu > nợ ngắn hạn. Tại đây các sử dụng ngắn hạn của xí nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà xí nghiệp có từ bên ngoài, xí nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ phần chênh lệch. Giải pháp trong trường hợp này là nhanh chóng giải phóng hàng tồn kho và giảm các khoản phải thu ở khách hàng. Khi nhu cầu vốn lưu động thường xuyên <0 có nghĩa là các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của xí nghiệp: Xí nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh: Ta có mối quan hệ: Vốn bằng tiền = Vốn lưu động thường xuyên - Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên Nguồn vốn dài hạn > tài sản cố định -> Vốn lưu động thường xuyên > 0 Nguồn vốn dài hạn < tài sản cố định -> Vốn lưu động thường xuyên < 0 Tài sản lưu động > nguồn vốn ngắn hạn Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 Tài sản lưu động < nguồn vốn ngắn hạn -> Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên < 0 Dựa vào các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán ta thấy các mỗi quan hệ: Nếu tồn kho và khoản phải thu > nợ ngắn hạn nghĩa là sử dụng ngắn hạn > nợ ngắn hạn mà xí nghiệp huy động được -> Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên dương. Để tài trợ phần chênh lệch này xí nghiệp cần tới vốn lưu động thường xuyên. Nếu vốn lưu động thường xuyên > nhu cầu vốn lưu động thường xuyên -> vốn bằng tiền dương và ngược lại. Nếu tồn kho và khoản phải thu vốn bằng tiền dương lớn hơn. Nếu vốn lưu động thường xuyên âm và nhỏ hơn cả nhu cầu vốn lưu động thường xuyên - > xảy ra tình trạng mất cân đối trong nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn (vốn ngắn hạn nhiều, vốn dài hạn ít) hoặc mất cân đối trong đầu tư dài hạn (đầu tư dài hạn quá nhiều). Giải pháp quan trọng lúc này là: tăng cường vay dài hạn, giải phóng hàng tồn kho, tăng thu tiền từ khách hàng để trả nợ ngắn hạn; giảm đầu tư dài hạn... Như vậy, để đảm bảo ngồn vốn và sử dụng vốn kinh doanh đảm bảo sự lành mạnh về tài chính trước tiên xí nghiệp phải có vốn lưu động thường xuyên ³ 0 có nghĩa là đảm bảo tài trợ tài sản cố định bằng nguồn vốn dài hạn. nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 -> phải tìm cách giảm hàng tồn kho, tăng thu từ các khoản phảu thu ở khách hàng. Nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên phải hạn chế vay ngắn hạn từ bên ngoài. Trong quá trình hoạt động kinh doanh của xí nghiệp cũng kà quá trình hình thành và sử dụng vốn kinh doanh. Mục tiêu hàng đầu của xí nghiệp kinh doanh là thu được lợi nhuận. Vì thế hiệu quả sử dụng vốn được thể hiện ở số lợi nhuận xí nghiệp thu được trong kỳ và mức sinh lợi của một đồng vốn kinh doanh. Xét trên góc độ sử dụng vốn, lợi nhuận thể hiện kết quả. Phần thứ ba địa bàn và phương pháp nghiên cứu 3.1. đặc điểm địa bàn nghiên cứu * Khái quát về Xí nghiệp Kim Hà Nội Xí nghiệp Kim Hà Nội là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Sở công nghiệp Hà Nội có trụ sợ tại Cầu Bươu - Thanh Liệt - Thanh Trì - Hà Nội. Tiền thân của xí nghiệp là các cơ sở Mạ Kền tư nhân, năm 1958 vào công tư hợp doanh. Ngày 16 tháng 5 năm 1963. Xí nghiệp Mạ Kền Hà Nội (nay là xí nghiệp Kim Hà Nội) được thành lập. Năm 1976 xí nghiệp được Nhà nước giao tiếp nhận, lắp đặt và đưa vào hoạt động sản xuất một dây chuyền công nghệ mạ và được xây dựng nhà xưởng mới tại Cầu Bươu - Thanh Liệt - Thanh Trì - Hà Nội. Đây là dây chuyền công nghệ vào loại tiên tiến của thời kỳ đó với thiết bị toàn bộ của Cộng hoà Dân chủ Đức. Tháng 8 năm 1978 dây chuyền mạ của Đức chính thức được đưa vào hoạt động. Năm 1982, xí nghiệp nhận tiếp và lắp đặt một xưởng sản xuất kim khâu tay và kim khâu máy do Công hoà Liên bang Đức viện trợ nhân đạo bằng dây chuỳên thiết bị toàn bộ của Nhật Bản. Năm 1985, xí nghiệp được UBND thành phố Hà Nội giao nhiệm vụ vay vốn để mua dây chuyền sản xuất kim dệt len bằng thiết bị toàn bộ của Nhật Bản. Đến giữa năm 1986, xưởng sản xuất kim dệt đã được đưa vào hoạt động. Đến thời kỳ này tỷ trọng các mặt hàng sản xuất kim đã lớn hơn rất nhiều so với giá trị sản xuất các mặt hàng mạ. Tháng 6 năm 1986 xí nghiệp được UBND thành phố Hà Nội cho đổi tên thành Xí nghiệp Kim Hà Nội. Từ khi chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước. Xí nghiệp đã dần thích ứng được với các điều kiện khắc nghiệt của thị trường để tồn tại và phát triển. Ngày 9 tháng 01 năm 1997, xí nghiệp Kim Hà Nội được thành lập lại theo quyết định số 89/QĐ - UB của UBND thành phố Hà Nội với: Tổng số vốn: 7.085 triệu đồng Trong đó: - Vốn cố định: 5.601 Triệu đồng - Vốn lưu động: 319 Triệu đồng - Vốn khác: 1.165 Triệu đồng * Xí nghiệp có các chức năng và nhiệm vụ là: Sản xuất các loại kim khâu tay, kim công nghiệp đay, sợi, kim dệt, mạ trang trí và mạ bảo vệ, phun kẽm trên kim loại và sản xuất các mặt hang cơ khí dân dụng khác. Các mặt hàng sản xuất chủ yếu là sản xuất các chủng loại kim khâu tay, kim dệt, kim máy gia đình kim máy công nghiệp, mạ niken, mạ crôm... Với các chức năng và nhiệm vụ được giao xí nghiệp đã tổ chức sắp xếp lại sản xuất với bộ máy quản lý được tinh giảm gọn nhẹ và hiệu quả. Tổng số cán bộ công nhân viên tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2001 là 320 người. 3.1.1. Tình hình chung của xí nghiệp Kim Hà Nội. * Cơ cấu bộ máy quản lý và các chức năng của Xí nghiệp Kim Hà Nội. Mô hình tổ chức quản lý - sản xuất Phân xưởng cơ điện Phân xưởng phun kẽm, mạ kẽm Phân xưởng mạ niken Phân xưởng gia công Phòng kế toán Phân xưởng sản xuất Kim Phòng tổ chức - hành chính Phòng sản xuất kinh doanh và kỹ thuật Ban giám đốc * Ban giám đốc Chỉ đạo sản xuất, kinh doanh chung toàn xí nghiệp. Chịu trách nhiệm trước Nhà nước cũng như trước tập thể cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp là giám đốc. Giúp việc cho giám đốc là hai phó giám đốc (một phó giám đốc phụ trách kỹ thuật, một phó giám đốc phụ trách sản xuất). * Phòng tổ chức - hành chính. Có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc về các vấn đề nhân sự, tiền lương, bảo vệ, an ninh, an toàn trong xí nghiệp và các công việc mang tính chất hành chính. * Phòng sản xuất kinh doanh và kỹ thuật Quản lý việc sản xuất kinh doanh cũng như làm việc công tác kỹ thuật, để đảm bảo việc giám sát chất lượng sản phẩm, định mức kinh tế kỹ thuật trong sản xuất: từ khâu ban đầu đến khaua cuối cùng, xí nghiệp đã để bộ phận kỹ thuật vào cũng với bộ phận sản xuất, kinh doanh. Từ đó để quản lý được chất lượng sản phẩm từ khi mua vật tư đưa vào sản xuất. Đồng thời với việc quản lý chất lượng và việc điều động sản xuất, đôn đốc tiến độ sản xuất để phục vụ kịp thời khách hàng. trực thuộc phòng sản xuất kinh doanh và kỹ thuật còn có một bộ phận làm công tác thị trường với chức năng luôn tìm hiểu nhu cầu thị trường về chủng loại, giá cả, mẫu mã của sản phẩm. * Phòng kế toán Có chức năng tổ chức bộ máy kế toán trong xí nghiệp. Tham mưu cho lãnh đạo về việc huy động và việc sử dụng vốn một cách có lợi nhất. Thực hiện việc hạch toán kế toán trong doanh nghiệp, phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh trong toàn xí nghiệp cũng như định kỳ phân tích hiệu quả sản xuất của từng bộ phận sản xuất trong xí nghiệp. Việc phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện thường xuyên, liên tục từ đó kịp thời từ đó tìm ra những điểm mạnh để phát huy, tìm những điểm cònhạn chế trong sản xuất kinh doanh để tìm biện pháp quản lý kịp thời. * Phân xưởng kim khâu. Có nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất các chủng loại kim bao gồm: kim khâu tay các loại, kim khâu len, kim khâu máy gia đình, kim khâu công nghiệp, kim dệt len... với công suất thiết kế 45 triệu kim khâu tay/ năm, 55 triệu chiếc kim khâu máy/ năm và 6,2 triệu chiếc kim dệt/ năm. Ngoài các mặt hàng chủ yếu trên xí nghiệp còn tận dụng cải tiến thiết bị để sản xuất các loại kim công nghiệp đay, kim gút cho ngày may và các phụ kiện cho ngành dệt... * Phân xưởng mạ niken. Với sản._. phẩm truyền thống là mạ trang trí kim loại; mặc dù cho đến nay thiết bị đẵ lạc hậu xuống cấp nhiều vì đẵ qua hơn 20 năm sử dụng nhưng sản phẩm mạ niken của Xí nghiệp vẫn có chỗ đứng nhất định trên thị trường. Bên cạnh sản phẩm mạ trang trí, Xí nghiệp còn kết hợp đầu tư thêm một dây chuyền sơn tĩnh điện để phục vụ sản xuất cho các bộ phận khác của Xí nghiệp một cách khép kín sản xuất và chủ động. * Phân xưởng phun kẽm Trước nhu cầu về xây dựng, giao thông ngày càng tăng xí nghiệp đã thành lập và đưa vào sản xuất dây chuyền phun phủ kim loại (chủ yếu là phun kẽm) lên bề mặt kim loại. Các sản phẩm phun phủ kẽm của xí nghiệp từ chỗ bỡ ngỡ trên thị trường đến nay đã tạo được uy tín với khách hàng. Ngoài ra còn có một dây chuyền công nghệ mạ kẽm để bảo vệ bề mặt cho các chi tiết có kích thước nhỏ. * Phân xưởng cơ điện. Có nhiệm vụ chính là sửa chữa máy móc thiết bị, quản lý hệ thống điện, nước của xí nghiệp. Ngoài ra phân xưởng còn kết hợp với xí nghiệp để tìm các hợp đồng sản xuất các mặt hàng cơ kim khí, chế tạo ra các thiết bị phục vụ cho ngành dệt, ngành nhựa. * Phân xưởng gia công. Để mở rộng sản xuất, từ tháng 1 năm 1997 xí nghiệp đã ký và triển khai hợp đồng hợp tác gia công sản xuất các mặt hàng tiêu dùng cao cấp với Nhật Bản. Phân xưởng gia công kim loại với khoản 200 công nhân có nhiệm vụ chuyên sản xuất các mặt hàng cơ khí bằng Inox theo mẫu mã, chủng loại của Nhật Bản. Mặc dù mới thành lập nhưng đã mở ra được hướng phát triển mới cho xí nghiệp. Tỷ trọng doanh thu hàng xuất khẩu trong tổng doanh thu của xí nghiệp ngày càng cao, bước đầu đã tạo được uy tín trên thị trường để thu ngoại tệ cho mở rộng sản xuất. 3.1.2. Tình hình sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp Kim Hà Nội trong ba năm 1999, 2000, 2001. 3.1.2.1. Tình hình sử dụng lao động, tình hình trang bị cơ sở vật chất. Với ưu thế chủ yếu của xí nghiệp là: trình độ của cán bộ quản lý tương đối cao, đồng đều, tay nghề của công nhân đã được thử thách qua nhiều năm. Do đó, việc tổ chức, sản xuất của xí nghiệp gặp những thuận lợi nhất định. Công suất sản xuất kim các loại của xí nghiệp ngày càng cao so với công suất thiết kế. Bảng 1: Khối lượng sản phẩm của xí nghiệp Kim Chỉ tiêu ĐVT 1999 2000 2001 Bình quân Công suất thiết kế So sánh thực tế/ thiết kế (%) 1. Kim khâu tay 1000C 33.000 36.000 40.000 36.300 45.000 42 2. Kim khâu máy 1000C 2.000 7.000 10.000 6.300 55.000 8,7 3. Kim dệt 1000C 500 1.000 12.000 4.500 6.200 1,3 4. Doanh thu từ sản xuất kim Triệu đồng 2.025 4.350 5.700 4.025 Với lợi thế dây chuyền sản xuất kim là cơ sở duy nhất ở Đông Dương sản xuất được kim các loại theo công nghệ của Nhật Bản do đó việc tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp tương đối thuận lợi. Các sản phẩm sản xuất ra trong những năm gần đây hầu hết là tiêu thụ ngay, ít tồn kho. Tuy nhiên, công suất sản xuất thực tế so với thiết kế mặc dù qua các năm ngày càng cao nhưng vẫn còn thấp so với tiềm năng của dây chuyền công nghệ nhất là đối với các sản phẩm kim may dệt của ngoại tràn vào thị trường qua nhiều luồng với giá bán quá thấp dẫn đến sản phẩm xí nghiệp khó cạnh tranh trên thị trường do vậy việc sản xuất kim máy khâu và kim dệt nhiều lúc chỉ mang tính cầm chừng. Bên cạnh đó dây chuyền sản xuất kim máy và kim dệt thiếu đồng bộ dẫn đến hiệu quả sử dụng của hai dây chuyền này chưa cao. Dây chuyền mạ niken của xí nghiệp có công suất 45.000m2/năm được đầu tư năm 1978. Qua thực tế sản xuất đến nay đã 20 năm nên hầu hết các thiết bị lạc hậu, cũ nát. Tuy nhiên, với đội ngũ công nhân lâu năm, lành nghề cùng với sự đầu tư hợp lý nhằm tận dụng công suất còn lại của thiết bị. Trong các năm từ năm 1999 đến 2001 doanh thu của phân xưởng vẫn giữ được sự ổn định. Doanh thu của bộ phận mại niken từ năm 1999 đến 2001: Năm 1999 doanh thu về mạ gia công: 750 triệu đồng Năm 2000 doanh thu về mạ gia công: 800 triệu đồng Năm 2001 doanh thu về mạ gia công: 800 triệu đồng Dây chuyền phun kẽm cùng từ chỗ còn bỡ ngỡ trên thị trường đến nay cũng phát huy được hiệu quả. Với công dụng phun phủ kim loại để bảo vệ bề mặt của kim loại (chủ yếu là phun kẽm, đồng, nhôm... lên thép) với chất lượng cao, chống lại được các điều kiện ăn, mòn tự nhiên, công suất sử dụng của dây chuyền ngày càng cao, tiến độ ngày càng nhanh từ đó đáp ứng được các đòi hỏi về chất lượng và chủ yếu là đòi hỏi về tiến độ của khách hàng. Doanh thu của bộ phận phun phủ kim loại qua các năm từ 1999 đến 2001 là: Doanh thu năm 1999 đạt: 1.200 triệu đồng Doanh thu năm 2000 đạt: 1.200 triệu đồng Doanh thu năm 2001 đạt: 1.800 triệu đồng Bên cạnh sản xuất các mặt hàng truyền thống của xí nghiệp là sản xuất kim các loại và gia công bảo vệ bề mặt kim loaị, xí nghiệp còn tận dụng công suất máy móc thiết bị để chế tạo các sản phẩm cơ kim khí khác như sản xuất các phụ kiện cho ngành dệt, các linh kiện để lắp ráp cho hệ thống đèn chiếu sáng công cộng, cột viba cho ngành bưu điện, giải phân cách giao thông, ghế và các sản phẩm khác. Doanh thu sản xuất hàng cơ khí qua các năm từ 1999 đến 2001 là: Doanh thu năm 1999 đạt: ằ 1.000 triệu đồng Doanh thu năm 2000 đạt: ằ 1.300 triệu đồng Doanh thu năm 2001 đạt: ằ 1.800 triệu đồng Từ tháng 1 năm 1997, xí nghiệp bắt đầu hợp tác gia công sản xuất hàng xuất khẩu với Nhật Bản. Mặc dù là các sản phẩm mới nhưng đã được thị trường chấp nhận. Kim ngạch xuất khẩu qua hai năm: - Năm 2000 đạt 100.000 USD (tương đương 1.350 triệu đồng) - Năm 2001 đạt 130.000 USD (tương đương 1.755 triệu đồng). Từ các thành công bước đầu về sản xuất, gia công hàng xuất khẩu năm 2002 xí nghiệp đặt kế hoạch xuất khẩu hàng hoá trị giá 250.000 USD. Trong ba năm từ năm 1999 đến 2001 xí nghiệp đã bảo toàn được vốn tăng thu cho ngân sách Nhà nước đồng thời có tích luỹ cho xí nghiệp dù ở mức độ còn khiêm tốn. Đời sống của tập thể cán bộ công nhân viên được bảo đảm ở mức độ có thể chấp nhận được so với tình hình chung của ngành cơ khí. Lợi nhuận mặc dù ở mức độ khiêm tốn nhưng cũng có sự tăng trưởng qua các năm. Bảng 2: Tổng hợp tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp Kim. Chỉ tiêu ĐVT Sản xuất năm So sánh % 1999 2000 2001 2000/1999 2001/2000 1. Doanh thu Triệu đồng 4.975 9.000 11.855 180 132 Trong đó: - Doanh thu sản xuất kim Triệu đồng 2.025 4.350 5.700 215 131 - Doanh thu mạ Triệu đồng 750 800 800 107 100 - Doanh thu phun kim loại Triệu đồng 1.200 1.200 1.800 100 150 - Doanh thu hàng cơ khí khác Triệu đồng 1.000 1.300 1.800 130 138 - Doanh thu gia công xuất khẩu Triệu đồng 1.100 1.350 1.755 120 130 2. Lương bình quân 1CN/tháng Triệu đồng 0,45 0,48 0,55 107 115 3. Nộp ngân sách Triệu đồng 420 610 800 145 131 4. Lợi nhuận trước thuế Triệu đồng 214 370 714 173 192 5. Lợi nhuận sau thuế Triệu đồng 150 259 500 173 192 Trong các năm từ 1999 đến 2001 lợi nhuận sau thuế xí nghiệp đã bổ sung một phần vào nguồn vốn kinh doanh của xí nghiệp. Mặt khác từ nguồn vốn khấu hao xí nghiệp đã đầu tư thêm vào máy móc thiết bị nhằm nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm. 3.1.2.2. Một số chỉ tiêu tài chính về hiệu quả sản xuất vốn lưu động của Xí nghiệp Kim Hà Nội. Qua các số liệu của bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp trong hai năm 2000 và 2001. Một số chỉ tiêu về hoạt động sản xuất kinh doanh về tài chính của xí nghiệp như sau: Bảng 3: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp Chỉ tiêu ĐVT 2000 2001 So sánh 2001/2000 (%) Số tuyệt đối Số tương đối - Số vòng quay vốn lưu động Lần 1,52 1,98 - Số ngày.vòng quay VLĐ Ngày 236,8 181,8 - Hệ số nợ/ tổng tài sản 0,57 0,55 - Hệ số nợ/ vốn cổ phần 1,35 1,22 - Hệ số cơ cấu vốn chủ sở hữu 0,43 0,45 - Hệ số thanh toán lãi vay 25,34 34,2 - Hệ số doanh lợi 0,03 0,04 - Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu 0,03 0,056 - Hệ số sinh lợi tổng tài sản 0,014 0,026 - Tài sản lưu động bình quân 5.764.218 5.803.304 - Kỳ thu tiền bình quân Ngày 30 43 - Kỳ luân chuyển hàng tồn kho Ngày 192 125 - Vòng quay của hàng tồn kho Ngày 1,87 487 - Kỳ luân chuyển VLĐ thực tế Ngày 191 146 Qua xem xét tình hình tài chính của xí nghiệp trong hai năm 2000 và 2001 thông qua các chỉ tiêu về tài chính chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp kim Hà Nội, phần lớn các chỉ tiêu của xí nghiệp đều có sự tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Điều đó thể hiện sự phấn đấu của xí nghiệp trong thời gian vừa qua dù ở mức độ khiêm tốn, nhiều chỉ tiêu còn đạt tới mức độ chưa cao so với tiềm năng của xí nghiệp nhưng nói chung là đáng khích lệ. Trong quản lý và sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng còn có một số vấn đề chưa hợp lý đến hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, xí nghiệp đang có hướng để hoàn thiện dần trong thời gian tới. 3.2. Phương pháp nghiên cứu 3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu. Thông qua việc thu thập các tài liệu, số liệu (trong khoảng thời gian nghiên cứu) qua đó phát hiện tính quy luật của hiện tượng và xu hướng vận động của doanh nghiệp. * Thu thập tài liệu đã công bố: các tài liệu này có sắn đã công khai. Trong luận văn này, tôi có sử dụng một số tài liệu về sản xuất kinh doanh của xí nghiệp Kim Hà Nội qua các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh.... Ngoài ra, tôi còn tham khảo các công trình nghiên cứu của cán bộ xí nghiệp, các sách báo tạp chí... * Thu thập tài liệu mới: đây là những tài liệu không có sẵn do đó, để có được chúng cần phải điều tra thực tế tại xí nghiệp. Để thu thập được tài liệu này, phải tiến hành khảo sát tình hình của xí nghiệp với nội dung. Tình hình sử dụng lao động và chi phí của các phân xưởng sản xuất qua các bước sau: Bước 1: Xác định đối tượng khảo sát: là các phân xưởng sản xuất. Bước 2: Chọn mẫu điều tra: do điều kiện không thể kiểm tra hết tất cả mọi người trong phân xưởng nên phải chọn mẫu điều tra. Nhưng mẫu điều tra này phải là những người nắm vững những thông tin như: quản đốc phân xưởng, tổ trưởng, tổ phó các ca sản xuất... Bước 3: Tiến hành điều tra bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp các đối tượng mẫu đã chọn. 3.2.2. Phương pháp phân tích * Phương pháp thông kê. Qua các số liệu tài liệu đã có được tôi tiến hành hệ thống hoá và phân tổ thống kê, sau đó các số liệu này được xử lý theo một phương pháp đặc biệt: qua các số liệu đã được xử lý, tôi đã tiến hành phân tích các hiện tượng để thấy được sự biến đổi hay tốc độ tăng trưởng giữa các mốc thời gian để rút ra kết luận, nhận xét để giúp cho công tác quản lý doanh nghiệp dễ dàng hơn thuận lợi hơn. * Phương pháp so sánh. Là phương pháp so sánh các chỉ tiêu số liệu đã xử lý qua các mốc thời gian. Qua đây tôi sử dụng hai kỳ nghiên cứu là năm 2000 và 2001. Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu đề tài với mục đích nhằm đánh giá (so sánh) hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp Kim Hà Nội. 3.2.4. Phương pháp dự báo. Dự báo thống kê là việc xác định các thông tin chưa biết có thể xảy ra trong tươnglai của hiện tượng nghiên cứu dựa trên những số liệu thống kê và hiện tượng đó trong những giai đoạn đã qua: Mô hình dự báo: Yn + m = YnX (t)m Với: Trong đó: T : tốc độ phát triển bình quân Yn : Mức độ cuối cùng của dãy số biến động thời gian Yn + m: Mức độ dự báo thời kỳ m + n Y1 : Mức độ ban đầu của dãy số biến động thời gian m : Tầm nhìn xa của dự báo Phần thứ tư Kết quả nghiên cứu và thảo luận 4.1. Tình hình chung về nguồn vốn dùng trong sản xuất kinh doanh của xí nghiệp Bảng 4: Thời gian từ năm 1999 đến 2001 tình hình bảo toàn vốn của xí nghiệp như sau: Năm 1999 2000 2001 So sánh Chỉ tiêu 2000/1999 2001/2000 Tổng nguồn vốn kinh doanh 7.085 7.185 7.385 101 102 Trong đó: Vốn cố định 5.601 5.651 5.751 100 101 Vốn lưu động 319 369 469 115 127 Vốn khác 1.165 1.165 1.165 Mặc dù xí nghiệp đạt được các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, vốn được bảo toàn và phát triển, tuy nhiên trong ba năm từ năm 1999 đến 2001 cơ cấu vốn xí nghiệp còn có nhiều điều bất hợp lý dẫn đến việc sử dụng vốn còn đạt được hiệu quả chưa cao. Bảng 5: Một số chỉ tiêu khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp Năm 1999 2000 2001 So sánh Chỉ tiêu 2000/1999 2001/2000 1. Cơ cấu vốn - % VCĐ/ tổng vốn KD 79 78,6 77,87 0,99 0,99 - % VLĐ/ tổng vốn KD 4,5 5,13 6,35 1,14 1,23 - % Vốn khác/ tổng vốn KD 16,5 16,27 15,78 0,98 0,96 2. Tỷ suất lợi nhuận - % Lợi nhuận/ tổng DT 4,3 4,12 6,23 0,95 1,51 - % lợi nhuận/ vốn 3,02 4,16 9,67 1,37 2,32 Trong cơ cấu vốn của xí nghiệp, tỷ trọng của vốn lưu động chia tổng vốn kinh doanh quá thấp từ đó dẫn đến thiếu vốn cho sản xuất. Với tỷ trọng (năm 1999) vốn lưu động/ tổng vốn kinh doanh chỉ xấp sỉ 4,5% việc quay vòng vốn kinh doanh của xí nghiệp gặp nhiều khó khăn. Từ việc thiếu vốn lưu động trầm trọng dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao vì xí nghiệp luôn phải đi huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau như: vay ngân hàng, vay của cán bộ công nhân viên và vay từ nhiều nguồn khác nhau. Mặt khác, do thiếu vốn dẫn đến nhiều mặt hàng hợp đồng sản xuất qua tính toán sơ bộ là có hiệu quả nhưng do không đủ vốn để sản xuất hoặc lúc đó mới đi huy động vốn dẫn đến chậm tiến độ sản xuất từ đó không ký được hợp đồng sản xuất và mất khách hàng. Ngoài ra dây chuyền sản xuất kim khâu máy và dây chuyền sản xuất kim dệt được đầu tư từ thời kỳ bao cấp từ nguồn viện trợ nhân đạo và vốn vay, tính đến nay đã gần 15 năm sử dụng. Trong quá trình sản xuất do máy móc thiết bị nhập về thiếu đồng bộ dẫn đến có những thiết bị thiếu trong việc phục vụ công nghệ sản xuất bên cạnh đó lại thừa quá nhiều thiết bị trên dây chuyền sản xuất. Đến ngày 31 tháng 12 năm 2001 giá trị tài sản không cần dùng và chờ thanh lý của xí nghiệp trị giá (theo giá trị còn lại) là trên 4 tỷ đồng, từ đó dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp không cao vì số vốn không phát huy được hiệu quả lớn. Mặt khác do ngành sản xuất kim là một ngành hoàn toàn mới do đó trong những năm đầu nhập dây chuyền về phải qua nhiều lần chế thử để rút kinh nghiệm, nhằm hoàn thiện sản phẩm dẫn đến sản phẩm tồn kho, ứ đọng, kém phẩm chất từ những năm chế thử chiếm giá trị tương đối lớn mà chưa thu hồi được vốn. Ngoài ra xí nghiệp còn tồn đọng nhiều sản phẩm kim dệt xuất khẩu do sản xuất theo hợp đồng cho Liên Xô cũ nhưng thị trường Liên Xô bị vỡ dẫn đến không tiêu thụ được (vì là hàng đặc chủng). ở bài viết này sẽ đề cập đến một số vấn đề trong sử dụng và bảo toàn vốn lưu động tại xí nghiệp cùng một số giải pháp trước mắt cũng như lâu dài trong huy động và sử dụng vốn để khắc phục các hạn chế trong sử dụng và bảo toàn vốn của xí nghiệp. 4.2. Thực trạng sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp Kim Hà Nội. Kết quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp Kim Hà Nội năm 2000 - 2001. Trong những năm gần đây, việc phát huy hiệu quả sử dụng vốn đặc biệt làvốn lưu động của xí nghiệp ngày càng có tiến triển khả quan. Theo các số liệu chính thức của bảng cân đối kế toán trong hai năm 2000 và 2001 cho thấy các số liệu như sau: Bảng 6: Bảng cân đối kế toán năm 2000 và 2001 Chỉ tiêu Năm 20000 Năm 2001 Đầu năm Cuối năm Đầu năm Cuối năm A - Tài sản I. TSLĐ và đầu tư ngắn hạn 5.762.568 5.765.686 5.765.686 5.840.740 1. Vốn bằng tiền 194.715 373.998 373.998 517.237 2. Các khoản phải thu 698.606 743.994 743.994 1.428.271 3. Hàng tồn kho 4.413.074 3.769.284 3.769.284 3.153.106 4. Tài sản lưu động khác 456.173 878.592 878.592 742.126 II. TSCĐ và đầu tư dài hạn 13.741.255 13.723.238 13.723.238 13.705.533 1. TSCĐ hữu hình 13.733.284 13.679.321 13.679.321 13.625.358 - Nguyên giá 21.494.443 21.594.443 21.594.443 21.694.433 - Giá trị hao mòn luỹ kế (7.761.159) (7.915.122) (7.915.122) (8.069.085) 2. Chi phí XDCB dở dang 7.971 43.971 43.971 80.175 Cộng A (tài sản) 19.503.823 19.489.106 19.489.106 19.546.273 B - Nguồn vốn I. Nợ phải trả 11.107.490 11.108.397 11.108.397 10.763.447 1. Nợ ngắn hạn 1.595.753 1.668.660 1.668.660 1.251.710 - Nợ ngân hàng 54.669 - - 24.288 - Nợ nhà cung cấp 1.002.951 1.334.918 1.334.918 935.590 - Nợ ngân sách 538.133 333.742 333.742 291.832 2. Nợ dài hạn 9.511.737 9.511.737 9.511.737 9.511.737 II. Vốn chủ sở hữu 8.396.333 8.308.709 8.308.709 8.782.826 1. Nguồn vốn quỹ 8.396.333 8.308.709 8.308.709 8.782.826 - Nguồn vốn kinh doanh 7.085.000 7.185.000 7.185.000 7.385.000 - Lãi chưa phân phối 150.000 259.000 259.000 500.000 - Nguồn vốn xây dựng cơ bản 1.161.333 864.709 864.709 897.826 2. Kinh phí sự nghiệp Cộng B (nguồn vốn) 19.503.823 19.489.106 19.489.106 19.546.273 4.2.1. Thực trạng sử dụng vốn lưu động dùng trong sản xuất. Để nhằm đảm bảo phục vụ cho quá trình sản xuất ta phải xác định được nhu cầu về vốn lưu động của xí nghiệp từ đó có kế hoạch huy động vốn. Trong chu kỳ kinh doanh phát sinh ra nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh. Nhu cầu vốn lưu động của xí nghiệp là thể hiện số vốn tiền cần thiết xí nghiệp phải trực tiếp ứng ra để hình thành một lượng dự trữ hàng tồn kho (vật tư, sản phẩm dở dang, thành phẩm và khoản cho khách hàng nợ sau khi đã sử dụng khoán tín dụng của người cung cấp). Chu kỳ kinh doanh của xí nghiệp là thời gian trung bình cần thiết để thực hiện việc mua sắm, dự trữ vật tư sản xuất ra sản phẩm và bán thành phẩm thu được tiền bán hàng. Ta có thể chia chu kỳ kinh doanh của xí nghiệp thành ba giai đoạn gồm: + Giai đoạn mua sắm và dự trữ vật tư: nhằm tạo lập nên một lượng vật tư dự trữ. Giai đoạn này phát sinh một luồng vật tư đi vào xí nghiệp. Trong trường hợp phải trả tiền ngay thì có luồng tiền ra khỏi xí nghiệp. Tuy nhiên, trong trường hợp trả tiền sau thì có nghĩa là người cung cấp vật tư đã cấp cho xí nghiệp một khoản tín dụng. + Giai đoạn sản xuất: giai đoạn này vật tư được sử dụng và chuyển hoá sang hình thái sản phẩm dở dang và thành phẩm. Để thực hiện quá trình này doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn nhất định. + Giai đoạn bán sản phẩm và thu tiền bán hàng: sau khi hàng đã sản xuất song hoặc mua song phải phân kho và hình thành nên một lượng dự trữ nhất định. Nếu doanh nghiệp bán hàng và thu tiền ngay thì khi xuất hàng doanh nghiệp đã thu hồi được vốn đã ứng ra để phục vụ chu kỳ kinh doanh mới. Nếu doanh nghiệp bán chịu hàng cho khách thì khi nào thu được tiền mới thu hồi được số vốn ứng ra. Nhu cầu vốn lưu động = Mức dự trữ hàng tồn kho + Khoản phải thu từ khách hàng - Khoản phải trả người cung cấp 4.2.2. Vốn lưu động trực tiếp sản xuất Theo phương pháp trực tiếp để xác định nhu cầu vốn lưu động của xí nghiệp theo trình tự sau: xác định lượng hàng tồn kho cần thiết cho hoạt động kinh doanh của xí nghiệp theo trình tự sau: xác định lượng hàng tồn kho cần thiết cho hoạt động kinh doanh của xí nghiệp, xác định chính sách tiêu thụ sản phẩm và khoản tín dụng cung cấp cho khách hàng, xác định các khoản nợ phải trả cho người cung cấp, tổng hợp xác định nhu cầu vốn lưu động của xí nghiệp. Trong đó: + Xác định lượng hàng tồn kho cần thiết: để quá trình sản xuất được thực hiện liên tục đòi hỏi phải duy trì một lượng dự trữ sản xuất nhất định bao gồm nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế vật đóng gói, công cụ, dụng cụ... Việc xác định lượng dự trữ nguyên vật liệu được xác định bằng công thức tổng quát: Dn = Nd x Fn Trong đó: Dn: Dự trữ cần thiết nguyên vật liệu chính trong kỳ Nd: Số ngày dự trữ cần thiết về nguyên vật liệu chính Fn: Chi phí nguyên vật liệu chính bình quân 1 ngày trong kỳ. 4.2.3. Vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh. Nhu cầu vốn lưu động của xí nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó cần chú ý một số yếu tố chủ yếu sau: - Tính chất của ngành nghề kinh doanh và mức độ kinh doanh của xí nghiệp: Từ quy mô chu kỳ kinh doanh, công nghệ,... có ảnh hưởng rất lớn đến lượng vốn lưu động mà xí nghiệp phải ứng ra và thời gian thu hồi vốn. - Các yếu tố và mua sắm vật tư tiêu thụ sản phẩm như khoản cách giữ nơi mua, nơi bán, điều kiện giao thông điều kiện thanh toán, kỳ hạn thanh toán, thủ tục thanh toán... ảnh hưởng đến vốn lưu động phục vụ sản xuất. - Các yếu tố về giả cả vật tư, hàng hoá dự trữ cũng ảnh hưởng lớn đến vốn lưu động phục vụ sản xuất, số vốn lưu động xí nghiệp phải ứng ra trực tiếp phụ thuộc vào nhu cầu vốn lưu động trong từ kỳ kinh doanh. Trong công tác quản lý vốn lưu động phục vụ sản xuất một vấn đề quan trọng là phải xác định được nhu cầu cần thiết tương ứng với quy mô và định hướng kinh doanh nhất định, đây là một vấn đề phức tạp. có thể áp dụng các phương pháp khác nhau để xác định vốn lưu động dùng trong phân phối sản phẩm (tiêu thụ sản phẩm) thường xuyên. 4.2.4. Thực trạng vốn lưu động dùng trong phân phối sản phẩm (tiêu thụ sản phẩm). Do quá trình sản xuất diễn ra liên tục vì thế trong dây chuyền có một lượng sản phẩm dở dang nhất định. Xí nghiệp phải ứng vốn ra một lượng nhất định về sản phẩm dở dang. Lượng vốn ứng ra tuỳ thuộc vào lượng giá trị của sản phẩm dở dang. Bên cạnh việc dự trữ về nguyên, nhiên liệu, công cụ, phụ tùng, sản phẩm dở dang... để đảm bảo cho quá trình tiêu thụ sản phẩm được thường xuyên, liên tục đòi hỏi xí nghiệp phải dự trữ một lượng nhất định thành phẩm trong kho. Mức dự trữ được xác định dựa trên cơ sở xem xét quá trình sản xuất và cách thức tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp. Nhu cầu dự trữ thành phẩm được xác định theo công thức: Dt = Zn x Nt Trong đó: Dt: Số dự trữ cần thiết về thành phẩm trong kỳ Zn: Giá thành sản xuất của sản phẩm sản xuất bình quân mỗi ngày kỳ kế hoạch Nt: Số ngày dự trữ thành phẩm. Giá thành sản xuất của sản phẩm hàng hoá bình quân mỗi ngày kỳ kế hoạch có thể tính bằng cách lấy tổng giá thành sản xuất hàng hoá sản phẩm trong năm chia cho số ngày trong năm. Số ngày dự trữ thành phẩm là số ngày kể từ lúc thành phẩm nhập kho cho đến khi thành phẩm được xuất khỏi kho tiên thụ. Trên cơ sở xác định mức dự trữ về nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang và thành phẩm tổng hợp lại sẽ xác định được tổng mức dự trữ hàng tồn kho: + Dự kiến khoản phải thu: trong tiêu thụ sản phẩm, xí nghiệp đã sử dụng biện pháp bán chịu cho khách hàng từ đó hình thành nên các khoản phải thu từ khách hàng. Khi bán chịu cho khách hàng cũng có nghĩa là xí nghiệp đã cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Việc bán chịu có thể giúp cho xí nghiệp tăng thêm được lượng hàng hoá bán ra và từ đó tăng được lợi nhuận. Nhưng việc bán chịu cũng khiến cho xí nghiệp phải ứng thêm một lượng vốn, tăng thêm chi phí quản lý, chi phí thu hồi tiền bán chịu và mức độ rủi ro cũng tăng lên. Điều đó đòi hỏi xí nghiệp phải có sự cân nhắc để lựa chọn phương thức bán chịu thích hợp. Một trong những yếu tố quan trọng là cần xác định trong việc bán chịu là thời gian bán chịu hàng, thời gian cho khách nợ. Trên cơ sở xác định được độ dài thời gian này có thể xác định được khoản nợ phải thu trung bình từ khách hàng theo công thức sau: Nợ phải thu dự kiến trong kỳ = Thời hạn trung bình cho khách hàng nợ x Doanh thu tiêu thụ bình quân 1 ngày trong kỳ + Dự kiến khoản nợ phải trả: trong hoạt động kinh doanh xí nghiệp có thể mua chịu nguyên vật liệu, hàng hoá... của người cung cấp từ đó hình thành khoản phải trả người cung cấp khi được chấp thuận mua chịu cũng có nghĩa là người bán đã âps một khoản tín dụng thương mại cho người mua hàng. Việc sử dụng tín dụng thương mại đòi hỏi xí nghiệp phải xem xét xác điều kiện do người cung cấp đưa ra và tình hình tài chính của xí nghiệp, từ đó có thể dự kiến khoản phải trả người cung cấp theo công thức: Nợ phải trả người cung cấp = Kỳ trả tiền trung bình x Giá trị vật tư, hàng hoá mua vào (mua chịu) bình quân 1 ngày trong kỳ Từ các yếu tố tính toán về nhu cầu hàng tồn kho, khoản phải thu, khoản phải trả như tính toán ở trên ta có thể xác định được nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của xí nghiệp. Để xác định nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, ngoài phương pháp trực tiếp đã nêu ở trên ta còn có thể xác định được một cách gián tiếp. Dựa vào tình hình thực tế sử dụng, vốn lưu động ở thời kỳ vừa qua của xí nghiệp để xác định nhu cầu về vốn cho các thời kỳ tiếp theo. Nội dung chủ yếu của phương pháp này là dựa vào mối quan hệ giữa các mối quan hệ hợp thành nhu cầu vốn lưu động với doanh thu của kỳ vừa qua để xác định tỷ lệ chuẩn nhu cầu vốn lưu động tính theo doanh thu và tỷ lệ này để xác định nhu cầu vốn lưu động cho các kỳ tiếp theo. Có thể thực hiện phương pháp này theo các trình tự sau: + Xác định số dư bình quân các khoản trong năm, bao gồm số hàng tồn kho bình quân (nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm...) số phải thu từ khách hàng bình quân, số nợ phải trả bình quân. Khi xác định số dư bình quân các khoản phải phân tích tình hình để loại trừ số không hợp lý. + Xác định tỷ lệ các khoản trên so với doanh thu thuần trong năm từ đó xác định tỷ lệ nhu cầu vốn lưu động so với doanh thu, đồng thời có thể xác định nhu cầu vốn lưu động cho các kỳ sau. Chỉ khi tình hình kinh doanh, quản lý có sự thay đổi tương đối lớn vì điều kiện và tổ chức mua sắm, dự trữ vật tư, công nghệ sản xuất, chính sách tiêu thụ, chính sách tín dụng... của xí nghiệp thì mới cần thay đổi, điều chỉnh tỷ lệ này. 4.2.5. Đánh giá chung về tình hình sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp. Vốn là yếu tố rất cần thiết cho doanh nghiệp, không có vốn mọi hoạt động của doanh nghiệp sẽ bị ngừng trệ hoặc kém hiệu quả, nguồn vốn là có hạn và không phải doanh nghiệp nào cũng có nhiều vốn. Do vậy vấn đề sử dụng vốn như thế nào để có hiệu quả cao là vấn đề mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm và giải quyết. Để biết được nguồn vốn trong xí nghiệp sử dụng có hiệu quả hay không chung ta cần tiến hành xem xét đánh giá một cách khách quan thông qua các chỉ tiêu sau: + Số vòng quay vốn = Tổng doanh thu/ vốn kinh doanh + Hiệu quả sử dụng vốn cố định = Lợi nhuận/vốn cố định + Hiệu quả sử dụng vốn lưu động = Lợi nhuận/ vốn lưu động + Số vòng luân chuyển vốn lưu động = Doanh thu/ vốn lưu động Qua các số liệu thực tế của xí nghiệp Kim Hà Nội trong hai năm 2000 và 2001 về các chỉ tiêu tài chính, sự tăng trưởng đóng góp cho Nhà nước. Xí nghiệp đã xó sự tăng trưởng nhất định. Doanh thu năm 2000 tăng so với năm 1999 là 80% năm 2001 tăng so với năm 2000 là 32%. Nộp ngân sách năm 2000 tăng 45% so với năm 1999. Năm 2001 tăng 31% so với năm 2000. Lợi nhuận trước thuế năm 2000 tăng 37% so với năm 1999. Năm 2001 tăng 92% so với năm 2000. Bên cạnh đó xí nghiệp đã đảm bảo được đời sống cho tập thể cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp, có được tích luỹ cho sản xuất. Bên cạnh sự tăng trưởng cơ bản trên, tình hình tài chính của xí nghiệp cũng ngày càng lành mạnh hơn, các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá khả năng tài chính của xí nghiệp năm 2001 nói chung đều tốt hơn 2000. Cụ thể: - Nhu cầu vốn lưu động so với doanh thu thuần năm 2000 là 44,38%; năm 2001 là 40%. - Vốn lưu động thường xuyên năm 2000 có 4.097.208 (nghìn đồng); năm 2001 có 4.589.030 (nghìn đồng). - Hàng tồn kho và các tài sản lưu động khác của xí nghiệp cuối năm so với đầu năm đều có biến động giảm. Năm 2000 giảm 221.371 (nghìn đồng), năm 2001 giả: (616.178 + 136.466) = 752.644 (nghìn đồng). Điều này cho thấy xí nghiệp đã tích cực tiêu thụ sản phẩm, tăng nhanh vòng quay của vốn bằng cách chỉ để lượng tồn kho hợp lý. Lượng hàng tồn kho đã được giải phóng nhanh để thu hồi vốn cho sản xuất. Mặt khác, lượng tiền dự trữ của xí nghiệp cũng tăng nên đáp ứng nhu cầu chi trả trong quá trình sản xuất kinh doanh. Các khả năng thanh toán của xí nghiệp năm 2001 đều cao hơn năm 2000. Số nợ phải trả năm 2001 giảm đi so với năm 2000. Từ các chỉ số cơ bản trên cho thấy vòng quay của vốn lưu động của xí nghiệp năm 2001 tăng cao hơn năm 2000, số ngày của một kỳ luân chuyển giảm đi từ đó giúp xí nghiệp có thể tiết kiệm được vốn lưu động cho sản xuất. Hàng tồn kho của xí nghiệp cũng tăng được vòng quay nhiều hơn các hệ số sinh lời năm 2001 nói chung đều cao hơn năm 2000. * Bên cạnh những thành tích đã đạt được, trong quản lý và sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp cũng còn có một số tồn tại cần khắc phục cụ thể là: - Số nợ phải thu của năm 2000 và năm 2001 đều tăng cao khi so sánh cuối năm so với đầu năm. Năm 2000 tăng 45.388 nghìn đồng thì năm 2001 tăng 684.277 nghìn đồng từ đó dẫn đến kỳ thu tiền bình quân của năm 2001 tăng nên so với năm 2000 là 13 ngày. Xí nghiệp cần tích cực có phương án thu hồi nợ để thu hồi vốn cho xí nghiệp. Hạn chế rủi ro có thể xảy ra. - Lượng hàng hoá tồn kho, ứ đọng mất phẩm chất khá lớn dẫn đến ứ đụng không có vốn cho sản xuất và có khả năng không thu hồi được vốn nên xí nghiệp cần có phương án bán thanh lý nhanh số vật tư hàng hoá này (trị giá theo sổ sách là: 1.126.812 nghìn đồng, số này không có khả năng thu hồi vốn). * Đứng trước thực trạng trên, xí nghiệp đã có một số giải pháp nhằm phát huy những thành tích đã đạt được, khắc phục nghiên cứu mặt hạn chế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Một số biện pháp cơ bản xí nghiệp đã tiến hành là: - Tiếp tục nâng cao công suất sử dụng máy móc thiết bị, ổn định thị trường tiêu thụ đồng thời tìm kiếm thị trường mới. Cải tiến mẫu mã sản phẩm để tăng tính cạnh tranh trên thị trường. - Triệt để thực hiện tiết kiệm để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Tăng cường thu hồi nợ nhằm tránh rủi ro đối với các khoản nợ phải thu và tận thu vốn cho sản xuất. Hạn chế bán chịu cho khách hàng. - Tìm các biện pháp bán thanh lý đối với các vật tư, hàng hoá ứ đọng, kém, mất phẩm chất như: chấp nhận bán lỗ, bán trả chậm... để thu hồi phần nào vốn đã bỏ ra. - Huy động vốn trong cán bộ công nhân viên để phục vụ cho sản xuất của xí nghiệp. - Thanh lý bớt các tài sản cố định không cần dùng cho sản xuất kinh doanh. Trên đây là một số thành tích cũng như các mặt còn hạn chế của xí nghiệp trong việc sử dụng vốn cho sản xuất kinh doanh và các biện pháp của xí nghiệp để sử dụng vốn ngày càng có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, xí nghiệp cần có những giải pháp triệt để hơn nữa để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và sử dụng vốn lưu động nói riêng. 4.2.6. Kết quả sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp. Bảng 7: Kết quả sử dụng vốn lưu động qua hai năm 2000 và 2001 Đơn vị tính: nghìn đồng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0034.doc
Tài liệu liên quan